Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:39:56 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những chặng đường đời  (Đọc 56719 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #70 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:36:19 pm »

Tôi rất mừng vì đối tượng mình tìm hiểu có lí lịch rõ ràng, lại là thành phần cơ bản, gia đình có truyền thống cách mạng. Tôi báo cáo với Chi bộ, Ban chỉ huy đại đội sơ bộ về lí lịch cô ấy, các anh đều rất mừng. Mấy ngày sau, hai chi đoàn có buổi sinh hoạt văn nghệ, cô ấy cũng có mặt, có lúc còn hát tặng bộ đội.

Một lần đi qua nhà, gặp bà Ngô Thị Thu đang nhổ củ mì (sắn), thấy đây là thời cơ thuận lợi, tôi chạy lại:

- Má để con nhổ cho!

Tối hôm ấy về, bà hỏi con gái:

- Có thằng bộ đội nào lại gọi tao bằng má, mày?

Khi đã tìm hiểu kĩ, các anh trong Ban Chỉ huy đại đội bàn với tôi: “Đơn vị đang chờ đến lượt ra Bắc, cô ấy đồng ý, cưới xong cũng xin đi tập kết luôn. Làm lễ cưới lúc này là thuận lợi nhất”. Thấy các anh nói có lí, điều kiện lại đang cho phép, tôi bàn với cô ấy tổ chức lễ cưới. Nghe tôi nói, cô ấy im lặng một lúc, mãi sau mới nói; “Để em hỏi ý kiến má và dượng đã”.

Khi được nhà gái đồng ý, đơn vị - đại diện cho nhà trai khẩn trương làm công tác chuẩn bị. Ngày 20 tháng 2 năm 1955, lễ cưới của chúng tôi diễn ra tại sân kho của xã rất vui. Chủ hôn là Chính trị viên phó đại đội Nguyễn Văn Nhi. Đám cưới của anh bộ đội vừa đi qua chiến tranh với cô thôn nữ chỉ có nước chè, kẹo bánh. Mới ngoài Tết, bà con biết tin chúng tôi làm lễ cưới, mang đến cho thịt lợn, bánh tét, bánh tổ, mứt bí, mứt gừng. Vợ chồng tôi lấy gian nhà kho của gia đình làm phòng hạnh phúc. Không có giường, chỉ có mây tấm ván mỏng xẻ ra từ thân cây xoài, đặt giữa nền nhà.

Sống với nhau được 3 ngày, tôi nhận lệnh vào Trung đoàn 93 đang đóng ở Tam Quan (Bình Định) nhận chức Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn hỏa lực và chuẩn bị đi tập kết. Xong nhiệm vụ, tôi trở về Mộ Đức để tiễn vợ xuống tàu tập kết ra Bắc. Hôm chia tay, cô ấy khóc sưng cả mắt. Tôi nén lòng dặn vợ:

- Em cứ yên tâm đi trước. Ra đến nơi anh sẽ tìm em ngay.

Vợ tôi nói trong dòng nước mắt:

- Đừng để lạc em nghe anh!

Những ngày trên đất Bắc, vợ tôi luôn mong tin tức của chồng. Mong ngóng, lo âu và thương nhớ làm cô ấy mất ăn mất ngủ. Tàu cập bến cảng Sầm Sơn hôm trước, hôm sau đã thấy cô ấy đến tìm tôi. Vợ chồng gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi.

Tuy sống trên miền Bắc, nhưng tôi luôn đóng quân xa nhà, thỉnh thoảng mới được về thăm vợ con. Cơ quan thương nghiệp nơi vợ tôi công tác chia cho gian nhà nhỏ trên gác hai ở số 6, phố Quán Thánh - Hà Nội. Đây là mái ấm hạnh phúc của vợ chồng tôi trong nhiều năm trên miền Bắc. Dưới mài nhà nhỏ này, 4 đứa con của chúng tôi lần lượt chào đời.

Hạnh phúc nhất của một đời người chính là những đứa con. Con cái là kết quả của tình yêu, hạnh phúc. Mỗi đứa con của vợ chồng tôi ra đời là một câu chuyện và là kỉ niệm ngọt ngào. Tháng 8 năm 1958, vợ tôi sinh con gái đầu lòng Mai Ngọc Dung. Hơn hai năm sau, tháng 11 năm 1960, con gái thứ hai Mai Thúy Hạnh chào đời. Lúc mới sinh ra Hạnh trông rất bụ bẫm, xinh xắn. Tháng 9 năm 1962, vợ sinh con trai, tôi bàn với cô ấy đặt tên là Mai Sơn Thủy. Sơn Thủy là từ ghép núi Ngũ Hành Sơn - một danh thắng của xứ Quảng và vùng quê sông nước nơi tôi sinh ra. Mỗi lân gọi tên con Mai Sơn Thủy, tôi lại nhớ quê hương. Nhiều người đến thăm nói con trai giống tôi như tạc.

Trước ngày lên đường về Nam chiến đấu, nhìn vợ bụng mang dạ chửa đứa con thứ tư tôi rất thương. Đêm trước ngày lên đường, vợ chồng tâm sự: “Em ráng chịu khổ để nuôi con. Khi sinh ra dù trai hay gái cũng lấy tên em đặt cho con. Theo anh tên con có hai chữ đầu là Mai Kiều. Tên của con sẽ ghi lại kỉ niệm những tháng năm gian khó, bảo đảm tình yêu và hạnh phúc của em lúc anh đi xa”.

Tháng 8 năm 1964, vợ tôi sinh con trai thứ tư và đặt tên Mai Kiều Hùng, nhưng mãi đến cuối năm 1965, khi đoàn thứ 3 của binh chủng (Đoàn 711) hành quân vượt Trường Sơn vào tăng cường cho Nam Bộ, tôi mới biết. Tin vui đến giữa chiến trường khiến tôi rất xúc động. Nhớ lại hôm trước khi lên đường vào chiến trường, vợ tôi đã động viên: “Anh giữ gìn sức khỏe cùng mọi người đi đến nơi, hoàn thành tốt nhiệm vụ, có điều kiện thư về cho mẹ con em. Còn việc nhà em sẽ lo liệu, anh cứ an tâm đi, rồi sẽ biết”.

Đóng quân ở Vĩnh Phúc, những lần từ đơn vị được về Hà Nội, nhà tôi vui như Tết. Chiều chiều, vợ chồng tôi dắt các con đi dạo trên đường Cổ Ngư, qua hồ Trúc Bạch, lên mạn Nghi Tàm, Nhật Tân, Quảng Bá. Hà Nội cổ kính, thanh bình và nên thơ. Có hôm vợ chồng con cái vòng qua Phan Đình Phùng, Điện Phiên Phủ, ngắm Quảng trường Ba Đình; Phủ Chủ tịch - nơi có Bác Hồ đang làm việc trong đó. Cũng không ít lần vợ chồng tôi vào đền Quán Thánh, thắp hương cầu cho người thân và nước nhà mau thống nhất.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #71 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:36:51 pm »

Là bộ đội, quanh năm tôi ở xa, việc nhà, nuôi con đều một mình vợ gánh vác, lo toan. Vợ tôi làm mậu dịch viên thuộc Sở Thương nghiệp Hà Nội; lúc làm ở số 10 Lê Lai, có dạo lại ở 76 Hàng Trống. Nhà ở số 6, Quán Thánh, gởi con lại ở 97 Hàng Gai, Bờ Hồ. Để bảo đảm giờ làm việc theo quy định nên mỗi buổi sáng vợ tôi phải thức dậy từ 3 giờ rưỡi, 4 giờ sáng, lo vệ sinh, cơm nước, rồi đánh thức các con dậy, lớn trước nhỏ sau.. Lo rửa mặt, thay quần áo, cho từng đứa ăn sáng, vác xe đẩy xuống sân rồi tay dắt, tay bồng đưa con ngồi vào xe. Mẹ đẩy xe từ số 6 Quán Thánh, đi qua vườn hoa Hàng Đậu đến phố Hàng Gài, bờ hồ Hoàn Kiếm khoảng ba bốn cây số. Vợ tôi tính sao để 6 giờ rưỡi sáng các con đã vào nhà trè, mẹ đến cơ quan cho kịp giờ làm việc. Đến trưa, khoảng 11 giờ rưỡi ăn cơm, mọi người tranh thủ nghỉ thì vợ tôi lại tất tả đến nhà trẻ với con nhỏ. Chiều hết giờ làm việc lại đến nhà trẻ đón con. Về đến nhà đã 5 - 6 giờ chiều, lại lo tắm rửa, ăn uống cho con xong rồi mẹ mới ăn và chơi với các con. Khi các con đi ngủ, mẹ lo dọn dẹp nhà cửa, tắm rửa, thường là ngoài 10 giờ, có khi 11 giờ đêm mới được đi ngủ.

Dường như thấu hiểu được nỗi vất vả của người mẹ, các con tôi đều khỏe, ngoan và chóng lớn. Đặc biệt là Hạnh, từ bé đã bám theo mẹ, ngồi chơi cũng ngồi bên mẹ. Mẹ thức bao nhiêu thì Hạnh cũng thức bấy nhiêu. Ngủ cũng nằm bên cạnh mẹ. Vì ngủ muộn nên sáng dậy nhiều lúc vợ tôi phải để cháu ngủ thêm, thức dậy sau cùng. Hạnh biết sớm, khi đi đường cũng đòi đi bộ và đẩy xe với mẹ, mẹ nói cũng không nghe, đến khi mỏi chân mới chịu lên xe. Hạnh chỉ sợ và nghe lời cô bảo mẫu.

- Cô dặn Hạnh, mẹ bảo ngồi lên xe là phải ngồi nghe chưa, nếu không nghe lời lên đây cô sẽ phạt.

- Dạ! Thưa cô con nghe rồi ạ!

Từ đó, Hạnh tự động lên xe ngồi không chờ mẹ bảo.

Khi còn đóng quân ở Vĩnh Phúc, thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật, tôi được về tranh thủ, thấy vợ tôi quá vất vả. Vừa lo công việc cơ quan, vừa nuôi dạy các con, người cô ấy gầy rộc đi. Lần nào được nghỉ thêm ngày thứ hai, tôi tranh thủ phụ giúp vợ chút ít. Gặp lúc khó khăn, các con ốm, vợ tôi chỉ biết nhờ cơ quan, chị em bè bạn. Bên nội ngoài tôi ra không còn ai đi tập kết. Bên ngoại, anh chị em có nhiều, nhưng mỗi người mỗi cảnh, chỉ có lời động viên thăm hỏi, còn việc nhà ai cũng neo đơn nên không giúp được gì nhiều.

Thế mà việc nhà chăm sóc con cái và bảo đảm công tác cơ quan, công tác đoàn thể, công tác xã hội, vợ tôi đều cố gắng vượt qua, việc nước, việc nhà đảm đang để chồng yên tâm chiến đấu ngoài mặt trận. Nhiều năm đạt danh hiệu phụ nữ “ba đảm đang”, được Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tặng Huy chương “Vì sự nghiệp phụ nữ”, Bộ Quốc phòng tặng bằng “Gia đình vẻ vang”, được Chủ tịch nước tặng Huân chương Kháng chiến chống Mĩ hạng Nhất.

Sau này các anh ở cùng cơ quan với vợ tổi kể lại, nhiều chị em trong cơ quan thấy cô Sửu chồng đi xa một thân một mình lo cho ba cháu còn nhỏ đã hết hơi, lại còn mang bầu nữa để làm gì? Hay làm theo chủ trương và chị em đã khuyên.

Vợ tôi nói trong dòng nước mắt: “Em nghĩ nhiều lắm, ba cháu ra chiến trường chưa biết ngày về, nay để mất cháu trong bụng thì tội nghiệp cho cháu và ba cháu lắm, các chị thương em với, em không đành bỏ con”.

Ngày ấy, bộ đội ta ở chiến trường hi sinh nhiều, có lúc vợ tôi cũng hoang mang. Những lá thư vợ tôi gửi vào chiến trường thường thất lạc, thư tôi gửi ra Hà Nội cũng ít khi đến được tay vợ tôi. Nhưng tình yêu, hạnh phúc đã làm tăng nghị lực để vợ tôi vượt qua, hoàn thành nhiệm vụ và chờ ngày tôi trở về.

Cuối năm 1973, tôi được cấp trên cử ra Bắc kết hợp an dưỡng và học tại Học viện Quân sự Hà Nội (nay là Học viện Quốc phòng). Biết tôi ở chiến trường đã lâu, các anh tạo điều kiện để tôi được mang tiêu chuẩn về nhà với vợ con. Buổi chiều hết giờ học, tôi đạp xe qua dốc Bưởi, theo đường Thụy Khuê đẻ về Quán Thánh. Vừa về đến nhà, các con tôi Mai Ngọc Dung và Mai Kiều Hùng chạy ra cửa ôm chặt lấy tôi: “Ba đã về!”. Nghe tiếng các con, được ôm chúng, tôi thấy không có niềm hạnh phúc nào bằng. Càng thương 2 đứa Mai Thúy Hạnh và Mai Sơn Thủy phải xa nhà, học ở Quế Lâm - Trung Quốc.

Một năm sống trên miền Bắc trôi nhanh như cơn gió. Đầu tháng 3 năm 1975, tôi tạm biết vợ con để trở lại chiến trường. Sáng hôm ấy các con tôi đòi: “Ba không đi, ở nhà với con”. Vợ tôi dỗ mãi, Mai Kiều Hùng mới chịu để tôi lên đường.

Sau ngày giải phóng miền Nam được ít lâu, Mai Thúy Hạnh và Mai Sơn Thủy từ Quế Lâm - Trung Quốc về nhà. Cấp trên tạo điều kiện cho tôi đưa vợ con từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Chuyến về Nam lần này có vợ chồng tôi, các con: Hạnh, Thủy, Hùng. Riêng Mai Ngọc Dung về sau vì đang học Đại học Ngoại thương (khóa 16, năm học 1975 - 1980).

Cơ quan chia cho gia đình tôi một căn hộ trong cư xá Lam Sơn. Niềm vui nước nhà thống nhất, vợ chồng sum họp, hạnh phúc dâng trào. Cuộc trường chinh mấy mươi năm của dân tộc trong đó có sự đóng góp bé nhỏ của mình giờ đã đơm hoa kết trái. Một hôm tôi nói với vợ:

- Các con đã lớn, mình sinh thêm đứa út ở Sài Gòn. Khi về già nó nuôi mình, nếu nó không nuôi được thì mình chăm sóc nó.

Tháng 10 năm 1976, cô con gái - niềm mong ước của vợ chồng tôi chào đời tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ chồng tôi đặt tên cho con là Mai Liên Hương, cả nhà gọi thân mật là út Sài Gòn.

Tại thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu những năm đầu giải phóng, ba anh em chúng tôi: Mai Đăng Dân, Mai Đăng Do (tôi) và Mai Đăng Hà có cuộc gặp mặt cảm động. Ba anh em đã trao đổi, bàn bạc nhiều việc và cuối cùng đã thống nhất tập trung vào xây dựng hệ thống từ đường của nội, ngoại tộc và của dòng họ Mai Đăng Lưu, Mai Đăng Nhạc. Cùng với hệ thống từ đường là quy tụ mồ mả gia tiên theo dòng họ và các vị tiền bối, hoàn thành cuốn Gia phả tộc Mai và Gia phả dòng họ.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #72 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:39:02 pm »

*

Tháng 12 năm 1997, với quân hàm Thiếu tướng - Phó Tư lệnh Quân khu 7, tôi được Đảng, Nhà nước, quân đội cho về nghỉ.

Hành trang lúc nhập ngũ là một nông dân, 18 tuổi đời không có văn hóa, không có nghề nghiệp, tôi chỉ có suy nghĩ và một quyết tâm: Nếu không chiến thắng giặc Pháp thì độc lập dân tộc và tương lai cũng mờ mịt:

Từ đó cho đến bây giờ
Quyết tâm theo Đảng cuộc đời đổi thay.

Hơn 52 năm trong quân ngũ, rèn luyện, chiến đấu, trưởng thành từ người chiến sĩ tôi được phong quân hàm cấp Tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 7, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân khu 7 và Tư lệnh Tăng - Thiết giáp Miền (B2) đã đi vào lịch sử Quân khu và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ một người nông dân “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, chữ nghĩa không biết, đi theo Đảng, Bác Hồ, trở thành một tướng lĩnh, có sắc phong của Nhà nước, trưởng thành có sự nghiệp vẻ vang. Đó là hạnh phúc.

Vợ chồng tôi có 5 con (3 gái, 2 trai) đều đã có gia thất; 2 dâu, 3 rể và có 9 cháu nội ngoại. Điều hạnh phúc nhất của ông bà là 5 con đẻ đều có gia đình và đều có nụ, có hoa xinh đẹp. Các cháu nội ngoại được nuôi dưỡng, dạy dỗ, học hành đang trên đà phát triển theo mong muốn mà đời ông bà chưa có điều kiện chăm sóc các con bằng các cháu ngày nay.

Ngày 20 tháng 5 năm 2005, các con đã tổ chức “Lễ cưới vàng” cho vợ chồng tôi. Mối tình của chúng tôi đi qua hơn nửa thế kỉ nay vẫn hạnh phúc.

Cả 5 người con đẻ của vợ chồng tôi đều có trình độ đại học và tương đương, thành đạt trong sự nghiệp; có hiếu với cha mẹ. Các con rể, dâu cũng đều là công dân tốt của thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.

Bà Trần Kiều Sửu không chỉ là người bạn đời, là ân nhân của tôi mà còn là ân nhân của cả dòng họ Mai Đăng. Công sức của bà đối với tôi và gia đình mãi mãi được dòng họ Mai Đăng Tân Lưu, phái ông bà Mai Đăng Hậu ghi nhận như là một trong những người con dâu nối nghiệp và tô thắm dòng họ.

Ngày 2 tháng 9 năm 2009, tôi vinh dự được nhận Huy hiệu “60 năm tuổi Đảng”. Nhờ ơn Đảng, tôi mới được như hôm nay.

Với Đảng - tôi trọn niềm tin yêu!

*

Năm 2010 có nhiều điều bất ngờ đến với tôi, vui buồn, lo lắng, xen lẫn tự hào. Hơn 20 năm nay tôi bị chứng tiểu đường, cũng gần chừng ấy năm bị tăng huyết áp. Tháng 8, căn bệnh tăng huyết áp vốn được kiềm chế bởi chế độ uống thuốc hằng ngày nay lại giở chứng, bất ngờ quật ngã tôi. Gia đình vội đưa tôi qua Bệnh viện quận 10 cấp cứu. Vì bệnh viện cách nhà chỉ vài trăm mét nên tôi được chữa chạy kịp thời, qua được cơn nguy hiểm. Hai hôm sau, tôi vào điều trị tại Bệnh viện Thống Nhất, đúng với tuyến khám, chữa bệnh của tôi theo bảo hiểm y tế. Sau 10 ngày điều trị sức khỏe của tôi mới ổn định.

Năm 2010, cả nước ta kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. đã là người Việt Nam dù ở xa Hà Nội ai cũng muốn có mặt tại Thủ đô trong những ngày trọng đại ấy. Với tôi, hai tiếng Hà Nội đã được biết tới từ ngày bắt đầu cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp trên chiến trường Khu 5. Ngày ấy, trong cánh lính trẻ đầu trần chân đất “đi lùng giặc đánh” đã chuyền tay nhau đọc bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ:

      Ai về Bắc ta đi với
      Thăm lại non sống giống Lạc Hồng
      Từ độ mang gươm đi mở cõi
      Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long…

Mải đánh giặc, 10 năm sau tôi mới đặt chân đến Thủ đô Hà Nội. Sau ngày tập kết ra Bắc theo Hiệp định đình chiến, cuối năm 1955 tôi mới được ra Hà Nội để chuẩn bị ra nước ngoài học tập. Từ đó, Hà Nội như một phần máu thịt của tôi. Bởi ở đó, trên con phố Quán Thánh, vợ chồng tôi được Nhà nước phân cho một ngôi nhà nhỏ. Dưới mái nhà nhỏ này, bốn người con của vợ chồng tôi đã chào đời. Đầu năm 1964, tôi tạm biệt Hà Nội để vào Nam chiến đấu. Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ vô cùng ác liệt, thiếu tốn đủ đường nhưng không lúc nào chúng tôi nguôi nỗi nhớ Hà Nội. Chúng tôi nghĩ về Hà Nội hồn thiêng sông núi, nơi đó có Đảng và Bác Hồ đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Mỗi khi nghe tin giặc Mĩ ném bom vào Hà Nội, những người lính trên chiến trường miền Nam chúng tôi thấy mình như bị xúc phạm. Sau mỗi lần bom Mĩ giội xuống Hà Nội, đơn vị lại phát động bộ đội chiến đấu lập công, trả thù cho Thủ đô Hà Nội. Vì thế, Hà Nội đối với tôi vô cùng thiêng liêng.

Tôi được Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh thông báo đi khám sức khẻo để tham gia chương trình “Thăng Long - Hà Nội hồn thiêng sông núi”. Đến Bệnh viện Nguyễn Tri Phương kiểm tra sức khỏe, bác sĩ kết luận tôi bị thiếu máu cơ tim do di chứng của tăng huyết áp. Tưởng không đi được với đoàn, tôi nói với vợ con sẽ ra Hà Nội một mình. Nhưng đến ngày gần cuối nhận tin báo có tên trong danh sách được đi, tôi mừng hết chỗ nói.

Chương trình hành quân “Thăng Long - Hà Nội hồn thiêng sông núi” do Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Tập đoàn Mai Linh và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức.

Đoàn xuất phát từ Đồng Tháp ngày 26 tháng 9 năm 2010. Ngày 27 tháng 9 năm 2010, tôi tham gia Đoàn đại biểu Anh hùng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các tướng lĩnh của Thành phố Hồ Chí Minh. Tối ngày 27 tháng 9 năm 2010, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có cuộc giao lưu, truyền hình trực tiếp với chủ đề: “Miền Nam Thành đồng Tổ quốc- Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến dự và phát biểu ý kiến rất cảm động.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #73 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:39:50 pm »

Đúng 7 giờ sáng ngày 28 tháng 9 năm 2010, sau lễ dâng hoa lên Tượng đài Bác, chúng tôi háo hức hành quân về Thủ đô Hà Nội. Đoàn của Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh có 54 người, gồm 10 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 24 Anh hùng lực lượng vũ trang, 5 Anh hùng Lao động và 15 tướng lĩnh. Trong đoàn có Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Sứ đã 86 tuổi.

Ngay từ đầu, chúng tôi đã được sự quan tâm của Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài việc cử bác sĩ đi theo để trực tiếp chăm sóc, phục vụ, Ủy ban nhân dân thành phố còn hỗ trợ mỗi thành viên trong đoàn 1 triệu đồng.

Hội Cựu chiến binh thành phố đã cử Trung tướng Đỗ Xuân Công - Ủy viên Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Phó Chủ tịch thường trực Hội Cựu chiến binh thành phố tham gia đoàn và làm Trưởng đoàn hành quân cánh cao nguyên.

Để bảo đảm sức khỏe cho các thành viên, Ban tổ chức đã thành lập hẳn một “Bệnh viện lưu động” với sự tham gia của 60 y, bác sĩ của Bệnh viên Quân dân y Đồng Tháp và Trung tâm Y tế Tập đoàn Mai Linh. Mỗi ngày, lực lượng điều dưỡng, y tế đều kiểm tra sức khỏe, thường xuyên hỏi han, dìu đỡ các cụ đi lại, ăn nghỉ.

Hôm sau chúng tôi ngược đường lên Tây Nguyên. Hơn 60 năm trước tôi đã đi trên những con đường này. Chỉ khác, ngày ấy tôi là anh lính bộ binh, đầu trần, chân đất, bí mật hành quân lên Tây Nguyên để lùng quân Pháp mà đánh. Còn bây giờ tôi đang đi với các Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh và các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Cánh Trường Sơn của chúng tôi có đại biểu các tỉnh: An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, đắc Nông, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng và Thành phố Hồ Chí Minh; hành quân qua các tỉnh: Bình Dương, Bình Phước, Đắc Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum theo quốc lộ 13, 14, vào đường Trường Sơn huyền thoại. Cánh Duyên hải hành quân qua các tỉnh Đồng Nai, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam theo đường quốc lộ 1. Cả hai cánh hợp nhất vào ngày 1 tháng 10 năm 2010 tại thành phố Đà Nẵng để cùng tiến về Hà Nội.

Trên chặng đường hành quân gần 800km, vượt qua nhiều đồi núi chênh vênh, nơi có những địa danh lịch sử, gắn liền với những chiến công hiển hách của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Đặc biệt là con đường Trường Sơn huyền thoại giờ đây đang được mở rộng, nâng cấp, trở thành con đường chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế của cả nước.

Đường mòn Trường Sơn đầu năm 1964 khi tôi hành quân vào Nam đánh giặc nay hầu như không còn dấu vết bởi thời gian và quá trình củng cố mở rộng. Thay vào đó là con đường rải nhựa phẳng lì, băng qua các bản làng trù phú với những ngôi nhà xây lợp ngói, lợp tôn màu đỏ tươi trông rất đẹp. Đường dây điện 500kV giăng mắc qua những ngọn núi là cho bản làng mới đẹp như một bức tranh của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trên suốt chặng đường hành quân qua các thị trấn, thị xã, thành phố cao nguyên, ở đâu chúng tôi cũng được chào đón trọng thị. Những lá cờ, khẩu hiệu chào mừng Đoàn làm ấm lòng chúng tôi trước khi về với Thủ đô yêu dấu. Mỗi điểm đoàn dừng chân đều tổ chức những buổi giao lưu giữa những người anh hùng với tuổi trẻ. Ngày 1 tháng 10, Ở Hà Nội diễn ra lễ khai mạc Đại lễ thì Đoàn chúng tôi có mặt tại thành phố Đà Nẵng, hôm sau ra Quảng Trị. Đoàn làm lễ cầu siêu cho các liệt sĩ tại Nghĩa trang Trường Sơn, viếng và thắp hương tại Nghĩa trang Đường 9. Tại thành phố Vinh - Nghệ An, tối 4 tháng 10, chúng tôi có buổi giao lưu cảm động với bà con quê hương Bác Hồ. Sáng ngày 5 tháng 10, Đoàn rẽ về Thái Bình để đón các Anh hùng, ăn vội bữa cơm trưa, chúng tôi khẩn trương hành quân đi Phú Thọ.

Sáng ngày 7 tháng 10, Đoàn đi bộ vượt 1.500 bậc đá, lên đền Thượng thắp hương tưởng nhớ các Vua Hùng. Bên tai tôi như vang lên tiếng Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Về với cội nguồn dân tộc, có lẽ nhờ sự phù hộ của các Vua Hùng đã cho tôi sức khỏe, tôi leo một mạch lên đến đỉnh núi Hi Cương.

Chiều ngày 8 tháng 10 năm 2010, hành quân về đến Hà Nội, Đoàn Thành phố Hồ Chi Minh được ở tại Học viện An ninh, trên đường Nguyễn Trãi, quận Hà Đông. Các cán bộ, thày cô giáo và học viên đón Đoàn rất trọng thị và thân tình. Tối hô đó, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mĩ Đình có buổi giao lưu khá cảm động.

Trong suốt cuộc hành quân đã có 7 đêm giao lưu và rất nhiều cuộc đón tiếp, chào mừng của lãnh đạo và nhân dân các địa phương đối với các đại biểu thật nồng nhiệt và xúc động, để lại những dấu ấn khó quên. Những đêm giao lưu, đặc biệt là với tuổi trẻ nơi đoàn đến có những nội dung, chủ đề rất ấn tượng, sâu sắc. đó là sự dặn dò của thế hệ đi trước gửi gắm cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó còn là niềm tự hào được vun đắp bởi lịch sử hào hùng mà nhân chứng chính là các Anh hùng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và các tướng lĩnh. Phải chăng đó cũng chính là một sự biểu hiện đậm nét của khối đại đoàn kết toàn dân không gì lay chuyển nổi. Đồng bào các dân tộc, nhất là tuổi trẻ được tiếp xúc với các nhân chứng nổi tiếng một thời, giúp họ cảm nhận sâu sắc hơn, tự hào hơn về truyền thống, về thế hệ cha ông đã làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc. Còn các anh hùng, tướng lĩnh thì càng thấy hơn trách nhiệm của mình trong nhiệm vụ truyền lửa, giúp thế hẹ trẻ tiếp nối truyền thống anh hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Sáng ngày 10 tháng 10 năm 2010, thời điểm chính của Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội sắp diễn ra, tôi càng hồi hộp, xen lẫn với niềm vui không sao tả xiết, khi được cùng Đoàn Mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng, các tướng lĩnh tiến vào Quảng trường Ba Đình lịch sử. Đoàn được ngồi ở khán đài C, tận mắt thấy toàn bộ quang cảnh của Đại lễ, trực tiếp nghe Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đọc diễn văn kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, được xem diễu binh và diễu hành của các khối quân đội và quần chúng. Cảm động và sung sướng xen lẫn bồi hồi, nhiều người trong đó có tôi không ngăn được dòng nước mắt.

Trải qua 1.000 năm lịch sử, Thăng Long - Hà Nội đã qua nhiều tên gọi, qua các thời đại nhưng bao giờ cũng là nơi hội tụ của hồn thiêng sông núi, của khí phác Việt Nam. Đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội vùng lên khởi nghĩa thành công, trở thành Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thăng Long - Hà Nội thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước của dân tộc.

*

Tôi được tham gia cuộc hành quân “Thăng Long Hồn thiêng sông núi” của các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động và các tướng lĩnh dự Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là một vinh dự rất lớn trong cuộc đời tham gia cách mạng của tôi; là niềm hạnh phúc hiếm có, là dấu ấn lịch sử của cuộc đời tôi khi đã ở lứa tuổi trên “Bát thập cổ lai hi” (84 tuổi). Thăng Long - Hà Nội chắc sẽ còn tổ chức Đại lễ kỉ niệm 2.000 năm, 10.000 năm và nhiều lần nữa. Nhưng với tôi, và cả những người đang sống trên đất nước Việt Nam hiện giờ thì đây là lần có một không hai cũng đã toại nguyện lắm rồi.

Tôi rất biết ơn những đơn vị đã nuôi dưỡng, xây dựng và tạo điều kiện để tôi hoàn thành nhiệm vụ. Tôi cảm ơn quê hương Hòa Hải Anh hùng đã hun đúc tôi từ một cậu bé đi ở đợ trở thành một quân nhân cách mạng tuyệt đối tung thành với Đảng, với Tổ quốc.

Tôi rất xúc động và biết ơn các đồng chí, đồng đội đã ưu ái dành cho tôi niềm vinh dự to lớn này. Vì vậy, vinh dự này không chỉ của riêng tôi.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #74 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:40:34 pm »

Phần thứ hai

TRONG LÒNG ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG ĐỘI VÀ GIA ĐÌNH

VỊ TƯỚNG CỦA BINH CHỦNG TĂNG - THIẾT GIÁP Ở NAM BỘ

Đại tá PGS.TS. Hồ Sơn Đài

1.

Một ngày cuối tháng giêng năm 2010, Thiếu tướng Mai Văn Phúc gửi cho tôi tập bản thảo hồi kí của ông với bức thư dài hai trang đánh máy khổ A4. Ông đề nghị tôi “xem và góp ý bổ sung”, đồng thời “biết một bài”. Là người nghiên cứu lịch sử quân sự, từ lâu, tôi vẫn ao ước tát cả vị tướng trưởng thành trong chiến tranh ở Nam Bộ - địa bàn tôi công tác - đều có hồi kí. Trong điều kiện công tác lưu trữ tư liệu và chất lượng các công trình sử học về chiến tranh còn những bất cập, hồi kí là một bổ khuyết quan trọng. Nó không hoàn toàn khách quan nhưng sinh động và dễ đi vào lòng người. Tuy nhiên, không phải ai cũng có được hồi kí. Ở Nam Bộ, trừ những vị tướng là nhà văn như Bùi Cát Vũ, Nguyễn Văn Kiệp, Phạm Hoài Chương... còn lại rất ít người tự viết lại đời mình. Họ ra đi, mang theo bí mật về cuộc chiến tranh vệ quốc mà họ là một bộ phận hợp thành, một nhân chứng không thể thay thế. Trong tâm thế ấy, tôi trân trọng đọc hồi kí của Thiếu tướng Mai Văn Phúc, và đến khi gấp lại trang bản thảo cuối cùng thì nhận ra rằng, cuốn sách của ông thật đầy đủ và sinh động, dường như chẳng biết còn gì để “góp” và “viết” nữa. Tôi sẽ chỉ kể ra sau đây điều tôi vừa hiểu rõ hơn về đường đi của bộ đội tăng - thiết giáp ở Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ mà Thiếu tướng Mai Văn Phúc là một trong những người gầy dựng nên nó.

2.

Trong kháng chiến chống Pháp, ở Nam Bộ, chưa có xe tăng - thiết giáp nên chưa có bộ đội tăng - thiết giáp. Trong kháng chiến chống Mĩ, cho đến năm 1964 cũng vây. Khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ dần đi vào ngõ cụt, Washington rục rịch chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, mở rộng phạm vi đánh phá ra miền Bắc, đưa quân chiến đấu cùng với vũ khí trang bị tối tân vào miền Nam, đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên cường độ cao. Quân ủy và Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam chủ trương xây dựng các đơn vị chủ lực và hỏa lực mạnh. Nhu cầu tác chiến hợp đồng binh chủng cần có xe tăng, thiết giáp.

Với phương châm “xe chưa xuất trận được thì người xuất trận trước”, Quân ủy Trung ương chủ trương đưa cán bộ chiến sĩ tăng - thiết giáp vào chiến trường miền Nam. Các sư đoàn 330, 338 tuyển chọn cán bộ chiến sĩ quê miền Nam tổ chức thành hai đại đội (phiên hiệu 46A, 46B) đưa về Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 202 (Trung đoàn tăng - thiết giáp đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày 5-10-1959) để huấn luyện kĩ chiến thuật tăng - thiết giáp. Cuối năm 1963, kết thúc khóa huấn luyện, Đại đội 46A được điều về chiến trường Trung Bộ, Đại đội 46B được điều về chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, gọi là chiến trường B2. Tiếp đó tháng 4-1964, Bộ Quốc phòng cử thêm một đoàn cán bộ của Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 202 vào Nam Bộ (mật danh Đoàn 613). Thiếu tá Mai Văn Phúc, một trong 36 cán bộ được đào tạo tại Trường Sĩ quan Xe tăng số 1 Bắc Kinh - Trung Quốc) có mặt trong Đoàn. Và tháng 11 năm ấy, Đoàn 613 hợp với Đại đội 46B thành lập thành Ban Cơ giới Miền (phiên hiệu B.16), do Mai Văn Phúc làm Trưởng ban.

B.16 là cơ quan binh chủng đầu tiên tại chiến trường B2. Chưa có xe tăng - thiết giáp, nhiệm vụ của B.16 là nghiên cứu cấu tạo, tính năng kĩ chiến thuật tăng - thiết giáp của địch để làm tham mưu cho bộ binh xây dựng phương án tác chiến, xây dựng lực lượng tăng - thiết giáp tại chỗ, chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đón nhận người và xe tăng - thiết giáp từ hậu phương miền Bắc chuyển vào. B.16 còn có nhiệm vụ nghiên cứu cách thức đánh đặc công để đoạt xe địch nên tổ chức một trung đội đặc công - cơ giới. Trung đội đã tham gia cùng lực lượng bộ binh chiến đấu trong chiến dịch Bình Giã, góp phần phá hủy nhiều xe cơ giới, xe tăng của địch.

Tháng 12 năm 1964, Bộ Quốc phòng cử tiếp đoàn cán bộ tăng - thiết giáp thứ ba từ Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 202 vào Nam Bộ. Đoàn gồm 40 người có đủ cán bộ trung đội, trưởng xe, pháo thủ, lái xe (phiên hiệu Đoàn C.15). Vào đến chiến trường B2, C.15 nhập với Trung đội Đặc công - Cơ giới của B.16 để thành lập Đại đội Cơ giới Miền (phiên hiệu C.40). Nhiệm vụ của C.40 là nghiên cứu cách đánh đặc công để đoàn xe địch đánh địch. Tham gia chiến dịch Đồng Xoài, C.40 không lấy được tăng - thiết giáp của địch nhưng thu gom chiến lợi phẩm được 17 xe cơ giới, tổ chức thành hai trung đội vận tải phục vụ chiến đấu trên các chiến trường.

Tháng 7-1965, Bộ Quốc phòng điều tiếp một đoàn cán bộ, chiến sĩ tăng - thiết giáp gồm 228 người (phiên hiệu Đoàn 711) vào chiến trường Nam Bộ. Đoàn 711 nhập chung với Ban Cơi giới Miền (B.16) và Đại đội Cơ giới 40 thành Đoàn Cơ giới Miền (phiên hiệu J.16), do Mai Văn Phúc làm Đoàn trưởng kiêm Chính ủy. J.16 có thành công tương đương trung đoàn gồm Ban Chỉ huy, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và bốn đại đội 15, 23, 46, 40. Vẫn chưa có xe tăng, thiết giáp, J.16 phối hợp với đặc công tham gia các trận tập kích lên Liên trường võ bị Thủ Đức và các trận chống càn trong mùa khô 1965 - 1966. Đặc biệt trong trận đánh Thiết đoàn số 1 của quân đội ngụy tại Gò Đậu - Bình Dương, Đoàn đoạt được 1 xe tăng Mĩ M41-A1 đưa về căn cứ làm giáo cụ trực quan huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ.

“Đoạt xe địch đánh địch” trở thành phương châm hành động của Đoàn Cơ giới Miền. Muốn đoạt được xe địch cần phối hợp cách đánh của đặc công. Tháng 4-1967, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sáp nhập Đoàn Đặc công (phiên hiệu B.18) vào Đoàn Cơ giới Miền thành Đoàn Đặc công - Cơ giới Miền (vẫn giữ phiên hiệu J.16, gọi là J.16 Đặc - Cơ). J.16 Đặc - Cơ do Nghiêm Xuân Đẩu làm Chỉ huy trưởng và Mai Văn Phúc làm Chính ủy. Vẫn bằng lối tác chiến của đặc công, J.16 Đặc - Cơ liên tiếp tham gia tiến công địch ở Hớn Quảng, Đồng Dù, Lai Khê, Kà Tum, Dầu Tiếng, Trảng Lớn, núi Bà Đen trong mùa khô 1966 - 1967 và năm 1968. Tháng 2-1969, J.16 Đặc - Cơ được bổ sung lực lượng từ miền Bắc vào, đổi thành Trung đoàn Đặc công 429, do Nguyễn Văn Thọ làm Trung đoàn trưởng, Mai Văn Phúc làm Chính ủy. Gọi là Trung đoàn đặc công, nhưng phần đông cán bộ, chiến sĩ vẫn là bộ đội tăng - thiết giáp.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #75 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:41:17 pm »

Từ sau cuộc đảo chính của Lonol (3-1970), vùng giải phóng ở Campuchia dọc biên giới Việt Nam được mở rộng, lực lượng tăng - thiết giáp được Trung ương chi viện từ miền Bắc vào ngày một nhiều hơn. Các đơn vị tăng - thiết giáp tại chỗ thu được nhiều xe tăng - thiết giáp của địch. Tháng 7-1971, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập Phòng Cơ giới (phiên hiệu M.26) làm nhiệm vụ bảo đảm kĩ thuật cho lực lượng cơ giới B2. Đầu mùa mưa năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam mở đợt tiến công chiến lược trên nhiều hướng chiến trường, trong đó có Chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông Nam Bộ. Nhu cầu đánh lớn có sự tham gia của xe tăng, thiết giáp đặt ra cấp thiết. Tháng 5-1972, Bộ Tư lệnh Miền ra quyết định thành lập Đoàn Cơ giới Miền trên cơ sở hợp nhất Phòng Cơ giới (M.26) và các đơn vị tăng - thiết giáp đang có mạt trên chiến trường Đông Nam Bộ. Đoàn Tăng - Thiết giáp Miền (phiên hiệu 26) có tổ chức tương đương cấp sư đoàn, một binh chủng quan trọng của Quân Giải phóng miền Nam. Chính ủy Đoàn Pháo binh Biên Hòa Mai Văn Phúc quay trở về Đoàn 26, giữ cương vị Tư lệnh kiêm Chính ủy.

Ngay sau ngày thành lập, Đoàn 26 không ngừng lớn mạnh, tham gia nhiều trận đánh, chiến dịch trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, góp phần giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, đánh địch phá hoại Hiệp định Paris, tạo thế tạo lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đến tháng 3-1975, lực lượng thực binh của Đoàn đã có 7 tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp chiến đấu với 320 chiếc, 1 tiểu đoàn huấn luyện, 1 tiểu đoàn công binh, cùng các đơn vị vận tải, thông tin, bảo đảm khác. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh, Đoàn Tăng - Thiết giáp 26 (gồm 9 tiểu đoàn và nhiều đại đội, trung đội làm nhiệm vụ bảo đảm) được tổ chức thành ba bộ phận: một bộ phận biên chế thành Lữ đoàn Tăng - Thiết giáp 22 chuyển về Quân đoàn 4, một bộ phận thành Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 24 chuyển về Quân khu 9 (nay là Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 416) và bộ phận còn lại biên chế thành Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 26 chuyển về Quân khu 7. Tư lệnh Đoàn Tăng - Thiết giáp Miền Mai Văn Phúc chuyển sang làm nhiệm vụ khác.

3.

Có thể thấy rằng, đường đi của bộ đội tăng - thiết giáp ở Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ trải qua hai giai đoạn khác nhau:

Từ năm 1964 đến năm 1971 là giai đoạn chỉ có người mà chưa có xe, cán bộ chiến sĩ tăng - thiết giáp Nam Bộ vẫn xây dựng lực lượng, vừa tổ chức nghiên cứu xe tăng thiết giáp của Mĩ, làm tham mưu cho Bộ Chỉ huy Miền về phương án chống chiến thuật “Thiết xa vận” của địch, chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng tác chiến binh chủng khi được trang bị xe. Đồng thời, bộ đội tăng - thiết giáp (trong đội hình các đơn vị đặc công, pháo binh) đã sát cánh cùng bộ binh trong hầu hết các trận đánh, chiến dịch quan trọng của Quân Giải phóng miền Nam, ở hầu khắp các chiến trường Đông Nam Bộ như Hớn Quản, Phước Vĩnh, Dầu Tiếng, Đồng Dù, Trảng Lớn, núi Bà Đen, Kà Tum, Gò Đậu, Thủ Đức, ngã ba Bà Chiêm, trại Phù Đồng, sân bay Tân Sơn Nhất... Họ đã hành quân bộ, dũng cảm, mưu trí, kiên cường chiến đấu như những đơn vị bộ binh, những đơn vị đặc công thực thụ.

Từ năm 1972 đến năm 1975 là giai đoạn bộ đội tăng - thiết giáp được là “bộ đội tăng - thiết giáp”. Từng tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp vượt hàng ngàn cây số cán xích trên đất miền Đông Nam Bộ, cộng với số xe tăng, thiết giáp đoạt được của địch trong các trận đánh, chiến dịch tại chỗ thực hiện đã đặt cơ sở cho sự ra đời binh chủng tăng - thiết giáp Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Những cán bộ, chiến sĩ tăng - thiết giáp ở Nam Bộ, giờ đây được “trở lại mái nhà xưa”, không chạy bộ đánh xe tăng địch bằng cách đánh đặc công nữa, mà cưỡi xe tăng chiến đấu hợp đồng binh chủng với vai trò lực lượng đột kích quan trọng. Và họ là bộ phận hợp thành không thể thiếu trong chuỗi thắng lợi của lực lượng vũ trang ở miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ từ chiến dịch Nguyễn Huệ, chiến dịch đường 14 - Phước Long, chiến dịch Xuân Lộc đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Hai giai đoạn khác nhau về tổ chức lực lượng và cách thức hoạt động, nhưng cùng chung một quá trình phát triển. Quá trình ấy phản ánh đặc thù của chiến tranh cách mạng Việt Nam nói chung, đặc thù của bộ đội tăng - thiết giáp ở Nam Bộ nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong giai đoạn trước năm 1972, dù chưa có xe và được phân bổ trong các đơn vị binh chủng khác, bộ đội tăng - thiết giáp vãn ra trận với tư thế người lính xe tăng, nghiên cứu xe tăng địch, đoạt xe địch để huấn luyện cách đánh địch và tích lũy kinh nghiệm, chuẩn bị tinh thần, vật chất cho giai đoạn có xe tăng - thiết giáp. Nó là giai đoạn khởi đầu không thể thiếu, không thể tách rời, là một phần của lịch sử bộ đội tăng - thiết giáp ở Nam Bộ, của binh chủng tăng - thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam.

Là người được đào tạo cơ bản về xe tăng, có mặt từ những ngày đầu xây dựng binh chủng tăng - thiết giáp là một trong những cán bộ xe tăng đầu tiên vào chiến trường Nam Bộ, người đứng đầu lực lượng tăng - thiết giáp, hoặc chỉ huy trưởng, hoặc chính ủy hoặc cả hai, dù có lúc được điều chuyển sang đơn vị binh chủng khác, Thiếu tướng Mai Văn Phúc vẫn là người của tăng - thiết giáp. Quãng đời chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của ông gắn liền với bộ đội tăng - thiết giáp Nam Bộ; lịch sử bộ đội tăng - thiết giáp Nam Bộ ghi tên ông như một vị tư lệnh xuyên suốt từ đầu đến cuối, mẫu mực, tận tụy, thủ chung. Nhìn lại toàn bộ thời gian 50 năm tại ngũ, ông vẫn cho rằng những ngày chiến đấu ở chiến trường Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Mĩ là quãng thời gian thăng hoa nhất, hùng tráng nhất của cuộc đời ông. Sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, dù giữ các trọng trách khác (tại Cục Xây dựng Kinh tế, Cục Quản lí xe máy, Binh đoàn 23, Cục Kĩ thuật, Bộ Tư lệnh Quân khu) và cả lúc đã hưu trí, ông vẫn nặng lòng với bộ đội tăng - thiết giáp, giành nhiều thời gian cho việc đề nghị khen thưởng, sưu tập hài cốt liệt sĩ, gặp mặt cựu binh xe tăng... Ông đôn đáo đi xin đất ở nghĩa trang để xây bia tưởng niệm cho 358 liệt sĩ tăng - thiết giáp Đông Nam Bộ chưa tìm được hài cốt...

Trên quân hàm của Thiếu tướng Mai Văn Phúc, ông luôn muốn gắn duy nhất phù hiệu binh chủng tăng - thiết giáp. Ông là vị tướng của bộ đội tăng - thiết giáp ở Nam Bộ!
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #76 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2014, 07:37:23 am »

NGƯỜI BẠN TÂM GIAO, NGƯỜI ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG ĐỘI ĐÁNG KÍNH

Phan Quang Phạm

Tôi và anh có chung những “bốn cùng”, đều là đồng hương xứ Quảng, “anh Quảng Nam hay cãi, tôi Quãng Ngãi hay co”. Cùng nhập ngũ năm 1947, chung một tiểu đội và sau mấy chục năm vào sinh ra tử, hòa bình lập lại chúng tôi lại cùng đứng bên nhau nhận Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng tại Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân khu 7, tháng 11-1989.

Ngày mới nhập ngũ, tôi và anh cùng được phân về Tiểu đội Liên Trinh (Liên lạc - Trinh sát) thuộc Đại đội cảm tử Quảng Nam - Đà Nẵng đóng quân ven thị xã Tam Kì. Lúc ấy anh thường”đóng bộ” một chiếc quần đùi cũn cỡn và cái áo bà ba có hai túi bằng vải ta rong ruối khắp hàng quân trong huấn luyện và sinh hoạt. Chính vẻ hoạt bát, nhanh nhẹn song lại chân chất, vị tha ấy đã khiến anh được cấp trên, đồng đội và những người dân nơi anh đóng quân hết lòng yêu mến. Mỗi lần đơn vị tổ chức sinh hoạt tập thể, có biểu diễn văn nghệ, anh lại thường xung phong nghêu ngao bài tủ: Cây xanh xanh / Lá xanh xanh / Rừng xanh xanh mà lâu rồi tôi không nhớ, đại để cái gì cũng xanh tươi như ước vọng của anh vậy.

Kí ức về anh trong tội là một người lính với nghị lực phi thường. Nhà nghèo, ít học, từ một anh linh mới qua lớp 2 trường làng, với tinh thần cầu tiến, anh đã nỗ lực hoàn thành xong chương trình lớp 10 rồi trải qua các khóa huấn luyện gai góc ở Trường Sĩ quan Xe tăng số 1 Trung Quốc, tốt nghiệp lớp tập huấn Phó Tư lệnh kĩ thuật cấp quân khu ở Liên Xô và các học viện trong nước. Có tài ứng đối nhanh và khá nhạy bén tình hình - những tố chất cần thiết đối với một người cầm quân tinh nhuệ. Anh đã tham gia và chỉ huy nhiều trận đánh, đặc biệt trận tấn công đồn Thu Bồn, anh cải trang thành dân đi xâu, lận súng, lựu đạn cùng đồng đội xông vào tiêu diệt đòn địch giữa ban ngày, thu toàn bộ vũ khí, bắt nhiều tù binh.

Sau Hiệp định đình chiến 1954, trước khi tập kết ra Bắc, tôi và anh gặp lại nhau sau 6 năm xa cách.

Lúc bấy giờ anh là Đại đội trưởng Đại đội đột phá huấn luyện quân sự của tiểu đoàn 39 thuộc Trung đoàn 80, còn tôi là cán bộ tác huấn của Ban Tham mưu Trung đoàn, tổ chức một bộ phận xuống nắm tình hình huấn luyện của đơn vị anh. Lại một lần nữa được trực tiếp làm việc, tôi thấy anh rất bản lĩnh, trong huấn luyện lúc nào cũng đạt kết quả tót, chỉ huy đơn vị khá nền nếp, kỉ cương.

Đặc biệt, trong thời gian anh đóng quân gần thị trấn Đồng Cát, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, một gia đình địa phương cảm mến người sĩ quan tuổi trẻ, đẹp trai, đánh giặc mưu trí, kiên cường nhưng tính tình hiền lành, chất phác đã gả con gái cho anh và một đám cưới đơn giản nhưng ấm tình đồng đội, tình quân dân cá nước đã diễn ra trước sân nhà cô vợ trẻ. Chú rể giản dị trong bộ quân phục, còn cô dâu cũng chỉ có mỗi chiếc áo dài đen, cùng nhau đi khắp lượt mời hai họ ăn bánh, uống trà trong tiếng vỗ tay chúc mừng rôm rả.

Sau ngày tập kết ra Bắc, chúng tôi bặt tin nhau.

Năm 1963, tôi trở lại chiến trường miền Nam, một năm sau đến lượt anh vượt Trường Sơn vào tuyến lửa. Nhưng mãi đến năm 1969, hai anh em mới gặp lại nhau trong Hội nghị tổng kết tác chiến Đặc công Tết Mậu Thân 1968. Lúc bấy giờ anh là chỉnh ủy Trung đoàn Đặc công 429 thuộc Miền, còn tôi là Đoàn trưởng Đoàn Đặc công T10 (Khu 10) về dự hội nghị.

Ngày ấy chiến trường T10 gian khổ, khó khăn lắm, thấy quần áo tôi sờn cũ, tối đến, anh mang tới tặng tôi một chiếc quần dài. Ông bà ta bảo “của cho không bằng cách cho”, sự quan tâm của anh đã khiến tôi vô cùng xúc động vì anh cũng có lành lặn gì cho cam!

Gặp gỡ rồi lại xa nhau, đến năm 1970, anh trở thành Chính ủy Lữ đoàn, còn tôi từ T10 về nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Lữ đoàn Đặc công 429. Khi cuộc kháng chiến chống Mĩ ở vào giai đoạn ác liệt nhất trên chiến trường miền Đông Nam Bộ và cực nam Trung Bộ (B2) anh chuyển về làm Chính ủy Đoàn Pháo binh Biên Hoa. Pháo binh Miền đã thành lập từ năm 1960 và lực lượng tăng - thiết giáp hình thành sau đó 4 năm. Lúc đầu đã có gì đâu, đành nghĩ ra cách lấy xe địch đánh địch. Mãi đến năm 1971 khi trên thông báo sẽ đưa xe tăng từ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam để tăng cường sức tấn công của Quân giải phóng, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam chủ trương điều động cán bộ từ Đoàn Pháo binh Biên Hòa về đoàn tăng - thiết giáp, anh được cấp trên tin tưởng giao chức Đoàn trưởng kiêm Chính ủy đơn vị này. Và người Bí thư Đảng ủy Đoàn đầy bản lĩnh ấy đã lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc nghị quyết đại hội năm đó: “Đoàn pháo binh xung kích, đánh giỏi, bắn trúng, toàn năng, khoa học, sáng tạo, tự lực tự cường”. Đến tháng 8-1972, anh trở thành Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 26 tăng - thiết giáp Miên, đơn vị đã khiến quân thù bạt vía kinh hồn về hỏa lực của mình khi mới xuất hiện trên chiến trường.

Năm 1997, anh được nghỉ hưu, trở về cuộc sống đời thường. Được sự nhất trí của đồng đội cũ, anh và tôi cùng một số đồng chí nữa đứng ra thành lập Ban Liên lạc truyền thống Cựu chiến binh Bộ đội Đặc công miền Đông Nam Bộ tổ chức gặp gỡ, động viên, thăm hỏi nhau những lúc ốm đau hay khi hữu sự Mỗi lần như thế anh lại trăn trở rất nhiều trước hoàn cảnh khó khăn của thân nhân những người ngã xuống và luôn tạo điều kiện giúp đỡ các đơn vị tìm hài cốt đồng đội còn đang nằm đâu đó trong lòng Đất Mẹ.

Với tôi, trọn một đời, anh mãi là người bạn tâm giao, người đồng chí, đồng đội đáng kính!
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #77 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2014, 07:38:12 am »

THEO VẾT XÍCH XE TĂNG

Thịnh Phát

Thiếu tướng Mai Văn Phúc tiếp tôi tại nhà riêng. Ông với tay lấy một quả quýt, bóc vỏ, tách làm đôi rồi đưa tôi, gọng ân cần: “Anh ăn đi rồi ta chuyện trò”. Cử chỉ thân mật ấy khiến tôi cảm thấy ông thật gần gũi. Thảo nào, đồng đội thường gọi ông bằng một cái tên thật thân tình và giản dị: Anh Năm.

Hơn nửa thể kỉ khoác áo lính nhưng có lẽ ông có nhiều kỉ niệm nhất với Binh chủng Tăng - Thiết giáp. Ông là một trong số 202 người đầu tiên được gửi đi đào tạo xe tăng tại Trung Quốc. Ngày 5 tháng 10 năm 1959, Trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm 3 tiểu đoàn được thành lập mang phiên hiệu Trung đoàn 202. Mai Văn Phúc là một trong 3 tiểu đoàn trưởng đầu tiên đó. Ngày 19 tháng 4 năm 1964, ông cùng cán bộ kĩ thuật Lâm Kim Chung là hai chiến sĩ đầu tiên xung phong vào miền Nam để tìm hiểu chiến trường và xây dựng lực lượng tăng - thiết giáp Quân giải phóng miền Nam. Vào tới căn cứ của Bộ Chỉ huy Miền, ông nhận nhiệm vụ thành lập Ban Cơ giới Miền phiên hiệu B16 cùng với một trung đội cơ giới. Đó là đơn vị chuyên nghiên cứu xe tăng, thiết giáp của địch vừa để giúp công tác chỉ huy và tác chiến của ta, vừa để tìm hiểu khả năng sử dụng tăng, thiết giáp tại chiến trường B2 đồng thời tiến hành huấn luyện cách thức đoạt xe địch để đánh địch và xây dựng lực lượng xe tăng, thiết giáp của ta. Nhớ lại những năm tháng đó, Tướng Mai Văn Phúc như sống lại một thời trai trẻ đầy khó khăn thử thách nhưng cũng thật hào hùng, giọng ông trở nên sôi nổi.

- Cái độc đáo của bộ đội ta là từ tay không mà đánh địch, cướp xe của chúng để xây dựng lực lượng tăng - thiết giáp tại chỗ, phát huy tinh thần tự lực tự cường của quân dân Nam Bộ. Cuối năm 1965, đơn vị B16 tổ chức lại thành đơn vị Đặc công Cơ giới đổi tên thành J16 nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và đoạt xe của địch. Từ đó, những đơn vị xe tăng đầu tiên đã ra đời, đã lớn mạnh không ngừng. Đi từ Chiến dịch Nguyễn Huệ (mùng 7 tháng 4 năm 1972), tiêu diệt Chiến đoàn 9 và Thiết đoàn 52 ngụy, giải phóng Lộc Ninh, lập nên Thủ đô kháng chiến của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam cho tới Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng - 30 tháng 4 năm 1975.

Trận đánh đầu tiên của J16 là tấn công Trung đoàn tăng - thiết giáp số 1 của địch tại căn cứ Gò đậu (Phú Cường - Bình Dương), diễn ra ngày 23 tháng 3 năm 1966, đưa được về căn cứ 1 xe M41. Đây là chiến lợi phẩm vô cùng quý giá, phải đổi bằng xương máu của cán bộ, chiến sĩ J16. Trong gần 3 năm sau đó, J16 đã huấn luyện được 150 chiến sĩ biết lái xe tăng địch, sử dụng súng pháo, điện đài, đèn hồng ngoại. Ngoài ra, gần 300 lượt cán bộ, chiến sĩ tham quan, tìm hiểu chỗ mạnh, chỗ yếu của xe tăng địch, rút ra những bài học để chống lại chúng. Đơn vị J16 ngày càng vững mạnh và phát triển, sau này tách ra trở thành tiền thân của Trung đoàn 429 Đặc công và cũng là tiền thân của bộ đội tăng - thiết giáp Miền.

Khi được hỏi về cuộc sống riêng, ông cười sáng khoái và chìa tay về phía bà Trần Kiều Sửu, nhường lời cho người ạn đời, “hậu phương vững chắc” của ông trong suốt 50 năm qua. Bà nói:

- Chúng tôi kết hôn đầu năm 1955 sau khi tập kết, nhưng chỉ ở với nhau được 3 ngày rồi ông ấy lên đơn vị. Suốt mấy chục năm chiến tranh, không biết chúng tôi cả thảy có ở được với nhau vài tháng không. Tôi sinh bốn đứa con ở miền Bắc. Sau bảy lăm chúng tôi chuyền vào đây, sinh thêm một cháu gái. Bao nhiều năm ông ấy xa nhà tôi cũng quen một mình nuôi con, vẫn làm việc cho đến tuổi về hưu.

Được biết bà từng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mĩ cứu nước hạng Nhất, Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam tặng Huy chương và Huy hiệu “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ”, nhiều bằng khen, giấy khen của Bộ Quốc phòng. Ông nói thêm: “Những năm gần đây có thể xem là hạnh phúc nhất, con cháu trưởng thành cả. Còn với đồng đội, phấn khởi nhất là đã có hướng giải quyết bia mộ tại Nghĩa trang Thành phố cho hơn 300 chiến sĩ xe tăng đã hy sinh”. Thế là ông hào hứng kể với tôi những chuyến đi tìm mộ liệt sĩ ở những chiến trường xưa, về dự án xây dựng bia mộ cho họ. Về hưu đã lâu, nay ông đã ở tuổi ngoại “bát tuần”, anh Năm vẫn luôn hết lòng hết dạ với đồng đội của mình, như khi nào cũng chia nhau một lá rau cải trong bát canh, hay những câu chuyện tâm tình hàn gắn hạnh phúc cho gia đình một người đồng đội. Theo vết xích xe tăng trên khắp chiến trường Nam bộ, ở đâu cũng thấy có đóng góp của anh Năm. Có thể nói cuộc đời và số phận ông gắn bó với từng bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng. Những danh hiệu và những phần thưởng cao quý mà Nhà nước và Quân đội trao cho ông cũng như tình cảm trân trọng và quý mến của đồng đội mà tôi có dịp gặp gỡ đã khẳng định một chân dung, một nhân cách của anh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #78 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2014, 07:39:20 am »

MỘT ĐÊM VỚI PHƯỚC LONG

Nhà văn Trần Công Tấn

Ba ngày ngồi xe trên một con đường bụi đỏ mù trời, lắc lư rã rời với những ổ gà, đá cục. Chúng tôi đến với Hớn Quản, Bù Đốp qua sóc Bom Bo, đến với rừng cao su Phú Riềng, Phước Long. Xe qua vùng làng Mười, qua Ngã ba thằng Tây. Nơi phu cao su vùng dậy lập chi bộ Đảng Cộng sản biểu tình chiếm lại đồn điền; nơi người dân tộc S’Tiêng chém đầu Tây chủ sở, Tây quận trưởng; nơi những trận đánh quyết liệt của quân ta diệt giặc Pháp ở Thác Mơ, diệt giặc Mĩ trên núi Bà Rá hay trong thị xã Phước Long…

Lịch sử với những địa danh nổi tiếng ngổn ngang rạo rực trong tôi. Nhưng ta hãy gác lại những chuyện cũ. Bây giờ đây chúng tôi đang tìm đến với những chiến sĩ chiến sĩ đánh giặc năm nào, hiện đang quy tụ về đây để khai hoang, vỡ đất, ươm hạt cây cao su mong làm ra những rừng cao su, làm ra những dòng nhựa trắng được gọi là vàng trắng cho Tổ quốc.

Chiếc xe chồm lên lắc lư dữ dội. Chúng tôi bíu chặt thành xe. Bùi Văn Lạc, Giám đốc Nông trường 8, người hướng dẫn chúng tôi, xuýt xoa như có lỗi:

- Đoạn đường này chưa làm xong. Các anh chịu khó một chút, đến chỗ rẽ vào C12 là hết sóc.

- Không hề gì. - Tôi nói để Lạc yên tâm - Trước kia chúng tôi cũng là lính, đi đường xấu quen rồi.

- Thế này đã là khá lắm. - Lạc vui vẻ kể - Cái hồi đơn vị tôi mới về đây, làm gì có đường. Hành quân đến, phải tự “xoi rừng” mà “đứng chân”. Tự tìm nguồn nước uống, rồi mang bao đi gùi lấy gạo, thật chẳng khác nào hồi đang đánh Mĩ. Có những nơi rừng rậm qua, phải dùng máy húc MTZ húc vào lấy chỗ mà ở.

Chuyện của Lạc đang dở thì xe đã rẽ vào con đường đất đỏ bằng phẳng. Một thời cây xanh thẳng tắp bày ra trước mắt chúng tôi.

Lạc giới thiệu:

- Đây là vườn ươm cây cao su do C12 chăm sóc.

- Đẹp quá! - Chúng tôi kêu lên, sửng sốt nhìn chiếc cầu vồng năm sắc bắc qua chân trời. Mấy chục chiếc vòi phun nước tự động của Liên Xô đang làm cơn mưa tưới lên hàng chục vạn cây cao su non. Bụi nước trắng ngần long lanh dưới ánh mặt trời.

Từng tối vài ba chiến sĩ một, mũ sao chỉnh tề, đang vun luống, nhặt cỏ giữa vườn ươm, mỉm cười với khách lạ. Tôi bước vào giữa các luống cây cao vừa ngang tầm ngực, thận trọng vuốt ve từng chiếc lá xanh non. Cuối luống cây có cắm tấm biển gỗ, ghi mấy dòng chữ sơn.

Bắt tay người hạ sĩ đứng cạnh tấm biển, tôi hỏi:

- Quê đồng chí ở đâu?

- Dạ. Em ở đường Lữ Gia, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

Qua vài cau trao đổi, tôi bết người hạ sĩ tên là Trần Văn Khoa, hăm hai tuổi, mới vào bộ đội tháng 10 năm 1980 và được lên ngay vùng đất mới này. Tôi hỏi về chuyện phát hoang ươm hạt lai tháp cây cao su như thế nào. Khoa nói giọng nhỏ nhẻ như con gái, nhưng lại rất lưu loát và thông thạo chuyên môn kĩ thuật ươm cây con.

- Mới đầu, tụi em không biết gì hết trọi. Tưởng trồng cây cao su cũng như trồng hoa, trồng ớt. Ai ngờ phải học tận Công ti cao su Đồng Nai hàng tháng mới biết. Cao su là loại cây kì cục nhất trần đời đó!

Một chiến sĩ cạnh đấy cũng xúm đến góp chuyện:

- Đây là loại cây ươm hạt thẳng rồi ghép trần trong vườn ươm. Khi cây mọc lên đến kích thước cho phép, người ta cắt vỏ của một cây khác, mang đến ghép vào thân cây này. Chờ một thời gian nhất định,cái mầm sẽ nẩy ra ở chỗ ghép, lúc đó sẽ cưa cụt ngọn cái cây cũ mang ra trồng ở ngoài lô. Nhưng nếu đã trồng ngoài lô rồi, cái mầm ở mắt ghép sẽ chết - Khao giải thích thêm cho tôi hiểu - mà mầm nẩy ra chỗ khác, người ta gọi là cây “thực sinh”, thế là phải bứng bỏ, trồng lại cây khác. Kì cục vậy đó.

- Trồng được cái cây cao su rắc rối lắm anh ơi. - Một chiến sĩ người đen thui, nói giọng Nghệ Tĩnh kể thêm - Nhiều cách trồng nó lắm: nào trồng bằng cách “tum” bầu. “Tum” bầu là dùng bịch nylon hoặc dùng tre đan sọt làm bầu rồi đặt vào đó hai cái hạt. Khi cây mọc, ta chỉ giữ lại một cây khỏe nhất. Ôi chao rắc rối. Vào bộ đội, em mơ được đi ra biên giới, đánh bọn xâm lược. Ai ngờ lên thẳng đây và đi chặt tre đan ngay một ngàn cái sọt “tum” bầu. Vậy mà có người yêu cứ viết thư chúc “diệt được” nhiều giặc Pôn Pốt phá hoại cách mạng Campuchia.

Các chiến sĩ trẻ cười vang. Tôi hỏi Khoa xe có cô nào chúc “giết nhiều giặc” chưa. Khoa đỏ mặt, giọng lúng túng:

- Dạ. Em chưa. Dạ. Em còn…

- Khoa còn phấn đấu anh ạ - Giám đốc Nông trường 8 giới thiệu thêm về người chiến sĩ của mình - Đồng chí Khoa vào bộ đội lên đây tròn hai tháng thì được kết nạp Đoàn. Hiện là chiến sĩ thi đua của Nông trường chúng tôi.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #79 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2014, 07:40:13 am »

Qua lời kể của Lạc, tôi hiểu đạt được danh hiệu chiến sĩ thi đua của một đại đội đâu phải chuyện dễ dàng. Cả một cuộc đấu tranh vật lộn ghê gớm giữa rừng rậm, dưới chân là bùn lầy, gia góc, bọ cáp, trên đầu là nắng lửa, mưa dầm. Chỉ tiêu của trên giao cho mỗi chiến sĩ phải khai hoang 300m2 một ngày công. Còn đào hố thì một ngày phải đào cho được mười cái hố đất. Đao được dăm cái đầu tiên, cả người mỏi rã rời. Vậy mà các chiến sĩ cỗ mãi, rồi tìm cách cải tiến thế đứng, thế đào. Dần dần có kinh nghiệm, họ đào vượt gấp đôi, rồi gấp ba mức quy định. Khoa là một trong những người có năng suất cao nhất của công trường.

Trở lại tâm sự với Khoa, tôi tò mỏ hỏi: là người quen sống giữa thành phố lớn, chưa từng thử thách trong gian khổ, sao Khoa vượt qua được tất cả những khó khăn để trở thành người đoàn viên thanh niên cộng sản, thành chiến sĩ thi đua? Bí quyết nào đã giúp Khoa?

- Không có bí quyết nào cả, anh ạ. - Khoa cười, phô ra hàm răng tráng đều đặn, giọng vẫn nhỏ nhẹ, dịu dàng - Mới đầu em cũng sợ mưa nắng, bùn lầy. Sợ cả thú rừng, rắn rết, ốm đau. Nhưng hễ nhìn quanh thấy đồng đội của mình cũng làm việc vất vả, em cũng cố bươn theo. Cụ thể hằng ngày, em nhìn vào những người đảng viên như Trung đội trưởng Tuyền, Tiểu đội trưởng Tốt, Đại đội phó Nhiên. Những người đó vào bộ đội trước em. Có những người đánh Mĩ đã bị thương, được về với gia đình. Về nhà mới vài tháng, chưa ấm chỗ, nghe bộ đội cần người đi làm kinh tế, vậy là lại mang balô lên đường. Ở đại đội em có nhiều người gặp hoàn cảnh gia đình khó khăn lắm. Như anh Nhiên, anh Bảo - Đại đội trưởng đó. Ba má anh Bảo đã ngoài bảy mươi, ốm đau luôn. Nhà chỉ có ba anh em trai thì hai em đang làm nhiệm vụ ở Campuchia. Vậy mà anh Bảo vẫn yên tâm, vẫn chỉ huy đội vươn lên thành đơn vị tiên tiến. Mà cái gian khổ này đâu phải chỉ riêng đại đội em. Lúc vào cao điểm của chiến dịch khai hoang trồng mới, thì ban giám đốc nông trường, cán bộ lãnh đạo trên công ti, binh đoàn cũng xuống lăn lộn làm việc với anh em chiến sĩ. Đại tá Mai Văn Phúc, Tư lệnh binh đoàn thường xuống mắc võng giữa rừng, cùng ngủ, cùng ăn, cùng xắn quần, đánh trần giữa lô mà nhổ gốc, dọn vườn ươm… như vậy anh bảo chúng em không vươn lên sao được.

Bây giờ thì Tư lệnh binh đoàn đang đứng trước chúng tôi. Anh giới thiệu thế triển khai của binh đoàn trong kế hoạch hợp tác với Liên Xô trồng mới 5 vạn hécta cao su trên vùng đất đỏ Sông Bé này. Tôi chăm nhìn theo đầu chiếc gậy anh chỉ trên tấm bản đò treo trên tường. Đúng là dáng đứng của tư lệnh chiến dịch! Phải làm sao đẩy lùi rừng rậm hoang dại đó để cho cây cao su phủ xanh lên. Những địa danh trên bản đồ gợi ta nhớ lại những trận đánh giặc nữa xưa: Phước Long, Phước Bình, Đa Kia, Bù Nho, Bù Gia Mập. Chính trong trận đánh để giành giật lại mảnh đất này, Đại tá Mai Văn Phúc đã bị quân thù cướp mất một con mắt. Tôi chăm chú nhìn vào mắt anh. Trên khuôn mặt đầy đặn, đôn hậu, con mắt lành còn lại sáng rực lên trước ánh điện, biểu thị một sức mạnh và một niềm tin sâu kín trong lòng anh. Con mắt giả của anh đờ đẫn không chớp, khiến tim tôi nhói lên, xót xa. Giọng anh trầm tĩnh, khiêm tốn:

- Nhờ Công ti cao su Phú Riềng và các công ti bạn giúp đỡ, nhờ nhân dân Phước Long đùm bọc thương yêu, binh đoàn chúng tôi sẽ làm tròn nhiệm vụ. Nhưng…

Anh nêu một vài con số đạt được về khai hoang, về trồng mới, về chăm sóc những vườn cao su cũ trong năm vừa qua với vẻ chưa bằng lòng. Mặc dầu chúng tôi biết những con số đạt được với hàng ngàn hécta đó, là sự cố gắng phi thường của binh đoàn anh. Chiếc gậy trong tay anh Năm Phúc bỗng như sinh động hẳn lên, tay anh vạch ngang, vạch dọc trên bản đồ:

- Bây giờ cái khó của chúng tôi là đây - Anh Năm anh Phúc nói tiếp. - Phải mở ngay đường vào và làm cả đường lên nông trường. Hiện nay chúng tôi đã tiếp nhận hàng ngàn đồng bào xây dựng vùng kinh tế mới. Có dân là phải có trường Phải làm ngay nhà ở để đón dân, làm trường học, nhà trẻ, bệnh xá.

Lời anh Năm Phúc như tiếng thuyết minh của một cuộn phim. Trong đầu tôi hiện lên những xóm nhà tranh, nhà mái lợp xi măng ngang dọc thẳng tắp đông vui của đồng bào vừa đến với binh đoàn mà tôi đã được thấy trong mấy ngày qua. Một bà má người Huế trong xóm nhà này đã kể cho tôi nghe rằng năm ngoái mới vào, một số bà con chưa quen với rừng rậm, ngại gian khổ đã bỏ về. Anh em bộ đội thấy dân bỏ đi liền đi theo ra tận bến xe khuyên răn năn nỉ. Đồng bào thương bộ đội đã quay trời lại: “Bộ đội của thằng Năm Phúc tốt lắm. Bà con mới vào đúng dịp Tết, bộ đội liền góp nếp, đường, thịt biếu đồng bào ăn Tết - Một bà má nói - Mà tụi nó có dư dật gì đâu!”.

- Vài năm tới, mời các anh trở lại - Con mắt lành rất đỗi dịu dàng của anh Năm Phúc nhìn tôi, anh mỉm cười, nói tiếp - Lúc đó những vùng hoang dại này sẽ thành rừng cao su. Đất đai ở đây tốt lắm. Còn thời tiết thì khắc nghiệt với con người nhưng rất hợp với cây cao su. Nhưng khả năng con người sẽ cải tạo được thiên nhiên. Nếu ta có một đập nước thủy điện, một dòng kênh chảy qua vùng đất đỏ bazan này hẳn lúc đó thời tiết sẽ thay đổi.

Buổi họp mặt với Bộ Tư lệnh binh đoàn xong đã từ lâu. Tôi trở về phòng nằm trăn trở mãi không sao ngủ được. Hình ảnh những người chiến sĩ trẻ tôi đã gặp trên vùng đất vừa mới vỡ hoang, người Tư lệnh binh đoàn say sưa bước vào một mặt trận mới đã làm tôi suy nghĩ miên man. Chẳng biết đã mấy lần tôi đứng dậy đi loanh quanh ngoài sân doanh trại. Đêm ở Phước Long không giống một nơi nào. Hầu như bầu trởi ở đây trong trẻo hơn mọi nơi khác. Sao nhấp nháy tinh nghịch và sáng đến nỗi tôi có thể nhận ra ngọn núi Bà Rá màu tím sẫm in đậm lên trên đường chân trời. Nơi hun hút xa kia là thác Mơ, đầu nguồn con sông Bé. Chân trời vồng cao lên phía này là sân bay Phước Bình. Hồi chiều đi ngang qua, tôi đã chú ý đến mấy chiếc máy bay C.130 của Mĩ bị quân ta bắn rơi hồi nào, còn nằm phơi mãi đó. Tôi cứ bước thong thả đến bức tường đổi lại quay lui. Hồi chiều một người lái máy kéo của binh đoàn kể rằng đêm 6 tháng 1 năm 1975, lúc tấn công giải phóng thị xã Phước Long, chính anh đã lái xe tăng húc đổ bức tường đó. Thấy tôi ngạc nhiên, anh giải thích đơn giản: “Sào huyệt của bọn ác ôn mà. Nếu biết chỗ này mình sẽ về đóng quân để mở nông trường trồng cao su thì tôi không húc đổ ngôi nhà đó”. Việc ngẫu nhiên đó chưa thú vị bằng việc biết người con gái đưa đường cho đơn vị anh vào thị xã Phước Long, sau này trở thành vợ anh. Hiện nay chỉ đang ở một vườn ươm cao su của binh đoàn. Anh kể ràng chị đi học lai tháp cây ở trường nghiệp vụ của Tổng cục Cao su. Lúc về, tháp mấy lần cây vẫn không nảy mầm. Đi mày mò hỏi mấy cụ già phu đồn điền cũ, họ bày cho.

Lần cuối cùng tháp cây, chị chờ hết ngày này đến ngày khác, lúc thấy được cái mầm non cây cao su vừa nhú ra, chị reo lên, vừa chạy, vừa gọi anh: “Nảy mầm rồ! Anh ơi, cái cây cao su nó nảy mầm rồi”. Chị mừng quá đến đến nỗi bật khóc với anh. Kể đến đó anh lắc đầu cười, nói vui: “Chúng tôi lấy nhau đã ba năm. Cả hai đều rất mong con. Chẳng biết lúc biết mình có bầu, nhà tôi có mừng như lúc thấy cái mầm cao su hay không”.

Ở trạm gác trước doanh trại, thỉnh thoảng vọng đến tiếng bàn tay người gác đập muỗi. Tiếng báng súng của tổ đi tuần chạm nhau khẽ kêu lách cách. Cả doanh trại đều ngủ yên. Ngọn đèn hoa kì ở phòng đồng chí Tư lệnh vẫn sáng. Tôi đến cạnh cửa sổ, liếc trông vào. Mái đầu hoa râm của anh Năm Phúc cúi xuống. Anh đang cầm bút hí hoáy ghi chép tính toán một cái gì đó. Chốc chốc anh ngước nhìn lên những tấm biển treo trên vách, đôi mắt kính của anh phản chiếu ánh đèn lóe lên như hai đốm lửa. Chẳng biết anh đang băn khoăn day dứt về tỉ lệ cây lai tháp còn chết nhiều hay đang tính toán giá thành khai hoang một hécta rừng. Anh đang cân nhắc xem nên hướng về chủ trương khai hoang hoàn toàn bằng cơ giới hay hoàn toàn bằng thủ công, hay thủ công kết hợp ới cơ giới? Cái nào đắt, cái nào rẻ. Cách nào khó khăn, cách nào thuận lợi và cách nào thì đỡ mất công sức, ít tốn kém, giảm bớt được sự nặng nhọc vất vả cho người chiến sĩ. Tôi biết sự mệt nhọc khó khăn của đồng chí Tư lệnh ngay cả giữa thời bình này cũng chẳng khác nào thời chiến. Chính trên mảnh đất này, binh đoàn anh đã đánh thắng trận mở đầu trên mặt trận kinh tế. Một ngày không xa, trên vùng đất hoang dại này sẽ phủ kín màu xanh của lá cây cao su. Tôi tin tưởng như thế và trở về phòng mình. Ngang qua phòng đồng chí Tư Thiệp, Bí thư Đảng ủy công ti, tôi nghe có tiếng người, giọng ngái ngủ như nói mê. Không phải. Anh Tư Thiệp hỏi giờ. “Thủ trưởng cứ ngủ đi. Mới hai giờ sáng” - Giọng đồng chí công vụ léo éo như giọng trẻ con. “Cậu nhớ đánh thức mình dậy lúc 4 giờ nhé. Đúng 5 giờ làm việc với Nông trường 6 đó!”.

Lúc đôi chim từ quy kêu “bi bóp” gọi tìm nhau, là lúc tiếng xe anh Tư Thiệp rù máy ra đi. Lát sau là tiếng xe đưa anh Năm Phúc chạy về một hướng khác. Tôi nhỏm dậy trông theo ánh đèn pha của xe anh chiếu một vệt sáng dài. Nơi đó là con đường thơm ngát mùi hoa xoài và hoa cà phê. Cũng nơi đó có những vườn đào lộn hột đơm trái sớm cứ lóe lên lúc đỏ lúc vàng như lửa đuốc, lửa đèn. Hết con đường đầy hoa trái đó là những khu rừng bạt ngàn nối tiếp nhau rồi đến vùng đất đang vỡ hoang.

Bầu trời Phước Long chuyển sang màu tím, rồi rạng dần lên một màu hồng. Đêm Phước Long đã qua. Tôi đã sống trên mảnh đất Phước Long lịch sử một đêm như thế đó.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM