panphilov
Cựu chiến binh
Bài viết: 780
|
|
« Trả lời #57 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2011, 07:03:33 pm » |
|
Ngay trước thềm chiến tranh, đầu tháng 6 năm 1941, trung tướng Karbyshev cùng một đoàn gồm nhiều kĩ sư quân sự của Hồng quân được cử đi khảo sát tình hình hệ thống các công trình phòng thủ tại biên giới phía Tây, để nghiên cứu khả năng nâng cấp và mở rộng khi chiến tranh nổ ra. Khi quân đội phát-xít tấn công, ngày 22 tháng 6 năm 1941, ông đang trên đường tới Tập đoàn quân số 3 và thành phố Grodno. Sáng sớm ngày 23 tháng 6, ông nhận được lệnh phải rút lui ngay lập tức khỏi những vùng nguy hiểm. Ngày 24 tháng 6, do nhiều con đường rút lui của Hồng quân đã bị cắt đứt, ông mới tới được sở chỉ huy của Tập đoàn quân số 10, giống như số phận của phần lớp các đơn vị Hồng quân ở Phương diện quân miền Tây, Tập đoàn quân số 10 bị bao vây và gần như thiệt hại hoàn toàn trong trận đánh Bialystok-Minsk, và bị kẹt tại đây. Ngày 27 tháng 6, toàn bộ sở chỉ huy bị bao vây, ông cùng một nhóm sĩ quan Hồng quân nỗ lực phá vây. Tháng 8 năm 1941, ông bị thương nặng trong một trận đánh gần sông Dnepr tại làng Dobreyka (nhánh sông này mang tên Berezina), vùng Mogilev thuộc Belorussia và bị bắt làm tù binh.
Có một số thông tin trên báo chí Ukrainian cho rằng, ngay sau khi biết tin tướng Karbyshev bị bắt làm tù binh, Liên-xô đã đề nghị với Đức việc trao đổi ông lấy 2 nhà ngoại giao Đức. Tuy nhiên, Berlin đã khước từ lời đề nghị này với lí do là nó quá “khập khiễng”. Quả thật, ông là một món quà trời cho, vì ông là người hiểu và nắm rõ các công trình phòng thủ của Hồng quân Liên Xô. Và từ đó, phía Liên-xô hoàn toàn mất dấu vết của ông. Không biết thông tin này chính xác đến bao nhiêu, tuy nhiên phải sau khi chiến tranh kết thúc, Liên-xô mới biết được số phận cũng như tấm gương anh hùng của ông trong những ngày bị giam cầm bởi quân phát-xít.
Trại tù binh đầu tiên mà tướng Karbyshev được đưa tới là một trại tù binh nằm ở 1 thị trấn Ba Lan có tên là Ostrov Mazowiecki. Trong liền 7 tháng sau đó, ông bị hành hạ bởi bệnh tật (kiết lị nặng rồi sốt truyền nhiễm) khiến bị kiệt sức và răng rụng nhiều. Tuy nhiên, tinh thần của ông không hề bị giảm sút và lung lay. Tháng 10 năm 1941, ông tiếp tục được chuyển tới Zamosc, bị giam trong trại số 11 mà ở đó có ghi “tướng” (tức cho các tù binh cấp tướng). Để mua chuộc ông, điều kiện giam giữ cũng như ăn uống ở Zamosc tương đối dễ chịu. Theo nghiên cứu của một số sử gia người Đức, thì thời gian này giới lãnh đạo phát-xít có vẻ như đã bị làm cho tin về thái độ biết ơn và sự đồng ý hợp tác của ông. Tháng 3 năm 1942, ông được chuyển đến trại tập trung Hammelburh (Bavaria), nơi chỉ dành cho các sĩ quan tù binh Hồng quân. Đầu năm 1943, trại này do đại tá bộ binh Đức Pelita chỉ huy. Viên đại tá này nói được tiếng Nga, đã tốt nghiệp một trường cao đẳng tại St. Peterburg và từng phục vụ trong Đế chế Nga tại Brest. Người Đức nghĩ rằng như thế thì có thể thuyết phục lôi kéo được Karbyshev về phía họ, tuy nhiên họ đã nhầm và mọi âm mưu đều thất bại. Không từ bỏ âm mưu, Gestapo đưa ông về Berlin và giam giữ ông trong một xà lim cách biệt, thiếu ánh sáng và không cho đi lại. Sau khoảng 2 đến 3 tuần, Gestapo cử giáo sư người Đức Heizn, người mà ông đã từng gặp gỡ và quen biết trước chiến tranh, đến gặp ông. Vị giáo sư này đề nghị ông sang phục vụ họ với mọi đặc ân: tự do, sự đảm bảo vật chất sống, các điều kiện nghiên cứu khoa học… như một nhà khoa học Đức được sủng ái. Ngoài ra, ông còn được tiếp tục mang quân hàm trung tướng, được phép lựa chọn tùy theo ý mình hướng nghiên cứu, nơi làm việc… tất nhiên ngoại trừ “phía Đông”. Tuy nhiên, mọi kết quả chỉ là con số 0.
Nhận thấy không khuất phục nổi ý chí, cũng như tinh thần của Karbyshev. Phát-xít Đức đã bỏ mọi thái độ nhã nhặn trước đây, và chuyển ông lần lượt qua nhiều nhà tủ khổ sai cùng với việc tra tấn dã man, đối xử tàn bạo. Nửa năm sau đó, ông tiếp tục bị giam giữ tại Berlin, bị tra tấn dồn dập nhằm ép buộc ông gia nhập lực lượng phát-xít, “Đội quân phương Đông” của “Ủy ban Giải phóng Nhân dân Nga” do viên trung tướng phản bội A. A. Vlasov đứng đầu. Tiếp đó, ông bị đưa tới trại tập trung khổ sai Flossenburg và phải chịu một sự đối xử đặc biệt tàn nhẫn. Tháng 8 năm 1943, ông lại bị đưa đến trại tập trung khổ sai Nyurberh của Gestapo, rồi lần lượt các trại Auschwitz, Sachsenhausen và cuối cùng là Mauthausen, nơi ông hi sinh vào đêm 17 và sáng 18 tháng 2 năm 1945 – chỉ ít tháng trước khi chiến tranh kết thúc.
Theo những gì kể lại của những tù binh Hồng quân được giải thoát sau chiến tranh thì trong thời gian sống tại các trại tập trung khổ sai khác nhau của phát-xít, bất chấp các thủ đoạn khác nhau, bất chấp bị tra tấn, bất chấp bị bệnh tật và tuổi tác, Karbyshev vẫn không hề nao núng. Dù bất kì ở trại nào, ông cũng tham gia vào lãnh đạo phong trào đấu tranh của các tù binh, và là một tấm gương sáng về cách cư xử, về biểu tượng của tâm hôn hồn của một người lính Nga, một chiến sĩ Xô-viết. Bằng tất cả mọi cách, ông không ngừng khêu gợi trong họ lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và kiên cường đấu tranh trong ngục tù cũng như tinh thần lạc quan, tin tưởng vào ngày chiến thắng không xa. Ông từng nói “Lòng tin của tôi không bao giờ đi cùng những chiếc răng”. Karbyshev chính là nguồn cảm hứng cho nhiều tù binh Hồng quân trong những tháng ngày đen tối. Phương châm của ông là “Không mất lòng tự hào cho dù vào cảnh ngộ tồi tệ nhất”.
Trong một câu chuyện về những người anh hùng ở pháo đài Brest nổi tiếng in trong tác phẩm “Pháo đài Brest” của tác giả Sergey Smirnov, có câu chuyện kể lại của thiếu tá P. M. Gavrilov. Trong trận chiến bảo vệ pháo đài Brest, Gavrilov chỉ huy đồn phía Đông, bị bắt làm tù binh, bị giam tại trại tập trung Hammelburh cùng với tướng Karbyshev. Tuy nhiên, thiếu tá Gavrilov may mắn hơn tướng Karbyshev bởi ông đã sống được đến ngày chiến thắng để được giải thoát và chiêm nghiệm lời tiên đoán thần tình của tướng Karbyshev khi 2 người gặp nhau trong trại tập trung Hammelburh. Theo thiếu tá Gavrilov, thì có một lần ông hỏi trung tướng rằng bao giờ thì chiến tranh kết thúc. Và trung tướng đã mỉm cười và trả lời ông một cách buồn rầu rằng:
“Bao giờ ta ăn đủ một nghìn lần bữa xúp rau hổ lốn của chúng thì chiến tranh sẽ chấm dứt” – Ông đáp, rồi nói thêm đầy tin tưởng “Tất nhiên chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về chúng ta”.
Trong trại tù binh, mỗi ngày được ăn một lần, 1000 lần bữa xúp là khoảng 3 năm, từ năm 1942 đến năm 1945 là vừa đúng với quãng thời gian này.
Trước một thất bại không thể tránh khỏi trong một tương lai gần, phát-xít điên cuồng thủ tiêu tù binh. Ngày 17 tháng 2, tướng Karbyshev cùng một nhóm tù binh khoảng 400 người bị lùa ra khỏi nơi giam giữ, rồi được đưa vào nhà tắm và xả nước lạnh trong điều kiện thời tiết mùa Đông băng giá. Nhiều người cố gắng tránh khỏi dòng nước lạnh đều bị quân phát-xít dùng dùi cui đánh vào đầu cho đến chết. Trung tướng Karbyshev đã dũng cảm chịu đựng đến nửa đêm, và anh dũng ra đi vào sáng ngày 18 tháng 2 năm 1945 ở tuổi 65 khi những cơn gió lạnh làm ông biết thành một bức tượng đóng băng.
Để ghi nhớ công lao của vị kĩ sư lỗi lạc đã cống hiến cho Tổ quốc, và để ghi nhận sự anh hùng dũng cảm bất khuất của vị tướng trong những ngày ở trong tay quân thù, ngày 16 tháng 8 năm 1946, Xô-viết tối cao của Liên-xô đã quyết định truy tặng ông Danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết cùng Huân chương Lenin và Huy hiệu Sao vàng dành cho những người anh hùng. Ngoài ra, ông còn được tặng thưởng: 2 Huân chương Cờ đỏ, Huân chương Sao đỏ.
Ngày nay, để tưởng nhớ tới ông, tại lối vào của nơi trước kia là trại tập trung Mauthausen (Áo), nơi ông hi sinh, có một đài tưởng niệm ông. Đài tưởng niệm này lấy cảm hứng từ hình ảnh ông bị đóng băng khi hi sinh với hai tay khoác lên nhau và đặt trước ngực chịu đựng những làn nước lạnh trong thời tiết mùa Đông băng giá. Tác phẩm do nhà điêu khắc nổi tiếng V. E. Tsigal thực hiện. Nhiều đài tưởng niệm, nơi tưởng nhớ ông đã được dựng lên tại nhiều thành phố như Moscow, Omsk, Kurgan, Kiev, Tallin, Vladivostok. Nhiều tấm bảng tưởng nhớ ông cũng được gắn tại: Brest, nơi vị trí căn nhà ông đã sống và làm việc; Moscow, tại tòa nhà Phòng Đào tạo Học viện Kỹ thuật Quân sự nơi ông học tập, và ngôi nhà nơi ông sống; Samara, nơi ngôi nhà ông làm việc; Kharkov, nơi ông từng sống. Tên ông cũng được đặt cho một đại lộ tại Moscow, một hành tinh nhỏ của Hệ Mặt trời, tàu chở dầu, tàu thủy vận chuyển hành khách, nhiều trường học, công ty, các đường phố của nhiều thành phố, đồn biên phòng…
|