Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:21:41 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những chặng đường đời  (Đọc 56705 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #60 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 09:17:13 am »

Đúng như tôi dự đoán, chỉ mấy ngày sau tôi và một số học viên nhận lệnh lên đường vào Nam. Đoàn do anh Nguyễn Thới Bưng phụ trách.

Tháng 4 năm 1975, tôi vào đến Đoàn 26 Thiết giáp lúc đó đơn vị đã chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Mục tiêu “đánh cho Mĩ cút” ta đã giải quyết xong, bây giờ là lúc nắm thời cơ “đánh cho ngụy nhào” như mệnh lệnh của bác. Chiến trường Đông Nam Bộ sôi động cùng toàn miền Nam. Đoàn 26 chúng tôi lại được chi viện thêm 3 tiểu đoàn tăng của Lữ đoàn 215 và Quân khu 4. Tất cả có 61 xe tăng T54, T59 và 31 xe K63. Đến tháng 3 năm 1975, Đoàn 26 đã có 7 tiểu đoàn, xe tăng - thiết giáp chiến đấu lên tới 320 chiếc; 1 tiểu đoàn huấn luyện, 1 tiểu đoàn công binh và các đại đội vận tải, thông tin, đội phẫu thuật tiền phương, trạm xá... Cơ quan Đoàn bộ cũng được kiện toàn, nhằm theo sát các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu.

Chưa bao giờ tôi nghĩ tới lực lượng của Đoàn 26 tăng - thiết giáp hùng hậu như thế này. Có lực lượng mạnh trong tay, Đảng ủy Đoàn xác định phải lãnh đạo đơn vị đánh một số trận cho “ra tấm ra món”. Đây là thời cơ lịch sử có một không hai, phải làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ thấy được trách nhiệm và tự hào được tham gia cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Những ngày ấy, không khí của Đoàn sôi động, vui như hội. Bộ đội làm công tác kĩ thuật, đu nấu và cả hò reo nữa mà không cần giữ bí mật vì đây đã là vùng giải phóng.

Thời cơ lập công của Đoàn 26 tăng - thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975 đã đến. Đáng nhớ nhất có các trận: tiến công địch ở quận lị Dầu Tiếng; đánh địch ở Bến Cầu; tiến công địch ở Mộc Bài, Rạch Tràm, Chòi Nòi, Đức Huệ thuộc tỉnh Long An từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 1975. Đoàn còn phối thuộc cho các đơn vị bạn giải phóng Định Quán (17thangs 3), giải phóng La Ngà (20 tháng 3). Ngày 28 tháng 3, Tiểu đoàn 21 (thiếu) phối thuộc cho Sư đoàn 7 tiến công địch ở Bảo Lộc, Di Linh. Thừa thắng, Đoàn tiến công quân địch ở chi khu Chơn Thành diệt 6 tiểu đoàn bộ binh ngụy.

Ngày 9 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn tăng 21 phối thuộc với Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 bộ binh tiến công vào tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở Xuân Lộc. Trận đánh diễn ra từ ngày 9 tháng 4 đến ngày 21 tháng 4 năm 1975 mới đập tan được tấm lá chắn của địch bảo vệ Sài Gòn.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là cuộc ra quân rầm rộ nhất của đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Trong 5 cánh quân tiến vào thành phố mang tên Bác, Đoàn 26 tăng thiết giáp tham gia trên 2 hướng: Đông Bắc và Tây Nam. Để bảo đảm công tác chỉ huy được tốt, Đoàn 26 đã hình thành 3 sở chỉ huy. Ở hướng đông bắc - hướng chủ yếu gồm có tôi - Chỉ huy trưởng; đồng chí Hồ Hồng Thái - Chỉ huy phó; đồng chí Đỗ Văn Thất - Chủ nhiệm Chính trị; đồng chí Nguyễn Thượng Hiền - Chủ nhiệm Kĩ thuật.

Ở cánh quân hướng Tây Nam và Tây Nam, do các đồng chí Phạm Hà Hải, Võ Ngọc Hải, Lê Như Hòa, Võ Văn Thọ chỉ huy. Tại hậu cứ có các đồng chí: Bùi Tân, Hoàng Tiến Lực, Lê Đình Hoán phụ trách.

Trên hướng Đông Bắc, chúng tôi đưa vào chiến đấu 4 tiểu đoàn với 140 xe tăng, xe thiết giáp. Đặc biệt có Tiểu đoàn 21 đã dày dạn chiến đấu từ năm 1972. Đây là tiểu đoàn được coi là mũi đột kích mạnh của Đoàn 26. Ngày 27 tháng 4 năm 1975, Tiểu đoàn 21 với 15 xe tăng tiến công vào Trảng Bom; đêm 29 tháng 4, tiến đánh Hố Hai. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, các đơn vị của Đoàn 26 đánh địch ở trại Lê Lợi, thành phố Biên Hòa.

Trên hướng Tây Nam, ngày 29 tháng 4 năm 1975, Đoàn 26 sử dụng 3 tiểu đoàn và 1 đại đội chi thành hai mũi đánh vào An Hiệp, Đức Hòa, Hậu Nghĩa. Cả phòng tuyến Tây Nam của địch bị ta phá vỡ. Đến 8 giờ ngày 30 tháng 4, Đại đội tăng 6, Tiểu đoàn 20 đánh chiếm trạm rađa Phú Lâm, đến 11 giờ chiếm trường đua Phú Thọ. Đại đội tăng 5 Tiểu đoàn 22 chi viện cho bộ binh đánh tan hai tiểu đoàn biệt động ngụy ở Vĩnh Lộc, tiếp tục thọc sâu đánh chiếm biệt khu Thủ đô, sau đó hợp điểm cùng các đơn vị bạn tiến về Dinh Độc Lập.

Xe thiết giáp của Đại đội 45 Tiểu đoàn tăng 23 vượt Đồng Tháp Mười tiến về giải phóng Sài Gòn. Ngày 28 tháng 4 năm 1975, Đại đội 45 dùng 5 xe tăng K63-85 và 6 xe PTR-60 PB vượt qua Đồng Tháp Mười tiến vào đường 4, thiết lập chốt chặn không cho quân tiếp viện vào Sài Gòn.

Kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh, Đoàn 26 xe tăng - thiết giáp đã được Nhà nước ta khen thưởng xứng đáng, trong đó 3 đơn vị và 2 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là: Tiểu đoàn tăng 21, Đại đội tăn 10 (Tiểu đoàn 20), Đại đội 33 và các đồng chí Nguyễn Xuân Liêm, Phạm Văn Cán.

Đất nước thống nhất, lực lượng tăng - thiết giáp Đông Nam Bộ đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử. Tên gọi: “Tăng - Thiết giáp Quân giải phóng miền Nam” sẽ mãi mãi được nhắc đến trong pho sử vàng chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #61 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 09:17:46 am »

11. LỜI THỀ THỨ HAI

Với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam sạch bóng quân thù, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Mấy tháng sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, tôi được cấp trên cho ra Hà Nội nghỉ phép thăm vợ con. Mấy ngày sau, tôi lên Vĩnh Yên thăm các anh trong Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp. Doanh trại Trung đoàn 202 xe tăng ngày nào giờ là nơi đóng quân của cơ quan Bộ Tư lệnh. Thế là sau 12 năm vào Nam chiến đấu tôi mới trở lại mảnh đất một thời là “bệ phóng” của Trung đoàn xe tăng 202. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Binh chủng đón tiếp tôi thân tình như đón người đồng đội đi xa lâu ngày trở về. Trong câu chuyện, các đồng chí trong Bộ Tư lệnh, đặc biệt là đồng chí Tư lệnh Đào Huy Vũ, đề nghị tôi ra Hà Nội công tác. Là Tư lệnh Tăng - Thiết giáp Quân giải phóng miền Nam ra Hà Nội, các anh sẽ đề nghị cấp trên bổ nhiệm tôi làm Phó Tư lệnh binh chủng.

Thú thực, tôi chưa có ý định ở lại Hà Nội, mặc dầu vợ con tôi gắn bó với mảnh đất này đã hai chục năm. Nhưng tôi không từ chối lời đề nghị của các anh trong Bộ Tư lệnh mà chỉ nói việc này cần có thời gian suy nghĩ. Về nhà, đưa ý kiến này ra bàn với vợ, tôi nhận được câu trả lời: “Vấn đề đó do anh quyết định. Ở đâu cũng được, miễn là vợ chồng gần nhau. Bao nhiêu năm anh đi biền biệt, giờ tuổi đã lớn, vợ chồng phải ở gần để đỡ đần và chăm sóc nhau”.

Khoảng tháng 10 năm 1975, tôi đưa vợ con từ Hà Nội vào Sài Gòn. Không thuyết phục được tôi ở lại Bộ Tư lệnh, các anh chúc tôi vào Sài Gòn công tác theo sự phân công của Bộ Quốc phòng. Mấy hôm sau, các anh trong Bộ Tư lệnh giúp tôi chiếc ô tô Zin 130, đưa đồ đạc và mấy mẹ con vào làm công dân của thành phố Sài Gòn vừa mới giải phóng.

Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước nhà thống nhất, Đoàn 26 tăng - thiết giáp đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Thực hiện quyết định của trên về kiện toàn, tổ chức các đơn vị Binh chủng Tăng - Thiết giáp, ngày 25 tháng 8 năm 1975, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Trần Văn Trà giao nhiệm vụ cho Đoàn 26 tách một bộ phận để thành lập Lữ đoàn Tăng - Thiết giáp 22, bàn giao cho Quân đoàn 4. Tiếp đó, Đoàn 26 đã tách ra thêm 2 đơn vị nữa.

Thực hiện quyết định của bộ, tôi được trên giao tổ chức ba đoàn cán bộ tăng - thiết giáp về ba đơn vị mới: Lữ đoàn 22 về Quân đoàn 4; Trung đoàn 24 về Quân khu 9, Trung đoàn 26 về trực thuộc Quân khu 7. Trung đoàn 26 Thiết giáp Quân khu 7 là đơn vị kế tục truyền thống của Đoàn 26 Thiết giáp miền Đông Nam Bộ.

Phải rời xa đồng đội và những chiếc xe tăng đã chiến đấu 12 năm trên chiến trường Đông Nam Bộ, trong tôi dâng lên những cảm xúc khó tả. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, chiến tranh ác liệt, cái sống cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc mới thấy hết phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội. Trong cuộc sống, anh em đã dành cho tôi tình cảm thân thiết như người trong một nhà. Khi ra trận, họ dũng cảm nhận về mình phần hiểm nguy để che chở, bảo vệ tôi.

Chiến tranh đã kết thúc, đất nước sạch bóng quân thù, nhưng vẫn có rất nhiều đồng đội của tôi không thể trở về, họ còn nằm lại ở một góc rừng nào đó trên dải đất miền Đông Nam Bộ.

Nỗi niềm ấy khiến cuộc chia tay của những người lính xe tăng vừa ra khỏi cuộc chiến tranh thật cảm động.

Tháng 9 năm 1976, tôi được điều về làm Cục phó Cục Kinh tế Quân khu 7.

Sau nhiều năm chỉ quen với tấm bản đồ quân sự. suy nghĩ tìm cách đánh giặc sao cho giành chiến thắng cao nhất giờ tôi lại phải gánh vác công việc hoàn toàn mới mẻ: Làm kinh tế. Vừa làm vừa tìm hiểu, vừa làm vừa học, tôi đã có đóng góp nhất định vào thành tựu kinh tế của Quân khu 7. Tám tháng trên cương vị chỉ đạo hoạt động kinh tế của một quân khu rộng lớn, giàu tiềm năng, tôi đã có thêm những bài học mới.

Do yêu cầu tổ chức và sắp xếp lại lực lượng vũ trang trong cả nước, ngày 26 tháng 6 năm 1976, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Cục Xe máy quản lí, bảo đảm kĩ thuật xe tăng - thiết giáp, xe công trình trong toàn quân. Trước yêu cầu đó, tháng 6 năm 1977, tôi được điều động giữ chức Cục phó Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn - Tổng cục Kĩ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Cục trực thuộc Bộ Tổng tham mưu; từ năm 1974, thành lập Tổng cục Kĩ thuật, Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn chuyển về Tổng cục Kĩ thuật. Bộ Tổng tham mưu điều từ Bộ Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp một số cán bộ về thành lập Phòng Kĩ thuật tăng - thiết giáp do đồng chí Tống Xuân Hỗ phụ trách.

Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn vừa xây dựng, quản lí cơ quan đơn vị trực thuộc cục vừa tham mưu cho trên quản lí hệ thống ngành trong toàn quân và thực hiện chế độ chuyên gia kĩ thuật quân sự, chủ yếu là chuyên gia của Liên bang Xôviết.

Tôi về nhận chức Cục phó Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn và được phân công phụ trách cơ quan thường trực của Cục ở phía Nam.

Trong chuyến đi công tác kiểm tra các đơn vị phía Nam và dự hội nghị toàn quân triển khai chế độ chuyên gia quân sự do Bộ Tổng tham mưu tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, trước ngày dự hội nghị, anh Vũ Toàn - Cục trưởng và tôi đã có buổi làm việc khá cởi mở. Chúng tôi đều nhất trí cho rằng: Tuy phục tùng sự sắp xếp của Tổng cục Kĩ thuật nhưng do chưa nghiên cứu kĩ nên cấp trên chỉ đạo có việc chưa phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn. Anh Vũ Toàn cũng trao đổi với tôi về ý của Tổng cục Kĩ thuật chủ trương thu gọn cơ quan Cục từ hơn 200 người như hiện nay xuống còn 50 người. Mặt bằng của Cục cũng sẽ thu hẹp để bố trí cho Cục Huấn luyện của anh Lê Hãn - Cục trưởng và Cục Kho trực thuộc Tổng cục sẽ thành lập trong nay mai. Trong câu chuyện, anh Toàn vừa tâm tư vừa bức xúc về trách nhiệm và truyền thống đối với toàn ngành. Thấy anh không vui, tôi động viên: “Anh cứ đi dự hội nghị xem Cục ta có nhiều chuyên gia làm việc không rồi về ta bàn tiếp”.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #62 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 09:18:38 am »

Sau một ngày làm việc khẩn trương đến khoảng 8 giờ tối, đồng chí Hiếu - phiên dịch tiếng Nga, đi cùng với Cục trưởng thông báo với tôi là đồng chí Vũ Toàn bị tai biến phải đi cấp cứu. Căn bệnh khá nặng, anh bị liệt toàn thân. Sáng hôm sau tôi vào Viện Quân y 175, thấy anh Vũ Toàn đang được các bác sĩ chăm sóc đặc biệt. Anh Toàn bị tăng huyết áp từ lâu, nay do áp lực công việc nên đã bị đột quỵ. Bệnh tật đã quật ngã anh khi công việc của Cục đang bề bộn.

Mấy ngày sau, tôi nhận quyết định của Tổng cục Kĩ thuật ra Hà Nội giữ chức: Quyền Cục trưởng Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn.

Trên cương vị Quyền Cục trưởng tôi phải giải quyết gấp những công việc đồng chí Vũ Toàn đang làm dở. Đồng chí Hiếu cùng đi dự hội nghị với đồng chí Vũ Toàn báo cáo: Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn có chế độ chuyên gia ngành xe quân sự. Trước mắt Cục bố trí chỗ ở, nơi làm việc của chuyên gia Cục trưởng và các chuyên ngành. Tiếp đó Thủ trưởng Cục có buổi làm việc với Phòng Cán bộ Tổng cục Kĩ thuật về kế hoạch chấn chỉnh Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn. Cùng làm việc hôm ấy có đồng chí Tái, Thượng tá -Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Cục; đồng chí Chúc và đồng chí Bảy - Cục phó. Bản kế hoạch trước đó Phòng Cán bộ đã làm việc với đồng chí Vũ Toàn, có sự thống nhất trong Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Cục. Hôm nay đồng chí Lương - Trưởng phòng; đồng chí Đạt - Trưởng ban nhân sự đến làm việc chỉ mang tính thủ tục là thông báo nội dung và ý định ngày giờ thực hiện.

Sau khi nghe đồng chí Trưởng phòng Cán bộ Tổng cục Kĩ thuật thông báo kế hoạch chấn chỉnh Cục, thấy có gì đó chưa ổn, tôi phát biểu:

- Tôi mới từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội nhận nhiệm vụ. Mấy ngày nay tôi đang khẩn trương tìm hiểu tình hình, đề nghị các anh cho tôi tìm hiểu xong và sau khi làm việc với chuyên gia ngành xe sẽ chấp hành kế hoạch của Tổng cục. Tôi đề nghị các anh báo cáo lại với Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục. Nếu có gì không tiện, đề nghị các anh cho Cục báo cáo trực tiếp với Thường vụ Đảng ủy và Thủ trưởng Tổng cục.

Dạo đó chiến tranh biên giới Tây Nam do bọn Pôn Pốt - Iêngxari gây nên, diễn ra ác liệt. Nhiệm vụ bảo đảm xe máy cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên các tuyến biên giới trở nên cấp bách, vì thế, áp lực công việc đối với tôi ngày càng lớn.

Những ngày sau đó, Cục tiếp tục triển khai công việc theo kế hoạch của mình. Chúng tôi chờ nhưng vẫn không thấy thực hiện kế hoạch chấn chỉnh, rút gọn Cục Quản lí Xe máy và Trạm nguồn của cơ quan cấp trên.

Năm 1978, tình hình biên giới phía Bắc trở nên căng thẳng. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nổ ra. Lúc này, nhiều đơn vị tăng - thiết giáp được thành lập, nhằm tăng cường sức mạnh cho các quân khu, quân đoàn làm nhiệm vụ phía trước. Vì thế, việc bảo đảm kĩ thuật cho lực lượng tăng - thiết giáp làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi rất cao. Trước sự kiện ấy, Thủ trưởng Tổng cục Kĩ thuật điều tôi sang làm Cục trưởng Cục Bảo đảm trang bị Tăng - Thiết giáp. Sau này đổi tên là Cục Tăng - Thiết giáp.

*

Những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ XX, tình hình kinh tế - xã hội nước ta gặp rất nhiều khó khăn.

Sự khủng hoảng về kinh tế thời kì này không nằm ngoài quy luật và đã được Đảng ta dự báo. Tuy nhiên, khó khăn ở bước chuyển giai đoạn rất phức tạp, khó lường, có khi bị cả những thuận lợi và niềm lạc quan sau chiến thắng giải phóng dân tộc che lấp. Miền Bắc tuy đã trải qua 21 năm xây dựng và phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới, song 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ đã tàn phá rất nặng nề. Ở miền Nam, tuy có các yếu tố của kinh tế tư bản, song vốn là nền kinh tế tiêu thụ, phụ thuộc Mĩ, mục tiêu là phục vụ chiến tranh xâm lược nên về cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu. Sau khi thống nhất đất nước, nền kinh tế nước ta vẫn ở trình độ thấp kém. Vừa ra khỏi chiến tranh giải phóng lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc nên đời sống nhân dân lại càng khó khăn. Về mặt xã hội, hậu quả chiến tranh rất nặng nề phải nhiều năm mới khắc phục được. Đó chính là khó khăn, trở ngại lớn mà Đảng ta phải giải quyết trong những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỉ trước.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1982 đã ra nghị quyết về đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Sau Đại hội, Đảng ta đã có những giải pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng.

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã quán triệt chủ trương quân đội tham gia làm kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng trên các địa bàn chiến lược. Cùng với thành lập Tổng cục Kinh tế là kiện toàn lại các đơn vị chuyên trách làm kinh tế.

Ngày 14 tháng 7 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ra quyết định giao lại cho Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chuyên xây dựng kinh tế: Đoàn 331, 332, 333, 352, 600, Đoàn Phước Long, 37B, và Trung đoàn 50. Trước đó, các đơn vị này đã được Bộ Quốc phòng chuyển giao cho các Bộ; Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy lợi, Lương thực và Thực phẩm theo Quyết định của Chính phủ.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #63 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 09:19:14 am »

Đang làm Cục trưởng Cục Bảo đảm trang bị Tăng - Thiết giáp (Tổng cục Kĩ thuật), cấp trên rút tôi đi học quản lí kinh tế 3 tháng. Xong khóa học, tôi được Bộ Quốc phòng giao cho nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ: chỉ huy bộ đội làm cao su. Thủ trưởng Tổng cục Kĩ thuật mà trực tiếp là Trung tướng Lê Văn Tri, Chủ nhiệm đã “tiến cử” tôi với Bộ Quốc phòng. Đồng chí Lê Văn Tri đã giải thích với cấp trên rằng, tôi quen thuộc địa bàn và đã từng phụ trách về kinh tế của Quân khu 7 nên có ít nhiều kinh nghiệm. Trong khi đó, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kĩ thuật lại không đồng tình với quyết định này với lí do: “Để Mai Văn Phúc làm Cục trưởng Bảo đảm trang bị Tăng - Thiết giáp là phù hợp, vả lại Tổng cục đang rất cần cán bộ kĩ thuật”.

Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, tôi bàn giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Bảo đảm trang bị Tăng - Thiết giáp cho Đại tá Lê Quang Xì, chuẩn bị lên đường.

Trung tướng Đặng Kinh, Chủ nhiệm Tổng cục Kinh tế Bộ Quốc phòng từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh trao quyết định cho tôi. Tại phòng họp của bộ Tư lệnh Quân khu 7 hôm ấy có các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân khu, đại diện Tổng cục Kĩ thuật. Trao cho tôi tờ quyết định làm Tư lệnh Binh đoàn 23 Cao su Phú Riềng, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Kinh tế nói: Nhiệm vụ chính của binh đoàn là làm cao su, khi chiến tranh biên giới lan rộng thì quân đội sẽ sử dụng vào nhiệm vụ quốc phòng.

Trưởng thành từ người chiến sĩ bộ binh trực tiếp cầm súng đánh Pháp, được đào tạo bài bản về kĩ thuật xe tăng, còn với cao su thì tôi chỉ là người ngoại đạo. Nhưng đã là sĩ quan quân đội Bộ đội Cụ Hồ, không được phép từ chối bất cứ nhiệm vụ gì, khó khăn đến mấy. Dòng suy nghĩ ấy làm tôi thanh thản. Đêm ấy tôi có một giấc ngủ sâu để sáng mai lên đường đến với miền Đất mới.

Ngày 11 tháng 7 năm 1980, Thượng tướng Lê Trọng Tấn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kí Quyết định số 422/QĐ-QP, thành lập Binh đoàn Cao su trực thuộc Quân khu 7, lấy phiên hiệu là Binh đoàn 23. Tuy là đơn vị trực thuộc Quân khu 7, nhưng về mặt kinh tế, Binh đoàn là một đầu mối trực tiếp với Tổng cục Cao su - Bộ Nông nghiệp.

Khi Binh đoàn 23 có quyết định thành lập, đã có một số đơn vị quân đội làm nhiệm vụ xây dựng các vùng chuyên canh cao su, cà phê, lúa và màu. Những đơn vị này đã được Bộ Quốc phòng chuyển giao cho các Bộ theo chỉ thị của trên. Đến ngày 14 tháng 7 năm 1980, Hội đồng Chinh phủ ra Quyết định số 215/CP về việc giao lại cho Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chuyên xây dựng kinh tế.

Ngày 16 tháng 7 năm 1980, Bộ Tổng tham mưu ra Quyết định số 337/QĐ-TM tổ chức lực lượng của Binh đoàn 23 trước mắt có: 2 trung đoàn của nông trường cũ, 2 trung đoàn mới ở Phú Riềng, 1 trung đoàn làm đường, 1 trung đoàn xây dựng cơ bản, 1 trung đoàn sản xuất vật liệu xây dựng, 1 trung đoàn vận tải. Cơ quan Binh đoàn có 9 phòng: Tham mưu kế hoạch, Tổ chức lao động, Kế toán tài vụ, Vật tư, Hậu cần, Chính trị, Xây dựng cơ bản, Cây công nghiệp và Kĩ thuật.

Đến ngày 17 tháng 7 năm 1980, Bộ Tổng tham mưu lại ra quyết định điều động các đơn vị về Binh đoàn 23. Điều từ Tổng cục Hậu cần 1 khung trung đoàn và 1 tiểu đoàn sản xuất vật liệu xây dựng. Trong đó có cán bộ và nhân viên đủ làm nòng cốt cho một đại đội làm đá và vận hành bộ nghiền, sàng 739-740 bao gồm khoan, bắn, nghiền sàng, xúc chở; một đại độ làm gạch để vận hành hệ thống sản xuất gạch công suất 7 triệu viên/năm. Ngoài ra còn có 1 đại đội sản xuất voi, 1 tổ khoan nước ngầm. Cũng từ Tổng cục Hậu cần, 1 khung trung đoàn vận tải và khoảng 200 xe ô tô khẩn trương hành quân về Binh đoàn. Trung đoàn công binh 270 từ Campuchia cũng khẩn trương về Binh đoàn, trong đó có nhiều người đang chờ phục viên.

Đầu tháng 8 năm 1980, Bộ Tổng Tham mưu lại điều động cho Binh đoàn 2 Trung đoàn 813 và 815 của Quân khu 3. Mỗi trung đoàn 1.000 người, phần lớn anh em đều là chiến sĩ mới, quê Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên...

Chưa bao giờ dưới quyền chỉ huy của tôi lại có được lực lượng hùng hậu như vậy, với hơn 13 ngàn cán bộ, chiến sĩ, cùng với nhiều máy móc, thiết bị khá hiện đại. Trong lúc đó, thủ trưởng Bộ Tư lệnh Binh đoàn 23 quân số chỉ bằng “tổ tam tam”. Toi mang quân hàm đại tá, được giao làm Tư lệnh; Phó Tư lệnh là Thượng tá Trương Văn Ba, anh em thường gọi là Ba Làng. Được sự đồng ý của Quân khu 7, cả hai chúng tôi được Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su ra quyết định bổ nhiệm làm Phó giám đốc Công ti cao su Phú Riềng. Phó Tư lệnh Chính trị là Thượng tá Bùi Thiệp, sau đó Đại tá Bùi Khánh Vân thay. Cả ba chúng tôi đều là lính chống Pháp, lăn lộn nhiều năm trên chiến trường “miền Đông” gian lao mà anh dũng. Hòa bình, chúng tôi công tác trong Lực lượng vũ trang Quân khu 7 nên rất hiểu nhau.

Phú Riềng là nơi thực dân Pháp bắt nhân dân ta khai khẩn đất đai, lập thành đồn điền cao su từ những năm đầu thế kỉ XX. Khi cao su đến thời kì thu hoạch mủ, chúng đều vơ vét, mang về nước, còn người lao động thì vẫn lầm than, cực khổ. Nơi đây còn nổi tiếng là rừng thiêng nước độc nên Cao su đi dễ khó về/ Khi đi trai tráng, khi về bủng beo. Chế độ bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào chỗ: Bán thân đổi mấy đồng xu/ Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng.

Có áp bức thì có đấu tranh. Ngày 28 tháng 10 năm 1929, hơn 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đã nổi dậy, chống lại chế độ áp bức của thực dân Pháp, đòi tự do cơm áo, đòi dân sinh độc lập. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc Việt Nam thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà, công cuộc cách mạng của nhân dân ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng kinh tế. Trên mảnh đất đồn điền Phú Riềng lịch sử, ngày 6 tháng 9 năm 1978, Bộ Nông nghiệp ra quyết định thành lập Công ti cao su Phú Riềng để thực hiện hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Xôviết (Liên Xô): “Hợp tác sản xuất và chế biến cao su thiên nhiên với quy mô 50.000 hécta trong thời kì 5 năm từ 1980 - 1984”. Đây là một công trình trọng điểm của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng về kinh tế - chính trị xã hội - an ninh quốc phòng - quan hệ quốc tế, có quy mô lớn, yêu cầu nhiệm vụ lại khẩn trương, nên cùng một lúc Công tư vừa phải hình thành tổ chức, vừa triển khai sản xuất, vừa bổ sung nguồn nhân lực.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #64 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 09:19:59 am »

Công ti cao su Phú Riềng nằm trên địa bàn 2 huyện Phước Long và Đồng Phú, phía bắc tỉnh Sông Bé. Tôi đã đến Phước Long từ những năm còn chiến tranh. Những vùng đất như Phước Bình, Bù Na, Bù Gia Phúc, Bố Đức, Phước Quả, Thác Mơ, núi Bà Rá... tôi đã từng cùng đồng đội chiến đấu. Đặc biệt, từ ngày 31 tháng 12 năm 1974 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, Đoàn 26 Thiết giáp phối thuộc cho Sư đoàn 3 bộ binh tiến công chi khu Phước Bình và giải phóng thị xã Phước Long.

Xưa Phước Long là chiến trường, nay nơi đây là công trường trồng cao su của nước Việt Nam thống nhất. Với tổng diện tích tự nhiên 72.000 hécta, trong đó đất trồng cao su là 52.000 hécta. Phú Riềng được coi là tiềm năng lớn về cao su của khu vực miền Đông Nam Bộ. Đầu năm 1980, cấp trên quyết định mở rộng diện tích quy hoạch trồng cao su sang phía tây đường 14, giáp bờ Sông Bé. Đây là một vùng đất rộng lớn, diện tích lên tới 120.000 hécta, tuy còn hoang hóa nhưng lại là đất bazan màu mỡ, rất hợp với cây cao su.

Việc làm đầu tiên của Bộ Tư lệnh Binh đoàn 23 là tìm hiểu nội dung Công ti cao su Phú Riềng được Nhà nước giao thực hiện hợp tác với Liên Xô trồng 50.000ha cao su. Tổ chức khảo sát sơ bộ những khu vực đóng quân. Tìm hiểu mối quan hệ của công ti cao su Phú Riềng với địa phương, bảo đảm các mặt đời sống vật chất, tinh thần, công tác Đảng, công tác Đoàn, vấn đề dân cư trong khu vực. Nhiệm vụ của Binh đoàn 23 là cùng với Công ti cao su Phú Riềng thực hiện trồng mới 50.000 hécta cao su; xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút lực lượng lao động, góp phần định hình khu công nghiệp cao su cho tương lai, kết hợp kinh tế với quốc phòng trên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia.

Phú Riềng là nơi gian khổ, khó khăn, phức tạp nhất của toàn ngành cao su. Bom mìn sót lại trong lòng đất, chất độc hóa học do chiến tranh phá hoại chưa xử lí còn rất nhiều. Rắc độc, muỗi vắt nhiều vô kể; rừng rậm đầy gai góc, xứ sở của rừng le nguyên thủy với bạt ngàn cây mắc cỡ, cỏ tranh cao lút đầu người. Đáng ngại nhất là kí sinh trùng sốt rét ác tính vẫn còn hoành hành, làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của bộ đội và nhân dân trong vùng.

Đến đầu tháng 10 năm 1980, cá đơn vị mới kéo quân về đủ. Binh đoàn mới thành lập, thiếu thốn đủ bề, lo ăn, ở cho hơn chục ngàn con người là vấn đề nan giải. Cùng một lúc, chúng tôi phải giải quyết một khối lượng công việc rất lớn: Tổ chức, biên chế lực lượng, ổn định ơi ăn ở, chuẩn bị cơ sở vật chất để đón bà con các nơi đến lập nghiệp, gắn bó lâu dài với cây cao su.

Cơ quan Binh đoàn đặt tại doanh trại cũ của Sư đoàn 3, ngay cạnh công ti. Sư đoàn là con đẻ của nhân dân miền Đông Nam Bộ, thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1974 tại tây bắc Bù Đăng. Cuối 1976, Sư đoàn về đóng quân ở Đức Hạnh, Phước Long. Từ năm 1977, Sư đoàn được trên giao nhiệm vụ làm cao su nên gọi là Sư đoàn 3 Cao su Phước Long.

Sau hai năm thành lập, Phú Riềng đó có 7 nông trường. Cơ quan Công ti chỉ có 43 người. Bước đầu chúng tôi họp và phân công: Công ti cao su Phú Riềng trồng mới khoảng 20.000 hécta cao su (40%) trong phạm vi 7 nông trường, tiếp tục chăm sóc, khai thác, chế biến cao su ở 2 nông trường cũ.

Binh đoàn 23 có nhiệm vụ: Trồng mới khoảng 30.000 hécta (60%), xây dựng 7 Nông trường mới, tiếp tục chăm sóc, khai thác 1.105 hécta cao su đang khai thác ở 2 nông trường cũ. Ngoài ra còn làm hệ thống đường nội bộ, sản xuất vật liệu xây dựng, vận tải...

Giám đốc Công ti cao su Phú Riềng là ông Đỗ Quý, tên thân mật là Tư Quý. Ông Quý lớn hơn tôi mấy tuổi, dáng cao lớn. Vốn là một chiến sĩ quân báo trong kháng chiến chống Pháp, năm 1954, ông theo đơn vị tập kết ra Bắc. Năm 1962, Đại úy Đỗ Quý chuyển ngành về Bộ Nông trường. Một thời gian dài ông là Giám đốc Nông trường Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Sau ngày giải phóng miền Nam ít lâu, ông về Nam, vẫn hoạt động trong lĩnh vực kinh tế. Khi Công ti cao su Phú Riềng nhận nhiệm vụ hợp tác với Liên Xô (cũ) trồng và chế biến cao su thiên nhiên, đang làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su, ông được giao kiêm chức Giám đốc Công ti. Ông là người rất nhiệt tình, tâm huyết với sự phát triển của cây cao su.

Sau mấy tháng chuẩn bị khẩn trương, cuối tháng 10 năm 1980, “cỗ máy” Binh đoàn 23 bắt đầu vận hành. Kế hoạch xây dựng các nông trường, kế hoạch bảo đảm hậu cần, triển khai lực lượng, địa bàn sản xuất, phương tiện cho từng đơn vị được cân nhắc, tính toán rất cụ thể và tỉ mỉ. Mệnh lệnh của Binh đoàn nhấn mạnh: “Vì nhân dân Phước Long, vì sự phát triển của cây cao su - ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, mỗi cán bộ, chiến sĩ hãy đạp bằng mọi gian khổ, hãy tự xoi rừng mà ở, đẩy lùi rừng rậm mà đứng chân, đoàn kết chặt chẽ với Công ti cao su Phú Riềng, với nhân dân Phước Long, cùng nhau tiến tới. Nơi nào có xe máy dùng xe máy, không có xxe máy thì dùng cuốc xẻng, dao rựa. Thiếu dao rựa thì lấy sắt thép bom đạn lép của giặc mà rèn nên dao rựa. Hãy bám trụ với mảnh đất này: một tấc không đi, một li không rời”...

Các đơn vị của Binh đoàn 23 tiến vào rừng. Rậm rạp và gai góc, bom đạn địch sót lại và cả thú dữ. Dùng máy MTZ đẩy rừng vào lấy chỗ mà đứng chân. Chỗ nào máy móc không có chỗ đứng thì bộ đội phát quang một vài chỗ, dựng tạm lên mấy cái lán tranh tre. Lại mưa rừng xối xả, lại chống chọi với muỗi, vắt, rắn, rết...
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #65 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2014, 09:20:37 am »

Nông trường 1 được thành lập trên cơ sở một bộ phận cán bộ Nông trưởng 19-5 Nghệ An do Bộ Nông nghiệp điều chuyển và một số sĩ quan của Trung đoàn 316. Ngoài ra, rút nguyên trung đoàn bộ và một khung tiểu đoàn sang đảm nhiệm quản lí, xây dựng Nông trường 2 tại xã Đa Kia, huyện Phước Long. Giám đốc nông trường là Trung đoàn trưởng Trần Mai Lâm; Phó Giám đốc là Nguyễn Hùng Xướng. Ngày đó, khu vực này rừng bạt ngàn, chỉ có một ít bà con Việt kiều từ Campuchia về và một số dân ở Phước Long vào sinh sống. Nhiệm vụ chính của Trung đoàn 316 là mở đường, làm nhà, khai hoang đất, chuẩn bị tiếp nhận lao động từ các tỉnh phía Bắc vào xây dựng nông trường.

Ngày ra quân khai hoang, đến đơn vị nào trong Trung đoàn 316, tôi cũng được chứng kiến cảnh lao động hăng say, hát hò, cười nói quên cả mệt nhọc. Anh em phát cây, đào gốc... mồ hôi ướt đẫm lưng áo, nhưng vẫn hát say sưa bài ca truyền thống mà tác giả là một cán bộ trong Trung đoàn: Ta tiến về Phước Long thân yêu, đây miền quê thân yêu ta giải phóng rồi. Gian khó còn vang câu ca, tô đẹp những trang truyền thống bất khuất, Mười Sáu ta quyết lập công. Trận tuyến cùng ta cùng hợp đồng, Đoàn chúng ta đã cùng một lòng. Một ngày ta không ngơi tay, cờ hòng ta luôn tung bay, cùng nhau ta chung tay dựng xây...

Trung đoàn 813 do ông Bùi Ngư làm Trung đoàn trưởng chia lực lượng ra để xây dựng 3 nông trường. Hôm xuống giao nhiệm vụ cho Trung đoàn, tôi động viên anh em: “Mình đã từng chiến đấu chống Mĩ, bảo vệ biên giới, nay được Đảng, quân đội giao nhiệm vụ mới. Bộ đội ta ở đây có khó khăn. Anh em mình cộng tác với nhau, thực hiện cho được ý định của Nhà nước, Bộ Quốc phòng”.

Ba nông trường do Trung đoàn 813 chịu trách nhiệm xây dựng, quản lí là: 3, 4 và 8. Nông trường 3 đứng chân trên đất xã Long Bình, huyện Phước Long, chưa có dân, không có lấy một “bóng hồng”, chỉ có rừng với bộ đội. Giám đốc Nông trường là đồng chí Trần Xuân Thu. Mấy tháng đầu, nông trường phải làm lấy đường mà đi, dựng lấy nhà mà ở. Khi đã có nhà, có đường, bộ đội bắt tay vào khai hoang, vỡ đất. Những chàng trai vùng châu thổ sông Hồng lần đầu biết thế nào là rừng miền Đông Nam Bộ. Anh em động viên nhau hăng say lao động, thật đúng là: Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.

Nông trường 4 nằm trên đất xã Long Hưng, do Thiếu tá Bùi Ngư - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 813 trực tiếp làm giám đốc. Giống như Nông trường 3, Nông trường 4 những ngày đầu cũng chỉ có các chàng trai quê đồng bằng Bắc Bộ. Trung đoàn bố trí thành 8 đại đội khai hoang. Mãi đến tháng 11 năm 1981, Nông trường 4 mới được bổ sung 676 lao động, tuyển từ số dân cư tại chỗ và điểm kinh tế mới Long Hưng chuyển qua làm cao su, lúc đó mới có tiếng nó cười của phụ nữ.

Nông trường 8 đặt tại thôn Phước An, xã Bình Phước, huyện Phước Long. Mấy tháng đầu, nông trược được giao khai hoang 10 hécta đất rừng để làm vườn ươm. Đến giữa năm 1981, nông trường đã khai hoang, trồng mới được trên 100 hécta cao su.

Trung đoàn 815 có nhiệm vụ xây dựng 3 nông trường: 9, 11, 12. Bộ máy quản lí các nông trường này đều do cán bộ Trung đoàn đảm nhiệm.

Trung đoàn 7 có nhiệm vụ xây dựng, quản lí Nông trường 5. Ngoài ra, Trung đoàn còn tiếp nhận một tiểu đoàn của Trung đoàn 316 còn lại, tiếp tục hoàn thành kế hoạch 1980 của Trung đoàn 316 bàn giao lại. Nhiệm vụ chính của nông trường này là mở đường, làm nhà, khai hoang đất, chuẩn bị tiếp nhận lao động các tỉnh phía Bắc như Quảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, Thái Bình, Hà Tây.

Trung đoàn 10 chuyên lo sản xuất vôi, xi măng ở Bình Long, cung cấp vật liệu xây dựng cho Binh đoàn và công ti.

Như vậy, mỗi trung đoàn có nhiệm vụ xây dựng, quản lí từ 1 - 3 nông trường, xí nghiệp. Cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn đồng thời được giao làm giám đốc, phó giám đốc nông trường và xí nghiệp. Binh đoàn còn được cấp trên giao nhiệm vụ cử 30 sĩ quan bổ sung vào bộ máy quản lí của công ti.

Công trình Cao su Phú Riềng là sự hợp tác Việt - Xô nên được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng. Ngay từ đầu năm 1980 - 1981, công ti đã vinh dự được đón các đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Đồng chí Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các đồng chí lãnh đạo cao cấp: Tố Hữu, Đỗ Mười, Võ Chí Công, Nguyễn Duy Trinh, Huỳnh Tấn Phát,… đến thăm và làm việc.

Tháng 12 năm 1980, Binh đoàn 2 vừa ổn định xong tổ chức, đang khẩn trương khai hoang, thì đồng chí Lê Duẩn về thăm và làm việc với công ti. Trước khi về công ti, Tổng Bí thư đã làm việc với Tổng cục Cao su, nghe đồng chí Đỗ Văn Nuống (Tư Nguyện) - Tổng cục trưởng báo cáo; “Tư Quý ở Phú Riềng không chịu làm thủ công, tốn lao động, tốn cơ giới”. Vừa xuống máy bay, đồng chí Lê Duẩn đã hỏi :”Ai là Tư Quý”. Giám đốc Tư Quý bước ra báo cáo với Tổng Bí thư. Đồng chí Lê Duẩn nói giọng gay gắt: “Kế hoạch trồng mới 5 vạn hécta cao su trong 2 năm phải xong. Chỉ được làm trong 2 năm thôi”. Dừng một lát, Tổng Bí thư nói: “Nếu không làm được thì nên nghỉ”. Buổi làm việc hôm ấy giữa Tổng Bí thư với công ti ngoài các cán bộ từ Trung ương, Tổng cục Cao su còn có Bí thư Tỉnh ủy, Thường vụ Tỉnh ủy Sông Bé, Bí thư Huyện ủy Phước Long. Đồng chí Giám đốc công ti lễ phép thưa với Tổng Bí thư: “Tôi xin 5 năm, không thể làm 2 năm được. Trong điều kiện hiện nay thời gian lẽ ra phải hơn, 5 năm làm xong 5 vạn hécta cao su đã là cố gắng lắm rồi”.

Nghe Tư Quý trình bày, những người cùng đi với Tổng Bí thư đều gật đầu xác nhận là ý kiến có cơ sở khoa học phù hợp với sự đầu tư của Liên Xô. Trước đó, giữa lãnh đạo Tổng cục Cao su và Công ti cao su Phú Riềng vốn đã có quan điểm không giống nhau về phương pháp trồng cao su. Chủ trương trồng cao su bằng cơ giới của chúng tôi bị một số người không đồng tình. Một số ý kiến cho rằng công ti không đi đúng sự chỉ đạo của Tổng cục Cao su: Trồng mới bằng thủ công. Tôi tán thành chủ trương của đồng chí Tư Quý: Trồng cao su bằng phương pháp khai hoang thủ công kết hợp với cơ giới ở một số khâu cần thiết. Còn các đồng chí lãnh đạo Tổng cục, chủ yếu là đồng chí Bảy Nghi thì bảo vệ ý kiến dùng lực lượng lao động thủ công là chủ yếu trong tất cả các khâu. Vốn là người khảng khái, ông Tư Quý đấu tranh đến cùng để bảo vệ quan điểm của mình, kể cả với cấp trên.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #66 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:34:34 pm »

Một tuần sau, đồng chí Tư Quý được mời về Văn phòng Trung ương 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh làm việc. Hôm ấy, ngoài đồng chí Tổng Bí thư, còn có một số đồng chí trong Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng, đồng chí Tố Hữu cũng có mặt. Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì buổi làm việc. Hôm ấy, không khí cuộc họp khá thoải mái. Ông Bảy Nghi phát biểu trước, phân tích khá dài. Theo đồng chí Bảy Nghi: “Làm cao su trong 5 năm sẽ được 4 vạn hécta”. Giám đốc Tư Quý được Tổng Bí thư chỉ định báo cáo cuối cùng. Vẫn giọng nói chậm rãi, ông Tư Quý nói: “Làm cao su không thể chạy theo số lượng mà phải chú ý tới chất lượng. Tuổi thợ khai thác, chất lượng mủ cao su này sẽ được quyết định ngay từ khâu chọn giống, kĩ thuật ươm, làm hố trồng, chăm bón. Không thể làm cao su hoàn toàn bằng thủ công mà phải kết hợp với cơ giới trong một số công đoạn”. ý kiến của ông được nhiều đồng chí có mặt trong hội trường đồng tình. Tổng Bí thư Lê Duẩn gõ gõ nhẹ cây bút lên cuốn sổ, gật đầu.

Kết thúc buổi họp, đồng chí Lê Duẩn đến gần Tư Quý, chủ động bắt tay Giám đốc Công ti cao su Phú Riềng, nói: “Thông cảm nhé”.

Công trình Cao su Phú Riềng (hợp tác Việt - Xô) không chỉ “nóng” tại các hội nghị mà còn lan ra cả hiện trường. Đi đâu trong Công ti và Binh đoàn cũng thấy bàn tán về cây cao su. Kế hoạch trong 5 năm 1980 - 1984 trồng mới 5 vạn hécta cao su mà Giám đốc Đỗ Quý là tác giả bảo vệ, được đồng chí Tổng Bí thư của Đảng chấp thuận. Kế hoạch đó chính là mệnh lệnh của Đảng, mỗi cán bộ, công nhân, chiến sĩ Công ti cao su Phú Riềng và Binh đoàn 23 phải nỗ lực, quyết tâm thực hiện.

Trong một hội nghị các giám đốc nông trường với Binh đoàn 23, đồng chí Tư Quý nói rất kĩ về quy trình kĩ thuật khai hoang, về thực hiện kế hoạch. Ông căn dặn Bộ Tư lệnh Binh đoàn 23 và tôi:

- Với đơn vị nào, với giám đốc nào, lỡ không thực hiện đúng sản lượng, kế hoạch thì dừng lại xem xét kỉ luật. Còn giám đốc nào không thi hành đúng với quy trình kĩ thuật thì kỉ luật ngay.

Sang năm 1981, thế và lực của Binh đoàn đã có bước phát triển mới, đủ khả năng để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thấy thời cơ đã chín muồi, Bộ Tư lệnh Binh đoàn hạ lệnh bước vào chiến dịch lớn. “Chiến trường” là một vùng rừng núi với những địa danh gọi tên nghe vô cùng thân thiết: Phước Long, Bình Long, Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Nho, Bù Phú, Đa Kia... Năm xưa, vào chiến dịch với súng ống, xe tăng, pháo lớn, nay là những cỗ máy cày, máy ủi, máy xúc cùng hàng ngàn con người lần đầu làm quen với khai hoang vỡ đất, trồng cao su. Năm xưa vào chiến dịch là để tiêu diệt quân xâm lược, nay chúng tôi đi trải màu xanh, làm ra nhiều “vàng trắng” cho đất nước.

Khó khăn lớn nhất của Công ti cao su Phú Riềng thời kì ấy là đường đi lại, sốt rét, bệnh tật, cơ sở vật chất nghèo nàn. Mỗi năm nông trường thiếu ăn từ 3 - 4 tháng. Bốn nông trường cũ đều nằm ở bìa rừng, cách trung tâm công ti chừng 10km. Sáu nông trường mới lập phải vào sâu hơn, có nông trường chưa có đường ô tô và cũng chưa có đường mòn đi bộ, anh em phải cắt rừng lội suối mất 2 - 3 ngày mới tới như Nông trường 3.

Mùa khô, những cánh rừng cao su vào mùa thay lá. Bầu trời miền Đông Nam Bộ nắng chói chang, cao vời vợi. Những người lính vừa đi qua chiến tranh, gương mặt rắn rỏi, tự tin bước vào trận đánh mới. Cuộc chiến đấu này không có tiếng bom gầm, đạn réo, không có đổ máu nhưng cũng lắm gian nan, vất vả.

Để giải bài toán sử dụng lao động cho hàng ngàn con người cùng với khối lượng máy móc, thiết bị đồ sộ làm tôi nhiều đêm mất ngủ. Phải tính toán chi tiết việc gì làm trước, việc gì làm sau. Buổi đầu khởi nghiệp, đơn vị nào cũng gặp phải hàng núi khó khăn. Nông trường 3 nằm sâu nhất, lại ngăn cách bởi con suối Rơi, về mùa mưa không vào được. Binh đoàn phải chi viện bằng cách điều chiếc xe công trình chở gạo, mắm, muối. Nhiều lần gặp dốc cao, đất dính chặt vào bánh, xe không đi được. Những lúc ấy, bộ đội phải chịu đói. Từ đó, anh em mới rút ra được bài học. Trước khi vào mùa mưa Nông trường phải dự trữ 3 tháng gạo ăn.

Đường ô tô chưa có, bộ đội phải đi lại chủ yếu bằng đôi chân. Những cố máy kéo to kềnh của Liên Xô viện trợ không thể vào đến nông trường, anh em phải làm lán cho xe máy cách đó cả chục cây số, khi có đường mới đưa vào.

Phát quang, khai hoang là công việc gian lao, phức tạp nhất đều do bộ đội Binh đoàn 23 đảm nhiệm. Ngày ấy, những cánh rừng ở Sông Bé còn hoang vu, cây cối rậm rạp, rắn độc và thú dữ còn nhiều. Để có đất khai hoang, nhiều chỗ anh em phải đối rừng, công việc rất vất vả. Nhưng với sức lực cường tráng và ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn của người chiến sĩ, chúng tôi đã làm theo lời dạy của Bác Hồ: Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua.

Quân đội là trường học lớn. Để làm chủ những nông trường cao su, xí nghiệp chế biến, sản xuất vật liệu, Binh đoàn đã mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn kĩ thuật: trồng stum bầu, stum trần và hạt; kĩ thuật ươm cây, ghép cây, chăm bón, phòng chống sâu bệnh; kĩ thuật vận hành máy móc, trang thiết bị... Các lớp tập huấn đều được bộ đội chấp hành nghiêm túc, vận dụng thời gian để học, nhất là thực hành. Học tập trung chưa đủ, về nhà anh em còn trao đổi sôi nổi, học hỏi kinh nghiệm lớp thợ đi trước. Có chiến sĩ còn cao giọng: “ Đánh giặc khó thế mà chúng mình chả sợ nữa là”.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #67 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:34:58 pm »

Miền Đông vốn có hai mùa mưa và khô rõ rệt. Mùa mưa chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong lao động, sản xuất. Còn về mùa khô lại thiếu nước sinh hoạt, nước phục vụ sản uất. Công ty giao cho chúng tôi đắp đập, cải tạo thành 3 cái hồ lớn tại Nông trường 5 và Nông trường 6, mỗi cái rộng tới mấy hécta. Thi công hồ kéo dài hàng tháng vì chủ yếu do công sức bộ đội và chỉ có sự hỗ trợ một phần của máy móc. Không chỉ bảo đảm nước sinh hoạt cho bộ đội, nhân dân, nước tưới cao su, hồ còn làm tăng vẻ đẹp cảnh quan, rất tốt cho môi trường sinh thái.

Chung một công trường cao su Phú Riềng nhưng lại có hai chế độ. Bộ đội hợp tác, cán bộ, công nhân hưởng theo lương kinh tế, đôi khi có cả tiền thưởng. Còn Binh đoàn 23, từ Đại tá Tư lệnh đến chiến sĩ đều hưởng lương và phụ cấp của quân đội. Bữa ăn bộ đội phải độn bo bo, thực phẩm chủ yếu là cá khô, mắm ruốc. Trong lúc đó chiến sĩ có rất nhiều người sinh ra ở Sài Gòn, từ nhỏ không phải lao động, gia đình khá giả, được nuôi dưỡng tốt. Vào bộ đội, phải lao động nặng nhọc, ăn uống kham khổ, một số chiến sĩ đã bỏ về nhà. Có tháng, bộ đội ốm do sốt rét lên tới 70%. Chỉ tính trong 3 năm từ 1980 - 1982, số dân chết vì sốt rét lên tới 320 người. Bệnh xã 7B của Binh đoàn do bác sĩ Nguyễn Bá Thư và Lí Xuân Lới phụ trách nhiều hôm không đủ giường vì bệnh nhân đông.

Một lần đi qua đơn vị bộ đội đang khai hoang, thấy anh em nghỉ giải lao quá thời gian. Tôi đến động viên làm đúng giờ, anh em nói: “Ăn như vậy, làm như vậy thủ trưởng ạ”. Tôi nói với anh em: “Đúng là điều kiện ăn uống của bộ đội ta chưa đáp ứng với nhu cầu lao động nặng nhọc. Nhưng đây là khó khăn của cả nước, chứ không riêng gì Binh đoàn, chúng mình phải cùng nhau khắc phục. Ăn như thế mà làm tốt hơn mới là Bộ đội Cụ Hồ. Tôi nhìn rất nhanh một lượt những gương mặt trẻ măng, thấy thương anh em. Sau vài câu chuyện vui, anh em cười như pháo nổ rồi đứng bật dậy, “chảo thù trưởng”, rồi lại cầm lấy dụng cụ, tiếp tục làm việc hăng say.

Từ tháng 12 năm 1981, trên diện tích Binh đoàn đã mở, từng hàng lán trại bộ đội đã làm xong, công ty đã tiếp nhận một số lượng lớn lao động từ các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị... vào làm cao su theo sự điều động của Bộ Lao động. Sau khi nhân dân đã ổn định nơi ăn ở, bộ đội lại huấn luyện cho họ kĩ thuật trồng, chăm sóc cao su. Binh đoàn còn giao đất cho từng hộ gia đình để khai hoang, trồng mới cao su. Lúc đầu do khí hậu không tốt, dân bị sốt rét, ốm đau, bệnh tật, có người đã không qua khỏi. Nhưng cây cao su không phụ công người, phát triển nhanh, đời sống của nhân dân khá dần lên từ đó.

Từ ngày Binh đoàn vào chiến dịch, tôi cảm thấy thời gian đi nhanh quá. Ban ngày phải có mặt tại hiện trường, trưa cùng ăn cơm trộn bo bo với bộ đội. Tối đến tôi mới ngồi vào bàn để đọc, xử lí công văn, giấy tờ. Tôi còn phải kiểm tra, xem xét lại tiến độ công việc trong ngày; suy nghĩ, chuẩn bị nội dung chỉ đạo trong ngày lao động hôm qua. Công việc rất nhiều nên có đêm tôi phải thức trắng.

Sau mỗi ngày, thấy hình hài những nông trường cao su hiện dần lên, ai cũng mừng. Những ngôi nhà tranh nứa lá của bà con đến làm cao su mọc lên ngày một nhiều. Có cả những đôi uyên ương dắt tay tay nhau vào phòng cưới. Tiếng trẻ con hát ê a, tiếng bà ru cháu đã nhen dần lên niềm hi vọng, làm ấm một vùng đất mới cao su. Đất được vớ màu đỏ au, phơi mình dưới nắng miền Đông trông rất thích mắt. Tiếp đó là cày xới đất, đào hố, ươm cây, trồng rừng. Từng vạt cao su mới trồng được bàn tay bộ đội chăm sóc, lên xanh như cánh tay con trẻ.

Không có bất cứ trở ngại nào mà người chiến sĩ không vượt qua được. Mồ hôi, công sức bộ đội đã cho thành quả bước đầu.

Năm 1982, đồng chí Đỗ Quý đi nhận công tác khác, đồng chí Trần Văn Phước được cấp trên điều về làm giám đốc công ti.

Năm 1872, là một năm tăng tốc, phấn đấu quyết liệt của Binh đoàn 23. Lúc này, quân số của Binh đoàn đã lên tới 17.000 người - một lực lượng làm kinh tế hùng hậu, trên vùng đất cao su giàu tiềm năng. Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn trong sản xuất và sinh hoạt nhưng bộ đội không hề phàn nàn, kêu ca. Tôi thật sự vui mừng trước những kết quả Binh đoàn đạt được.

Năm 1982, Thiếu tướng Võ Văn Thạnh - Phó Chính ủy Quân khu 7, tăng cường cho Tổng cục Cao su lên kiểm tra Phú Riềng. Thay cho bản báo cáo, tôi đưa ông xuống kiểm tra trực tiếp các cơ sở sản xuất. Tất cả 7 nong trường trồng cao su, 4 xí nghiệp chế biến, các đơn vị vận tải, cầu đường, xây dựng vật liệu do Binh đoàn đảm nhiệm đều thực hiện nghiêm túc, bảo đảm kế hoạch đề ra, làm đến đâu chắc đến đó. Thiếu tướng Võ Văn Thạnh rất hài lòng và khen ngợi Binh đoàn không chỉ biết làm kinh tế mà còn làm giỏi. Sau mấy ngày đi thị sát, tận mắt chứng kiến sự đổi đời của cây cao su Phú Riềng, Tướng Võ rất vui. Ông nói với tôi: “Đưa Binh đoàn 23 vào hợp tác với Phú Riềng là một giải pháp hoàn toàn đúng và sáng suốt trong thời điểm hiện nay. Chỉ có người chiến sĩ mới đủ bản lĩnh để vực Phú Riềng dậy và phát triển. Tổng cục Cao su rất cảm phục và biết ơn các anh”.

Cuối năm 1983, Binh đoàn 23 hoàn thành nhiệm vụ làm kinh tế trên công trình Cao su Phú Riềng. Đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ của Binh đoàn trở về quân đội. Một số anh em được giải quyết chính sách. Do yêu cầu xây dựng công ti và nguyện vọng của một số anh em, Binh đoàn đã cho chuyển ngành tại chỗ trên 120 sĩ quan và hạ sĩ quan. Số anh em ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ quản lí các nông trường, xí nghiệp, cơ quan. Trong Bộ Tư lệnh, anh Trương Văn Ba được giao nhiệm vụ ở lại, tiếp tục giữ cương vị Phó giám đốc; anh Bùi Thiếp làm Bí thư Đảng ủy Công ty cao su Phú Riềng.

Tôi trở lại quân đội theo mệnh lệnh của cấp trên. Ba năm với bây nhiêu ngày, chúng tôi cùng nhau đồng cam cộng khổ, vui buồn có nhau nên khi chia tay anh em thật cảm động.

Tự hào thay về quân đội của chúng ta - Trường học lớn không chỉ đào tạo chúng tôi giỏi cầm súng mà còn thích nghi nhanh với cái mới, biết làm và làm kinh tế giỏi. Đúng như câu thơ của Bác: Không có việc gì khó.

Ba năm, chỉ hơn 1.000 ngày nhưng tập trung cao nhất trong năm 1982, Binh đoàn đã khai hoang hàng chục ngàn hécta, trồng mới 2.300 hécta cao su, dựng hàng trăm ngôi nhà, lập làng công nhân cao su, mở hàng trăm kilômét đường, đào đắp hàng triệu mét khối đất... Có người nói đó là một kì tích. Nếu như thời kì trước đổi mới, làm kinh tế ở Quân khu 7 có nhiều trung tâm, nhiều nơi làm nhưng Binh đoàn 23 để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng cán bộ, công nhân viên và nhân dân địa phương. Thành quả ấy thật to lớn, có ý nghĩa sâu sắc và lâu dài về kinh tế và quốc phòng trên một địa bàn quan trọng.

Một vùng rừng núi bạt ngàn, hoang sơ, còn nhiều bom mìn sót lại sau chiến tranh, kí sinh trùng sốt rét, bênh tật... nhờ bàn tay, khối óc của Bộ đội Cụ Hồ đánh thức đã thành một vùng cao su trù phú. Công ti cao su Phú Riềng từ chỗ ốm yếu, đứng trước nguy cơ phá sản đã được tiếp thêm sức, bình phục trở lại, để phát triển, lớn mạnh.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #68 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:35:32 pm »

Lễ bàn giao Binh đoàn 23 cho quân đội diễn ra trang trọng và cảm động. Tham gia buổi lễ có Trung tướng Đặng Kinh - Chủ nhiệm Tổng cục Kinh tế; Thiếu tướng Bùi Cát Vũ - Phó Tư lệnh Quân khu 7, ông Đỗ Văn Nuống, - Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su, đại diện tỉnh Sông Bé, địa biểu các huyện trên địa bàn Binh đoàn đứng chân. Về phía Binh đoàn có các đồng chí chỉ huy, các Trung đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phó các phòng ban nghiệp vụ. Các đồng chí trong Ban Giám đốc Công ty Phú Riềng phát biểu rất cảm động về Binh đoàn. Tôi nhớ mãi câu nói của Tổng cục trưởng Tổng cục Cao su Đỗ Văn Nuống: “Công ty cao su Phú Riềng hợp tác với Liên Xô (từ năm 1978 - 1979) như một con voi khổng lồ bị sa lầy nay nhờ có Binh đoàn 23 của bộ Quốc phòng đến kịp thời kéo nó lên, đẩy cho nó đi được một khúc dài như ngày nay. Tổng cục Cao su hết sức cảm ơn Bộ Quốc phòng, Quân khu 7”.

Lời lẽ của ông Tư Nguyện thành thật và xúc động. Không khí buổi lễ bàn giao như có nốt trầm buông xuống. Lát sau ông Tư Nguyện nói tiếp: “Đề nghị Bộ Quốc phòng và Quân khu 7 cho anh Năm Phúc ở lại làm Tổng cục Phó kiêm Giám đốc Công ty cao su Phú Riềng”. Trung tướng Đặng Kinh nhìn mọi người, cười rõ to: “Không được, Năm Phúc phải về quân đội”. Nói xong, Tướng Đặng Kinh quay sang hỏi tôi; “Ý anh Năm thế nào?”. Tôi trả lời: “Cao su cần thì tôi ở thêm vài năm nữa, sau đó cho tôi về lại quân đội”. Ông Tư Nguyện cười nói: “Ở lại thì ở lại luôn còn không thì chúng tôi chẳng dám giữ”.

*

Tháng 6 năm 2008, nhận lời mời của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Phú - Giám đốc, tôi mới có dịp trở lại thăm Công ti cao su Phú Riềng. Sau 25 năm, Phú Riềng giờ đã đổi khác, lớn mạnh, giàu có. Các anh trong công ti đưa tôi đi thăm Nông trường 3, Nông trường 5. Trên mảnh đát năm xưa được coi là gian khổ nhất, giờ Nông trường 3 đã có bước phát triển lớn mạnh, được Nhà nước tặng thưởng 2 Huân chương Lao động. Bốn năm nay (2006 - 2009), Nông trường đạt trên 2 tấn mủ cao su 1 hécta/năm. Giám đố nông trường hôm nay là chị Trương Thị Nghĩa, rất trẻ và giỏi giang nữa.

Nông trường 5 hiện quản lí 1.449 hécta cao su, trong đó có gần 1.000 hécta đang khai thác. Nhiều năm nay, nông trường đều vượt con số trên 2 tấn mủ 1 hécta/năm. Giám đốc Phạm Trong Thuần cho tôi biết, có được kết quả ấy là do nông trường đã áp dụng khoa học kĩ thuật và phương pháp quản lí tiên tiến. Đưa tôi đi thăm cánh rừng cao su Binh đoàn 23 trồng năm 1981, Giám đốc Phạm Trọng Thuần nói giọng vui và tự hào: “Những vườn cây cao su sau 25 năm chắt chiu từng giọt mủ, góp phần làm giàu cho Tổ quốc, nay đã hoàn thành nhiệm vụ. Đất được vỡ lại, cây cao su non lại thay thế lớp thế hệ trước. Cứ thế, một chu kì cây cao su mới lại bắt đầu”.

Nông trường 5 có một “Phòng Hồ Chí Minh”. Các buổi phát động thi đua, tổng kết, khen thưởng, kết nạp Đảng viên... đều diễn tra trong căn phòng sang trọng và có ý nghĩa này,.

Tôi vui sướng và tự hào về sự lớn mạnh, phát triển vượt bậc của Công ty cao su Phú Riềng - Một trong những đơn vị hàng đầu của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam.

Tôi vui mừng gặp lại một số anh em của Binh đoàn 23. Số anh em ở lại nhiều người thực sự có năng lực và phẩm chất, lần lượt làm giám đốc Nông trường, xí nghiệp: Trần Mai Lâm, Nghiêm Đình Chuộng, Nguyễn Bật Vấn, Lê Phùng Thịnh, Bùi Văn Thàng, Nguyễn Thế Trản, Nguyễn Rèn, Nguyễn Văn Vượng, Phùng Đức Bản, Phạm Lê Kì, Phạm Hữu Quyền, Đặng Hồng Hiến... Các anh Hoàng Văn Cầu - Chánh Văn phòng; Hoàng Thanh Tình - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra. Các anh Phan Tiến Lu, Trần Hoàn Kiếm, Nguyễn Chính Niên, Nguyễn Văn Thâ... đều giữ các cương vị công tác quan trọng tại cơ quan công ty. Thiếu tá Hà Nguyên Cát sau này làm Giám đốc Công ti cao su Phú Riềng.

Dòng sữa từ những vườn cây cao su của Công ty Phú Riềng không ngừng tuôn chảy, là nguồn “vàng trắng” góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Các sản phẩm cao su Phú Riềng không chỉ phục vụ cho công nghiệp chế biến trong nước mà còn xuất khẩu đến với nhiều nước trên thế giới. Phú Riềng không chỉ đã thành thương hiệu mạnh và uy tín của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam.

Lớp lớp cán bô, công nhân viên Công ty cao su Phú Riềng đã và đang tô thắm truyền thống “Phú Riềng Đỏ” anh hùng.

*

Ngay từ khi mới thành lập, quân đội ta đã có 10 lời thề danh dự. Đứng dưới cờ Tổ quốc, dưới lá Quân kì quyết thắng, người chiến sĩ đặt tay lên trái tim mình, hô: “Xin thề” theo 10 điều thiêng liêng ấy. Suốt cuộc đời quân ngũ của mình, tôi luôn thực hiện nghiêm cẩn 10 Lời thề danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Là Tư lệnh Binh đoàn 23, tôi đã cùng với cán bộ, chiến sĩ vượt mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tôi tự hào vì mình đã thực hiện trọn vẹn lời thề thứ 2 của quân đội ta: Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cấp trên, khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực, thi hành nhanh chóng và chính xác.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #69 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2014, 02:36:02 pm »

12. HẠNH PHÚC

Bây giờ tôi mới có dịp nhớ lại những kỉ niệm riêng tư của mình. Thời gian trôi nhanh thật, hạnh phúc thật đấy mà cứ ngỡ trong mơ.

Tháng 5 năm 1954, đang hành quân đánh địch ở Tây Nguyên, tin Điện Biên Phủ thắng lớn, làm chúng tôi vui sướng, ôm lấy nhau, hò reo vang động cả một cánh rừng. Tôi nghĩ, chiến thắng Điện Biên Phủ làm quân Pháp thất bại, buộc chúng phải cuốn gói về nước. Từ nay đất nước sẽ hòa bình, mình sẽ được về nhà cầm lấy cái cuốc, cái cày, lao động xây dựng cuộc sống mới.

Thực hiện Hiệp định đình chiến, Trung đoàn 803 được lệnh rút khỏi Tây Nguyên về lại đồng bằng. Niềm vui chiến thắng, nỗi mong chờ được gặp lại người thân hiện rõ trên gương mặt mỗi người. Trung đoàn “xuống núi” theo đường 14 - Con đường đã in dấu chiến công trong suốt dặm dài đánh giặc của tôi.

Trung đoàn tập kết ở dải đồng bằng Phú Yên. Là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, vốn có vùng tự do rộng lớn, nhân dân Phú Yên đã từng dành những hạt gạo, củ khoai nuôi chúng tôi suốt những tháng năm chiến đấu gian khổ.

Dừng chân ở Phú Yên được mấy ngày, đơn vị tôi chuyển ra đóng quân ở xã Đức Tân, huyện Mộc Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Lúc này từ bắc Quảng Ngãi vào đến bờ bắc sông Vệ là khu tập kết của đối phương; từ bờ nam sông Vệ vào đến Quy Nhơn Bình Định là khu vực tập kết 300 ngày của ta.

Mộ Đức là huyện có cả bờ biển, đồng bằng và núi của tỉnh Quảng Ngãi. Trong kháng chiến chống Pháp, Mộ Đức vừa là chiến trường và là vùng tự do. Đại đội tôi đóng quân ở xã Đức Tân, là địa phương giàu truyền thống cách mạng, nơi cung cấp nhiều sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta.

Lúc ấy, tôi là Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 39 thuộc Trung đoàn 803 chủ lực Liên khu 5. Mải mê đánh giặc, tôi không kịp yêu, bây giờ đất nước hòa bình, ngoảnh lại, thấy mình đã gần 30 tuổi. Trong chiến đấu tôi được anh em đánh giá là gian lì, dũng cảm nhưng khi đứng trước nữ thanh niên lại rụt rè, nhút nhát. Về đóng quân trong làng, tôi thầm để ý đến một cô giá. Ấy thế mà tôi không dám mở lời, nên cậy nhờ đến Chính trị viên phó đại đội Nguyễn Văn Nhi. Anh Nhi cùng tuổi với tôi nhưng đã có vợ con, lại rất giỏi làm công tác quần chúng. Sau khi nghe tôi trình bày, anh Nhi rít một hơi thuốc lào rồi thủng thẳng nói:

- Phải đồng thời tiến hành “nhiều mũi tiến công”. Nghĩa là gặp gỡ, làm quen cô gái, gây cảm tình với gia đình và nhờ cả đoàn thể giúp đỡ.

Gợi đúng sở trường công tác dân vận của mình, anh Nhi nói với tôi rất nhiều kinh nghiệm tiếp cận đối tượng. Tôi nghe chăm chú như cậu học trò lắng nghe bài giảng sinh động của thầy giáo. Anh còn kể cả chuyện mình đi hỏi vợ cho tôi nghe.

Được Chính trị viên phó Đại đội chỉ cho cách tiếp cận, các anh trong Ban Chỉ huy động viên nhưng tôi vẫn thấy run. Tôi nghĩ, lấy vợ như một trận công đồn, phải được chuẩn bị kĩ, biết “địch”, biết ta mới chắc thắng. Nếu đánh thắng thì vui và tự hào, còn thất bại sẽ bị tổn thất lực lượng, lại xấu hổ, không còn mặt mũi nào mà nhìn mọi người. Mình thuốc hàng quá lứa, còn cô gái ấy mới 18 tuổi, lại xinh đẹp, liệu có thành công?

Vốn là lính trinh sát, tôi quyết định làm công tác “điều tra, nghiên cứu” đối tượng. Sau gần một tháng, tôi đã làm xong “công tác chiến trường”. Cô ấy tên là Trần Kiều Sửu, quê ở xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Cha tên là Trần Tiến Hòe, mất năm 1937, khi cô ấy chưa được một tuổi. Má là bà Ngô Thị Thu, đi bước nữa, theo chồng về xã Đức Tân, huyện Mộ Đức. Nhà có hai an hem, anh cả là Trần Tiến Dân, Trần Kiều Sửu là con gái út đi theo má về sống ở Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi. Người cha dượng Trần Hàm vốn là du kích Ba Tơ, đảng viên từ năm 930. Nói đến ông Trần Hàm, cả huyện Mộ Đức ai cũng biết. Vốn là cán bộ hoạt động có uy tín tại địa phương nên ông là bạn thân của các cán bộ lãnh đạo như đồng chí Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chánh, Nguyễn Đôn và nhiều người trong Bộ Tư lệnh Liên khu 5.

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu 5 bước vào thời kì khó khăn, gian khổ và ác liệt nhất, Đảng điều ông Trần Hàm vào công trác trong quân đội. Được giao làm Trưởng ban Quân nhu Liên khu 5, ông đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm lương thực, thực phẩm, quân trang cho bộ đội ta chiến đấu thắng lợi.

Mẹ cô ấy là bà Ngô Thị Thu, sinh năm 1915, tham gia hoạt động sôi nổi trong tổ chức phụ nữ cứu quốc. Bà là người hoạt động tích cực trong phong trào “Hội mẹ, chị chiến sĩ”, được nhiều đơn vị bộ đội yêu mến và cảm phục.

Hơn 10 tuổi, cô ấy đã tham gia Đội Thiếu niên cứu quốc; sau đó vào Đoàn Thanh niên cứu quốc hoạt động rất sôi nổi. Trần Kiều Sửu được phân công làm công tác tuyên truyền, kêu gọi đồng bào tin tưởng vào Việt Minh, không theo giặc, “một tấc không đi, một li không rời”; đẩy mạnh tăng gia sản xuất góp phần nuôi bộ đội đánh Pháp. Cô ấy còn là cây văn nghệ xuất sắc của chi đoàn thanh niên. Có dạo, nhiều người thấy cô ấy làm giáo viên Bình dân học vụ, xóa mù chữ, “diệt giặc dốt” tại quê hương.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM