Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:18:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký ức đường Trường Sơn  (Đọc 29797 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2008, 07:07:35 pm »

Năm 1964, tôi được tham gia phục vụ triển lãm “10 năm kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ". Một buổi sáng, tôi còn nhớ đó là  hôm thứ ba, ngày 21 tháng 7 năm 1964, triển lãm đóng cửa. Lý do: đón Bác Hồ đến thắm.


Tôi được phân công giới thiệu chính giữa, nhưng vì quá sốt ruột, tôi cứ chạy ra mé ngoài ngóng trông Bác đến. Ôi! Bác đã xuống xe, giản dị trong bộ quần áo nâu với đôi dép lốp, dáng đi rất nhanh nhẹn. Tôi vội chạy về vị trí, hồi hộp nhẩm đi nhẩm lại lời thuyết minh, để lát nữa giới thiệu với Bác cho được lưu loát.


Bác xuất hiện từ cuối gian bên. Đi cạnh là Bộ trưởng Bộ Văn hoá Hoàng Minh Giám. Đi sau là giám đốc khu triển lãm trung ương Lê Minh Tuấn. Thấy tôi đứng đó, Bác liền hỏi:

-Chú là chiến sĩ Điện Biên? (Có lẽ Bác nhìn thấy tôi đeo hu hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ).

-Thưa Bác, vâng ạ!

-Chú ở binh chủng nào?

-Thưa Bác, cháu ở pháo cao xạ.

-À! Hồi đó pháo cao xạ lần đầu ra trận, đánh tốt lắm! Thôi, chú giới thiệu đi! Vắn tắt thôi nhé!

Bao nhiêu câu chữ mạch lạc trong đầu tôi bỗng chạy đi đâu mất. Tôi thuyết minh một cách lúng túng. Bác không nghe tôi giới thiệu nữa. Bác tự xem lấy, thỉnh thoảng quay lai trao đổi đôi điều với Bộ trưởng Hoàng Minh Giám.

-Ảnh này khá đẹp, nhưng phải sửa lại đôi chút cho đẹp hơn! Chú hiểu chứ! Retoucher (là sửa, là chấm lại những nét hư trên ảnh).

Bộ trưởng mỉm cười, gật đầu.

-Mấy ảnh này sao không có lời chú thích? Phải ghi chú thích để cho đồng bào mình ai xem cũng hiểu được!-Ông bộ trưởng lại gật đầu, lĩnh ý của Bác.

Đến chỗ trưng bày hàng sứ Hải Dương. Bác quay sang hỏi tôi:

-Đồ sứ ta đẹp, nhưng còn dày và nặng. Có đúng không chú?

Tôi ấp úng đáp:

-Thưa Bác, đúng ạ!

-Hồi ở Paris, Bác cũng đã từng làm thợ rơ-tút ảnh và thợ vẽ hoa trên gốm, sứ đấy!

Tôi buột miệng: “dạ!” một cách chung chung.

Phút chốc Bác đã đi qua gian trưng bày bên cạnh. Tôi đứng lặng nhìn theo, bâng khuâng như mất một cái gì.

Sau khi xem xong toàn khu triển lãm, nhìn thấy anh chị em cán bộ, nhân viên, các cháu gái thuyết minh đứng ngấp nghé xa gần, Bác khoát tay nói với giám đốc khu triển lãm cho tập hợp anh chị em lại để chụp ảnh chung với Bác.

Mừng quá, chúng tôi chạy ùa ra vây lấy Bác. Tôi nhanh chân đến gần. Bác bảo:

-Nào! Chiến sĩ Điện Biên vào đây!

Tôi vội vàng đứng ngay bên phải Bác, thầm ”cảm ơn” cái huy hiệu Điện Biên Phủ đeo trên ngực.

-Kìa! Các cháu gái ngoài kia, vào gần hơn!-Bác đưa tay vẫy vẫy.

-Các chú nhiếp ảnh! Thay nhau vào đứng chụp với Bác đi!

Ai nấy đều vui. Chụp ảnh xong. Bác ra hiệu cho tất cả ngồi xuống. Bác cũng ngồi ngay trên thềm nhà. Đương nhiên là tôi cũng ngồi xuống ngay cạnh Bác. Đã bao nhiêu năm qua nhưng tôi không sao quên được những lời Bác dặn hôm ấy, đại ý:

-Trước tiên, Bác khen các cháu, dù khách xem triển lãm đông, thời tiết nóng bức, thời gian kéo dài, các cháu vẫn phục vụ hết sức nhiệt tình. Bác rất vui! Nhưng Bác phê bình các cháu: vệ sinh chưa tốt, bụi bặm còn nhiều. Một số ảnh chưa đẹp và thiếu lời chú thích. Trời nắng nóng, nhưng còn thiếu thùng nước uống cho bà con, nhất là bà ở con nông thôn lên.

-Triển lãm này giới thiệu thành tích mười năm xây dựng miền Bắc, nhưng cũng chính là vì miền Nam đó. Miền Bắc xây dựng tốt, thì đồng bào miền Nam mới tin tưởng, mới hăng hái đấu tranh, nước nhà mới mau thống nhất. Vậy các cô, các chú hãy vì miền Nam mà ra sức góp phần xây dựng miền Bắc tốt hơn.

-Bác chúc các cô, chú mạnh khoẻ, tiếp tục phục vụ đồng bào đến xem triển lãm tốt hơn nữa.

Rồi Bác ra về. Chúng tôi ngẩn ngơ nhìn theo. Trong tim mỗi người đều in đậm bóng hình và những lời chỉ dạy của Người. Điều cảm động nhất là lúc nào Bác cũng nhớ đến miền Nam.

Tối 31 tháng 12 năm 1964, Cục Đối ngoại Chính phủ tổ chức chúc mừng năm mới, với sự có mặt của tất cả các vị đại sứ các nước và nhiều chuyên gia bạn, cùng nhiều khách mời về phía Việt Nam. Nghe tin có Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự, nhiều người chen nhau ra phía cổng chính, hy vọng được đón Bác ngay từ đầu. Không lọt được vào phía cổng, tôi đành tìm chỗ đứng ở gần khu trung tâm, nơi đã có các ông bà đại sứ đứng đợi.


Đã đến giờ, không thấy ôtô Bác đến, những người đứng phía cổng chính bắt đầu sốt ruột. Không ngờ, chắc là do yêu cầu của công tác bảo vệ, xe chở Bác lại vào lối khác. Bác xuống xe, bất ngờ xuất hiện ngay sau lưng mọi người. Tôi quay lại, nhìn thấy Bác đi vào, gần quá, rõ quá! Hôm nay Bác mặc bộ đồ kaki màu nhạt, chỉ khác là chân đi giày da, tác phong của Người vẫn thật gần gũi, cởi mở.


Bác lần lượt bắt tay các đại sứ, các chuyên gia và phu nhân. Bác tươi cười nói chuyện với người này, người khác (không qua phiên dịch). Tôi cảm nhận trên gương mặt các ông bà đại sứ, chuyên gia đều ánh lên nét hân hoan, vui sướng được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau lời chúc mừng năm mới của Bác, tiếng vỗ tay nổi lên, kéo dài. Rồi bác lại hoà vào đám đông, tiếp tục bắt tay, chúc mừng… Khi Bác lên xe ra về, nhiều người còn bâng khuâng, luyến tiếc vì không được gần Bác thêm nữa. Riêng tôi, mỗi lần được gặp Bác, nhìn thấy Bác, đều để lại một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Và đó cũng là những giây phút hạnh phúc nhất trong đời tôi.


Ngày 3 tháng 9 năm 1969, lúc đó đơn vị tôi đóng ở Hà Nội, được tin Bác mất, cán bộ. chiến sĩ trong đơn vị tôi ai nấy đều rưng lệ.

Lắng nghe Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Hà Nội truyền đi những câu thơ rung động lòng người của Tố Hữu càng làm chúng tôi thương nhớ Bác khôn nguôi:

“Bác đã đi rôi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.
Miền Nam đang thắng mơ ngày hội.
Rước Bác vào thăm thấy Bác cười”.


Ba ngày trước hôm làm lễ quốc tang truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoà trong dòng người bất tận và trong tiếng khóc nức nở xé lòng của các mẹ, các chị, các em, tôi bước vào hội trường Ba Đình viếng Bác. Trong chiếc quan tài bằng pha lê, bác nằm như đang ngủ, đôi dép lốp đơn sơ đặt dưới chân Người…


Thấm thoắt đã hơn hai năm, đêm nay giữa núi rừng Trường Sơn, trên con đường mang tên Bác, những người lính chúng con đang nhớ đến Bác, hát về Bác với tất cả nỗi lòng kính yêu vô hạn.

Cuộc chiến đấu đầy hy sinh gian khổ vẫn còn tiếp diễn, đang chờ chúng con. Nhưng, dù cho khó khăn quyết liệt đến mấy, chúng con cũng xin nguyện sinh tử cùng với con đường mang tên Bác để cho mạch máu nối liền Nam-Bắc không một ngày ngừng chảy, để cho miền Nam thân yêu mau được giải phóng hoàn toàn.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2008, 07:29:33 pm »

Đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình


Sau gần một đêm hành quân vất vả, tôi cùng một anh bạn đồng hành ngủ thiếp đi trên chiếc giường tre, trong căn nhà nhỏ “nửa chìm” của anh chị Thón, ở một xóm nhỏ ven đường 15, gần ngã ba Vạn Ninh, lối rẽ lên đường 10.

Sáng ra, tôi bỗng giật mình thức giấc vì tiếng gọi thất thanh của một em bé:

-Các chú bộ đội ơi! Xuống hầm đi! Máy bay!

Tiếp theo là tiếng gầm rú của bầy máy bay phản lực Mỹ. Như một phản xạ tự nhiên, chúng tôi lăn người xuống đất, rồi lao vào một cửa hầm bên vách nhà.


Hai loạt bom nổ. Mái nhà tranh trên đầu chúng tôi bị bóc một mảng lớn. Tiếp sau là hai loạt bom bi. Thôn xóm yên lành, với những căn nhà tranh nhỏ bé, phút chốc ngập chìm trong lửa cháy và khói bom mù mịt.

Trong tiếng máy bay xa dần, tôi bỗng nghe từ chiếc hầm bên cạnh vang lên tiếng kêu đứt quãng: “Mạ ơi! Mẹ ơi!” Hai chúng tôi vọt lên khỏi nơi trú ẩn, chạy sang. Một cảnh tượng thương tâm bầy ra trước mắt: bé Trung, đứa con trai chừng tám tuổi của chị Thón, mình trần, đang quằn quại trong đau đớn.


Xem qua một lượt, chúng tôi chợt cảm thấy vô cùng bối rối bởi vì không biết phải băng bó chỗ nào. Một quả bom bi rơi trúng miệng hầm. Những viên bi độc ác bắn thủng khắp người em. Từ hàng chục vết thương lỗ chỗ trên đầu, mặt và toàn thân em bé, những dòng máu tươi ứa ra, tràn lênh láng…


Lòng tôi đau như cắt. Bé Trung đã cứu sống chúng tôi, nhưng chính em lại không thoát được bàn tay giết người của giặc Mỹ. Sáng sớm hôm nay, khi vác cuốc đi làm, có ý để chúng tôi ngủ thêm lấy sức hành quân tiếp, anh chị Thón đã để bé Trung ở nhà, với mấy củ khoai lang trong rổ, cùng lời dặn: “Khi mô có máy bay, phải chạy ngay xuống hầm và nhớ kêu mấy chú bộ đội, nghe con!”.

Vậy mà…

Đêm ấy theo kế hoạch, chúng tôi tiếp tục lên đường, nhưng với cõi lòng nặng trĩu. Tiếng gọi “Các chú bộ đội ơi! Xuống hầm đi!” và tiếng khóc xé lòng của người mẹ ôm xác con trên tay đã khắc sâu trong trái tim một nỗi xót đau không bao giờ nguôi.


Tôi bắt đầu bằng câu chuyện có thật trên đây, để tiếp theo, xin được giới thiệu đôi nét về đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình, quê tôi.

Ngày 16 tháng 12 năm 1963, khi vào thăm đồng bào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Bác Hồ đã nói: “Nếu kẻ địch gây ra chiến tranh đối với miền Bắc, thì Quảng Bình, Vĩnh Linh là nơi đụng đầu trước hết; quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh phải bảo đảm đánh thắng chúng trước hết”. (Tư liệu “Những sự kiện trong chiến tranh chống Mỹ trên đất Quảng Bình (1954-1975) của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Bình).

Thực tế đã diễn ra như thế nào?

Ngày 5-8-1964, khi đế quốc Mỹ bất ngờ cho 64 chiếc máy bay từ hai hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation vào ném bom nhiều nơi trên miền Bắc, thì chính Quảng Bình là nơi diễn ra trận đánh đầu tiên. Tám máy bay A4D ném bom Cảnh Gianh và Mũi Ròn (cùng đợt với 8 chiếc khác đánh Vinh-Bến Thuỷ), Quảng Bình cũng là nơi đầu tiên bắn rơi máy bay Mỹ. Một chiếc A4D cắm đầu xuống biển (cùng lúc với Vinh-Bến Thuỷ bắn rơi 2 chiếc khác).


Sang đầu năm 1965, cùng với việc ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam nước ta, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 2 năm 1965, Mỹ đã mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại đẫm máu và kéo dài ấy bằng những cuộc giội bom xuống Đồng Hới và Vịt Thu Lu của Quảng Bình, Hồ Xá của Vĩnh Linh. Trong hai ngày đó, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh đánh giỏi thắng lớn, bắn rơi 8 máy bay Mỹ. Thế là đúng như lời Bác Hồ dự báo, trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ với miền Bắc: Quảng Bình, Vĩnh Linh đã là nơi đụng đầu trước hết, quân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh đã đánh thắng chúng trước hết.


Quay lại thời điểm tháng 1 năm 1959. Từ máu lửa sục sôi của cách mạng miền Nam, Đảng ta đã cho ra đời một văn kiện lịch sử đó là Nghị quyết 15. Nghị quyết của Trung ương Đảng chỉ rõ phương pháp chiến lược mới của cách mạng miền Nam nước ta là: “Đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà”.


Thực hiện chủ trương chiến lược nói trên, ngày 19 tháng 5 năm 1959, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã quyết định thành lập Đoàn 559, với nhiệm vụ: “Mở đường giao liên, mở đường vận tải quân sự, để chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam".


Những cán bộ, chiến sĩ tiên phong của Đoàn 559 đã lấy Khe Hó thuộc huyện Vĩnh Linh làm căn cứ đầu tiên. Nhưng chỉ ít lâu sau, họ đã chuyển sang địa điểm mới. Đó là Làng Ho, thuộc huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình, một thung lũng rộng, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, để làm bàn đạp cho nhiệm vụ mở đường.


Từ Khe Hó của Vĩnh Linh, Làng Ho của Quảng Bình, những chuyến gùi thồ đầu tiên mang gạo, muối, súng đạn tiếp tế cho Trị Thiên và Khu 5, cùng những chuyến giao liên đưa cán bộ, bộ đội ra vào và chuyển thương binh từ Nam ra Bắc, góp phần thúc đẩy cách mạng miền Nam đi lên.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2008, 07:31:11 pm »

Cách mạng miền Nam càng phát triển, quân dân miền Nam càng cần có vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men… Không thẻ nhờ mãi vào đôi chân, đôi vai và những chiếc xe đạp thồ nhỏ bé. Đã đến lúc phải vận chuyển hàng bằng ôtô, phải cơ giới hoá đường chi viện chiến lược.


Để có một tầm bao quát trên thực địa, hướng tới việc thiết lập một hệ thống giao thông vận tải quân sự trên tuyến 559, vào một ngày cuối tháng 2 năm 1960, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Bí thư Tỉnh uỷ và Trưởng ty Giao thông Quảng Bình, bằng máy bay lên thẳng, bay khảo sát một vòng, từ Đồng Hới lên Làng Ho, dọc theo Trường Sơn, ra tận Tuyên Hoá rồi quay trở lại Đồng Hới (Theo tư liệu đã dẫn).


Từ đây, nhiệm vụ xây dựng hệ thống đường ôtô vận tải quân sự được tổ chức thực hiện hết sức khẩn trương. Bộ Giao thông cùng với tỉnh Quảng Bình và Đoàn 559 đã phối hợp thành lập hàng chục công trường, gồm hàng ngàn thanh niên nam nữ, con em của sáu huyện thuộc Quảng Bình, để gấp rút mở những đường lớn. Trước tiên là con đường từ Thạch Bàn qua Vịt Thu Lu lên Làng Ho (về sau gọi là đường 16). Tiếp theo là củng cố, sửa chữa, mở rộng đường 15, từ Khe Ve, Đá Đẽo vào đến Thác Cóc, Bến Quang.


Tháng 5 năm ấy, cũng tại Quảng Bình, sau khi đến thăm và biểu dương các lực lượng làm đường. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói với đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ: “Để bảo đảm sự chi viện với mức độ ngày càng tăng cho miền Nam, chúng ta nhất thiết phải có đường ô tô vận tải quân sự phía bên kia Trường Sơn, nhất thiết phải có những con đường lớn vượt Trường Sơn qua phía tây”.


Công trường 12A được thành lập để củng cố đoạn đường từ Khe Ve đến đèo Mụ Giạ. Sau đó, được sự chấp nhận của bạn Lào, thông qua một văn bản hiệp định, chúng ta thành lập thêm công trường 129, để làm tiếp con đường từ Mụ Giạ đến ngã ba Lằng Khằng.


Không khí lao động trên các công trường làm đường rất sôi nổi. Đâu đâu cũng mọc lên những khẩu hiệu nói lên quyết tâm của nhân dân đến Quảng Bình, của các chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong Đoàn 559: “Một người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả vì miền Nam thân yêu”.


Do vị trí đặc biệt của mình, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với Vĩnh Linh, Quảng Bình đã trở thành hậu phương trực tiếp của miền Nam. Nếu tính riêng hai cuộc chiến tranh phá hoại thì Quảng Bình là tỉnh đi trước, về sau, cũng là tỉnh chịu đựng nhiều nhất sức nặng của cuộc “Chiến tranh ngăn chặn, huỷ diệt” hết sức tàn bạo của Mỹ, nhằm bóp nghẹt cái nơi mà chúng gọi là “yết hầu”, “cổ chai”, “cán soong”, chỗ hẹp nhất trên bản đồ đất nước.


Sau khi Đoàn 559 thành lập, rồi Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra đời, Quảng Bình trở thành căn cứ chủ yếu của tuyến chi viện chiến lược, là xuất phát điểm của hầu hết các con đường vượt khẩ từ đông sang tây. Từ những chuyến giao liên và giao hàng nhỏ lẻ của thời kỳ gùi thồ, cho đến những binh đoàn lớn, điệp trùng ra trận trong mùa xuân 1975, tất cả đều đến đây, qua đây, dừng chân ở đây và từ đây xuất phát.


Nhìn lên tấm bản đồ tổng thể của đường Hồ Chí Minh chạy dài từ Hương Khê (Hà Tĩnh) đến Đồng Xoài (Sông Bé), ở khu vực Quảng Bình ta thấy chi chít những đường dọc, đường ngang.

Các tuyến dọc có:

-Quốc lộ 1A: từ Đèo Ngang đến Hạ Cờ.

-Quốc lộ 15A: từ Khe Ve đến Thác Cốc.

Đó là chưa kể các con đường tránh 22A, 22B ở huyện Quảng Trạch và rất nhiều đường nhánh khác ở phía nam sông Gianh.


Các tuyến ngang trên địa bàn Quảng Bình (một phần tiếp qua Vĩnh Linh hoặc sang phía tây, bên đất bạn) có:

-Đường 12A: từ Khe Ve đến đèo Mụ Giạ, xuôi xuống ngã ba Lằng Khằng (Tiếp theo là những con đường dọc: 128-129 đi về phía Nam).

-Đường 20 (còn gọi là đường Quyết Thắng): từ Phong Nha đến ngã ba Lùm Bùm.

-Đường 10: từ ngã ba Áng Sơn đến ngã ba Dân Chủ.

-Đường 18: một nhánh tách ra từ kilômét 32 đường 20 vào đến Sêpôn.

-Đường 16 (còn gọi là đường Thống Nhất): từ ngã ba Thạch Bàn, qua Làng Ho, qua ngã ba Dân Chủ vào tạn Bản Đông.

Đây là tuyến đường vượt khẩu chủ yếu của toàn hệ thống đường Hồ Chí Minh.

Ngoài đường bộ, trên đất Quảng Bình còn có đường vận tải trên biển, trên sông. Chính từ cảng Thanh Khê, một phân đội thuyền chở vũ khí của “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”, đã rời bến vào Nam. Đó là đơn vị đầu tiên mở đường cho tuyến “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Tiếc thay, giữa đường gặp bão lớn, chuyến đi không thành. Quảng Bình còn huy động hàng trăm tàu thuyền ngày đêm vượt đạn bom ngăn chặn, ngược xuôi các dòng sông Gianh, sông Son, sông Ròn, Nhật Lệ, Long Đại, Kiến Giang để vận chuyển hàng cho Đoàn 559.


Về đường không: từ năm 1960, một cầu hàng không đã được thành lập, nối tiền Đồng Hới với Làng Ho, bằng những chiếc máy bay An-2 nhỏ bé, tạo chân hàng cho các đơn vị vận tải gùi thồ vượt tuyến. Đến tháng tư năm 1961, có thêm một cầu hàng không khác, từ Đồng Hới đến Thà Khống (Nam Lào), để phục vụ cho chiến dịch mở rộng vùng giải phóng của bạn Lào ở Tây Trường Sơn. Lại có cả những cánh bay MiG-17, xuất kích từ sân bay dã chiến Khe Gát ở huyện Bố Trạch, ngày 19 tháng 4 năm 1972 đã lập công đánh trọng thương tàu khu trục Mỹ.


Ngoài đường bộ, đường thuỷ, đường không, đi qua Quảng Bình còn có một tuyến đường đặc biệt, cũng là đường thuỷ, nhưng:

“Là nước mà không phải sông.
Là đường mà có nước bên trong
Đó là đường ống”

(thơ Trịnh Quý)

Quảng Bình được giao nhiệm vụ góp phần xây dựng và bảo vệ tuyến đường ống vận chuyển xăng dầu từ Bắc vào Nam, theo các trục đường 12A, đường 10, đường 18, vượt đỉnh Trường Sơn, toả đi các hướng chiến trường.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2008, 07:32:21 pm »

Để góp phần bảo vệ tuyến chi viện chiến lược, phối hợp với lực lượng phòng không của Đoàn 559 và Quân chủng Phòng không-Không quân, Quảng Bình có những đơn vị súng, pháo cao xạ chiến đấu giỏi và kiên cường. Từ những trận đánh mở đầu thắng lợi đến cả quá trình chiến đấu quyết liệt chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai của Mỹ, các lực lượng phòng không tại Quảng Bình, có cả bộ đội tên lửa, đã hiệp đồng chặt chẽ với nhau, vững vàng bám trụ trên hầu hết các trọng điểm nổi tiếng nhất. Họ đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ từng chiếc cầu, phà, từng đoạn đường xung yếu, góp phần giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, cho những dòng xe không ngừng chảy về Nam trong suốt 10 năm. Con số 704 máy bay Mỹ bị quân dân Quảng Bình bắn rơi trong hai cuộc chiến tranh phá hoại là một dẫn chứng thật hùng hồn.


Cùng với mạng lưới đường sá giao thông và lực lượng bảo vệ giao thông như trên, còn có một hệ thống gồm những căn cứ, cơ quan đầu não, các chiến sĩ hậu cần, quân y kho tàng các binh trạm, của Đoàn 559, phần lớn được bố trí, cất giấu trên khắp các địa phương của Quảng Bình.


Về căn cứ và cơ quan đầu não: có căn cứ Đoàn 559 ở Làng Ho, có sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ở Hoà Tiến, ở Xuân Ninh, Hiền Ninh. Chính sở chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch Đường 9-Nam Lào, năm 1971, cũng đặt tại núi An Mã trong địa phận Quảng Bình.


Về kho tàng: có những tổng kho lớn ở Hoá Tiến thuộc huyện Tuyên Hoá, Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, Xuân Bồ thuộc huyện Lệ Thuỷ. Còn có những kho trung chuyển ở Rào Đá, Rào Trù… cùng hàng trăm chân hàng trên các bến bãi, ven đồi ven núi, trong những rừng cao su, cạnh xác xóm làng. Lại thêm hàng ngàn khó nhỏ lẻ giấu trong các đền chùa hoặc gửi trong nhà dân, hoàn toàn ký thác cho dân.


“Nhà dân là kho hàng, gia chủ là thủ kho”, nhưng hàng của nhà nước, của quân đôi không hề mất mát. Khẩu hiệu của dân Quảng Bình là: “Cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn, của rơi trả lại”; “Hàng ta, ta quý ta yêu, hàng ra tiền tuyến, hàng tiêu diệt thù”.


Nhân dân Quảng Bình coi việc bảo vệ tuyến đường chi viện cho miền Nam là nhiệm vụ đầu tiên, là tình cảm thiêng liêng của mỗi người. Phong trà “Xe chưa qua, nhà không tiếc” bắt nguồn từ xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. Để cứu một xe chở hàng bị sa lầy, đằng sau là cả đoàn xe đang ùn lại, mẹ Choàng đã cho dân quân xã phá dỡ ngôi nhà thân yêu của mình, để lấy gạch ngói, cột kèo lát đường cho xe qua.


Khẩu hiệu “Đường chưa thông, không tiếc máu, tiếc xương” được nhân dân Quảng Bình thể hiện khắp nơi, trên mọi nẻo đường, trên mỗi dòng sông, bến nước, ở bất cứ xóm thôn nào, trong những cánh rừng và cả ngoài khơi biển rộng. Điển hình nhất là sự kiện xảy ra vào một đêm tháng 6 năm 1972. Đoạn đường ngầm ở Hói Hạ ở bờ nam sông Gianh bị bom phá hỏng. Nhân dân các xã lân cận đã được huy động, cùng thanh niên xung phong của Đoàn 559 ra sửa gấp. Máy bay Mỹ lại đến giội bom. 48 người dân quê tôi cùng 40 thanh niên xung phong nam nữ quê Hà Tây đã ngã xuống. Những hàng trăm người khác, ngay đêm sau lại xông ra, lấp bằng các hố bom, san phẳng mặt ngầm, rồi làm cọc tiêu hướng dẫn cho các đoàn xe vượt ngầm tiếp tục đi vào phục vụ chiến dịch Trị Thiên.


Có thể nói nhân dân Quảng Bình đã chấp nhận một sự trả giả lớn lao về sinh mạng và của cải cho sự sống còn của con đường lịch sử. Biết bao tên người như: mẹ Suốt chèo đò qua sông Nhật Lệ, anh hùng Võ Xuân Khuể lái canô, kéo phà, anh hùng Nguyễn Văn Tương lái đò chở bộ đội, chở súng đạn, Nguyễn Viết Lân dũng sĩ phá bom nổ chậm ở Cà Tang, tiểu đội thanh niên xung phong Trần Thị Lý bám trụ kiên cường trên đèo Ba Trại, tiểu đôi Nguyễn Thị Kim Huế thuộc đại đội 759 anh hùng trên ngọn đồi 37, đường 12… đã đi vào huyền thoại, cùng với sự nghiệp hơn mười năm bảo vệ mạch máu Bắc-Nam.


Biết bao tên đất, tên làng của Quảng Bình như: La Trọng, Bãi Dinh, Khe Ve ở đường 12; đèo Đá Đẽo, phà Xuân Sơn, phà Long Đại, phá Thác Cốc trên đường 15; phà Ròn, phà Gianh, phà Quán Hàu trên đường 1; cua 68, cua chữ A, ngầm Tà Lê, đèo Phu-la-nhích trên đường 20… đã trở thành những địa danh lịch sử cùng với đường Hồ Chí Minh.


Trong những tháng năm đánh Mỹ, tôi đã cùng với đơn vị mấy lần vượt Trường Sơn vào Nam ra Bắc. Quảng Bình đã từng là chặng đường dừng chân của chúng tôi, trước lúc đi vào chiến trường hoặc sau khi ở chiến trường ra. Ở nơi đâu trên đất Quảng Bình, chúng tôi cũng được sống trong tình thương của các “bọ, mạ” (Bọ, mạ: bố mẹ) của các anh chị, các em. Tuy cuộc sống khó nghèo, nhưng tấm lòng của bà con luôn rộng mở.


Làm sao quên được những đêm mưa gió, xe pháo chúng tôi bị sa lầy, bà con thôn xóm xung quanh đã đem những bó cây, gánh củi, có khi cả cột nhà, tấm phản, lát đường cho xe pháo vượt qua. Nhà nào cũng vậy, khi bộ đội qua làng, nửa đêm ghé lại, cả gia đình dồn xuống nhà dưới, nhường nhà trên cho bộ đội ở. Có giường ngủ giường, có nống ngủ nống (nống: cái nong phơi lúa). Có lần chính tôi đã được phép ngả lưng ngay trên chiếc “hòm” của cụ Hậu, thôn Cổ Giang, chiếc quan tài đóng sẵn cho cụ đợi ngày đi xa.


Đồng bào Minh Hoá dọc đường 15, nghèo nhất tỉnh, phần lớn các tháng trong năm chỉ ăn sắn, ăn bồi (bồi: hạt bắp giã nhỏ, nấu thành cơm ăn) nhưng quanh năm không mất khi vắng mặt các anh bộ đội trú quân trong làng. Những đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, hoặc từ mặt trận trở về, đơn vị này vừa đi, đơn vị khác lại đến, cứ thế ròng rã hàng chục năm.


Tôi còn nhớ hình ảnh mẹ Bào, bà mẹ hiền từ chất phác ở thôn Đại Hữu, từ bếp bưng lên một rá khoai còn nóng hổi: “Khoai con Cẩn vừa mới bới trên nương. Các con ăn đi! Nhà mẹ nghèo nỏ có chi (không có gì) cho các con cả”. Ôi! Chỉ mấy củ khoai lang với một tấm lòng của bà mẹ già mà thân thiết bao nhiêu.


Mấy ngày trú quân ở thôn Cổ Giang, sau khi đánh trận ở Quảng Trị trở ra, các thương bệnh binh đơn vị chúng tôi đã được các mẹ đưa về gia đình chăm sóc tận tình chu đáo. Thấy áo quần anh em bộ đội không lành lặn, các chị em đã đề nghị với cấp chỉ huy cho tập trung quần áo lại để chị em vá giúp. Thôn xóm vắng bóng những nam thanh niên, vì các anh đã lên đường chiến đấu. Các mẹ, các chị, các em dồn tình thương cho các anh bộ đội qua làng. Có những đêm, thấy các chị không ở nhà, chúng tôi hỏi, các mẹ cho biết: “Chúng nó tập trung đi sửa đường, san lấp hố bom”.


Người dân Quảng Bình gắn bó với đường Trường Sơn, mạch máu chảy từ Bắc vào Nam như máu thịt, như ruộng đồng quê hương mình. Mỗi đoạn đường của tuyến chi viện chiến lược đi qua đều có đóng góp to lớn của quân dân Quảng Bình.


Chiến tranh qua rồi. Quá khứ không bao giờ trở lại. Ghi chép những dòng hồi ức trên đây, tôi tự hào về Quảng Bình quê tôi một thời đánh Mỹ, đã có hơn ba ngàn ngày “sống chết” với đường Hồ Chí Minh.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2008, 07:24:25 am »

Từ đường Trường Sơn chúng tôi đi vào chiến dịch Hồ Chí Minh


Sau chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12 năm 1972, từ cương vị một trung đoàn trưởng ở dưới đơn vị, tôi được điều lệ cơ quan Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không-Không quân, làm Phó phòng Cao xạ. Ngoài công việc bộn bề trong phạm vi quân chủng, tôi còn được giao thêm nhiệm vụ nắm và theo dõi các lực lượng phòng không ở chiến trường phía Nam. Qua liên hệ với Phòng Quân lực và Phòng Tác chiến, nhất là với các đoàn công tác ở trong Nam ra, dần dà tôi đã nắm được những điều cơ bản về tình hình lực lượng và hoạt động của các đơn vị cao xạ trên các Mặt trận Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ và Đoàn 559. Việc có vẻ ít liên quan ấy không ngờ lại trở thành thuận lợi cho tôi, khi tôi được đi B công tác vào năm sau.


Tháng 1 năm 1975, ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, quân ta đánh to thắng lớn. Báo đài đưa tin: ngày 6 tháng 1, quân giải phóng miền Nam đã làm chủ toàn tỉnh Phước Long. Tôi rất phấn khởi, nhưng thật ra, trong nhận thức khi đó, tôi chưa hiểu được gì nhiều về ý nghĩa của chiến thắng nói trên.


Thế rồi tôi nhận được lệnh chuẩn bị đi B và may mắn làm sao, sáng 25 tháng 1 năm 1975, tại hội trường Quân chủng Phòng không-Không quân, chúng tôi được đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và nói chuyện. Hôm ấy, Đại tướng nói không nhiều, nhưng phân tích tình hình rất sâu sắc. Tôi còn nhớ những ý chính:

“Sau Hiệp định Paris, toàn bộ quân Mỹ, quân các nước phụ thuộc đã rút khỏi nước ta. Nhưng chính quyền Mỹ và chính quyền Thiệu đã ngang nhiên xé bỏ hiệp định. Mỹ tuôn ồ ạt vũ khí vào miền Nam Việt nam. Thiệu thì hung hăng hò hét “tràn ngập lãnh thổ”, đưa quân tiến hành hàng loạt cuộc tiến công lấn chiếm các vùng do ta kiểm soát.

“Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết 21 khẳng định: “Nhân dân ta không có con đường nào khác là phải tiếp tục con đường bạo lực cách mạng để giải phóng hoàn toàn miền Nam". Trung ương Đảng còn nhận định: “Một khi vì thất bại, buộc phải rút khỏi nước ta, đế quốc Mỹ khó có thể quay trở lại”.

“Tháng 1 năm 1975, bằng chiến sĩ Phước Long, chỉ trong một tuần lễ, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống hơn 4.000 tên địch. Toàn tỉnh Phước Long được giải phóng. Nguyễn Văn Thiệu hốt hoảng cầu cứu Mỹ can thiệp, nhưng Mỹ làm ngơ. Tổng thống G.Ford tuyên bố: “Quân Mỹ không thể quay lại Việt Nam, vì Quốc hội Mỹ không cho phép”. Vậy là qua đòn Phước Long, ta đã nắm được gân cốt của Mỹ. Phải tranh thủ giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất.

“Riêng đối với Quân chủng Phòng không-Không quân, một mặt phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, mặt khác phải ra sức tăng cường lực lượng phòng không tối đa cho cách mạng miền Nam".


Lắng nghe lời đồng chí Tổng tư lệnh, Bí thư Quân uỷ Trung ương lòng chúng tôi vô cùng phấn chấn. Tối hôm đó đến thăm anh Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, tại nhà riêng, tôi được anh nói rõ thêm tình hình và động viên: “Cậu biết không? Sau trận Phước Long, mặc cho “tổng” Thiệu gào thét, bọn Mỹ vẫn đánh bài lờ. Không quân Mỹ đã không trở lại ném bom miền Bắc nước ta như chúng từng hăm doạ. Sư đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ đóng tại Okinawa-Nhật Bản, vẫn án binh bất động tại chỗ. Tàu sân bay Enterprise được lệnh rời Subic tiến vào Biển Đông, nhưng sau đó đã ngoặt hướng, lặng lẽ chuồn sang Ấn Độ Dương. Bọn Mỹ đã bỏ cuộc. Tình hình ở miền Nam sắp tới sẽ phát triển rất nhanh. Cậu được đi B kỳ này là một vinh dự rất lớn, cũng giống như hồi 1954 cậu được đi được đi dự chiến dịch Điện Biên Phủ. Chắc chắn cậu sẽ được gặp lại mẹ và các em ở Sài Gòn (Bố mẹ tôi vào Sài Gòn làm ăn từ những năm 40. Năm 1974 bố tôi mất. Còn lại mẹ và 3 em. Anh Lê Văn Tri là anh rể tôi) trong một ngày không xa”. Anh giơ hai ngón tay, nói nhỏ: “Hai năm!”.


Sáng 27 tháng 2 năm 1975, đoàn đi B chúng tôi, với đầy đủ thành phần của một sở chỉ huy tiền phương, gồm bốn cơ quan, do dat Trần Quang Hùng, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân chỉ huy, lên đường. Riêng bộ phận tác chiến chúng tôi có khoảng 15 anh em, do trung tá Phạm Sơn làm trưởng phòng và tôi, thiếu tá, làmphó phòng, trực thuộc Bộ Tham mưu tiền phương quân chủng, do trung tá tham mưu phó Lê Thanh Cảnh phụ trách.


Sau Tết Ất Mão khoảng nửa tháng, chúng tôi rời Hà Nội. Đoàn xe chúng tôi theo quốc lộ số 1 vào Quảng Bình. Khi qua phà Gianh, tôi bỗng nhớ về quê hương ở đây một thời bom đạn (Tôi quê xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, ở ngay phía nam bến phà Gianh). Cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm bằng không quân của Mỹ đã tàn phá quê tôi đến hoang tàn. Biết bao dân làng của hai bờ bắc-nam sông Gianh cùng các chiến sĩ phòng không, giao thông vận tải đã ngã xuống vì sự sống còn của bến phà, trước sự đánh phá quyết liệt ngày đêm của máy bay Mỹ.


Nhìn lên phía tây, điệp trùng một dải Trường Sơn, mờ xa và huyền ảo trong ánh nắng chiều. Tôi hình dung con đường 15 quen thuộc, chạy dài dưới chân rặng Trường Sơn, giờ đây chắc đang thiếu vắng những đoàn xe vận tải tấp nập vào ra như vài ba năm trước.


Qua Thanh Khê, chúng tôi vượt đèo Lý Hoà vào Đồng Hới, nghỉ đêm tai sân bay. Sáng hôm sau, chúng tôi đi tiếp vào Đông Hà, rồi rẽ phải, theo đường 9 lên hướng Khe Sanh. Khi trời lành lạnh. Xe chúng tôi đi trong gió thổi ngược chiều và trong khung cảnh nhộn nhịp của những đoàn xe ra trận. Những chiếc xe Hồng Hà chở quân, những chiếc xe Din kéo pháo, và những chiếc xe tăng tự hành… nối đuôi nhau, xen kẽ, tung bụi mịt mù.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2008, 07:25:16 am »

Qua Tân Lâm, Đầu Mầu, nơi khúc quanh của đường 9, nhớ lại trận đánh xuất sắc của trung đoàn pháo cao xạ 230, thuộc Sư đoàn 367 chúng tôi, hồi chiến dịch Trị Thiên, tại đây, bắn hạ bảy máy bay Mỹ. Sắp đến địa phận huyện Hướng Hoá. Những câu hát mà tôi rất thích: “Anh thắng trận miền tây Khe Sanh. Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy, Đồi Động Tri xác Mỹ chất đầy. Tính! Tính…” trong bài “Tiếng đàn Ta Lư” của Huy Thục, bỗng rộng lên trong lòng tôi. Nó gợi lên hình ảnh những tên lính thuỷ đánh bộ Mỹ, 5 tháng trời bị giam chân trong cứ điểm Tà Cơn. Kiên trì vây hãm địch, tiến tới giải phóng toàn bộ thung lũng Khe Sanh là chiến công rất xuất sắc của quân giải phóng, để cho đường vận tải chiến lược của chúng ta liền mạch ở cả hai phía đông và tây Trường Sơn.


Vùng giải phóng tỉnh Quảng Trị, đã từng là chiến trường ác liệt nhất năm 1972, hôm nay thanh bình quá đỗi. Các đơn vị pháo cao xạ, tên lửa của sư đoàn phòng không 673 và 377 vẫn luôn trực ban sẵn sàng chiến đấu, nhưng trên bầu trời kia không còn bóng dáng những pháo đài bay B52 của Mỹ đêm ngày đến “rải thảm”, cùng hàng đàn hàng lũ máy bay cường kích A6, A7, F4… thay nhau lồng lộn, bắn phá, ném bom… Đó đây, vẫn còn vết tích chiến tranh, còn những hố bom loang lổ, nhưng trước mắt tôi, những doanh trại bộ đội, nhà ở của đồng bào, của các cơ quan Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, các cửa hàng mậu dịch, trường học, trạm xá mọc lên san sát trên các ngọn đồi, ven những dòng sông, khúc suối. Đơn vị cơ quan nào cũng có cổng chào với dòng chữ in màu vàng trên nền đỏ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Trên một số bãi, đậu la liệt những máy bay, máy kéo “mới ra lò”, màu sơn còn đỏ chói. Lại còn nhiều máy ủi, máy xúc, sơn màu vàng rực của các đơn vị công binh Trường Sơn.


Tuy nhiên, đó là dáng vẻ bề ngoài. Mấy hôm sau tôi được biết, bên trong khung cảnh bình yên ấy, vùng giải phóng Quảng Trị đang là một trong những điểm nóng tích cực chuẩn bị cho một trận quần chúng chiến lược kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm của dân tộc. Khắp nơi dưới những tán rừng rậm, trong nông trường cà phê xanh ngát, là cơ man nhưng súng ống đạn dược của đủ loại binh chủng hiện đại, cũng những kho hậu cần đầy ắp hàng hoá, trùm kín ni lông, đang ẩn mình, đợi chờ đến lượt đi về phương Nam.


Cơ quan Tiền phương Quân chủng chúng tôi tạm thời đặt bên cạnh cơ quan Sư đoàn Phòng không 377, thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Sau khi triển khai xong sở chỉ huy, trừ một bộ phận nhỏ trực ban, hầu hết cán bộ chúng tôi được tung đi xuống các đơn vị cao xạ, tên lửa, rada có mặt trong vùng, để nắm lại thực lực và công tác chuẩn bị hành quân.


Đến trung đoàn 263, còn gọi là đoàn Quang Trung, đơn vị tên lửa phòng không duy nhất có mặt ở vùng giải phóng sau Hiệp định Paris, chúng tôi ngỡ ngàng trước những khu doanh trại khang trang, xen lẫn những vườn rau xanh tốt trên những thửa ruộng bậc thang, cùng những vườn hoa sắc màu rực rỡ quanh các lán trại. Bộ đội ta đi đến đâu cũng giữ nếp sống lạc quan. Ban chỉ huy trung đoàn chiêu đãi chúng tôi một bữa cơm thật ngon, bằng những món ăn ”rau nhà, gà vườn”.

Trong phòng làm việc, anh Tích, trung đoàn trưởng, cho chúng tôi biết:

“Vào một ngày cuối tháng 2 năm 1973, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã đến thăm trung đoàn. Tổng Tham mưu trưởng căn dặn bốn điều mà chúng tôi còn nhớ mãi:

1.Sẵn sàng chiến đấu cao để bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. Đối tượng tác chiến là không quân nguỵ.

2.Ra sức huấn luyện để nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật và khả năng hành quân cơ động trên mọi địa hình phức tạp.

3.Sẵn sàng cơ động bất cứ lúc nào, đến bất cứ nơi đâu, trên toàn mặt trận phía Nam.

4.Chăm lo nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho chiến sĩ".


Anh Tích nói tiếp: “Hôm qua chúng tôi đã nhận được lệnh chuẩn bị hành quân vào Tây Nguyên. Đảng uỷ, Ban chỉ huy trung đoàn đã họp, ra nghị quyết lãnh đạo và lên kế hoạch tổ chức thực hiện. Hôm nay được cơ quan quân chủng đến, thật là dịp may cho chúng tôi. Anh Liễn, Chính uỷ, và tôi sẽ báo cáo mọi việc. Sau đó mời các đồng chí xuống các đơn vị để nắm tình hình cụ thể thêm. Rất mong được sự quan tâm chỉ đạo của các cơ quan quân chủng, tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ".


Từ đấy, chúng tôi phân công nhau, kẻ xuống Làng Vây, người trở ra Động Toàn, Cam Lộ, người đi ngược lên Tà Cơn, Nguồn Rào để đến với các tiểu đoàn hoả lực và kỹ thuật tên lửa SAM2.


Ở tiểu đoàn 43, chúng tôi gặp thượng uý Nguyễn Hải Đăng, một tiểu đoàn trẻ, đẹp trai. Đăng báo cáo: “Đơn vị hiện có 26 xe các loại, đủ để cơ động toàn tiểu đoàn. Nhưng chúng tôi lo nhất là thiếu phụ tùng thay thế, đặc biệt là lốp dự phòng và càng kéo. Tinh thần cán bộ chiến sĩ rất cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ bất cứ lúc nào. Có vài chiến sĩ bị sốt rét đang tiếp tục điều trị”.


Chúng tôi còn đến với hai trung đoàn pháo cao xạ 221 và 226. Hai đơn vị này đã nhận được lệnh đi B3 và B2 (B3 là Tây Nguyên, B2 là Nam Bộ). Ở trung đoàn 226, tôi gặp trung đoàn trưởng Trần Bảo Lược, bạn chiến đấu cũ, tính tình cởi mở, dễ mến. Anh Lược báo cáo:

“Tổng quân số: 1054 cán bộ chiến sĩ. Biên chế: ba tiểu đoàn pháo hỗn hợp 57 ly, 37 ly và 23 ly. Có thêm ba bộ khí tài máy chỉ huy và rada, 30 cơ cấu phóng tên lửa tầm thấp A72, cùng 250 quả đạn. Xe cộ: 115 chiếc, đủ bảo đảm hành quân, nhưng thiếu phụ tùng dự trữ và kinh nghiệm đi đường, móc kéo pháo hay bị gãy. Ngày 15 tháng 3, chúng tôi bắt đầu nhập tuyến Trường Sơn Tây”.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2008, 07:26:26 am »

Những ý kiến đề xuất của các đơn vị lập tức được báo cáo lên Phó Tư lệnh Quân chủng, Đại tá Quang Hùng đã chỉ đạo các cơ quan kịp thời giải quyết. Về công tác tham mưu, chúng tôi đã tìm đến cơ quan Bộ Tham mưu Đoàn 559 để nhờ giúp đỡ một số việc. Anh Trần Bút, bạn thân của tôi thời Điện Biên Phủ, đã giúp tôi sao chép một số sơ đồ các tuyến đường có liên quan, để cấp cho các đơn vị hành quân. Trong các sơ đồ đều ghi rõ địa chỉ từng cung chặng, khoảng cách mỗi đoạn đường, đặc điểm địa hình, đường sá, vị trí các điểm tiếp xăng dầu… rất tỉ mỉ.


Bộ Tư lệnh Đoàn 559 còn cấp cho mỗi đơn vị hành quân chúng tôi một số giấy giới thiệu, để liên lạc dọc đường. Phòng thông tin do anh Hoàng Đình Quý phụ trách, hướng dẫn cho chúng tôi biết một số hệ thống đường dây, để khi đến các điểm dừng, nếu cần, chúng tôi có thể liên lạc được với nhau bằng điện thoại. Qua việc này, tôi vô cùng khâm phục việc tổ chức mạng thông tin liên lạc của Đoàn 559, hết sức chặt chẽ và có hiệu quả, trên cả một vùng rừng núi bao la, với phạm vi rất rộng, rất dài, vươn tới mọi chiến trường, trên khắp mọi hướng, mọi tuyến của đường mòn Hồ Chí Minh.


Theo mệnh lệnh hành quân, lịch nhập tuyến của các đơn vị phòng không như sau:

-Ngày 19 tháng 2, trung đoàn 221 pháo cao xạ xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông.

-Ngày 7 tháng 3, trung đoàn 263 tên lửa xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Tây.

-Ngày 25 tháng 3, trung đoàn 226 pháo cao xạ xuất phát đi theo hướng Trường Sơn Tây.

-Ngày 31 tháng 3, tiểu đoàn 8 rada xuất phát, đi theo hướng Trường Sơn Đông.

Sau khi tiểu đoàn 43, đơn vị hoả lực đầu tiên của trung đoàn tên lửa rời Làng Vây, hai hôm sau, sở chỉ huy tiền phương của chúng tôi cũng “nhổ neo” lên đường. Anh Phạm Sơn được phân công đi cùng trung đoàn tên lửa 263. Còn tôi, đi cùng xe với tham mưu phó Lê Thanh Cảnh, theo hướng đông. Lái xe tên là Chiến, chiến sĩ phục vụ tên là Cường.


Xe chúng tôi qua Sa Trầm, Ly Tôn, ngã ba Lan Nam rồi tiến vào A Lưới. Một cảnh tượng nhức nhối đập vào mắt tôi. Lần đầu tiên tôi được hiểu thế nào là chất độ hoá học của Mỹ. Cả một cánh rừng bạt ngàn toàn những cây cao lớn, nhưng trụi lá trơ cành. Những hàng cây chết đứng cứ như chạy trốn về phía sau, khi xe chúng tôi tiến nhanh lên phía trước. Chiến khu A Lưới có nữ anh hùng Kan Lịch, người dân tộc Vân Kiều. Nghe nói vùng này xưa kia sầm uất lắm. Vậy mà dưới bàn tay tàn bạo của giặc Mỹ, cây cối ở đây đang lụi tàn, cảnh vật biến thành một màu đen xám.


Đang miên mang suy nghĩ, tôi chợt nghe anh Cảnh quay lại nói như reo: “Ông Lân ơi! Buôn Ma Thuột giải phóng rồi!”. Anh vặn to âm thanh chiếc đài bán dẫn để chúng tôi cùng nghe rõ. Trừ cậu Chiến cầm vô lăng, cả ba chúng tôi cùng vỗ tay đôm đốp: “Trời ơi! Phấn khởi quá!”. Bài xã luận của Báo Quân đội Nhân dân về chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 11 tháng 3, được Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi trên làn sóng nghe sao rạo rực lòng người. Anh Cảnh nói:

-Chúng mình vào, may ra còn kịp tham gia giải phóng Tây Nguyên. Sau Buôn Ma Thuột còn Kontum, Pleiku, thủ phủ của quân khu 2 và quân đoàn 2 nguỵ nữa.

Chiếc xe com-măng-ca của chúng tôi còn mới, chạy rất khoẻ. Nó vượt hết mọi xe trên đường. Càng vào sâu, tôi càng thấy quang cảnh nhộn nhịp, tưng bừng của con đường ra trận. Núi rừng Trường Sơn có lẽ chưa bao giờ được chứng kiến cuộc ra quân hùng vĩ như ngày hôm nay. Tôi nhớ lại hồi mở chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ có một con đường 41, độc đạo, đưa 24 khẩu lựu pháo 105 ly và 24 khẩu pháo cao xạ 37 ly cùng khoảng 600 xe tải chờ gạo, đạn vào thung lũng Điện Biên. Còn năm nay, cả đông và tây Trường Sơn, cùng nhiều con đường khác nữa, đang cuồn cuộn những dòng xe, dòng tăng, dòng pháo, dòng tên lửa, hầu hết là những trang bị hiện đại. Còn nhiều xe chở bộ binh của những quân đoàn chủ lực, xe chở những khoang thuyền vượt sông của công binh, rồi những đoàn xe hậu cần chở lương thực, thuốc men, quân trang, quân dụng nối tiếp nhau, như thác đổ, chảy về Nam.


Đường Trường Sơn năm nay mở rộng hơn trước nhiều. Để chuẩn bị đón thời cơ lớn, hàng vạn cán bộ chiến sĩ Trường Sơn đã gấp rút nâng cấp hàng ngàn kilômét đường ôtô đạt tiêu chuẩn cấp bốn. Cầu, cống, ngầm vượt sông đều được sửa chữa, tôn tạo. Những đoạn đường hiểm trở quanh co, đã được anh chị em công binh, thanh niên xung phong nắn lại cho thẳng hơn. Họ mở rộng vòng cua, hạ thấp triền dốc, bảo đảm cho mọi loại binh khí kỹ thuật nặng nề có thể hành quân. Phần lớn những con đường đều được gấp rải đá cấp phối. Có tới năm chục kilômét, từ đường 9 trở vào, đã được trải nhựa, xe chạy êm ru. Thắng lợi càng gân, ngoảnh lại, nhìn thấy công lao “xẻ dọc Trường Sơn" của bộ đội Trường Sơn thật vô cùng vĩ đại.


Đến ngã ba đường 73, chúng tôi dừng xe. Một đoàn xe xích kéo những khẩu pháo nòng dài 122 ly đang chuẩn bị rẽ vào lối đi Nam Đông. Một vị chỉ huy pháo binh nhìn tôi ngờ ngợ:

-Lưu Trọng Lân phải không?

Tôi chợt nhận ra người bạn cũ hồi ở Việt Bắc năm 1952.

-Hoàng Tuấn hả? Không ngờ gặp cậu ở đây!-Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mừng rỡ. Tôi cho Tuấn biết hiện nay mình đang công tác ở Bộ Tham mưu Phòng không-Không quân và đang trên đường vào Tây Nguyên. Tuấn cười, vẫn chiếc răng khểnh dễ thương như ngày nào:

-Đơn vị mình được lệnh hành quân gấp vào hướng Nam Đông, Mũi Trâu, chuẩn bị áp sát phía tây bắc Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột thất thủ. Tây Nguyên sắp giải phóng đến nơi rồi. Đà Nẵng chắc đang đợi bọn mình đấy, Lân ạ! Thôi chia tay nhé! Hẹn gặp lại nhau ở Sài Gòn.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2008, 07:27:27 am »

Chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình trên chặng đường Trường Sơn Đông. Những địa danh A Sầu, Bù Lạch, Xưởng Giầy, A Vương, Trao, Bung… lần lượt lùi lại phía sau. Xe đi xuyên rừng, núi tiếp núi, có đoạn đường bằng, có đoạn cheo leo, xe chúng tôi lượn chênh vênh trên lưng chừng núi, bên đèo cao, bên vực thẳm. Những lúc ấy tôi cảm thấy Trường Sơn kỳ vĩ lạ lùng.


Thú rừng thường chạy vụt qua trước mũi xe của chúng tôi, khi con chồn, khi con nai. Còn nhữn chú chim cu, gà rừng thì bất ngờ vỗ cánh bay lên khi xe chúng tôi vừa lao tới. Anh Cảnh có khẩu súng săn mang theo. Nhiều hôm chúng tôi được ăn cơm với thịt gà rừng, chim cu gáy, nhờ tài thiện xạ của anh. Phát hiện một bầy chim đang mải mê mổ gạo rơi trên đường, cậu Chiến phanh xe thật nhẹ nhành. Anh Cảnh từ từ nghiêng người ra ngoài xe, giương súng: Tạch! Một chú chim lăn đùng. Thế là chúng tôi lại được bữa ăn tươi. Cậu Cường công vụ có bàn tay nấu nướng rất nghề.


Khi sắp qua bến phà Giàng, chúng tôi gặp một đơn vị pháo cao xạ 37 ly đậu sát bên đường. Hỏi ra thì biết đó là tiểu đoàn 106, thuộc trung đoàn 545, Sư đoàn 377. Một cán bộ trạc tuổi bốn lăm, khuôn mặt trắng hồng, râu quai nón đang giơ tay chỉ trỏ. Thấy quen quen, tôi nhìn kỹ, hoá ra đó là Hà Văn Lực, người dân tộc Tày, đại đội trưởng cũ của tôi trong chiến dịch Điện Biên. Cuối chiến dịch, tôi là đại đội phó. Nghe tiếng gọi, anh quai lại, ngỡ ngàng:

-Lân đấy à! Đã lâu lắm bây giờ mới gặp lại nhau. Lâu nay trung đoàn mình bảo vệ bến Giàng. Trung đoàn 227 của Nguyễn Văn Chí ở Bí Hiên, trung đoàn 528 của ông Tùng “Trố” ở A Lưới. Còn trung đoàn 594 của cậu Chính, trung đoàn 218 của cậu Toàn, hiện cũng đang di chuyển vào phía trong.

Anh nắm tay tôi thật chặt:

-Thôi! Cậu đi mạnh khoẻ! Đừng quên tớ nhé!-Tôi cười:

-Quên sau được Hà Văn Lực, đại đội trưởng xuất sắc nhất của trung đoàn pháo cao xạ 367 trong chiến dịch Điện Biên năm xưa.

Một buổi chiều, xe đang chạy ngon trớn, bỗng nhiên cậu Chiến nói to:

-Sắp hết xăng rồi, thủ trưởng ơi! Còn chạy được vài chục cây số nữa!

Anh Cảnh nói:

-Yên tâm! Tớ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Trạm tiếp xăng cũng gần đây thôi.

Đi được một quãng, xa xa chúng tôi thấy có hai chiến sĩ đang đi tới. Một cô cầm chiếc cờ lê to. Một cô gánh trên vai toòng teng mấy chiếc ống nối, cái hình tròn, cái chữ T. Anh Cảnh bảo xe dừng lại:

-Quân “đường ống” đây rồi! Các cô ơi! Cho chúng tôi hỏi…

Hai nữ chiến sĩ gọn gàng trong bộ quân phục, đầu đội mũ tai bèo, nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy chúng tôi. Cậu Chiến buột miệng:

-Hai thím giải phóng quân xinh quá!

Chuyện trò bỗng nở như ngô rang giữa chúng tôi và hai cô gái trẻ. Cuối cùng chúng tôi hỏi đường đi đến trạm xăng. Cô gái cầm chiếc cờ lê đưa tay chỉ:

-Kìa! Chỗ có mấy chiếc xe Zin đang chờ “ăn” xăng đấy!

Chúng tôi vui vẻ chia tay hai cô gái. Tại trạm tiếp nhiên liện, cậu Chiến trình giấy. Xe chúng tôi được nạp xăng đầy thùng, còn thêm mấy can dự trự. Xe lại bon bon trên đường.

Tôi bỗng nhớ lại một ngày mưa ở gần Cổng Trời đường 12A.Hôm ấy chúng tôi đang nằm nghỉ trưa trong lán, bỗng nghe tiếng gõ “Koong! Koong!” Giật mình nhìn ra, thấy một nữ chiến sĩ “đường ống” khoác áo nilông, tay cầm cờ-lê, vừa đi vừa cúi mình, gõ gõ vào đoạn đường ống dẫn xăng chạy dài bên cạnh lán chúng tôi. Một chiến sĩ ló đầu ra, gắt:

-Làm gì mà chẳng cho ai ngủ cả thế!

Chẳng vừa, cô gái đáp lại:

-Muộn rồi ông anh ơi! Em đi làm nhiệm vụ kiểm tra đường ống đây mà!-Bắt gặp nụ cười tươi của cô gái, biết cô ta trêu lính pháo, cậu chiến sĩ của tôi cười huề:

-Bọn anh biết các em bên “đường ống” rồi, xin lỗi nhé!

Mới đó mà đã ba năm. Giờ đây, tôi thật không ngờ khi được biết hàng chục vạn tấn xăng dầu, như những dòng suối nhỏ vô tận, ngày đêm âm thầm len lỏi trong những con đường ống có đường kính 200 ly ấy, đã vượt ngàn trùng sông núi, băng qua những đỉnh núi cao nhất ở đường 12, đường 10, đường 18, chạy dọc theo chiều dài của đông, tây Trường Sơn vươn tới chiến trường, vào mãi tận Bù Gia Mập, miền Đông Nam Bộ. Xe chạy đến đâu, có xăng dầu phục vụ đầy đủ ngay đến đó. Kẻ địch quyết tâm phá, nhưng đã không có cách gì ngăn chặn được nỗ lực của chúng ta. Thật khó tưởng tượng nổi chiến công kỳ diệu của đội quân “đường ống” Trường Sơn!


Chúng tôi đến Khâm Đức trong một ngày đẹp trời. Tin giải phóng Phước An, Kon Tum, Pleiku dồn dập bay tới. Rồi tin hàng vạn tên địch kinh hoàng tháo chạy khỏi Tây Nguyên, đang bị quân ta đuổi và chặn đánh ở Cheo Reo, Phú Túc. Niềm hân hoang tràn ngập trên ánh mắt mỗi người. Đâu đâu cũng thấy xe ta đậu kín đường, kín bãi. Các quán ăn tấp nập người vào ra, cả bộ đội, cán bộ dân chính, cả đồng bào Kinh, Thượng, nhìn ai cũng vui như Tết.

Trong đâm đông tôi chợt nhận ra có mấy người chống nạng. Đến bên một chiến sĩ, tuổi trạc hai mươi, băng trắng quấn quanh đầu gối, nạng cầm tay, tôi hỏi chuyện. Anh kể:

-Bọn em bị thương trong trận đánh Buôn Ma Thuột. Đã được điều trị hơn một tuần ở trạm quân y tiền phương. Vì không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, chúng em phải theo những chiếc xe quay vòng này trở về hậu phương-Giọng anh đượm buồn-Quân mình đang thắng lớn, phải trở ra lúc này, thật tiếc quá!

Tôi lựa lời an ủi anh thương binh rồi chia tay, trong lòng không khỏi xốn xang.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2008, 07:28:19 am »

Từ Khâm Đức, chúng tôi còn phải đi hơn một trăm kilômét nữa để đến Đắc Công, ở ngay kilômét “không” đường 14B. Lẽ ra phải đi theo hướng Sa Thầy, nhưng do bắc Tây Nguyên đã được giải phóng, chúng tôi chuyển hướng đi Kon Tum. Trên đường nhựa trơn láng của đường 14, xe chúng tôi lướt nhanh qua Đắc Tô, một địa danh nổi tiếng. Ở đó, trong chiến dịch mùa đông 1967, quân giải phóng đã diệt gọn hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ.


Bên đường, chúng tôi thấy một xe tải đổ kềnh, bốn bánh chổng lên trời, bẹp dúm. Được biết đó là xe từ Khâm Đức vào, đường xấu chuyển sang đường tốt, lái xe cho xe chạy quá nhanh nên mới xảy ra tai nạn. Đây là một kinh nghiệm mà sau đó chúng tôi đã phải phổ biến cho đội ngũ lái xe của mình. Thị xã Kon Tum vắng vẻ, đồng bào đang lục tục kéo về, rải rác trên các đường Hùng Vương, Trịnh Minh Thế.


Anh Quang Hùng, Phó Tư lệnh Quân chủng chỉ thị cho chúng tôi phải liên lạc gấp với các đơn vị đi đầu của trung đoàn tên lửa 263 từ cánh tây Trường Sơn xuống. Được giao nhiệm vụ này, tôi lập tức tìm đường tắt sang thẳng Sa Thầy. Ở đây là khu vực ngã ba biên giới, đường sá chằng chịt. Đến nam Plây Khốc, khi đang lớ ngớ tìm đường, tôi gặp một cán bộ đứng cạnh một chiếc xe con. Đến gần, tôi đang định hỏi anh đường ra Xê Sụ, thì chợt nhớ ra, tôi mừng rỡ:

-Anh Phan Biên! Chính uỷ binh trạm 31…

Thấy anh còn phân vân, tôi nói tiếp:

-Chắc anh quên tôi! Cách đây ba năm, đúng ngày mồng 5 Tết âm lịch,các anh đã chiêu đãi bọn tôi, đoàn cán bộ pháo cao xạ đi tìm trận địa bị lạc đường một bữa bánh chưng no nê ở nam Ka Vát. Anh còn nhớ không? Chính anh đã tặng riêng tôi một lạng Canh-ki-na nữa.

-A! Nhớ ra rồi. Hồi đó anh là trung đoàn phó trung đoàn 227. Bây giờ anh đi đâu đấy?

-Tôi đi ngược Trường Sơn, đón đơn vị tên lửa.

-À! Mình vừa ở ngoài đó vào. Tiểu đoàn đi đầu của các ông có lẽ đang qua ngầm Xê Sụ, chuẩn bị vượt đèo Ăm Pun.-Nói rồi, anh Biên hướng dẫn đường đi cho tôi, tỉ mỉ. Được biết, nay anh là chính uỷ Sư đoàn xe 471, phụ trách quãng đường này, vào tận B2. Sư đoàn anh cũng đang chuẩn bị đưa sở chỉ huy vào đứng chân ở Buôn Ma Thuột để chuẩn bị cho chiến dịch mới.


Tôi gặp anh Phạm Sơn và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 43 Trần Đăng Trạm ở chân đèo Ăm Pun lầy lội, sau mấy trận mưa đầu mùa. Phạm Sơn kể cho tôi nghe cuộc hành trình vượt Trường Sơn khá gian nan của tên lửa ta. Đường nói chung tốt, nhưng do khí tài tên lửa vừa cao, vừa dài, vừa nặng, rất cồng kềnh, nên khi vào cua hoặc lên dốc, rất khó khăn. Càng kéo hỏng nhiều, thiếu đồ dự trữ thay thế, anh em đã nghĩ ra cách khắc phục để tiếp tục hành quân. Một số trường hợp hư hỏng khác đã được các trạm của Đoàn 559 giúp đỡ sửa chữa kịp thời. Việc đảm bảo hậu cần như: gạo, lương khô, cá hộp, thịt hộp, xăng dầu cho các đơn vị, cũng được các binh trạm dọc đường phục vụ chu đáo. Anh em quân nhu ta rất cám ơn hậu cần 559.
Tôi nói với Phạm Sơn:

-Anh Quang Hùng chỉ thị: ông về ngay Sở Chỉ huy tiền phương Quân chủng ở Pleiku để báo cáo tình hình. Trung đoàn 263 không dừng lại ở Tây Nguyên nữa mà vào thẳng B2 luôn. Đoàn nặng đi tiếp đường 14B. Đoàn nhẹ, gồm xe kéo đạn và cơ quan, rẽ Pleiku đi thẳng đường 14. Hai đoàn sẽ tập kết ở Đức Lập, chờ lệnh mới. Anh Phạm Sơn truyền đạt mệnh lệnh đó cho anh Tích, trung đoàn trưởng 263. Sẵn có sơ đồ đã chuẩn bị, tôi trao cho anh Tích một bản, rồi dặn them: bộ phận đi đường 14, qua vùng mới giải phóng, phải nhớ giữ vững kỷ luật về công tác dân vận và bảo đảm lái xe an toàn khi từ đường Trường Sơn sang đường nhựa. Bộ phận đi tiếp đường 14B cần hết sức chú ý khi qua các bến phà, như phà 10 ở kilômét 114, phà 4 ở Srê pốc, bảo đảm an toàn tuyệt đối.


Tôi và anh Phạm Sơn lên xe vè Pleiku. Sau khi Sở Chỉ huy Tiền phương Quân chủng được đặt xong ở căn cứ sư đoàn không quân chiến thuật số 6 của nguỵ cũ, anh Lê Thanh Cảnh được phân công đi trước vào B2,để tranh thủ đặt sớm mối quan hệ với cơ quan Tiền phương Bộ ở địa điểm mới.


Trong những ngày ở Pleiku, tôi xin phép dành một buổi dạo vòng quanh khu vực. Sân bay Cù hanh dài, rộng, bóng loáng dưới ánh mặt trời. Hai tấm ăngten viễn thông đồ sộ. Doanh trại của các căn cứ quân nguỵ như Nguyễn Huệ, Tây Sơn, Nỏ Thần, Thăng Long, trường thiếu sinh quân Cao Nguyên, cùng với khu vực bộ tư lệnh quân đoàn II, bố trí dày đặc, giờ đây vắng lặng, trống trơn. Ở căn cứ Nỏ Thần, tôi lượm được một mảnh giấy đặt trên bàn làm việc của viên chỉ huy, ghi nguệch ngoạc: “Bọn Việt Cộng chúng bay hãy coi chừng! Sẽ có ngày chúng tao trở lại!”. Tôi mỉm cười, xé vụn tờ giấy.


Vào khu vực bộ tư lệnh quân đoàn II nguỵ, tôi chứng kiến moi thứ tan hoang, bề bộn. Bọn chúng đã rút chạy trong hoảng loạn, cuống cuồng. Trong các phòng làm việc, hồ sơ giấy tờ vứt tung toé, máy điện thoại, máy chữ lăn lóc, ngổn ngang. Nhiều quyển sách Playboy, tranh ảnh khoả thân vương vãi.


Bước vào một gian phòng, tôi thấy cơ man nào là huân chương, huy chương còn nằm trong hộp, mới toanh, chất đầy trong các ngăn tủ. Anh chiến sĩ đi cùng tôi, tiện chân, đạp mạnh lên một đống huân chương đã bị ai vứt xuống đất từ trước. Tôi tiếp tục đi loanh quanh thế nào, lọt vào một gian phòng đầy ắp những bản đồ quân sự. Vui mừng quá đỗi, tôi vội vàng lôi ra từng tập, xem xét. Bản đồ khắp các vùng, với đủ loại tỉ lệ khác nhau. Chẳng đủ sức mang nhiều, tôi chọn ra được một bộ bản đồ đường sá toàn miền Nam, tỉ lệ 1/250.000, và một số bản đồ các thành phố lớn. Đối với tôi, một sĩ quan tham mưu, những tấm bản đồ này thật hết sức quí giá. Sà vào đây mất hơn một tiếng đồng hồ, tôi chẳng còn thời gian ghé thăm thị xã Pleiku được nữa.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2008, 07:29:55 am »

Tình hình chiến sự diễn biến mau lẹ. Quân ta thắng như chẻ te. Tin vui đến dồn dập:

-26 tháng 3: giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên.

-28 tháng 3: giải phóng Quảng Nam.

-29 tháng 3: giải phóng Đà Nẵng. Chiến dịch Huế-Đà Nẵng kết thúc thắng lợi với sự xoá sổ hoàn toàn quân khu I và quân đoàn I hùng mạnh của quân nguỵ. Đến ngày 3 và 4 tháng tư thì Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt cũng được giải phóng nốt.

Anh Quang Hùng bảo tôi:

-Thời cơ mở cuộc đại tiến công vào Sài Gòn sắp đến! Miền Nam sẽ được giải phóng sớm! Không phải kéo dài hai năm nữa đâu, Lân ạ! Anh Tuấn (bí danh của Thượng tướng Văn Tiến Dũng) đã có lệnh cho chúng ta chuẩn bị vào B2.


Sáng ngày 9 tháng 4, đang đi trên đường Vạn Kiếp ở bắc thị trấn Pleiku, tôi gặp xe của tiểu đoàn 8 rada vừa tới. Tiểu đoàn trưởng Trần Quang Sáng, người cao to mạnh khoẻ, nước da ngắm đen, đang tìm đường đến Tiền phương Quân chủng. Tôi dẫn Sáng về Sở chỉ huy và nghe anh báo cáo với Phó Tư lệnh Quang Hùng.


-Tiểu đoàn 8 gồm bốn đại đội rada trinh sát, xuất phát từ Khe Sanh ngày 31 tháng 3, đi theo tuyến Tây Trường Sơn. Ngày 4 tháng 4 đến Khâm Đức, ngày 9 tháng 4 đến đây, gồm 47 xe, máy, đầy đủ an toàn. Theo kế hoạch cũ, do anh Hứa Mạnh Tài phổ biến, thì tiểu đoàn 8 triển khai ở Tây Nguyên.

Rồi hồn nhiên, anh hỏi:

-Tây Nguyên giải phóng rồi! Chúng tôi đi đâu bây giờ thủ trưởng?

Anh Quang Hùng nhìn Sáng, cười vui vẻ, nói:

-Mệnh lệnh tám chữ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa truyền đi khắp toàn quân: “Thần tốc-Táo bạo-Bất ngờ-Chắc thắng!”. Trên tinh thần đó, con đường của tiểu đoàn 8 các cậu là hướng vào Sài Gòn đấy! Vắt chân lên cổ mà chạy! Hôm nay nghỉ ở Pleiku. Ngày mai đi tiếp, để có mặt ở B2 trước 15 tháng 4. Đằng sau chúng ta là Quân đoàn I, được sự giúp đỡ của các sư đoàn xe thuộc binh đoàn Trường Sơn, cũng đang tăng tốc độ hành quân.

Phó tư lệnh mời chúng tôi hút thuốc lá và ăn đồ hộp Mỹ, chiến lợi phẩm. Sau đó, Trần Quang Sáng đứng lên, xin phép về đơn vị.


Vài hôm sau, chúng tôi rời Pleiku. Qua các phố Lý Thái Tổ, Hoàng Diệu, chúng tôi trở lại đường 14, đi thẳng vào Buôn Ma Thuột. Đường xa dằng dặc! Tưởng gần, hoá ra đến cả 150 cây số. So với Kon Tum và Pleiku, Buôn Ma Thuột có vẻ trù phú, sầm uất hơn. Những rừng cây cà phê trái chín đỏ ối. Phố xá đông vui, cửa hàng tấp nập. Chúng tôi gặp bà con giáo dân đi lễ nhà thờ về, các em học sinh đi học. Lần đầu tiên tôi thấy nữ sinh mặc quần trắng, áo dài.


Chúng tôi đi tiếp vào Đức Lập. Ở đây, anh Phạm Sơn cử một trợ lý tên lửa nằm lại chờ trung đoàn 263, còn tất cả tiếp tục cuộc hành trình. Đây là đoạn đường mà chúng tôi được phổ biến là còn nhiều mìn do địch để lại. Xe chỉ chạy được giữa đường. Đến Tuy Đức, chúng tôi bỏ đường 14, rẽ lối Bù Gia Mập-Bù Đốp về thẳng Lộc Ninh. Bù Đốp và Lộc Ninh bạt ngàn rừng cao su. Đồng bào, bộ đội đi lại đông vui, xe cộ ngược xuôi nhộn nhịp. Có khá nhiều xe con, xe Hon-da, loại xe mà lần đầu tiên tôi đã nhìn thấy ở Kon Tum tuần lễ trước.


Đến trạm tiếp đón, chúng tôi được hướng dẫn về cơ quan tham mưu phòng không B2 và được bố trí nơi làm việc bên cạnh Sở Chỉ huy Sư đoàn pháo cao xạ 77. Thật là may mắn, vì chúng tôi được sử dụng mọi cơ sở và phương tiện cần thiết của sư đoàn, để thiết lập ngay một sở chỉ huy cho Tiền phương Quân chủng. Các anh Trần Trung Tín, Hai Sả, cán bộ chỉ huy sư đoàn, Thái Công Danh, Tham mưu trưởng đã hết sức nhiệt tình tạo điều kiện cho chúng tôi mọi thứ dễ dàng. Ở đây tôi còn được gặp lại Phạm Chiến Sĩ, Tôn Kỳ, hai trợ lý cũ của tôi hồi còn ở Quân chủng Phòng không-Không quân. Các anh được tăng cường cho B2 hồi đầu năm trước.


Trong khi Phó Tư lệnh Quang Hùng, cùng Tham mưu phó Lê Thanh Cảnh và trưởng phòng tác chiến Phạm Sơn đi nhận nhiệm vụ trên Bộ Chỉ huy Chiến dịch, thì chúng tôi ở nhà triển khai công việc Sở Chỉ huy.

Tối hôm ấy, chúng tôi được nghe phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Anh Phạm Sơn cho tôi xem những ghi chép mà anh đã được cơ quan Cục Tác chiến hướng dẫn. Thời gian rất gấp rút. Chúng tôi phân công nhau xây dựng “Quyết tâm chiến đấu của lực lượng Phòng không trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định”.


Riêng tôi, nhờ đã sơ bộ nắm được toàn bộ lực lượng phòng không phía Nam trước đây, nay được thông tin thêm về những bổ sung mới, những chuyển dịch mới, tôi có thể dễ dàng thể hiện lên sơ đồ tác chiến vị trí các đơn vị phòng không, trong đội hình tiến công của các quân đoàn chủ lực, từ năm hướng, xung quanh Sài Gòn.


Nhớ lại hồi Điện Biên Phủ năm 1954, lực lượng phòng không chúng tôi tham gia chiến dịch chỉ có 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 ly và năm tiểu đoàn súng máy 12 ly 7.

Vậy mà hôm nay, trong trận đánh tổng lực vào sào huyệt cuối cùng của địch, lực lượng phòng không của chúng tôi-không tính gần ba chục trung đoàn cao xạ, tên lửa, rada đang làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương miền Bắc và các vùng mới giải phóng từ Cam Ranh trở ra-lên tới: bốn sư đoàn và một lữ đoàn pháo cao xạ hỗn hợp 57 ly và 37 ly trực tiếp nằm trong đội hình tiến công của các quân đoàn; một sư đoàn pháo cao xạ bảo vệ giao thông chiến dịch. Nếu tính cụ thể, tổng cộng tất cả có tới gần hai chục trung đoàn pháo cao xạ tham gia chiến dịch này.

Đó là chưa kể ở mỗi sư đoàn bộ binh còn có trong biên chế những tiểu đoàn pháo 37 ly và nhiều đơn vị súng máy cao xạ 12 ly 7 riêng.

Tên lửa có một trung đoàn SAM2 bố trí ở bắc Sông Bé và một tiểu đoàn tên lửa vác vai A72 được chia làm nhiều mũi, đi cùng bộ binh và đặc công trên các hướng.

Rada có một tiểu đoàn, gồm bốn đại đội, bố trí từ bắc Sông Bé đến bắc Biên Hoà.

Lực lượng Phòng không tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn quả thật hùng hậu, thật sung sức. Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị: “Quân chủng phải gấp rút tăng cường lực lượng tối đa cho miền Nam".
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM