Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 06:04:18 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Truyện ngắn Aleksandr Solzhenitsyn  (Đọc 23042 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #50 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:02:17 am »

- Mở áo bông ra! Mở áo trấn thủ ra!
Và những đôi tay bắt đầu làm việc. Trong khi lục soát, trông như giám thị đang ôm lấy tù, vỗ vỗ hai bên sườn họ. Giống y như cuộc khám xét ban sáng.
Bây giờ có cởi áo ra cũng cóc sợ, sắp về tới nhà rồi!
Tất cả mọi tù nhân đều nói như vậy - “về nhà”.
Cả ngày làm việc ngoài công trường làm gì có thời gian để mà nghĩ tới nhà khác.
Họ đang khám những người ở hàng đầu, Sukhov vội đi tới chỗ Sezar và nói với hắn:
- Sezar Markovich, khi nào khám xong tôi sẽ chạy ngay tới phòng nhận đồ để giữ chỗ cho anh nhé?
Sezar quay lại. Bộ ria đen rậm được cắt tỉa gọn của hắn trắng xoá phía dưới:
- Giữ chỗ làm gì hở Ivan Denisovich? Sợ hôm nay tôi không nhận được đồ.
- Không sao, cũng chẳng mất gì. Tôi sẽ đợi mười phút, nếu anh không tới thì tôi sẽ về phòng.
(Thực ra thì Sukhov nghĩ, cho dù Sezar không nhận được đồ, anh vẫn có thể bán chỗ cho người khác).
Rõ ràng Sezar cũng mệt mỏi vì ngóng đồ tiếp tế, hắn nói:
- Thôi được, Ivan Denisovich, anh chạy đi giữ chỗ. Anh cứ đợi mười phút, đừng lâu hơn.
Họ sắp soát tới nơi rồi. Hôm nay Sukhov không giấu gì trong người, nên anh chả có gì phải lo lắng. Anh ung dung cởi cúc áo bông, rồi áo trấn thủ, tháo chiếc thắt lưng bằng vải bạt. Mặc dù anh không giấu cái gì bị cấm trong người, song tám năm tù đã cho anh một thói quen cẩn trọng. Anh thọc tay vào cái túi ở đầu gối quần để biết chắc chắn là không có gì trong đó.
Song trong đó lại có mảnh dao anh nhặt được ở công trường. Cũng là tiếc của thì nhặt vậy thôi, chứ cũng chẳng có ý định mang về trại.
Anh không định mang nó về. Song bây giờ đã trót mang về, vất đi thì tiếc. Là vì có thể mài nó thành một con dao nhỏ dùng vào việc vá giầy hay cắt quần áo đều được.
Gía như anh chủ định mang nó về trại, thì anh đã cất giấu cẩn thận. Bây giờ, chỉ còn có hai hàng nữa, và hàng năm người đầu đã tách ra, bước tới chỗ khám xét.
Cần phải quyết định chớp nhoáng: hoặc là nấp sau toàn năm người đằng trước, ném mẹ mảnh dao xuống tuyết (tất nhiên chúng sẽ tìm thấy vì dấu vết in rõ trên tuyết, song sẽ không biết là của ai), hoặc là cứ liều mang theo người! Vì miếng sắt mẻ này có thể bị mười ngày trong nhà đá, nếu như chúng cứ nhất định bảo đó là dao.
Nhưng có một con dao nhỏ cắt quần áo anh có thể làm thuê, kiếm cho mình thêm chút bánh mì.
Vứt đi tiếc đứt ruột, Sukhov bèn nhét nó vào một chiếc bao tay bông.
Đúng lúc đó hàng năm người đứng trước anh được lệnh bước lên để khám xét. Dưới ánh đèn sáng trưng chỉ còn lại ba người: Senka, Sukhov và chàng trai ở đội 32 lúc nãy đi lùng tên Mondavi.
Chỉ còn ba người mà những năm tên giám thị, nên có thể giở trò láu cá: chọn một trong hai tên đứng ở bên phải. Sukhov không chọn thằng cha còn trẻ, mặt mũi hồng hào, mà chọn lão già có bộ ria muối tiêu. Tất nhiên lão già có kinh nghiệm hơn và dễ dàng tìm ra miếng thép, nếu lão muốn. Nhưng cũng chính vì già, làm cái nghề khám xét lâu năm, nên có thể lão đã chán ngấy.
Lúc đó Sukhov cởi cả hai bao tay, một bao giấu miếng thép, một bao không, nắm cả vào một tay (anh cố tình để chiếc bao không thò ra hơn một chút), tay kia anh cởi sợi giây thừng buộc áo, phanh rộng áo trấn thủ, vén vạt áo bông và áo trấn thủ lên cao (anh chưa bao giờ làm cái việc hạ mình như thế ở chỗ lục soát, song bây giờ anh muốn cho chúng thấy là anh chả có giấu cái gì trong người cả - này, nhìn đi!). Theo lệnh, anh bước tới chỗ lão già có bộ ria muối tiêu.
Lão giám thị ria muối tiêu vỗ khắp hai bên và lưng, nắn cái túi nơi đầu gối - không có gì, lần hai vạt áo bông và áo trấn thủ - cũng không có gì. Cho chắc hơn lão nắn cái bao tay mà Sukhov cố tình để chìa ra hơn - bao tay không. Trong khi lão giám thị nắn bao tay, thì Sukhov sợ thắt cả ruột cả gan. Chỉ cần lão nắn nốt cái bao thứ hai thì chỉ còn nước nằm nhà đá với ba trăm gam bánh mì một ngày và chỉ được ăn một bữa nóng vào ngày thứ ba. Ngay lập tức anh hình dung mình sẽ mình sẽ bị đói lả, bị kiệt sức như thế nào ở đó, sẽ khó khăn như thế nào để có thể trở về với cái trạng thái không đói, không no như hiện tại. Anh thầm cầu nguyện dồn dập, lộn xộn: “Lạy chúa, hãy cứu lấy con! Đừng để con phải vào nhà đá!”.
Tất cả những ý nghĩ vụt qua đầu Sukhov, trong khi lão giám thị đã nắn xong chiếc bao thứ nhất, đổi tay để nắn cái thứ hai (nếu Sukhov giữ mỗi bên tay một chiếc bao, thì chắc chắn lão sẽ nắn cả hai chiếc cùng lúc rồi). Nhưng ngay lúc đó viên trưởng giám thị - vì muốn cho chóng xong việc, hướng về phía bọn lính áp tải, hô to:
- Nào, cho bọn xưởng cơ khí lên!
Và thế là, thay vì nắn chiếc bao tay thứ hai, lão giám thị ria muối tiêu phẩy tay cho Sukhov đi qua.
Sukhov chạy vội để bắt kịp người trong đội. Họ đã đứng thành hàng năm giữa hai hàng tay vịn bằng gỗ dài trông như chỗ buộc ngựa ở ngoài chợ, được dựng lên để lùa đoàn tù vào trại. Sukhov chạy nhẹ bâng, không cảm thấy đất dưới chân mình nữa. Anh chẳng kịp khấn tạ ơn, chả còn lúc nào, bây giờ thì không phải lúc nữa rồi.
Toán lính canh áp tải đoàn của anh lúc này đứng dạt về một phía, nhường chỗ cho bọn lính áp tải đoàn tù của xưởng cơ khí, và chờ viên trưởng toán. Những bó củi mà họ vất xuống trước lúc khám xét được lính áp tải thu về cho mình, còn những bó bị bọn giám thị tước ngay trong lúc khám thì làm thành một đống ngay cạnh trạm gác.
Trăng mỗi lúc một lên cao, trong những đêm trăng sáng như thế này, băng giá càng dữ dằn hơn.
Viên trưởng toán áp tải đi vào trong trạm gác để kí bàn giao bốn trăm sáu mươi ba phạm, hắn nói gì đó với Priakha - phụ tá của Volkovyi. Tên này quát tướng lên:
- K - 460!
Anh chàng Mondavi nãy giờ đứng lủi vào giữa đoàn, thở dài đánh sượt và bước ra khỏi hàng gỗ chắn phía bên phái. Đầu hắn vẫn cúi gằm, hai vai so lại.
- Lại đây! - Priakha chỉ cho hắn vòng qua chỗ buộc ngựa.
Tên Modavi đi vòng trở lại. Priakha ra lệnh cho hắn để hai tay sau lưng và đứng chờ đó. Có nghĩa hắn đã bị buộc tội toan đào tẩu. Họ sẽ cho hắn vào nhà đá. Trước cổng trại, bên trái và bên phải, có hai tên lính gác. Cổng cao gấp ba lần chiều cao của người thường mở ra một cách chậm chạp và có tiếng hô:
- Xếp hàng năm! (ở đây không cần phải hò hét “lùi khỏi cổng”, bởi vì cổng vào trại bao giờ cũng mở vào trong, như thế để tù khỏi xô đổ). Một! Hai! Ba!...
Vào lúc điểm danh buổi chiều này, lúc phải chờ để qua cổng trại, lúc trở về sau cả một ngày trời hứng gió, lạnh cóng và đói khát, thì cái món cháo rau loãng hoét, nhưng còn nóng, đối với phạm chẳng khác nào đất hạn gặp mưa rào. Chỉ húp đánh xoạt một cái là sạch nhẵn. Cái thứ nước lõng bõng ấy giờ đây đối với họ còn quý hơn tự do, quý hơn cả cuộc đời đã qua và sắp tới của họ. Sau khi đã qua được hết các lần cửa, họ sải những bước dài, ồn ào, phách lối - như những người lính từ mặt trận trở về - tốt nhất nên tránh xa họ!
Tên cần vụ trên trại chỉ huy nhìn thấy làn sóng tù đổ vào trại cũng phải phát khiếp. Từ sáu rưỡi sáng, lúc điểm danh lần đầu, cho tới lúc này - sau khi đã điểm danh lại, phạm mới được trở về với bản thân, anh ta thành người tự do. Họ đi qua cái cổng lớn bên ngoài, cổng nhỏ bên trong, băng qua sân, qua hai hàng tay vịn bằng gỗ, rồi ùa vào những nơi mà họ cần.
Tất cả mọi người đi tới chỗ họ cần, trừ các đội trưởng. Họ bị tay trực ban giữ lại:
- Các đội trưởng lên Ban Kế hoạch Sản xuất!
Tức là họ phải lên để nhận phần việc cho ngày hôm sau.
Sukhov chạy qua khu nhà đá, giữa các dãy phòng giam, đến bộ phận phát đồ tiếp tế. Còn Sezar đủng đỉnh đi về phía khác, nơi có rất nhiều người bu quanh một cái cột, trên đó có đóng một tấm bảng bằng ván ép. Tên tất cả những người có đồ tiếp tế được ghi bằng bút chì trên tấm bảng này.
Trong trại giấy ít khi được dùng đến. Người ta hay dùng ván ép hơn. Phần vì viết trên đó chữ nghĩa nom cứng cáp và đúng hơn. Những tên kiểm công và cai ngục kiểm đầu tù cũng viết trên ván ép. Phần làm như vậy tiết kiệm hơn, ngày hôm sau bảng được lau sạch và người ta lại tiếp tục viết lên đó.
Những phạm nào không phải làm việc ở bên ngoài có thể kiếm chác chút đỉnh xung quanh cái cột này. Họ đọc danh sách xem ai có đồ tiếp tế, rồi chạy ra sân trại đón và thông báo ngay cho anh ta số của gói đồ. Kiếm được cũng chẳng nhiều nhặn gì, mỗi lần cũng được đôi ba điếu thuốc.
Sukhov tới phòng nhận đồ. Đó là chái nhà một mái xây gắn vào trại, hành lang có vách ngăn. Hành lang phía ngoài không có cửa, gió lạnh cứ thế thốc thẳng vào, song đứng ở đây cũng không đến nỗi nào, vì có mái che ở trên. Mọi người đã đứng xếp hàng và ai cũng nép vào tường. Sukhov đứng vào hàng. Có mười lăm người đứng trước anh, như vậy đến được lượt mình cũng phải mất hơn một tiếng, vừa vặn tới giờ nghỉ. Nếu ai trong đoàn của Sukhov mà có đồ, thì chắc chắn họ phải đi xem danh sách trước đã, như vậy họ phải đứng sau anh. Còn đám xưởng cơ khí đứng sau anh là đương nhiên rồi. Hội này có thể phải xếp hàng tới lần thứ hai vào sáng sớm mai thì mới nhận được đồ.
Những người đứng xếp hàng tay cầm nào bao, nào túi. Phía trong, đằng sau cửa (bản thân Sukhov ở trong trại này chưa một lần nhận được đồ tiếp tế, nhưng anh nghe thấy người ta nói lại) có một tên giám thị nậy hòm đựng đồ tiếp tế bằng một cái rìu nhỏ, rồi lấy hết đồ ra xem xét từng món một. Thứ thì hắn cắt, thứ thì bẻ, thứ nắn, thứ đổ ra. Nếu là đồ nước đựng trong chai lọ thuỷ tinh hay hộp sắt tây thì hắn cứ thế đổ, mặc anh lúc ấy vội khum hai tay hay giơ túi ra mà hứng. Họ không đưa chai lọ nguyên cho người nhận, chẳng biết sợ cái gì. Nếu có bánh kẹo, giò, hay cá khô, thì thể nào bọn giám thị cũng cấu véo (cứ thử kêu ca, phàn nàn xem, chúng sẽ bảo đồ của anh bị cấm, không được phép nhận và không đưa cho anh nữa). Người nào nhận được đồ tiếp tế cũng phải biếu xén từ trên xuống dưới, bắt đầu từ bọn giám thị. Sau khi lục soát kĩ gói đồ, nào chúng có đưa cái thùng gỗ cho ta đâu, mà ta phải chất các thức vào trong bao, hay đựng bằng vạt áo khoác bông rồi phắn ngay để người tiếp theo còn vào nhận. Lắm lúc vì họ giục ghê quá có người còn bỏ sót thứ gì đó trên quầy, lúc ấy thì đừng có mất công trở lại mà tìm. Làm gì còn ở đấy nữa.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #51 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:02:57 am »

Hồi còn ở Ust - Izima, Sukhov có nhận được đồ tiếp tế đôi ba lần. Sau anh phải biên thư nói vợ đừng gửi nữa, vì đến được tay anh còn lại cũng chẳng là bao, thà để ở nhà cho con nó ăn còn hơn. Mặc dù hồi còn ở nhà anh nuôi cả gia đình dễ hơn là bây giờ ở đây anh tự nuôi thân một mình, song anh cũng hiểu là những gói đồ đó đáng giá như thế nào, không thể suốt mười năm ăn bớt phần của vợ con như thế. Thà anh chịu nhịn còn hơn.
Nghĩ là thế, nhưng cứ mỗi lần trong đội hay trong trại giam của anh có ai nhận được đồ tiếp tế - mà hầu như ngày nào cũng có - anh vẫn cảm thấy tủi tủi vì người ấy không phải là anh. Mặc dù nghiêm cấm vợ gửi đồ cho mình, thậm chí cả vào dịp lễ Giáng sinh, và không bao giờ bén mảng tới cây cột có treo cái bảng danh sách đó, trừ phi đi xem hộ cho những phạm khá giả hơn, - không hiểu sao anh vẫn cứ ngóng chờ ai đó chạy tới bảo anh:
- Sukhov! Sao không đi nhận? Anh có một gói đồ đấy!
Song chẳng có ai chạy tìm anh cả...
Chính vì thế anh càng ít lí do hơn mà nghĩ về cái làng Temgenyvo và cái nhà gỗ của mình. Sống trong trại đầu tắt mặt tối suốt từ lúc kẻng báo thức cho tới lúc tắt đèn đi ngủ, anh làm gì còn thời gian, sức lực để mà nhớ tới những kỉ niệm ngọt ngào. Lúc này anh đang đứng giữa những người đang trấn an cái bụng của mình bằng niềm hi vọng họ sắp được ngoạm những miếng mỡ lợn muối, phết bơ lên những lát bánh mì hay uống cốc trà tướng pha đường. Còn Sukhov thì chỉ có một mong muốn duy nhất: kịp về nhà ăn với đội của mình để kịp húp bát súp loãng còn nóng, chứ để nó nguội thì thật uổng. Súp mà nguội thì chỉ còn phân nửa so với súp nóng.
Anh tính toán, nếu Sezar không tìm thấy tên mình trong bảng danh sách những người có đồ, thì anh ta đã về trại từ lâu rồi và đang rửa ráy. Còn tìm thấy, thì chắc anh ta đang nhặt nhạnh bao, túi, ca nhựa, chậu nhựa. Sukhov hứa đợi anh ta mười phút, đủ thời gian để anh ta làm những việc đó.
Đứng ở trong hàng, Sukhov nghe được một tin mới rằng chủ nhật này toàn trại không được nghỉ. Thế là họ lại chiếm dụng một ngày chủ nhật nữa của phạm. Việc này chả có gì lạ, ai cũng biết tháng nào có năm chủ nhật thì họ chỉ cho nghỉ ba, còn hai ngày xua tù nhân đi làm. Vẫn biết là như vậy, nhưng nghe được tin này anh vẫn thấy nôn nao, choáng váng: mất mất ngày chủ nhật của mình ai mà chẳng thấy tiếc? Dù rằng, như mấy người trong hàng nói đúng, dù rằng có được nghỉ, thì họ vẫn cứ nghĩ được ra việc cho phạm làm ngay ở trong trại, như cất một cái nhà tắm mới, hay xây một bức tường để chắn không cho phạm đi qua chỗ nào đó, hoặc quét dọn sân trại. Không thì lột đệm đem ra ngoài trời mà rũ cho lũ rận chết rét. Hoặc để cho người ta kiểm tra, nhận diện mình xem có khớp với hồ sơ tài liệu hay không. Hoặc họ bày ra cái trò kiểm điểm đồ dùng của phạm. Thôi thì chổi cùn rế rách phải lôi ra sân tuốt tuột mất đến cả nửa ngày trời.
Có lẽ điều làm các ông cấp trên khó chịu nhất, đó là việc tù nhân ăn sáng xong lại tiếp tục ngủ vùi.
Hàng người dù chậm chạp, song vẫn di chuyển. Có ba tên vừa tới, chả hỏi han ai, chen ngay lên hàng đầu. Một tên là thợ cắt tóc trong trại, một tên là kế toán, còn tên thứ ba làm ở Ban Văn hoá Giáo dục của trại. Đó không phải là loại phạm khố rách áo ôm, mà là loại phạm có máu mặt, và cũng là những kẻ khốn nạn nhất hạng có mặt trong trại. Anh em coi bọn này còn bẩn hơn cứt (chúng cũng coi anh em như vậy). Song cãi cọ với bọn này chỉ vô ích: chúng cấu kết với nhau và ăn cánh với đám giám thị.
Đằng trước Sukhov còn mười người nữa, sau anh có bẩy người. Bây giờ Sezar mới tới, cúi người bước vào, đầu đội chiếc mũ lông mới của nhà gửi cho. (Lại nói chuyện mũ. Sezar đã đút lót cho kẻ nào đó nên được đội chiếc mũ kiểu thành phố sạch sẽ, mới toanh của mình. Chứ còn những tù nhân khác, thậm chí những người bị đưa thẳng từ mặt trận tới, cũng bị lột mất mũ, thay vào là loại mũ da lợn bẩn thỉu, tồi tàn).
Sezar mỉm cười với Sukhov và ngay lập tức bắt chuyện với một gã gàn dở đứng trong hàng và đọc báo suốt:
- A, a! Petr Mikhailych!
Tay bắt mặt mừng, họ cười tươi như hoa. Gã gàn dở khoe:
- Xem đi, tôi có Tin tức buổi chiều mới đây! Vừa nhận được bưu phẩm xong.
- Thế á!? - Lập tức Sezar chúi mũi ngay vào tờ báo. Đèn trần thì lờ mà lờ mờ, họ đọc thế quái nào được những chữ nhỏ li ti như thế kia nhỉ?
- Ở đây có một bài nhận xét hết sức thú vị về buổi công diễn của Zavadski(15)...
Mấy cha người Moscva này, từ đằng xa đã đánh hơi thấy nhau, giống in bọn chó. Và khi tới gần thì cứ xán vào nhau mà ngửi lấy ngửi để theo kiểu của mình. Rồi anh nào anh ấy liến thoắng như thể thi xem ai nói được nhiều hơn. Suốt cả câu chuyện chỉ có được vài từ tiếng Nga, nghe họ cứ như dân Letoni hay dân Rumani nói chuyện vậy.
Tuy nhiên, Sezar không quên mang theo bao và túi.
- Sezar Marcovich... thế tôi đi nhé - Sukhov nói giọng đơn đớt. - Tôi đã đi được chưa, hở anh?
- Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi, - Sezar vểnh bộ ria đen khỏi tờ báo. - Có điều tôi đứng sau ai? Ai đằng sau tôi?
Sukhov chỉ cho hắn đứng sau ai và trước ai, rồi không đợi Sezar nhớ tới bữa tối, anh hỏi luôn:
- Có mang bữa tối về cho anh không?
(Tức là bữa tối đựng trong một cái hộp được mang thẳng từ nhà ăn về trại xá. Thực ra việc làm này bị nghiêm cấm và xung quanh nó hết luật nọ đến luật kia được ban ra. Nếu họ bắt được anh mang thức ăn về phòng, lập tức họ sẽ đổ xuống đất, còn anh sẽ bị phạt nhốt nhà đá. Cấm như vậy song anh em vẫn cứ lén mang bữa tối về, bởi nhiều khi có ai đó bị kẹt công chuyện sẽ chả có cách nào kịp về ăn với đội của mình).
Sukhov hỏi Sezar, song trong bụng lại nghĩ: “chả nhẽ ông lại bần tiện tới mức không biếu lại cho tôi xuất tối được sao? Bữa tối nào có cái gì, cháo không, chỉ rặt canh rau loãng hoét!...”.
- Không, không, - Sezar mỉm cười, - anh cứ giữ lấy xuất của tôi mà ăn, Ivan Denisych!
Sukhov chỉ chờ có thế! Bây giờ anh như con chim tự do lao vụt khỏi mái hiên nhà - và bay khắp khu trại.
Anh em phạm tản mát khắp mọi nơi trong trại. Có một dạo trại trưởng ra một cái lệnh nghiêm cấm phạm đi lại một mình trong trại, đi đâu cả đội phải xếp hàng cùng đi, trừ nhà xí và trạm xá là những nơi toàn đội không thể vào cùng lúc được, thì có thể đi thành từng tốp bốn năm người một. Mỗi tốp phải cử ra một toán trưởng, người này có trách nhiệm đưa anh em đến nơi nào cần đến, đợi họ và lúc về cũng phải xếp hàng mà về.
Lão trại trưởng bắt mọi người tuân theo cái luật kì cục này rất nghiêm nghặt, không một ai dám làm trái ý lão. Anh nào lớ ngớ đi một mình để giám thị vồ được, thì nhà đá chờ anh ta là cái chắc. Nhưng rồi lệnh đó bị cũng bị bãi bỏ. Không bị bỏ ngay lập tức, mà dần dần, như tất cả những cái lệnh đao to búa lớn và thậm vô lí khác. Chẳng hạn, khi chúng gọi một ai đó lên, chẳng nhẽ lại phải lôi cả đội lên theo, hay ai đó đi lĩnh đồ tiếp tế cũng lại bắt cả đội đi cùng với mình. Hoặc người này muốn tới Ban Văn hoá Giáo dục để đọc báo, song ai là người đi theo anh ta tới đó? Còn người kia lại muốn đi chữa đôi ủng hay phơi quần áo. Rồi lại còn có những tay chỉ muốn sang các trại khác để tán gẫu (việc này nghiêm cấm hơn cả), ai mà quản cho được.
Bằng cái lệnh ấy viên trại trưởng muốn cướp đi cái tự do cuối cùng, song hắn, cái lão bụng phệ ấy, đã không đạt được.
Trên đường về, Sukhov chạm trán một tên giám thị, anh vội bỏ mũ chào hắn rồi chuồn lẹ vào trại mình. Trong trại hệt như đang họp chợ: kẻ kêu trong khi đi làm bị mất mất phần bánh mì và chửi bới bọn cần vụ om sòm. Bọn này cũng chửi trả lại ác liệt. Cái góc của đội 104 không có ai.
Đối với Sukhov buổi tối nào đi làm về mà cái nệm giường của mình không bị lật tung lên, ấy là một buổi tối may mắn - chỗ của mình đã không bị lục soát.
Sukhov chạy về giường, vừa chạy vừa cởi áo bông. Anh ném chiếc áo và bao tay có giấu miếng sắt rồi lần tay vào bên trong nệm. Miếng bánh vẫn còn. May mà buổi sáng anh đã kịp khâu lại.
Bây giờ thì yên trí mà chạy ra ngoài, tới nhà ăn ngay!
Anh chạy ngang qua sân trại, không đụng một tên giám thị nào. Chỉ gặp anh em phạm đi ngược chiều đang cãi vã nhau về khẩu phần.
Trên trời, trăng mỗi lúc một tỏ. Những ngọn đèn mờ đi và bóng các trại đổ dài xuống sân. Lối dẫn vào nhà ăn dưới một mái che lớn, có bốn bậc thềm cũng nằm trong bóng tối. Nhưng phía trên có một chiếc đèn chiếu sáng đung đưa trong giá lạnh. Xung quanh bóng đèn có những quầng sáng trông như tán cầu vồng, không hiểu do khí trời lạnh hay do bóng đèn bẩn.
Viên trại trưởng còn ban bố một cái lệnh khắc nghiệt nữa: tất cả các đội phải xếp hàng hai để đến nhà ăn, và khi tới bậc thềm, trước cửa nhà ăn, các đội chuyển thành hàng năm đứng đó đợi cho tới khi tên cần vụ nhà ăn cho vào bên trong. Bám chặt lấy công việc này là tên Thọt. Cũng chẳng biết hắn chạy chọt như thế nào để được xếp vào loại phạm tàn tật, chứ thực ra hắn đâu có đến nỗi nào. Hắn có một cái roi làm bằng cành bạch dương và đứng trên bậc thềm nhà ăn vụt vào những ai không nghe lời hắn. Song không phải ai hắn cũng đánh. Mắt tên Thọt này rất tinh, hắn có thể nhận ra trong bóng tối, đằng sau lưng, những ai cần phải tránh. Đó là những người sẵn sàng cho hắn một quả vào mõm. Hắn chỉ đánh những kẻ hèn yếu. Sukhov cũng đã bị hắn phang cho một lần rồi.
Gọi là “cần vụ”, song xét cho cùng hắn là bố tướng! - hắn bắt thân với bọn đầu bếp!
Bữa tối nay có nhiều đội đến cùng lúc, mãi mà bọn chúng không ổn định được trật tự. Phạm đứng đầy chật ở ngoài hiên. Không có giám thị, chỉ có bọn đầu cứt là tên Thọt, tên tù giúp việc cho hắn và tên quản lí nhà ăn đang hò hét hướng dẫn anh em.
Tên quản lí nhà ăn là một thằng khốn, to như hộ pháp. Đầu hắn như quả bí ngô, vai ngang một thước. Hắn nhiều sức lực tới mức không đi như người bình thường mà cứ nhún nhẩy như thể chân tay hắn được gắn lò so. Hắn đội một chiếc mũ lông trắng không đánh số. Dân “bên ngoài” cũng chằng có mấy người có được cái mũ như thế. Hắn còn mặc một chiếc áo khoác lông cừu, số tù đính ở trên ngực nhỏ bằng con tem, - đây là sự nhượng bộ đối với Volkov, - đằng sau lưng áo hoàn toàn không số. Tên quản lí nhà ăn chẳng bao giờ chào hỏi một ai và tất cả các phạm đều sợ hắn. Cả ngàn sinh mạng nằm trong một tay hắn. Có lần anh em tính cho hắn ăn trận đòn hội chợ, nhưng cả bọn đầu bếp ùa ra cứu hắn, cái bọn mặt thịt nung núc ấy.
Bây giờ mà đội 104 đã vào nhà ăn rồi thì gay to. Thằng Thọt này thuộc mặt cả trại, và chừng nào có mặt tên quản lí nhà ăn, thì dù có trà trộn vào đội khác cũng đừng hòng lọt khỏi mắt hắn. Hắn loại anh ra ngay. Cũng có người trèo qua hàng tay gỗ vịn đằng sau lưng tên Thọt để lọt vào nhà ăn, song có tên quản lí ở đấy thì đừng có hòng thoát, hắn còn tống cho anh một quả bắn sang tận trạm xá trại như chơi.
Phải chạy cho thật nhanh, thật nhanh tới cái hiên kia, chen vào đám đông đen ngòm áo khoác bông, người nào cũng giống như người nào, để xem xem đội 104 có còn đó không. Nhưng người các đội đang đứng chật cứng (không chen vào đâu được, thì sắp hết giờ rồi còn gì!), thật chẳng khác gì một trận công đồn, tiến lên được một bậc, hai bậc, ba bậc, rồi bốn bậc, lên tới hàng hiên rồi!
- Dừng lại, mấy thằng chó! - Thằng Thọt gào lên, tay vung roi trên đầu những người đứng ở phía trên. - Có lùi lại không, tao cho một nhát nát đầu bây giờ!
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #52 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:04:36 am »

- Chúng tôi làm gì nào? - Những người phía trên cũng gào lên. - Đằng sau họ chen lên đấy chứ!
Thì ai chẳng biết là đằng sau chen lên, nhưng mấy cha ở trên nào có chống trả gì đâu, cũng muốn được chen bật vào bên trong chết cha đi. Khi đó thằng Thọt cầm ngang cây gậy đưa lên ngực như một thứ rào cản và dùng hết sức đẩy những người phía trên lùi lại. Tên giúp việc cũng nắm lấy cây gậy đẩy giúp hắn, và tên quản lí nhà ăn không ngại bẩn tay cũng nắm lấy cây gậy và không ngại bẩn mồm, chửi bới loạn xị ngậu.
Ba tên ra sức đẩy, sức lực chúng có thừa, thì có bao nhiêu thịt chúng đớp hết cả, làm gì chẳng thừa sức. Những người phía trên bị xô vào những người đằng sau, cả bọn cũng ngã xuống như những con quay.
- Mẹ cha thằng Thọt! - Một vài người trong đám đông chửi hắn, nhưng không dám chường mặt ra. Những người khác im lặng ngã, im lặng đứng dậy, cố gắng cho thật nhanh để khỏi bị giẫm lên.
Các bậc thềm quang hẳn. Viên quản lí quay vào bên trong nhà ăn, còn thằng Thọt thì đứng trên thềm gào thét:
- Xếp hàng năm, đồ con lừa, đã bao nhiêu lần nói với chúng mày rồi hả!? Khi nào được thì người ta khắc cho vào!
Sukhov nhìn thấy ở tận trên cùng hình như là cái đầu của Senka Klevsin. Anh mừng quá, vội vàng chen vai, huých cánh, cố len lên trên, nhưng chỉ thấy toàn những lưng là lưng đang chuyển động phía trước. Chẳng còn hơi sức đâu mà chen lên được.
- Đội hai mươi bẩy! - Thằng Thọt hét, - đi vào!
Đội 27 chạy vọt qua các bậc thềm, xô nhau tiến gần tới cửa nhà ăn. Những người đằng sau lại tiếp tục xô lên, những người ở đằng sau nữa ra sức đẩy. Sukhov cũng lấy hết sức mà đẩy. Bậc thềm rung chuyển, bóng đèn mắc trên mái hiên đung đưa.
- Lại đẩy nhau, bọn khốn kiếp này!
Thằng Thọt nổi cơn điên, thế là cây gậy cứ thế phang xuống, kẻ trúng vai, người trúng lưng, lại ngã rạp xuống.
Lại quang quẻ.
Từ phía dưới Sukhov nhìn thấy Pavlo đã tiến tới bên tên Thọt. Pavlo đảm nhiệm việc đưa đội vào nhà ăn. Turin không thích dây vào những chỗ lộn xộn như thế này.
- Đội một lẻ bốn, xếp thành hàng năm!- Pavlo đứng trên hét xuống. - Các bạn, tránh ra một chút để anh em đi qua!
Bạn bè cái củ chuối, đợi đấy!
- Ê, tránh cái lưng ra, cho qua nào! Đội của tôi đấy! - Sukhov giật người đằng trước. Người này sẵn lòng cho anh đi qua, song anh ta cũng bị kẹt cứng tứ phía.
Đám đông nghiêng ngả, bóp cổ nhau để giành cho được bát súp rau loãng. Bát súp hợp pháp.
Khi đó Sukhov bèn xoay cách khác: anh bám chặt lấy cầu tay vịn mé trái bậc thềm, đu người lên rồi chuyền bổng sang phía bên kia. Chân anh đập phải đầu gối ai đó, họ đạp lại anh cùng với những tiếng chửi rủa, nhưng anh đã lên được phía trên, đứng một chân trên cái bậc trên cùng và đợi. Anh em trong đội nhìn thấy anh liền chìa tay ra đón.
Tên quản lí ngó ra ngoài cửa:
- Ê, Thọt, cho thêm hai đội vào!
- Đội một lẻ bốn! - Tên Thọt hô to. - Còn mày, thằng khốn nạn kia, định lẻn đi đâu thế hả?! Và ngọn roi lại vút trên cổ một người đội khác.
- Một lẻ bốn! - Pavlo gào lên và cho những người đội mình đi qua cửa.
- Ph-ù! - Sukhov đã lọt được vào nhà ăn. Và không đợi Pavlo bảo, anh vội đi kiếm những chiếc khay không. Bên trong nhà ăn, như mọi khi, khói bốc từng đám ở phía cửa ra vào, xung quanh bàn ăn phạm ngồi chật cứng, như thể hạt hướng dương xếp trên đài hoa, còn ở lối đi giữa các bàn người đi lại, tay bê những khay đầy chặt bát, chen lấn, xô đẩy lẫn nhau.. Nhưng Sukhov, với ngần ấy năm tù đày, đã quen với cảnh đó. Mắt tinh như mắt cú, ngay lập tức anh nhìn thấy S-208 bưng cái khay trên đó chỉ có năm bát, có nghĩa đó là khay cuối cùng của đội hắn, nếu không thì tại sao khay lại không đầy?
Sukhov chạy lại phía hắn và ghé vào tai hắn nói:
- Anh bạn! Xong cho tớ cái khay nhé, tớ xếp hàng sau cậu đấy!
- Nhưng có người đứng ở cạnh cửa tò vò xí phần rồi, tôi đã hứa...
- Tọng giầy vào mồm nó thì có. Cho nó chờ, đứng đấy mà ngáp!
Sukhov đã dàn xếp xong.
Tay này bê khay tới bàn của đội mình, bày bát lên, Sukhov giật vội lấy chiếc khay không. Nhưng ngay lúc ấy tên xí trước chiếc khay chạy tới, chộp lấy đầu kia của chiếc khay, giằng lại. Song hắn nhỏ con và ốm yếu hơn Sukhov. Sukhov dùng chiếc khay đẩy mạnh về phía hắn khiến hắn bắn văng vào cột nhà, tay rời khỏi chiếc khay. Sukhov cắp khay vào nách chạy vù ra phía cửa sổ phát đồ ăn.
Pavlo đã đứng xếp hàng và đang bực mình vì chưa kiếm được khay. Hắn mừng rơn khi nhìn thấy Sukhov mang khay tới:
- Ivan Denisovich! - Hắn gọi và đẩy đội phó đội 27. - Cho lên cái nào! Không có khay thì đứng ở đây làm gì? Tôi có khay đây này!
Thằng lỏi con Gopchik cũng vác về thêm một khay nữa, miệng cười toét:
- Các chú ấy không để ý, thế là cháu chớp luôn!
Thằng Gopchik này sẽ trở thành một phạm chân chính đây. Chỉ cần ba năm nữa thôi, đợi lớn thêm một chút, học đủ được các mánh khoé, xảo thuật trong tù, thì bét nhất hắn cũng giành được cái chân chia bánh mì, có khi còn hơn thế.
Chiếc khay thứ hai Pavlo bảo đưa cho Ermolaiev - một phạm người Siberi to lớn (cũng bị tù vì tội bị quân Đức bắt làm tù binh). Còn Gopchik được phái đi kiếm lấy cái bàn nào đã “dùng bữa” xong. Sukhov đẩy chiếc khay qua lỗ cửa tò vò và đứng đơi.
- Một lẻ bốn! - Pavlo nói chõ vào phía trong cửa.
Có tất cả năm lỗ cửa tò vò: ba cửa phát đồ ăn chung, một cửa giành phát thức ăn cho những người ốm (có mười tên đau dạ dày thực sự được phát đồ ăn đặc biệt, bọn trên bộ phận tài vụ thì do chạy chọt mà lọt được vào danh sách này), còn một cửa để trả lại bát đĩa đã dùng (ở cửa này chen chúc những kẻ mót thức ăn thừa, bọn liếm đĩa). Những lỗ cửa tò vò không cao lắm, chỉ nhỉnh hơn thắt lưng một chút, nên mặt bọn đầu bếp không nhìn rõ, chỉ thấy những cái tay cầm môi.
Một tên đầu bếp có bàn tay trắng muốt, mềm mại, nhưng đầy lông và to tướng. Một võ sĩ quyền anh đúng hơn là một đầu bếp. Hắn cầm lấy bút chì đánh dấu danh sách treo trên tường:
- Một lẻ bốn - hai mươi tư bát!
Thằng Panteliev cũng có mặt ở trong nhà ăn. Hắn có đau ốm gì đâu, đồ chó đẻ.
Tên bếp cầm một cái môi to tướng áng chừng múc được ba lít, khuấy đi khuấy lại vạc súp (chiếc vạc trước mặt hắn còn mới, súp vừa đổ vào đầy gần tới miệng, hơi bốc nghi ngút). Sau khi đổi sang chiếc môi múc được 750 gram, hắn bắt đầu múc súp, nhưng không ấn môi sâu xuống dưới.
- Một, hai, ba, bốn...
Sukhov để ý ngó xem tô nào múc trước khi cái kịp lắng xuống đáy vạc, tô nào lèo tèo tí cái, còn lại toàn nước. Anh đặt mười bát lên khay và bê đi. Gopchik vẫy anh từ chiếc bàn cạnh dãy cột thứ hai:
- Lại đây, chú Ivan Denisovich! Lại đằng này!
Bê mấy bát súp tay không được run. Sukhov tay bưng khay, bước như lướt, cố không va vào ai và cố không để súp sánh ra ngoài:
- Ê, K- 902! Cẩn thận tí ông bác!... Nhường đường nào, chàng trai!
Trong đám đông bưng một bát không làm sánh, làm đổ đã là khó, đằng này những mười bát. Cuối cùng khay súp cũng hạ cánh an toàn xuống cuối chiếc bàn đã được Gopchik dọn sẵn, không rớt ra ngoài lấy một giọt. Thêm nữa, Sukhov cũng đã chọn được cái góc để đặt khay, sao cho hai bát súp có nhiều cái nhất ở ngay chỗ anh sẽ ngồi.
Và Ermolaev cũng mang tới mười bát nữa. Gopchik chạy tới lỗ cửa tò vò, cùng Pavlo mỗi người bưng nốt hai bát. Còn Kildigs bê một khay bánh mì tới. Hôm nay bánh được phát theo năng xuất - người được hai trăm gram, người ba trăm, còn Sukhov được bốn trăm. Anh nhận lấy phần của mình, chỗ bánh có nhiều cùi ngon, còn hai trăm gram của Sezar anh chọn phần giữa bánh.
Bây giờ anh em trong đội từ khắp các bàn chạy tới lĩnh xuất tối của mình, rồi ai kiếm được chỗ ở đâu thì ngồi đấy mà ăn. Sukhov chia súp cho anh em, để ý xem ai đã nhận phần rồi và canh chừng cái bát đã chọn sẵn cho mình. Anh cắm chiếc thìa vào một bát có nhiều cái, coi như đã xí phần. Fechiukov là một trong những người đầu tiên tới nhận phần rồi đi luôn: hắn biết chẳng hòng mong được thêm miếng thừa nào ở cái đội này cả, tốt nhất lượn khắp nhà ăn, may ra còn kiếm được của bỏ mứa của ai đó - của này lắm lúc bị vài người chạy tới giành giật chẳng khác gì lũ diều hâu.
Sukhov tính toán các xuất chia với Pavlo. Nghe chừng ổn thoả cả. Anh chọn một bát có nhiều cái cho đội trưởng Turin. Pavlo đổ bát súp vào một cái cà mèn dẹt của quân đội Đức - thứ này nhét vào phía trong áo khoác, sát chỗ ngực, dễ mang đi hơn.
Khay đựng đồ ăn được chuyển cho đội khác. Pavlo ngồi xuống ăn khẩu phần đúp của mình. Sukhov cũng có hai xuất. Họ không nói thêm một lời nào với nhau nữa. Giây phút thiêng liêng đã tới.
Sukhov cởi mũ, kẹp vào giữa hai đầu gối. Anh lấy thìa ngoáy thử một bát, rồi bát kia. Không đến nỗi nào, còn nhìn thấy thấp thoáng vài mẩu cá. Nhìn chung súp bữa tối bao giờ cũng loãng hơn bữa sáng: bữa sáng phải cho phạm ăn no để mà làm việc, chứ bữa tối thì làm cái quái gì, chỉ có việc lăn ra mà ngủ như chết, ăn thế nào chẳng được.
Sukhov bắt đầu ăn. Thoạt đầu anh húp thứ nước lõng bõng ở trên, húp cho cạn. Hơi ấm lan khắp cơ thể anh - toàn thể lục phủ ngũ tạng của anh run rẩy đón chờ cái thứ nước súp này. Ôi chà, mới ngon làm sao! Nó đấy, cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đấy, tù nhân chỉ vì nó mà sống thôi đấy! Lúc này Sukhov không còn thấy oán hận gì cả: cả cái thời hạn lê thê, cả cái ngày dài đằng đẵng, cả cái chủ nhật không được nghỉ. Lúc này trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: sẽ qua được! Rồi ta sẽ qua được hết, Chúa trời mà thương rồi cũng sẽ tới ngày mãn hạn!
Sau khi húp hết nước ở bát thứ nhất, anh húp luôn bát thứ hai, sau đó trút hết chỗ cái của bát này sang bát kia, dùng thìa vét cho sạch nhẵn. Như thế yên tâm hơn, khỏi phải canh chừng cái bát thứ hai, khỏi phải giữ nó bằng tay, bằng mắt.
Rảnh mắt Sukhov ngó sang bát súp của những người bên cạnh. Người ngồi bên trái anh nhận được một bát tinh những nước là nước. Bọn khốn kiếp, chúng đối đãi với anh em cùng cảnh tù với mình như thế đấy!
Sukhov bắt đầu ăn những miếng bắp cải cùng những thứ còn lại trong bát. Anh còn được cả một củ khoai tây trong cái bát mà Sezar cho anh. Một củ khoai tây không to lắm, loại khoai chết rét, sường sượng, đã mất vị ngọt. Và chả có miếng cá nào, chỉ loáng thoáng vài cái xương không dính thịt. Nhưng dù là một cái xương nhỏ, cái vây nhỏ, cũng cố mà nhai, mà hít lấy chút nước ngọt - bổ lắm đấy. Tất nhiên, làm tất cả những thứ đó mất thời gian thật, nhưng bây giờ Sukhov đâu có vội. Hôm nay là một ngày lễ đối với anh: bữa trưa anh xoay được thêm một xuất, bữa tối anh cũng lại kiếm được thêm một xuất nữa. Làm được việc này thì các việc còn lại đều có thể dẹp đi được. Có điều phải tới chỗ thằng cha Latvi để mua lấy ít thuốc lá. Đến sáng chắc sẽ chẳng còn sợi nào.
Sukhov ăn bữa tối không đụng đến khẩu phần bánh mì: đã được hai xuất súp, lại còn ăn thêm bánh mì thì bổ quá. Bánh mì để dành cho sáng mai. Cái bụng là một kẻ vô ơn, rất mau quên việc thiện ta làm cho nó, sáng mai lại nheo nhéo đòi ăn ngay cho mà xem.
Sukhov ăn sắp hết hai xuất súp của mình và chẳng buồn nhìn những người xung quanh, bởi chẳng còn cần thiết nữa: anh không kiếm cách để săn lùng xuất mới, chỉ ăn cái phần mình được hưởng.
Nhưng anh vẫn nhìn thấy ngay trước mặt mình, cách một bàn, có một chỗ trống và ông già đeo biển số U-81 ngồi xuống đó. Sukhov biết ông già này ở đội 64, và khi đứng xếp hàng cho Sezar ở chỗ nhận đồ tiếp tế, anh được biết đội 64 hôm nay phải làm ở Khu Dịch Xá thay cho đội 104 và suốt cả ngày họ phải làm ngoài trời không có chỗ sưởi, để chăng giây thép gai giam giữ chính mình.
Người ta nói với Sukhov rằng ông già này đã ngồi ở các trại giam, nhà tù không biết bao lâu rồi, chính quyền Xô Viết đã có bao nhiêu năm nay, song chưa bao giờ ông được xét ân xá, cứ hết mười năm, người ta lại bồi cho ông thêm mười năm nữa.
Bây giờ thì anh ngắm ông già kĩ hơn. Khác với tất cả những ông già lưng gù trong trại, lưng của ông già này rất thẳng, và khi ngồi ở bàn ăn trông ông như thể ngồi trên một cái ghế được lót thêm cái gì đó cho cao thêm. Đã lâu rồi, trên cái đầu trọc của ông chả còn gì để mà cạo - tóc tai rụng sạch vì cuộc sống quá sung sướng. Cặp mắt ông già không đảo quanh nhà ăn để xem những việc đang xảy ra, mà nhìn đăm đăm vào một cái gì đó ở phía trên đầu Sukhov, cái mà không một ai nhìn thấy. Ông từ tốn ăn tô súp loãng bằng chiếc thìa gỗ đã mòn vẹt, song không gục mặt xuống bát như những người khác, mà đưa thìa súp lên miệng mình. Răng của ông không còn lấy một chiếc, cả hàm trên, lẫn hàm dưới, ông dùng hai hàm lợi cứng như xương để nhai bánh mì thay cho răng. Khuôn mặt ông mòn mỏi, song không đến nỗi yếu ớt, thiểu não như bọn người tàn tật mất hết sức sống, mà đen xạm, trông như tạc bằng đá. Và nhìn đôi tay to tướng, méo mó sần sùi, cũng có thể thấy được rằng ngần ấy năm rất hiếm khi ông được làm công việc nhẹ. Song trong ông hằn rõ ý chí không chịu khuất phục: ba trăm gram bánh mì ông không để xuống mặt bàn nhơ nhớp như mọi người, mà đặt lên một miếng giẻ nhỏ được giặt sạch sẽ.
Nhưng Sukhov không có thời gian để ngắm nghía ông già. Ăn xong anh liếm sạch thìa rồi nhét lại nó vào ống giầy ủng, chụp mũ lên đầu, đứng dậy, cầm lấy khẩu phần bánh mì của mình và của Sezar. Anh đi khỏi nhà ăn bằng một cửa khác. Ở đây cũng có hai tên cần vụ, chúng đứng đó chỉ để làm mỗi một việc, mở chốt cửa cho anh em ra, rồi lại đóng chốt cửa lại.
Sukhov ra khỏi nhà ăn với cái bụng no và tự hài lòng về bản thân. Anh quyết định, dù sắp sửa tới giờ tắt đèn, vẫn cứ phải tới chỗ thằng cha Latvi. Anh chạy thẳng tới trại số bảy, không rẽ qua trại mình để cất bánh mì.
Trăng đã lên cao, trắng ngần, trong trẻo như thể được cắt ra từ bầu trời. Và bầu trời cũng trong veo. Những ngôi sao đó đây lấp lánh, sáng rỡ. Nhưng Sukhov lại càng ít thời gian để nhìn lên trời mà ngắm trăng sao. Anh chỉ cảm thấy rõ một điều: băng giá không hề giảm bớt. Có ai đó nghe được từ những người ở bên ngoài nói rằng ban đêm sẽ xuống tới âm ba mươi độ, còn đến sáng - âm bốn mươi.
Từ rất xa trong thôn vẳng lại tiếng máy cày, còn mé bên đường chiếc máy xúc rít lên. Từng bước chân người đi trên sân trại đều để lại tiếng ủng nghiến tuyết răng rắc.
Trời lặng gió.
Thuốc lá sợi mà Sukhov mua, cũng như mọi lần trước đây, - một rúp một cốc, mặc dù một cốc như vậy ở bên ngoài phải tới ba rúp, có khi đắt hơn, nếu là thuốc ngon. Ở trong trại khổ sai mọi thứ đều có giá riêng, không giống bất cứ ở đâu, là vì tiền không được phép giữ ở trong trại, ít người có, nên chúng rất có giá. Anh em làm việc trong trại nhưng không được trả lấy một xu (hồi ở trại Ust-Izma Sukhov cũng còn được lĩnh ba mươi rúp một tháng). Còn anh nào được gia đình gửi tiền qua bưu điện, thì người ta cũng không cho nhận mà giữ lại cho vào trương mục cá nhân. Tiền đó có thể rút tháng một lần để mua xà phòng giặt, bánh mốc, thuốc lá “Prima” trong kho của trại. Nhưng mỗi lần mua đều phải làm đơn lên trại trưởng và chỉ được mua đúng số hàng đã ghi trong đơn. Hàng mua rồi, thích hay không thích vẫn cứ phải dùng, vì nếu không mua thì đằng nào tiền cũng mất, họ sẽ lấy ra khỏi trương mục.
Sukhov kiếm được tiền bằng những công việc vặt vãnh: khâu một đôi dép từ giẻ rách giá hai rúp, vá áo trấn thủ giá cả thoả thuận.
Trại 7 không giống trại 9 của anh, không ngăn thành hai phòng lớn. Ở trại này có một hành lang dài, dọc theo đó trổ ra mười cái cửa của mười phòng riêng. Mỗi đội ở trong một phòng và mỗi phòng kê bẩy cái giường tầng, có cầu tiêu riêng. Đội trưởng được một phòng nhỏ. Đám mấy ông hoạ sĩ ở đây, sống trong một cái phòng như thế.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #53 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:05:30 am »

Sukhov bước vào phòng nơi có anh chàng người Latvi. Anh chàng này nằm ở giường tầng dưới, hai chân ghếch lên thành giường, đang thao thao nói chuyện bằng tiếng Latvi với tay đồng hương bên cạnh.
Sukhov tiến tới cạnh hắn. Xin chào. Chào - tên Latvi đáp lại, nhưng không bỏ chân xuống. Gian phòng nhỏ, vì thế, hễ có ai vào là lập tức thiên hạ vểnh tai lên nghe ngóng: ai tới, tới để làm gì. Cả hai người đều biết như vậy, nên Sukhov thong thả ngồi xuống giường, bắt đầu con cà, con kê: sống ra sao, khoẻ chứ? Vẫn thường. Hôm nay lạnh gớm nhỉ. Ừ.
Sukhov chờ cho mọi người tiếp tục câu chuyện bỏ dở của mình (họ đang nói về chiến tranh ở Triều Tiên và cãi nhau: không biết Trung Quốc nhẩy vào rồi, liệu chiến tranh thế giới có nổ ra hay không).
Sukhov cúi xuống ghé vào tai tên Latvi, hỏi:
- Có thuốc không?
- Có.
- Cho xem nào.
Tên Latvi nhấc chân khỏi thành giường, hạ xuống sàn nhà và ngồi dậy. Tên này chúa keo kiệt. Hắn lúc nào cũng sợ đổ thuốc vào cốc quá tay, dù số thuốc ấy chỉ cuộn được một điếu.
Hắn cho Sukhov xem cái túi thuốc, rồi mở ra.
Sukhov bốc ra một ít sợi thuốc, bỏ vào lòng bàn tay và thấy vẫn là thứ thuốc như lần trước, cũng mầu nâu vàng và sợi cũng tơi như vậy. Anh đưa lên mũi ngửi - đúng là thứ thuốc ấy, nhưng anh vẫn nói với tên Latvi:
- Có vẻ như không phải thuốc lần trước.
- Vẫn thuốc ấy! Vẫn thuốc ấy! - Tên Latvi cáu, - tôi chẳng có loại nào khác, lúc nào cũng chỉ một loại ấy thôi.
- Thôi, được rồi, được rồi, - Sukhov chấp nhận, - cậu nhồi cho tớ một cốc, tớ hút thử, có thể sẽ lấy thêm cốc nữa.
Anh nói “nhồi”, là vì tên này chuyên có cái lối đổ sợi thuốc vào cốc, không chịu ấn xuống, cứ để lồng phồng như vậy. Tên Latvi lôi từ dưới gối một túi thuốc khác to hơn gói ban đầu và mở cái tủ nhỏ đầu giường, rút ra cái cốc nhựa. Cốc là cốc nhựa, nhưng Sukhov đã đọ rồi, đựng đúng bằng cốc thuỷ tinh. Tên Latvi rũ thuốc bỏ vào cốc.
- Ấn xuống, cậu phải ấn nó xuống chứ! - Sukhov nói với hắn và tự lấy tay ấn thuốc trong cốc xuống.
- Biết rồi! - Tên Latvi đổ quạu, giằng lấy chiếc cốc, tự ấn thuốc xuống, nhưng nhẹ tay hơn, và lại đổ thuốc vào.
Trong khi đó Sukhov mở khuy áo trấn thủ, lần tay vào bên trong lần lót chỗ để tờ giấy bạc. Anh lấy ngón tay khẽ đẩy tờ giấy bạc qua lần bông, tới cái lỗ nhỏ mà anh đã khoét và khâu lược lại vài mũi. Khi tờ giấy bạc chạm vào cái lỗ nhỏ, anh lấy móng tay khẽ kéo chỉ, nới rộng ra, gấp tờ giấy bạc nhỏ lại theo chiều dài, rồi rút nó ra khỏi lỗ. Hai rúp. Tờ giấy bạc đã cũ, không còn kêu sột soạt.
Trong phòng lúc đó có tiếng người kêu lên:
- Anh tưởng thằng già râu khốn nạn thương anh lắm hả! Đến em ruột nó mà nó còn không tin, nữa là cái đồ quê mùa dốt nát như anh!
Ở trong trại khổ sai được cái sướng là tha hồ tự do phát ngôn. Chứ ở trại Uct-Izma, chỉ cần thầm thì với nhau rằng ở bên ngài đến diêm cũng không có bán, lập tức sẽ được nghỉ trong nhà đá và lĩnh thêm một hạn mười năm nữa. Còn đây, có gào toáng lên về bất cứ điều gì cũng chẳng có ma “ăng ten” nào đi bẩm báo, bọn an ninh cũng phẩy tay.
Có điều, làm quái gì có thời gian mà nói về điều nọ, điều kia.
- Ê, sao đong lỏng thế hả, - Sukhov càu nhàu.
- Được rồi, được rồi, thêm cho đây này! - Tên Latvi bỏ thêm mấy sợi lên phía trên.
Sukhov rút cái túi đựng thuốc để bên trong cái túi nhỏ anh khâu thêm vào bên trong áo khoác, đổ thuốc vào.
- Thôi được, cho một cốc nữa - Sukhov quyết định, anh không hút thử nữa, vì không muốn hút điếu thuốc đậm đà đầu tiên trong khi chạy hộc tốc về đội mình.
Anh tiếp tục cò kè với tên Latvi, rồi đổ nốt cốc thứ hai vào túi, trả hai rúp, gật đầu chào hắn rồi đi ra. Vừa bước ra tới sân anh co cẳng chạy về trại của mình để bắt kịp lúc Sezar mang gói đồ tiếp tế về.
Nhưng lúc đó Sezar đã ngồi trên giường tầng một của mình và ngó chăm chăm vào đống đồ. Hắn bầy tất cả các thứ vừa nhận được ra giường và trên nóc cái tủ con đầu giường. Chỉ có điều chỗ đó hơi bị tối vì ánh sáng đèn trần đã bị giường của Sukhov cản lại. Sukhov khom mình lách vào giữa giường của Sezar và giường của ông trung tá. Anh chìa xuất bánh mì bữa tối cho Sezar:
- Bánh của anh đây, Sezar Markovich.
Anh không nói: “Sao, nhận được rồi à?”, là bởi vì câu đó ngụ ý rằng anh đã xếp hàng hộ và bây giờ anh có quyền nhận phần của mình. Anh hiểu mình có quyền, song anh không phải hạng bòn mót, dù đã ở tù tới tám năm - và càng ở trong tù lâu anh càng cố giữ bằng được nguyên tắc của mình.
Tuy nhiên, anh chẳng thể nào ra lệnh cho đôi mắt của mình. Mắt anh, mắt người tù khổ sai, nhanh như mắt diều, loáng một cái đã nhìn thấy hết những thứ mà Sezar bầy la liệt trên giường, trên nóc tủ. Và mặc dù có những gói giấy mới mở nửa chừng, những cái bao chưa rạch, nhưng thoáng nhìn và đánh hơi, Sukhov biết liền Sezar đã nhận được giò, sữa hộp, cá xông khói, mỡ lợn muối, bánh mì sấy để dành được, bích quy có mùi vị khác, hai kilô đường viên, có gói gì đó trông giống như gói bơ tươi, rồi thuốc lá và ống tẩu, còn nữa, còn nữa.
Anh đã trông thấy tất cả ngần ấy thứ chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi khi anh nói câu: “Bánh mì của anh đây, Sezar Markovich”.
Sezar thì cứ mê mẩn, mụ mẫm cả người, hệt như kẻ say (ai nhận được thực phẩm tiếp tế cũng đều rơi vào tâm trạng tương tự). Hắn phẩy tay về phía mấy miếng bánh mà Sukhov chìa ra:
- Cứ giữ lấy, Ivan Denhisych!
Một bát súp với hai trăm gram bánh - cả một bữa tối đầy đủ. Đối với Sukhov đó là phần thưởng lớn cho cái công xếp hàng của anh rồi. Ngay lập tức Sukhov gạt phăng cái ý nghĩ rằng anh có thể được một chút gì đó trong cái đống đồ của Sezar. Không gì tệ hơn là hành hạ cái dạ dầy vì những chuyện chả ra đâu vào đâu.
Mình còn có bốn trăm gram bánh, cộng với hai trăm gram của Sezar, lại còn gần hai trăm gram nữa giấu trong đệm - thế đủ rồi. Hai trăm gram mình sẽ gặm bây giờ, sáng mai được nhận năm trăm năm mươi gram nữa, bốn trăm gram này mình mang đi làm - sống thế mới là sống chứ! Còn chỗ giấu ở trong đệm hãng cứ để đấy. Cũng may mà mình kịp khâu nó vào, chứ như thằng cha ở đội 75 đấy, để ở trong tủ, khoá hẳn hoi, bây giờ có mà kiện lên Xô Viết Tối Cao!
Có nhiều người tưởng rằng người nhận được đồ tiếp tế như một cái túi thắt miệng, cứ việc mở ra là xin được. Nhưng xét cho cùng, thì đồ đến rồi đồ lại đi. Đôi khi, trước khi nhận được đồ tiếp tế, một số người đã chẳng mừng húm khi mót được chút cháo thừa, hoặc có bị bắn bỏ cũng cố mà hút cho bằng hết mẩu thuốc nhặt được. Vậy mà khi nhận được đồ chẳng lẽ lại không biếu ông giám thị, anh đội trưởng, cả tay làm trực tiếp ở chỗ cấp phát? Mà tên này, nếu không được gì, thì lần sau cứ đợi đấy, đồ gửi đến nhưng cả tuần sau cũng không có tên trong danh sách. Khi mang đồ đến nhà kho để gửi (phần khỏi mất cắp, phần khỏi bị trấn và phần vì thủ trưởng đã ra lệnh) - sáng mai, trước giờ điểm danh, Sezar cũng phải mang tới đó để gửi - cũng lại phải cúng cho thằng cha phụ trách ở đấy một phần khá, bằng không hắn gậm dần gậm mòn của mình cũng chết. Cả ngày hắn ngồi ở đó, giống như con chuột gặm nhấm thực phẩm của người khác, có mà tin hắn được khối! Rồi còn phải thưởng công cho những người, như Sukhov chẳng hạn, và nếu muốn nhận được mấy thứ quần áo mà ta giặt ở nhà tắm công cộng được sạch sẽ, tinh tươm, xếp gọn gàng, thì cũng phải dúi cho bọn người ở đó chút đỉnh. Cũng còn phải biếu mấy cha hớt tóc nữa chứ, bằng không hắn sẽ không chùi con dao cạo lên miếng vải giấy của hắn, mà chùi thẳng vào đầu gối để trần của ta, nhiều thì không có, nhưng cũng phải vài ba điếu thuốc. Rồi còn Ban Văn hoá Giáo dục, cũng phải tính đến để thư của ta chúng để riêng ra, không làm mất. Còn nếu muốn được một ngày nằm khểnh trên giường mà nghỉ ngơi thì phải mang biếu ông đốc tờ thứ gì đó. Rồi còn cả tay hàng xóm dùng chung với ta cái tủ nhỏ đầu giường, như ông trung tá với Sezar chẳng hạn, làm sao lại không cho được, là vì hắn sẽ đếm từng miếng ta bỏ vào miệng, cho nên, đến một kẻ bần tiện nhất cũng không thoát được, vẫn phải bấm bụng mà cho hắn.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #54 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:06:18 am »

Vì thế cứ kệ cho mọi người ghen ghét, tị nạnh, những kẻ đứng núi này trông núi nọ, chứ Sukhov thì trải đời quá rồi, anh hiểu rằng tuyệt không được ăn không của ai cái gì.
Anh tháo ủng và leo lên giường của mình, rút từ trong bao tay miếng sắt, ngắm nghía nó. Anh tính ngày mai sẽ cố kiếm một hòn đá mài thật tốt và sẽ mài miếng sắt này thành một con dao nhỏ dùng cho việc sửa chữa giầy dép. Mất khoảng ba bốn ngày gì đó, chịu khó mài vào sáng sớm và buổi tối, anh sẽ có một con dao nhỏ có lưỡi sắc và cong. Nhưng từ giờ cho đến mai anh phải giấu miếng sắt mẻ này đi đã. Anh sẽ nhét nó vào giữa thanh đòn ngang và tấm gỗ giường. Và trong lúc ông trung tá chưa đi nằm (anh không muốn bụi rơi xuống mặt ông), anh kéo tấm nệm nhồi không phải phoi bào, mà là mùn cưa nặng chình chịch lên và giấu miếng sắt.
Những người hàng xóm của anh nằm phía trên: anh chàng Tẩy lễ Aliosa và cặp Estoni nằm trên giường kế bên. Song Sukhov không ngại họ.
Fechiukov đi ngang qua phòng, khóc rưng rức. Vai hắn so lại, môi chảy máu. Chắc hắn lại bị tẩn ở trong nhà ăn vì tội giành nhau bát để liếm. Không nhìn ai và cũng chẳng cần giấu những giọt nước mắt, hắn đi ngang qua đội, leo lên giường của mình, vùi mặt xuống đệm. Xét cho cùng, hắn cũng thật đáng thương. Chắc hắn không sống nổi cho tới khi mãn hạn. Hắn không biết cách sống.
Vừa lúc ông trung tá xuất hiện, phấn khởi, tay xách một cà mèn trà hãm đặc biệt. Trong trại có đặt hai thùng gỗ đựng nước trà, song đó là thứ trà gì vậy? Nó âm ấm và cũng có màu của nước trà, song nhạt thếch, lại bốc mùi gỗ mục do cái thùng đã tã thôi ra. Chứ thứ trà mà Buinovski vừa pha, là trà xin được của Sezar, trà thứ thiệt, ông bỏ vào cà mèn và chạy đi đổ nước sôi. Ông trung tá phởn ra mặt, thu xếp mặt tủ và đặt cà mèn trà quý giá lên đó.
- Tí nữa thì bỏng tay vì cái vòi nước sôi! - ông khoái trá khoe khoang.
Ở phía dưới Sezar bày các thức ăn của hắn lên những tờ giấy trải ra trên giường. Sukhov đặt tấm nệm xuống để khỏi phải nhìn thấy những thứ đó mà thêm não ruột.
Song một lần nữa không có Sukhov là không xong việc. Sezar đứng dậy giữa hai bên giường, nhìn chằm chằm Sukhov, mắt nháy nháy:
- Ivan Denhisych! cho tôi mượn Cái mười ngày của anh với!
Cái mười ngày đây là con dao díp nhỏ của Sukhov. Anh cũng lại giấu nó ở khe ván giường dưới tấm nệm. Trông chả nhỉnh hơn ngón tay út mấy tí, nhưng cắt được cả miếng ba dọi dầy cỡ năm đốt ngón tay. Chính Sukhov làm con dao này và luôn mài nó sắc bén.
Anh lại mò tay xuống phía dưới đệm, rút con dao ra rồi đưa cho Sezar. Sezar gật đầu và ngồi khuất xuống phía dưới.
Có một con dao như thế cũng kiếm chác được chút đỉnh. Nhưng nó cũng có giá của mình. Chỉ cần lộ ra là mười ngày nằm nhà đá như bỡn. Chính vì vậy phải là kẻ không còn tính người mới có thể: cho bọn này mượn con dao để bọn này cắt giò, còn đẳng ấy hả, đút phân vào mồm đằng ấy nhé.
Thế là bây giờ Sezar lại nợ anh nữa rồi.
Xong xuôi các khoản bánh biếc, dao diếc, lúc này Sukhov mới lôi cái túi đựng thuốc lá ra. Việc đầu tiên anh nhón lấy ít sợi thuốc vừa đủ một điếu mà anh đã vay buổi sáng, đưa trả cho tên Etoni phía giường bên, nói: “Cám ơn”.
Tên Estoni nhành môi ra, trông như cười. Hắn lẩm bẩm cái gì đó với tay đồng hương thân tín và hai người quấn một điếu hút thử xem thuốc của Sukhov ra làm sao.
Cứ thử thoải mái, thuốc của mỗ đây chất lượng đâu kém thuốc các người. Sukhov cũng tính hút thử một điếu, song cái đồng hồ bên trong anh nó báo với anh rằng chỉ tí nữa thôi là tới giờ điểm danh ban đêm. Đây chính là thời điểm bọn giám thị đi rình mò khắp các trại xá. Nếu muốn hút thuốc, thì ra ngoài hành lang mà hút, nhưng Sukhov lại không muốn ra, ở trên giường tầng trên của mình anh cảm thấy ấm hơn. Trong trại xá vẫn chẳng hề ấm hơn chút nào, vẫn những đám băng trông như màng nhện bám trên trần. Nhưng lúc này xem ra vẫn còn chịu được, chứ đến đêm cứ gọi là run bần bật vì lạnh.
Sukhov lấy khoanh bánh mì hai trăm gram bắt đầu bẻ từng miếng nhỏ bỏ vào miệng và lắng nghe cuộc trà đàm ở phía dưới giữa ông trung tá và Sezar.
- Ăn đi, trung tá, ăn đi, cứ tự nhiên! Cầm lấy miếng cá hun khói này, cả giò nữa này.
- Cám ơn, tôi đang ăn đây.
- Lấy bơ mà phết bánh mì. Bánh mì gối Moscva chính hiệu đấy!
- Ái chà chà, không thể tin được ở một nơi nào đó người ta vẫn làm bánh mì gối. Anh biết không, bữa tiệc ê hề bất ngờ này làm tôi nhớ tới một chuyện. Lần ấy tôi tới Arkhanghelsk...
Tiếng ồn ở nửa bên kia trại xá có tới cả trăm giọng, nhưng Sukhov Sukhov vẫn nghe được tiếng kẻng ở bên ngoài. Chưa một ai nghe thấy cả. Và Sukhov còn nhìn thấy Kurnosenski, một tay giám thị trẻ măng, người nhỏ thó, có bộ mặt hồng hào. Hắn nắm trong tay một tờ giấy, và cứ nhìn cái cách hắn đi vào rõ ràng hắn tới trại không phải để bắt những người hút thuốc trộm trong phòng hay đuổi phạm ra ngoài để kiểm tra, mà là tìm ai đó.
Kurnosenski rà soát lại trên tờ giấy và hỏi:
- Một lẻ bốn ở đâu?
- Ở đây, - mọi người đáp lại.
Cặp Estoni vội dụi điếu thuốc, giấu đi và lấy tay xua khói.
- Còn đội trưởng đâu?
- Anh cần gì? - Turin nằm trên giường, chỉ đặt một chân xuống sàn.
- Mấy người trong đội anh đã viết tường trình chưa?
- Họ đang viết! - Turin khẳng định một cách chắc chắn.
- Đáng ra phải nộp rồi chứ.
- Khốn nhưng họ ít học, nên viết cũng khó khăn lắm. (Đó là đội trưởng nói về Sezar và ông trung tá. Đội trưởng cừ ra phết, bất cứ lúc nào cũng đối đáp đâu ra đấy). Với lại làm gì có bút, mực cũng chả có.
- Phải có chứ.
- Nhưng bị tước mất rồi!
- Liệu cái mồm, đội trưởng, ông mà nói lắm, tôi cho ông ngồi nhà đá đấy! - Kurnosenki doạ nạt, song không tỏ ra tức giận. - Làm thế nào thì làm, sao cho sáng mai, trước giờ điểm danh, mấy tờ trình phải nằm trên phòng giám thị rồi! Và phải viết rằng mấy cái đồ không được phép dùng ấy đã đem nộp vào kho đồ cá nhân rồi, rõ chưa?
- Rõ.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #55 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:11:21 am »

(“Lão trung tá thoát rồi” - Sukhov nghĩ bụng. Còn bản thân trung tá thì chẳng nghe thấy gì, còn mải ăn giò và đấu hót).
- Còn một việc nữa, - tên giám thị nói tiếp, - Đội anh có ai là S-311 không?
- Còn phải xem danh sách đã, - đội trưởng đáp, cố ý lần chần. - Ai mà nhớ hết nổi mấy cái con số chó đẻ ấy (đội trưởng vờ vịt cốt cứu Buinovski không phải vào nhà đá đêm nay, kéo dài thời gian cho tới sáng mai, trước giờ điểm danh).
- Buinovski có đây không?
- Gì vậy? Tôi đây! - trung tá lên tiếng từ phía dưới giường của Sukhov. Có những loại người nhanh nhẩu đoảng như thế đấy!
- Anh phải không? Ờ, đúng rồi, S-311. Đi!
- Đi đâu?
- Tự anh biết.
Ông trung ta thở dài đánh thượt, miệng làu bàu. Lúc này, đối với ông dong một chiến hạm chạy trên biển vào đêm giông bão chắc còn dễ hơn là dứt ra khỏi cuộc chuyện trò với bè bạn để vào nằm một mình trong cái xà lim lạnh buốt đó.
- Bao nhiêu ngày vậy? - Ông trung tá hỏi, giọng đã hạ.
- Mười. Nhanh lên nào!
Cùng lúc đó bọn cần vụ réo lên:
- Kiểm tra! kiểm tra! tất cả ra ngoài!
Như thế có nghĩa viên giám thị được cử xuống để kiểm tra phạm đã có mặt ở trại rồi.
Ông trung tá ngoái lại - mang áo bông đi chăng? Nhưng chắc chúng sẽ lột ngay, chỉ để lại áo trấn thủ thôi. Đành mặc như thế này mà đi vậy. Ông trung tá những tưởng Volkovoi đã quên (Volkovoi chẳng quên ai và cái gì bao giờ) và tha cho mình, nên ông cũng chẳng chuẩn bị giấu thuốc lá cho mình nữa. Bây giờ mà cầm ở tay sẽ bị tịch thu tức khắc lúc họ khám xét trước khi quẳng ông vào nhà đá.
Tuy nhiên, trong lúc ông đội mũ, Sezar đã kịp dúi cho ông vài điếu.
- Thôi, tạm biệt anh em, - trung tá buồn rầu gật đầu chào anh em trong đội và đi theo viên giám thị.
Mấy người gọi với theo ông, người thì bảo hãy giữ vững tinh thần, kẻ bảo đừng thối chí, - thì còn biết nói gì hơn nữa? Chính anh em đội 104 đã xây khu xà lim đó, nên họ thông thuộc lắm: bốn bức tường đá, sàn xi măng, không có lấy một lỗ cửa sổ, có lò sưởi đấy, song cũng chỉ đủ làm tan lớp băng đóng trên trần nhà khiến cho nước chảy thành vũng đọng ở sàn. Ngủ trên tấm phản trần, không chăn mềm, đệm gối, răng đánh cầm cập suốt đêm. Bánh mì một trăm bẩy mươi lăm gram mỗi ngày và súp nóng chỉ ngày thứ ba, ngày thứ sáu và ngày thứ chín mới được húp.
Mười ngày đêm! Mười ngày đêm ngồi từ đầu đến cuối trong xà lim đá cũng có nghĩa cả cuộc đời còn lại sẽ phải lê lết với bệnh tật. Mà nếu sống sót, thì bệnh ho lao cũng vĩnh viễn cột chặt ta vào giường bệnh viện.
Còn người nào bị cầm cố trong xà lim mười lăm ngày thì coi như rồi đời - chỉ còn biết ngậm cười dưới ba thước đất.
Khi còn sống trong trại hãy mau mắn cầu nguyện sao cho không rơi vào cái địa ngục trần gian ấy.
- Có định ra không thì bảo, tôi đếm đến ba! - Tên trưởng trại xá gầm lên. - Sau ba tiếng ai không ra, tôi sẽ ghi tên báo cáo lên công dân giám thị!
Trưởng trại là kẻ khốn nạn nhất hạng. Cùng bị giam giữ với anh em tù mà lúc nào hắn cũng lên mặt thủ trưởng, chẳng kiêng nể một ai. Ngược lại, ai cũng sợ hắn. Nếu không mách với giám thị, thì hắn cũng thụi ta vào mặt. Hắn được coi là tàn phế vì mất một ngón tay trong cuộc ẩu đả, còn nhìn bản mặt hắn - rõ là giống côn đồ. Mà hắn đúng là côn đồ thứ thiệt, mang án hình sự, nhưng không hiểu sao người ta lại xử hắn theo luật 58/14, chính vì thế mà hắn rơi vào trại khổ sai này.
Hắn không nói rỡn, bây giờ hắn sẽ ghi tên ta vào giấy, báo cáo lên giám thị, ta sẽ lĩnh đủ hai ngày theo chế độ: ban ngày làm việc khổ sai, đêm vào nằm nhà đá.
Chỉ tới lúc này anh em mới lục tục chậm chạp lê bước ra cửa, chỗ đứng túm tụm lại, chỗ nhảy từ các giường tầng xuống trông như bầy gấu và ai cũng nhao ra phía cửa hẹp.
Sukhov tay cầm điếu thuốc đã cuộn từ lâu, điếu thuốc anh thèm muốn chết, khéo léo nhảy xuống đất, xỏ hai chân vào ủng và định đi ra, song lại thấy tội nghiệp cho Sezar. Anh đâu muốn kiếm chác gì ở hắn, mà lúc này chỉ thấy thương hắn thực sự: thằng cha này quá chăm lo cho bản thân. Hắn chả hiểu đời gì cả - nhận được đồ tiếp tế thì chớ nên bầy hết cả ra đấy mà ngắm. Tốt nhất nên gửi vào kho trước giờ kiểm soát ban đêm. Ăn thì lúc nào chả được. Bây giờ hắn làm thế nào với đống đồ bầy la liệt ra như thế? Cho tất cả vào một chiếc bao rồi mang ra chỗ xếp hàng - chỉ tổ làm trò cười cho năm trăm con người trong trại. Nhưng nếu để lại, thì chưa đầy một giờ đồng hồ kiểm tra con số, kẻ nào chạy về chỗ trước, kẻ ấy sẽ nẫng cái bao ngay. (Ở trại Ust-Izma còn tệ hại hơn. Bọn lưu manh bao giờ cũng đi làm về trước và khi anh em mò được tới phòng thì đồ đạc đã bị chúng dọn sạch sẽ rồi).
Sukhov nhìn thấy Sezar lúng ta lúng túng với các gói thức ăn, song đã muộn mất rồi. Hắn đang nhét giò và mỡ muối vào trong áo, cố cứu vãn được cái gì hay cái ấy.
Sukhov thấy thương hại, bèn bày cách cho hắn:
- Cứ ngồi tại chỗ, Sezar Markovich, chờ cho tới người cuối cùng, ngồi vào chỗ tối ấy và chờ cho người sau cùng đi ra. Khi bọn giám thị sục sạo các giường thì hãy đi ra. Nếu chúng nhìn thấy, nhớ bảo là bị ốm. Còn tôi sẽ chạy ra trước tiên và quay trở vào trước tiên. Cứ thế...
Nói rồi anh co cẳng chạy ra ngoài.
Thoạt đầu Sukhov phải khó nhọc lắm mới chen qua được đám đông (tay lại còn phải giữ cho điếu thuốc không bị bẹp). Trong hành lang chung cho cả hai khối của trại xá và trước cửa ra vào, không ai muốn là người đầu tiên bước ra cả, một lũ ma lanh, mà cứ bám riết lấy hai bên tường, chỉ chừa lại một lối nhỏ vừa một người đi: muốn thì cứ việc ra ngoài trời lạnh, các bố cứ đứng ở đây cho ấm cái đã. Cả ngày phơi mặt ra băng giá, bây giờ lại đứng thêm mười phút nữa cho chết rét chắc? Chả dại. Thằng nào muốn chết, cho chết. Cánh tớ chờ thêm ít lâu nữa!
Giá phải lần khác thì Sukhov cũng cố bám lấy tường đấy, nhưng lần này anh vọt ngay ra ngoài cửa, lại còn réo lên ầm ĩ:
- Sợ gì chứ lũ ngốc? Chả lẽ chưa thấy cái lạnh Siberi bao giờ chắc. Ra ngoài này mà sưởi mặt trời của sói! Ông anh, cho xin tí lửa!
Anh châm thuốc ở trước cửa ra vào rồi bước xuống bậc thềm trại. “Mặt trời của sói” - ở quê Sukhov người ta gọi đùa như vậy để ám chỉ mặt trăng.
Trăng đã lên thật cao! chỉ chút nữa thôi là tới đỉnh điểm, bầu trời bàng bạc phớt màu lá cây, những ngôi sao thật tỏ, nhưng thưa thớt. Tuyết lấp lánh, những bức tường của trại xá cũng trắng xoá, vì thế nên ánh sáng của những ngọn đèn chiếu trong trại không còn chói gắt nữa.
Ở trại đằng kia, phía trước cửa, đem sậm một dòng người đang xếp hàng. Cả trại khác nữa, cũng thế. Từ trại này tới trại kia tiếng chuyện trò thưa thớt, chỉ thấy tiếng những bước chân dẫm tuyết lạo xạo.
Trước cửa bậc thềm, mặt hướng vào cửa trại xá, đã có năm người xếp thành hàng. Phía sau có ba người, Sukhov nhập vào đội năm người thứ hai này. Đã có mấy lát bánh mì vào bụng, miệng lại phì phèo điếu thuốc, đứng ở ngoài này cũng không đến nỗi nào. Thuốc hút được. Tên Latvi không bịp mình, vừa đậm lại vừa thơm.
Mọi người bước dần ra ngoài, bây giờ đã có hai, ba hàng năm người rồi. Những ai ra xếp hàng trước, lúc này nổi cáu: bọn khốn còn đứng bám tường làm cái gì chứ, định cho bố chúng nó chết rét ngoài này chắc.
Không một ai trong đám phạm nhìn thấy đồng hồ trong thời gian ở tù. Mà họ cần quái gì đồng hồ. Phạm chỉ cần biết đã sắp tới hiệu lệnh báo thức chưa? Còn bao lâu nữa thì tới giờ điểm danh? Sắp ăn trưa, ăn tối chưa? Sắp tới giờ tắt đèn chưa?
Họ bảo giờ điểm danh ban đêm vào lúc chín giờ. Ấy là nói thế, chứ không bao giờ nó kết thúc vào lúc chín giờ, thường chúng kiểm tra tới lần thứ hai, thứ ba và trước mười giờ đừng hòng mà được ngủ. Còn kẻng báo thức họ bảo vào năm giờ sáng, thì cũng chỉ biết thế. Chả trách cái tên người Monđavi đã lăn ra ngủ quên trước giờ nghỉ. Nơi nào có chỗ sưởi ấm là phạm ta lăn ra mà ngủ ngay được. Trong tuần được ngủ quá ít, thế cho nên vào ngày chủ nhật không phải đi làm toàn trại xá lăn ra ngủ như chết cả lượt.
Mọi người đang đổ xuống bậc thềm. Bọn giám thị cùng thằng trưởng trại, rặt một lũ súc vật, đang đá đít họ.
- Sao nào? - Những người xếp hàng đầu la ó chửi bới. - Chúng bay tưởng chúng bay khôn lắm hả, lũ khốn nạn? Tưởng lấy cứt mà đánh thành bơ được đấy hả? Ra ngoài này ngay từ đầu, thì có phải xong rồi không.
Toàn trại đã ra hết bên ngoài. Bốn trăm con người - tám mươi hàng năm người đứng nối đuôi nhau. Nhưng cũng chỉ ở phía trên hàng ngũ còn tề chỉnh, phía dưới đuôi mọi người đứng túm tụm, chả ra hàng ra lối.
- Ở dưới kia, xếp hàng vào! - tên trưởng trại gào lên từ trên bậc thềm.
Nhưng còn lâu chúng mới nghe, lũ quỷ sứ, đồ củ chuối!
Sezar bước ra khỏi cửa, so vai rụt cổ, cố làm ra vẻ đau yếu. Đằng sau hắn là hai tên cần vụ ở nửa bên kia của trại chín, và hai tên ở nửa trại bên này, cùng với một tên thọt nữa. Chúng làm thành hàng năm người đầu tiên, chính vì thế Sukhov thành ra đứng ở hàng năm người thứ ba. Chúng đuổi Sezar xuống phía cuối.
Tên giám thị bước ra ngoài hiên.
- X ế p h à n g n ă m! - Hắn gào những người ở dưới đuôi, giọng hắn khoẻ thật.
- X ế p h à n g n ă m! - Trưởng trại gào theo, giọng còn khoẻ hơn.
Nhưng bọn dưới đó vẫn không chịu hiểu, đồ củ chuối!
Tên trưởng trại tức điên người, vọt xuống phía dưới, chửi bới om xòm, đánh đấm túi bụi.
Nhưng xem hắn đánh những ai, rặt bọn thỏ đế.
Cuối cùng đâu cũng vào đấy. Hắn quay trở lại bắt đầu đếm cùng bọn giám thị:
- Một! hai! ba!
Hàng nào điểm xong, lập tức mọi người ba chân bốn cẳng chạy vội vào trong trại xá. Thế là xong một ngày với các sếp!
Xong có nghĩa là không phải đếm lại lần thứ hai. Bọn óc bã đậu này, trán thì trông rõ rộng mà còn ngu hơn bất cứ thằng chăn cừu nào. Thằng chăn cừu tuy thất học, chỉ biết chăn cừu thôi, song trên đường về cũng còn biết thiếu đủ ra sao. Mấy tên khốn này có mà nhồi vào đầu cũng chỉ đến thế.
Mùa đông năm ngoái trong trại lại còn không có lấy nổi một cái lò sấy giầy nào, cho nên phạm phải để lại ủng của mình trong phòng cả đêm. Đã thế còn bị đuổi ra ngoài kiểm tra tới ba bốn bận. Chính vì vậy họ chả thèm mặc quần áo cho tử tế, cứ thế quấn chăn vào người rồi ra xếp hàng. Tới năm nay người ta cho xây vài cái lò. Không phải cho tất cả các đội một lúc, song cứ đôi ba ngày các đội lần lượt thay nhau sấy. Bởi thế, nên hồi này, khi nào phải đếm lại, chúng để anh em ở bên trong trại, chỉ xua từ nửa trại này sang nửa trại kia thôi.
Sukhov chạy vào bên trong, tuy không phải người đầu tiên, nhưng mắt anh không rời tên phạm chạy vào trước. Chạy tới giường của Sezar anh ngồi xuống, cởi ủng ra, leo lên một chiếc giường gần lò sưởi, đặt đôi ủng của mình lên đó. Ở đây ai đến trước thì hưởng trước. Sau đó anh quay lại giường Sezar, ngồi xếp chân bằng tròn trên đó, một mắt để ý không cho tên nào ở phía dưới thò tay lên thó đồ của hắn, một mắt canh chừng không cho tên nào đẩy đôi ủng của anh ra để chiếm chỗ.
- Này! - Anh buộc phải hét toáng lên, - mày, thằng tóc đỏ kia! Muốn được nện ủng vào mặt hả? Cứ việc đặt ủng của mình vào, nhưng đừng có động đến của người khác!
Phạm lũ lượt đổ trở lại trại xá. Ở đội 20 mọi người hò nhau:
- Đem ủng đi sấy!
Bây giờ người ta thả họ ra để đi sấy ủng, rồi khoá cửa lại. Một lát sau những người này chạy về, đấm cửa thình thình:
- Công dân giám thị ơi, mở cửa cho chúng tôi với!
Nhưng bọn giám thị đã đi lên trung tâm để đọ sổ sách với phòng tài vụ xem có thằng tù nào chạy trốn hay không.
Hôm nay Sukhov cóc thèm để ý đến mấy việc này. Kìa Sezar đang đi về giữa hai hàng giường, miệng suýt xoa:
- Cám ơn anh, Ivan Denhisych!
Sukhov gật đầu và nhanh như sóc, anh leo lên giường của mình ở phía trên. Bây giờ có thể ăn nốt hai trăm gram bánh, hoặc hút điếu thứ hai, hoặc lăn ra mà ngủ.
Nhưng Sukhov đâu muốn ngủ ngay, bởi vì anh đã có được một ngày thật đẹp, nó khiến anh thấy vui vẻ quá.
Sắp giường chiếu - chuyện nhỏ: chỉ việc kéo cái chăn đen đã bạc màu, rồi nằm lên đệm (lâu lắm rồi, có lẽ từ năm bốn mốt, sau khi đi khỏi nhà tới giờ, anh chưa nằm ngủ trên vải trải giường bao giờ. Và anh lấy làm lạ tại sao đàn bà lại cứ phải phiền phức vì khăn trải giường thế nhỉ. Chỉ tổ mất công giặt), đặt đầu lên cái cái gói nhồi phoi bào, hai chân đút vào áo trấn thủ, đắp chăn lên, phía trên đắp thêm chiếc áo bông nữa, và thế là cám ơn Chúa, một ngày nữa lại qua rồi!
Cám ơn Chúa, vì không phải ngủ ở xà lim, nằm ở đây cũng không đến nỗi nào.
Sukhov nằm, đầu hướng ra cửa sổ, còn Aliosa nằm ở giường bên kia, cạnh anh, trở ngược đầu đuôi để hứng lấy ánh sáng đèn. Anh ta lại đang đọc Phúc Âm.
Ngọn đèn điện cách chỗ họ không xa, có thể đọc sách, thậm chí khâu vá quần áo cũng được.
Aliosa nghe thấy Sukhov thầm thì cảm ơn Chúa, bèn quay lại.
- Ivan Denhisovich, tâm hồn anh muốn cầu nguyện Chúa, tại sao anh không để cho nó làm việc đó nhỉ?
Sukhov liếc nhìn Aliosa, hai mắt anh ta giống như hai ngọn nến, ấm áp. Anh thở dài:
- À, bởi vì những lời cầu nguyện cũng giống như mấy cái đơn khiếu nại, cũng có thể đến được tay cấp trên, cũng có thể chả bao giờ tới được, hoặc quay trở về với một chữ bên cạnh: “Bác đơn”.
Trước cửa văn phòng trụ sở trại có đặt bốn chiếc hộp nhỏ màu đen niêm phong cẩn thận và hàng tháng có một người được họ uỷ quyền tới mở các hòm lấy thư ra. Nhiều đơn từ ở trong mấy cái hòm đó bị quẳng đi. Còn phạm ta thì cứ đợi, tính từng ngày, ngóng tin phản hồi. Nhưng nào có thấy. Hoặc chỉ nhận được mỗi chữ: “Bác đơn!”.
- Ivan Denisovich ạ, chính vì anh cầu nguyện ít quá, lại không thành tâm, nhẫn nại, hoá cho nên những lời cầu nguyện của anh chả bao giờ thành hiện thực được cả. Cầu nguyện phải thường xuyên cơ. Ví như có đức tin, thì anh bảo núi chuyển, nó cũng phải chuyển.
Sukhov cười khẩy và cuốn thêm một điếu thuốc nữa. Anh châm lửa nhờ ở cặp Estoni.
- Thôi đi Aliosa, đừng huyên thuyên. Tớ chưa từng thấy núi chuyển, vả cả cả đời tớ đã nhìn thấy núi bao giờ đâu. Còn các cậu ở Kavkaz, cả hội Tẩy lễ nhà các cậu cùng cầu nguyện, thế các cậu đã nhìn thấy quả núi nào chuyển động chưa?
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #56 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:12:04 am »

Mấy người Tẩy lễ này kể cũng khổ: cầu nguyện Chúa thì có hại đến ai, ấy thế mà cả bọn đều bị lãnh hai mươi lăm năm tù. Thì bây giờ nó là vậy, ai cũng hai mươi lăm năm tuốt tuột.
- Nhưng chúng tôi đâu có cầu nguyện điều đó, Ivan Denhisych, - Aliosa khơi gợi. Hắn cầm cuốn sổ chép Phúc Âm xán tới gần Sukhov, ngó sát mặt anh, - Trong tất cả mọi thứ trần tục, phù du, chúng tôi chỉ cầu xin Thượng đế có được miếng ăn hàng ngày mà thôi: “Xin cho chúng con đồ ăn ngày nào đủ ngày nấy!”
- Tức là khẩu phần hàng ngày, đúng không? - Sukhov hỏi.
Nhưng Aliosa vẫn nói tiếp, ánh mắt hắn thuyết phục nhiều hơn lời hắn nói, hắn đặt tay lên tay Sukhov, khẽ vuốt:
- Ivan Denicych! không nên cầu nguyện vì một gói đồ tiếp tế hay một xuất cháo thừa. Những gì ta coi là quý giá lại thấp hèn trước Chúa! Cần cầu nguyện những gì thuộc tâm linh: sao cho Đức Chúa Lời lấy hết những cái ác trong tâm chúng ta...
- Nghe tớ nói chuyện này còn hay hơn. Ở nhà thờ Polomensk chỗ chúng tớ có một cha cố...
- Đừng nói về ông cha đạo của anh nữa! - Aliosa nài nỉ, thậm chí trán hắn nhăn lại vì đau đớn.
- Không, cậu hãng cứ nghe đã. - Sukhov chống khuỷu tay nhỏm dậy. Cả vùng Polomensk chúng tớ không có ai giàu bằng lão cha cố. Tiền công sửa cái mái nhà bình thường ra là ba mươi rúp một ngày, riêng cha cố người ta phải lấy tới trăm rúp. Mặc dù người ngợm ục à ục ịch, lão đi lại với ba mụ đàn bà ở ba thành phố khác nhau, hàng tháng trợ cấp tiền cho họ, còn với người thứ tư thì lão sống như vợ chồng hẳn hoi. Lão nắm thóp ông tổng giám mục, biếu xén ghê lắm, chẳng thế mà tất cả các ông cha cố mà người ta cử đến địa phận đều bị lão đẩy đi hết, lão chẳng muốn chia chác với ai...
- Anh nói về cha cố làm gì? Nhà thờ Chính thống đã xa lìa Phúc Âm. Người ta đâu có bắt giam họ, tống họ vào tù, ấy là vì người ta biết rằng họ đâu có đức tin thực sự.
Sukhov hút thuốc, bình thản nhìn Aliosa đang bị kích động.
- Aliosa, - anh đẩy nhẹ tay hắn ra, khói thuốc lá của anh bay vào mặt hắn. - Tớ đâu có chống lại Chúa, cậu hiểu chứ. Tớ sẵn lòng tin vào Chúa. Có điều tớ không tin có thiên đàng và địa ngục. Các người coi bọn này là lũ ngốc hay sao mà cứ hứa hiêu hứa vượn mãi về thiên đường với chả địa ngục? Đó là cái tớ ghét nhất.
Sukhov nằm trở lại, cẩn thận vẩy tàn thuốc sau đầu, chỗ giữa đầu giường anh và cửa sổ, tránh không làm cháy đồ của ông trung tá. Mải nghĩ, anh không nghe thấy Aliosa thì thầm gì nữa.
- Với lại, dù mình có cầu nguyện bao nhiêu chăng nữa, cái hạn tù của mình đâu có ngắn bớt đi. Cứ phải lê cho hết, từng ngày, từng ngày một, từ kẻng báo thức tới kẻng ngủ.
- Ấy, anh đừng nên cầu nguyện điều đó! - Aliosa hoảng sợ. - Anh cần tự do để làm gì? Có tự do thì đức tin cuối cùng còn sót lại trong anh, giống như chút hạt giống, sẽ mắc kẹt trong bụi mận gai! Anh phải lấy làm mừng vì ở trong trại tù! Ở đây anh còn có thời gian mà nghĩ đến linh hồn! Sứ đồ Palo từng nói: “Các người khóc lóc gì vậy, muốn làm nát lòng ta chăng? Ta chẳng những chịu trói, mà còn sẵn sàng chịu chết vì danh Chúa Jesu”.
Sukhov im lặng nhìn trần nhà. Chính anh cũng không còn biết mình có cần tự do hay không. Lúc mới vào tù anh thèm được tự do lắm, mỗi tối nằm tính xem mình đã ở tù được bao nhiêu lâu, thời hạn còn lại bao lâu. Sau đó phát chán. Sau đó hiểu ra rằng những người như anh họ không thả cho về nhà, mà bắt đi đầy. Vậy thì ở đây hay ở nơi đầy ải, chỗ nào khá hơn, cũng chẳng rõ nữa.
Anh chỉ cầu xin Chúa trời có mỗi một điều - được về nhà.
Nhưng mà họ không thả...
Aliosa không nói dối anh. Qua ánh mắt, lời nói của hắn cũng đủ biết hắn mừng vì được ở tù.
- Nghe này, Aliosa, - Sukhov giải thích cho hắn, - với anh thì được, Đấng Kitô bảo anh vào tù và anh ở tù là vì Ngài. Chứ còn tôi, tôi ngồi tù vì lẽ gì? Vì việc năm một chín bốn mốt người ta không chuẩn bị cho cuộc chiến tranh? Vì lẽ đó? Nhưng đấy có phải lỗi của tôi đâu.
- Xem ra họ không kiểm tra lần thứ hai...- Kildigs nằm trên giường nói xen vào.
- Ờ, ờ! - Sukhov hưởng ứng. - Phải ghi lên cái ống ở đằng góc nhà: ngày này, tháng này trại không bị kiểm tra lần thứ hai. - Anh ngáp và nói: - ngủ thôi.
Nhưng ngay lúc đó, trong trại giam tĩnh mịch, an phận, bỗng vang lên tiếng động đằng sau cửa ra vào. Có hai tên vừa nãy mang ủng đi sấy chạy vào hành lang hô hoán ầm ĩ:
- Kiểm tra lần hai!
Theo sát họ là viên giám thị:
- Tất cả sang phía bên kia!
Nhiều người đã ngủ. Họ càu nhàu, lồm cồm ngồi dậy, xỏ chân vào ủng (họ vẫn đánh cả quần bông đi ngủ. Mặc quần thường nằm trong chăn không chịu được, người cứ run cầm cập).
- Phù! Quân khốn nạn! - Sukhov chửi, song anh cũng không bực mình cho lắm, vì chưa ngủ.
Sezar từ giường dưới đưa lên anh hai chiếc bánh bích quy, hai cục đường và một lát giò tròn.
- Cám ơn, Sezar Markovich! - Sukhov cúi xuống dưới, lối đi giữa hai dãy giường. - Anh đưa tôi cái bao tôi cất dưới gối tôi cho. Cất trên trên này cho chắc. (Giường tầng trên không thể với tay lên mà thuổng nhanh các thứ được, với lại giường của Sukhov ai mà thèm nhòm ngó).
Sezar đưa lên phía trên cho Sukhov cái bao màu trắng đan lưới của hắn. Sukhov nhét nó xuống dưới đệm và chờ cho gần hết mọi người ra hành lang, vì như vậy anh đỡ phải dẫm chân trần lâu dưới đất.
Nhưng tên giám thị đã gầm lên:
- Ê, người góc đằng kia!
Sukhov nhẹ nhàng nhảy chân trần xuống sàn (là vì đôi ủng của anh cùng với vải quấn chân đang sấy trên lò sưởi, lấy xuống tiếc lắm). Anh đã khâu biết bao đôi dép đi trong nhà, song toàn là cho người khác, bản thân chẳng có lấy một đôi. Với lại anh cũng đã quen, việc này cũng chóng thôi mà.
Vả chúng cũng sẽ bắt tuốt cả dép, nếu ban ngày chúng mò thấy được.
Những người trong đội đến phiên được sấy giầy, người đi dép, người để nguyên cả vải quấn chân, người dẫm chân không.
- Nhanh chân lên! nhanh lên! - tên giám thị quát tháo.
- Bọn bay muốn ăn gậy lắm hả, đồ mắc dịch! - tên trưởng trại có mặt tức thì.
Tất cả bị dồn sang nửa kia của trại và những người ra cuối cùng phải đứng ở ngài hành lang. Sukhov đứng ở ngoài đó, áp người sát vào tường gần nhà vệ sinh. Sàn nhà ướt át dưới chân anh, một ngọn gió buốt lạnh luồn vào từ chỗ cửa ra vào.
Mọi người đã bị đuổi hết sang nửa bên kia nhà và tên giám thị cùng với tên trưởng trại xá lại đi lục soát xem còn ai ở lại nấp trong bóng tối. Bởi vì đếm không đủ tù - khốn nạn, đếm thừa tù - cũng khốn nạn. Thế là lại phải kiểm lại từ đầu.
Hai tên sục sạo, sục sạo chán rồi quay trở lại chỗ cửa.
- Một, hai, ba, bốn... - Bây giờ thì chúng nhanh chóng cho từng hàng năm người vào một. Sukhov là người thứ mười tám qua vòng kiểm soát, anh phóng vội về giường. Đặt một chân lên mép giường tầng dưới, anh tung người và đánh soạt một cái đã ở trên chỗ của mình.
Tốt rồi. Hai chân lại đút vào hai tay áo bông, đắp chăn lên người và trên cùng là áo trấn thủ. Ngủ thôi! Bây giờ anh em phạm ở nửa nhà bên sẽ bị lùa sang bên này. Họ cứ việc kiểm, chả động dạng gì đến mình.
Sezar trở về giường. Sukhov đưa xuống trả hắn cái bao đựng đồ ăn.
Aliosa cũng đã quay về. Hắn chẳng khôn gì cả. Có cái gì cũng cho mọi người, mà bản thân nào có kiếm được gì.
- Cầm lấy, Aliosa! Anh đưa hắn một chiếc bánh bích quy.
Aliosa nhoẻn miệng cười:
- Cám ơn anh. Anh đã chẳng có...
- Ăn đi!
Tớ chẳng có, nhưng tớ còn kiếm được.
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #57 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2013, 02:12:45 am »

Và anh bỏ miếng giò vào miệng. Răng anh nhai miếng giò! Răng đang nhai. Ôi chao cái vị của thịt. Nước của thịt. Thịt chính hiệu. Nó đang trôi xuống bụng.
Nhoằng một cái, miếng giò đã biến mất.
Những thứ còn lại, Sukhov nghĩ bụng, mình sẽ ăn trước giờ điểm danh buổi sáng.
Và anh kéo tấm chăn mỏng, đã lâu không giặt, trùm đầu. Lúc này anh đã không còn nghe thấy ở các lối đi giữa các dãy giường mỗi lúc một chật cứng tù nhân của nửa trại bên: họ chờ người ta đang lục soát chỗ của họ.
Sukhov nhắm mắt ngủ và anh thấy thật hài lòng. Ngày hôm nay thật may mắn: không phải vào nhà đá, đội của anh không bị lùa đi làm ở Khu Dịch Xá, bữa trưa anh gặt hái được thêm một bát cháo, đội trưởng nâng được năng xuất cho anh em, xây tường thật vui vẻ, qua mặt được bọn kiểm soát miếng sắt mẻ, kiếm được tí chút của Sezar, lại còn mua được cả thuốc lá. Và không bị bệnh. Cơn đau buổi sáng đã qua khỏi.
Một ngày đã qua gần như không một điều phiền muộn. Có thể coi là một ngày hạnh phúc.
Trong hạn tù của anh, từ tiếng kẻng này tới tiếng kẻng khác, có ba nghìn sáu trăm năm mươi ba ngày như thế.
Vì vướng mấy năm nhuận, nên bị dôi thêm ba ngày...
* Bap-tit - một giáo phái thuộc Cơ đốc Tân giáo (Tin Lành) xuất hiện đầu thế kỷ XVII (hiện truyền bá rộng rãi ở Mỹ). Giáo phải này giản lược sự sùng bái và tổ chức nhà thờ; Lễ rửa tội tiến hành cho người lớn vì cho rằng rửa tội cho con trẻ chưa có ý thức là sự lừa dối và nhạo báng đức tin. (ND)
** Viatich - dân tộc thiểu số Đông Slavơ sinh sống ở thượng lưu và trung lưu sông Oka.
Chú thích:
1.Barak - nhà ghép bằng gỗ trong khu trại giam. Tuỳ theo diện tích và sự phân chia của cấp trên, mỗi nhà có từ một vài tới nhiều đội tù ở. Ở đây chúng tôi dùng từ “trại” chỉ nhà giam đó. Trại số chín, nơi Sukhov ở, chia làm hai ngăn và có tới hơn 400 người (khoảng 20 đội).
2.Buslat - áo khoác bông không tay, chúng tôi dịch là áo trấn thủ
3.Osobyi lager - Trại giam đặc biệt , tức trại có quy chế đặc biệt hà khắc.
4.Volkov - t. Nga có nghĩa là chó sói.
5. Điều 58 - một điều khoản nổi tiếng trong bộ Luật hình sự Xô Viết, bao trùm một phạm vi rất rộng những tội danh được gọi là “chống Xô Viết”: gián điệp, phá hoại, tuyên truyền chống chế độ... và được giải thích để bao quát toàn bộ những hành động của “bất cử phần tử nguy hiểm nào về mặt xã hội”. Dưới thời Stalin điều khoản này được áp dụng rộng rãi và bừa bãi cho cả những ai bị tình nghi là bất mãn xã hội.
6. “Công nhân tự do” - volnye - chỉ những người ở “bên ngoài” (na vole), mà hầu hết là cựu tù nhân mãn hạn, nhưng bị tước quyền trở về quê quán. Họ ở lại sinh sống trong các vùng gần các khu trại giam và làm việc trên các công trường xây dựng.
7. Tên Ivan gọi thân mật.
8. Cựu giáo - giáo phái li khai khỏi Giáo hội Chính thống Nga, không chấp nhận một số cải cách do Giáo trưởng Nikon đề ra ở thế kỷ XVII. Những tín đồ cựu giáo bị ngược đãi cả ở thời kỳ Xô Viết.
9. Tướng Bendera - Stepan Bendera, người lãnh đạo cuộc nổi dậy của binh lính ở Tây Ukrain. Thời kì đầu chiến tranh Bendera hợp tác với quân Đức chống lại Liên Xô, song sau đó ông không còn ảo tưởng về nước Đức Quốc xã nữa và tiến hành chiến tranh du kích trên lãnh thổ Liên Xô. Năm 1959 bị ám sát tại Đức..
10. Trên các công trường xây dựng ở Nga, người ta không xách vữa bằng sô, mà dùng một cái máng gỗ (hoặc sắt tây, có tay cầm ở hai đầu để khiêng, trông giống như một chiếc cáng. Ở đây chúng tôi dịch là cáng, hoặc máng.
11. Sergei Kirov - uỷ viên Bộ chính trị và là Bí thư Thành Uỷ Leningrad. Ông bị ám sát năm 1934. Cái chết của ông tạo cớ cho những vụ bắt bớ, đàn áp tập thể, mở đầu cho chiến dịch đại thanh trừng năm 1936-1938 ở Liên Xô.
12. Nguyên văn : “Ê, Stakhanovich!” - Stankhnovich là tên một công nhân đạt danh hiệu anh hùng lao động toàn Liên Bang năm 1935,trở thành điển hình cho toàn quốc học tập. Phong trào Stankhanovich được nhân rộng rãi trong nhiều thập niên tại Liên Xô.
13. Mỗi Xa-gien bằng 2,134m
14.Hai người đang nói về phim Chiến hạm Potemkin của đạo diễn điện ảnh Xô Viết nổi tiếng Eizenstein thực hiện năm 1925. Phim nói về cuộc nổi loạn của thuỷ thủ trên chiến hạm Potemkin trong phong trào nổi dậy chống Nga Hoàng bất thành tại Nga năm 1905. Tác phẩm điện ảnh này đã trở thành cổ điển trong làng điện ảnh thế giới, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới trường phái điện ảnh hiện thực. Đây cũng là một trong những cuốn phim đầu tiên sử dụng kĩ xảo montage (cắt dán).
15.Iuri Zavadski (...) - nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng của Liên Xô.
Đào Tuấn Ảnh dịch
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM