Sau khi bầu xong sẽ đánh tổ tôm. Các cụ chẳng thiết bầu, ai trúng biết rồi, nhanh nhanh tổ tôm cho vui, vì thế mặt mũi không được tươi.
Về tổ chức chính quyền thời tây các bác tham khảo ở đây:
http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Vai-tro-he-thong-chinh-quyen-Ha-Noi-thoi-Phap-thuoc/201211/8473.vnplusVai trò hệ thống chính quyền Hà Nội thời Pháp thuộcHiện nay, tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội) còn bảo quản một khối lượng lớn tài liệu về hệ thống Chính quyền Thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc và vai trò của nó trong quản lý và phát triển đô thị. Những tài liệu này vừa tập trung lại vừa tản mát trong một số phông (fonds d’archives) của Trung tâm.
Trước hết, cần điểm qua một vài nét về quá trình hình Thành và phát triển của Hà Nội, từ “nhượng địa” (concession) đến Thành phố (Ville de Hanoi), nhằm xác định rõ thời gian ra đời của hệ thống tổ chức hành chính của Thành phố Hà Nội thời kỳ thuộc địa.
Hà Nội chính thức trở Thành “nhượng địa” của Pháp từ năm 1888, kể từ ngày 3 tháng 10, khi Dụ ngày 1 tháng 10 của Vua Đồng Khánh được Toàn quyền Đông Dương phê chuẩn. Tuy nhiên, quá trình biến Hà Nội Thành “nhượng địa” của Pháp đã được khởi động từ trước đó hơn 20 năm, khi mà công cuộc “bình định” (pacifictation) xứ Bắc Kỳ của Thực dân Pháp còn chưa thực sự bắt đầu.
Năm 1867, sau khi đánh chiếm được toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh, cùng với việc thiết lập hệ thống chính quyền cai trị ở Nam Kỳ, Thực dân Pháp bắt đầu nhòm ngó ra Bắc Kỳ.
Bằng thủ đoạn dùng các cuộc tấn công về quân sự để gây sức ép với Triều đình Huế trong các cuộc thương lượng, Pháp đã dành được một khu đất bên bờ sông Hồng ở phía Đông - Đông Nam Thành phố Hà Nội để lập Tòa Công sứ và xây dựng doanh trại cho binh lính. Theo quy ước được ký kết ngày 6-2-1874, Pháp được đặt tại Hà Nội Lãnh sự với một lực lượng lính bảo vệ không quá 100 người. Diện tích khu đất nhượng cho Pháp xây Tòa Công sứ được quy định là 2,5 héc-ta nhưng do sự bất lực của nhà Nguyễn mà đại diện là Trần Đình Túc, cuối cùng khu đất nhượng này đã lên tới 18,5 héc-ta. Ngày 28-8-1875, Pháp bắt đầu đặt Lãnh sự quán tại Hà Nội.
Như vậy là, về mặt pháp lý, mặc dù Bắc Kỳ chưa chính thức trở Thành đất “bảo hộ” của Pháp song trên thực tế, Pháp đã đặt được chân vào Hà Nội. Ý đồ xâm chiếm Bắc Kỳ của Pháp đã có cơ sở để thực hiện.
Tháng 10-1875, Pháp bắt đầu khởi công xây dựng các công trình kiên cố trên khu nhượng địa, chính thức mở đầu thời kỳ xây dựng Hà Nội trở Thành “Thủ đô của Bắc Kỳ”, “Thủ đô của Liên bang Đông Dương”.
Qua tài liệu lưu trữ, người ta thấy rằng, quá trình biến Hà Nội Thành “Thủ đô của Bắc Kỳ”, “Thủ đô của Liên bang Đông Dương” đã được Chính quyền Thuộc địa thực hiện song song trên 2 lĩnh vực:
- Định hình Thành phố về mặt địa giới hành chính, bao gồm 2 giai đoạn: xác định và mở rộng địa giới Thành phố.
- Xây dựng hệ thống Chính quyền Thành phố, bao gồm 2 tổ chức quản lý hành chính: Hội đồng Thành phố và Tòa Đốc lý Thành phố.
Báo cáo sẽ tập trung giới thiệu về 2 tổ chức quản lý hành chính của Thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc và về vai trò của chúng trong quản lý và phát triển đô thị.
1. Hội đồng Thành phố Hà NộiVăn bản pháp lý quan trọng nhất đối với việc tổ chức bộ máy quản lý hành chính của Thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc là Nghị định ngày 19-7-1888 do Toàn quyền Đông Dương ký, ngay sau khi Hà Nội được chính thức Thành lập về mặt pháp lý và được xếp vào loại Thành phố cấp 1.
Tuy nhiên, không phải bắt đầu từ thời gian này Hà Nội mới có một tổ chức quản lý về mặt hành chính mà trên thực tế nó đã có từ trước đó hai năm. Tổ chức tiền thân của Hội đồng Thành phố Hà Nội chính là Ủy ban Thành phố mà ý tưởng Thành lập ban đầu là của Silvestre, Giám đốc phụ trách các công việc dân sự và chính trị. Nhưng do còn phải lo tổ chức các cuộc hành quân nhằm “bình định” Bắc Kỳ nên mãi cho đến ngày 8-1-1886, Tổng Tư lệnh các lực lượng quân đội Pháp ở Bắc Kỳ De Courcy mới ký một quyết định Thành lập tại hai Thành phố cấp 1 là Hà Nội và Hải Phòng, mỗi nơi một Ủy ban lâm thời (Commission municipale provisoire) có nhiệm vụ nghiên cứu và soạn thảo một dự luật về tổ chức và hoạt động của một Ủy ban chính thức (Commission municipale dofinitive) của Thành phố. Ủy ban này gồm 6 ủy viên người Pháp, 5 ủy viên người Việt và 1 Hội trưởng Hội người Hoa, Chủ tịch là Công sứ Pháp.
Sau hai phiên họp đầu tiên vào các ngày 14-1 và 1-2-1886, Ủy ban lâm thời đã trình lên Tổng Trú sứ một bản dự thảo về tổ chức và quyền hạn của Ủy ban Thành phố Hà Nội. Dự thảo này đã được Tổng Trú sứ Paul Bert chấp thuận bằng Nghị định số 2 ngày 1-5-1886. Nghị định số 2 đã Thành lập tại Hà Nội một Ủy ban gồm 4 công chức dân sự và 8 người Pháp sinh sống tại Hà Nội (những người này do Tổng Trú sứ quyết định); 6 thân hào người Việt được bổ nhiệm bởi các cố vấn của các xã ở xung quanh Hà Nội, bao gồm cả huyện Thọ Xương và 2 Hội trưởng Hội người Hoa sinh sống tại Hà Nội. Chủ tịch của Ủy ban này là một công chức người Pháp của Tòa Thống sứ Bắc Kỳ.
Theo Nghị định số 2 ngày 1-5-1886 của Tổng Trú sứ Trung - Bắc Kỳ, Ủy ban này được hỏi ý kiến đặc biệt về đường xá, về an ninh và về tất cả các vấn đề có liên quan đến vệ sinh của Thành phố. Sau khi lấy biểu quyết, những ý kiến này sẽ được trình lên Thống sứ Bắc Kỳ, hoàn toàn để tư vấn, không có tính chất quyết định. Chính vì vậy, thời gian đầu nó còn được gọi là Ủy ban Tư vấn (Commission consulative). Sự Thành lập của Ủy ban này hoàn toàn không có ảnh hưởng gì đến tổ chức hành chính bên trong của các xã xung quanh Hà Nội, cũng như đến quyền hạn của các thân hào hay các công chức người Việt.
Mặc dù chỉ có tính chất tư vấn nhưng vai trò của Ủy ban này đã được Paul Bert khẳng định trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ ngày 2-5-1886:
“Hà Nội sẽ càng ngày càng trở Thành một Thành phố châu Âu, phải mau chóng xây dựng cho nó các công trình giao thông, nhà cửa, chợ búa, lò mổ. Để chỉ huy công việc này, cần phải có một chính quyền coi sóc đặc biệt cho Hà Nội. Chính quyền này chỉ có thể là một Ủy ban Thành phố”.
Chính vì vậy mà ngay sau đó, ngày 29-5-1886, Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kỳ đã ký Nghị định số 3 bổ nhiệm các Thành viên đầu tiên cho Ủy ban Thành phố. Tuy nhiên, đây chỉ là những quyết định tạm thời trong giai đoạn chuyển tiếp nên chức năng và quyền hạn của Ủy ban Thành phố cũng như của người đứng đầu nó vẫn chưa được xác định rõ. Chính vì vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, Nghị định số 2 ngày 1-5-1886 đã được thay thế bằng một văn bản khác: Nghị định ngày 19-7-1888 của Toàn quyền Đông Dương.
Nghị định mới này Thành lập tại Hà Nội và Hải Phòng, mỗi Thành phố một Hội đồng, đứng đầu là một Đốc lý kiêm Chủ tịch Hội đồng Thành phố và 16 ủy viên, trong đó có 12 người Pháp và 4 người Việt. Những ủy viên của Hội đồng này được lựa chọn trong số những người Pháp và người Việt trên 25 tuổi, có quyền công dân và chính trị, có thời gian cư trú ở Hà Nội ít nhất là 6 tháng. Trong số 16 ủy viên, có ít nhất 4 người do Phòng Thương mại Thành phố lựa chọn. Các ủy viên của Hội đồng Thành phố đều do Tổng Trú sứ bổ nhiệm với nhiệm kỳ là 3 năm. Giúp việc cho Đốc lý còn có hai phó Đốc lý và Tòa Đốc lý.
Cách tổ chức và hoạt động của Hội đồng Thành phố Hà Nội được thể hiện qua các điều quy định của Nghị định ngày 19-7-1888: Hội đồng Thành phố họp thường kỳ mỗi năm bốn lần, vào đầu các tháng hai, năm, tám và mười một, mỗi phiên họp kéo dài 10 ngày, các phiên họp bất thường sẽ được tổ chức nếu có đề nghị của từ 3 ủy viên trở lên. Hội đồng Thành phố được quyền đưa ra các ý kiến về các vấn đề có liên quan đến việc quy hoạch các đường lớn trong nội Thành, việc sửa đổi giới hạn địa giới hành chính Thành phố... và cuối cùng là tất cả các vấn đề được quyết định bởi các quy tắc và nghị định của Thành phố.
Trong các phiên họp, Hội đồng Thành phố lấy biểu quyết về các vấn đề sau: các khoản công trái do Thành phố phát hành và cách thức thanh toán; ngân sách của Thành phố và tất cả các khoản thu chi bình thường và bất thường; giá cả và quy định thu của tất cả các khoản thu nhập riêng của Thành phố; việc mua bán, chuyển nhượng, trao đổi hoặc phân phối và nói chung là tất cả những gì có liên quan đến bảo quản và cải tạo đất đai thuộc quyền sở hữu của Thành phố; những công trình xây dựng, sửa chữa, tất cả các công trình thầu; việc xây dựng các phố, quảng trường công cộng và vạch tuyến đường trong Thành phố... Việc bàn bạc và lấy biểu quyết về các vấn đề chính trị bị nghiêm cấm trong các phiên họp.
Theo quy định, nghị quyết của Hội đồng Thành phố phải được ghi lại trong một cuốn sổ có đánh số, theo trật tự ngày tháng và phải được lấy chữ ký của tất cả các ủy viên. Sau mỗi phiên họp, chủ tọa phải gửi thẳng nghị quyết của Hội đồng lên Tổng Trú sứ.
Nội dung của nghị quyết được đăng trong Công báo Thành phố Hà Nội (Bulletin municipal de Hanoi). Còn biên bản các cuộc họp thì được lưu trữ tại Kho Lưu trữ Trung ương trực thuộc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (Directionservice des Archives et Bibliothèquc de l’Indochine) ở phố Borgnis Desbordes (nay là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, phố Tràng Thi - Hà Nội). Chính nhờ số biên bản của Hội đồng Thành phố còn được lưu trữ lại mà người ta có thể biết được Hội đồng Thành phố Hà Nội đã hoạt động như thế nào trong thời kỳ Pháp thuộc.
Hội đồng Thành phố Hà Nội đã được hoàn thiện thêm về tổ chức và được bổ sung thêm một số chi tiết như các điều kiện bầu cử, số lượng ủy viên... bằng các Nghị định ngày 31-12-1891, 19-7-1904, 16-5-1906, 14-3-1907 của Toàn quyền Đông Dương và các Sắc lệnh ngày 11-7-1908, 18-8-1921 của Tổng thống Pháp. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, Hội đồng Thành phố Hà Nội đã ngừng hoạt động.
Để thích ứng với những biến động về chính trị ở Đông Dương, hệ thống tổ chức hành chính của Pháp đã có nhiều thay đổi. Chức danh Toàn quyền Đông Dương được thay thế bằng Cao ủy Pháp ở Đông Dương[4] và trụ sở của Phủ Cao ủy được đặt tại Sài Gòn. Tại Hà Nội, bên cạnh Đại diện của Cao ủy Pháp ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ còn có Thị chính ủy - hội hỗn hợp Pháp - Việt Thành phố Hà Nội (Commission municipale mixte franco-vietnamienne de la Villa de Hanoi) được Thành lập theo Nghị định số 4 cab/A ngày 8-5-1948 của Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Bắc Việt[5]. Thành phần của Thị chính ủy - hội hỗn hợp gồm có 12 ủy viên chính thức người Việt, 6 ủy viên chính thức người Pháp, 4 Thành viên dự khuyết người Việt và 2 ủy viên dự khuyết người Pháp. Tổ chức này hoạt động cho đến ngày 16-12-1952 thì được thay thế bằng Hội đồng Thành phố (Conseil Municipal).
Theo Sắc lệnh số 106-NV ngày 27-12-1952 do Bảo Đại ký, số ủy viên chính thức người Việt của Hội đồng Thành phố Hà Nội được quy định tăng từ 12 lên 18 và số ủy viên dự khuyết người Việt cũng tăng từ 4 lên 6[7]. Đối với các ủy viên người Pháp, mặc dù số lượng không thay đổi nhưng họ không phải qua bầu cử như các ủy viên người Việt mà được bổ nhiệm bằng Nghị định của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, theo đề nghị của Chính phủ Bắc phần.
Tuy nhiên, Hội đồng Thành phố Hà Nội của Chính phủ Bảo Đại chỉ tồn tại đến hết tháng 4-1954. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam và xóa bỏ luôn các tổ chức của Chính quyền do Pháp đặt ra tại Hà Nội.
..........