Nỗi đau nơi xóm vắng
Một quyết định liên quan đến tính mạng một con người hẳn đó là một quyết định đặc biệt cần phải cân nhắc kỹ. Cho đến bây giờ đã gần U60 mà tôi vẫn còn day dứt bởi đúng hay sai về một quyết định tập thể của tổ trinh sát mà lúc đó đều ở tuổi 20 . Câu chuyện thế này.
Khoảng tháng 10/ 1978, đội hình sư đoàn 320A đã sang tác chiến bên kia biên giới thuộc huyện Mi mút tỉnh Công phông chảm. Đây là huyện miền núi biên giới của nước bạn giáp tỉnh Tây Ninh của ta. Đại đội 20 trinh sát sư đoàn đóng ở phía Đông cao điểm 200. Nói là cao điểm nhưng thực ra đó là 1 đồi thấp, được phủ toàn bộ cây cao su đã nhiều năm tuổi. Vào buổi chiều, lúc này ở Căm pu chia là đầu mùa khô, đ/c Đại đội trưởng gọi toàn tổ lên giao nhiệm vụ luồn sâu đặt đài quan sát đường 78 từ ngã ba Suông đi đầm Be. Công việc chủ yếu là theo dõi, ghi chép sự di chuyển lực lượng của địch thời gian 5 ngày về báo cáo trực tiếp tại ban trinh sát.
Nhận lương thực thực phẩm xong chúng tôi lên đường ngay. Riêng đ/c Duyên tổ trưởng và Thịnh thông tin 2W cả hai đều là người Hà Bắc, còn đ/c Tư người khối Tân Phú xã Nghi Hòa ( Cửa Lò bây giờ) đến chập chiều xác định vị trí đứng chúng tôi biết cách chốt cuối cùng của BB khoảng 1km nữa. Rừng cao su mênh mông muỗi nhiều vô kể, trời đã nhá nhem tối, chúng tôi quyết định nghỉ lại sáng mai đi tiếp để tránh BB ta bắn nhầm. Trước mắt chúng tôi là bản nhỏ nằm giữa rừng cao su. Do làng bản ở K khó đọc nên lính ta thấy trên bản đồ hình thù thế nào, đặc trưng gì thì gọi như vậy. Nào là bản đỏ, bản vuông, bản dài, bản đu đủ ( vì có nhiều đu đủ)... Bản chúng tôi dừng nghỉ là bản vuông. Chúng tôi nhẹ nhàng tiếp cận, bản này cách đây 1 tuần địch còn kiểm soát. Bản vắng lặng hoang tàn không một bóng người. Có lẽ khi chiến tranh đến dân bỏ chạy vào rừng sâu cả. Chúng tôi leo lên sàn, tổ trưởng phân công tôi cảnh giới còn 3 đ/c còn lại mắc võng và đổ nước vào bao gạo sấy. Nhà dân ở Cam pu chia 100% là nhà sàn như nhà dân tộc bên ta.
Tôi ngồi quan sát ở cửa sổ để theo dõi. Chỉ có tiếng xào xạc của gió rừng, tiếng gà con lạc mẹ, tiếng chim lợn bắt đầu đi ăn đêm. Bỗng nhiên nghe tiếng sột soạt ngày càng rõ, tôi tắc lưỡi 3 cái ra tín hiệu SSCĐ. Tôi nhìn thấy 1 người đang bò 1 cách nặng nhọc tiến về phía chân cầu thang rồi chui vào ổ rơm. Tôi nâng khẩu AK lên nhưng tổ trưởng ra ký hiệu không được bắn. Phương án tác chiến hình thành nhanh chóng trong tích tắc, Tư và Thịnh cảnh giới còn tôi và Duyên cùng nhảy xuống dùng võ thuật bắt sống. Hai chúng tôi bất ngờ cùng nhảy xuống và hô: " Lớc lai lơn" (giơ tay lên). Vốn tiếng K quá ít ỏi của chúng tôi chỉ đủ dùng bắt tù binh thôi. Nó không giơ tay. Ồ thì ra đây chỉ là 1 thằng oăt con nó không có dấu hiệu sợ sệt ngước mặt nhìn như lóe sáng niềm hi vọng, có lẽ nó tưởng dân làng hay bố mẹ về cứu nó. Nụ cười tắt vội trên môi thay vào đó là 2 hàng nước mắt, trước mắt nó là 2 người lính ngoại quốc, súng lăm lăm trong tay. Ngôn ngữ bất đồng nên chúng tôi không thể có cách gì để diễn đạt được ý nghĩ của mình. Tội nghiệp thằng bé khoảng 9 - 10 tuổi, da đen sạm gầy còm, trên tay còn cầm miếng cơm khô có lẽ do ai đó rơi nồi nấu cơm sót lại khi bỏ chạy. Nó gầy yếu quá bước không nổi nhìn vào ổ rơm thấy còn có mấy bắp ngô khô và vài củ sắn nữa có lẽ đây là "kho" lương thực của nó. Chúng tôi bế thằng bé lên sàn, người nóng quá có lẽ nó sốt cao. Rồi chúng tôi cùng ăn, nó ăn một cách ngon lành mắt nhìn chúng tôi ra vẻ cảm ơn. Ăn no rồi nó nằm thiếp đi có lẽ do đã nhịn đói nhiều ngày.
Chúng tôi thì thầm nói chuyện với nhau phán đoán tại sao thằng bé nông nổi như thế này. Tôi là người hay nói đưa ra nhận định đầu tiên:
- Đây sẽ là nhà của nó. Nó quá yếu không leo được nên nằm dưới chân cầu thang để chờ bố mẹ về cứu.
Tư nói:
- Có lẽ nó đi học xa nên khi trở về dân làng đã chạy vào rừng hết biết đâu mà tìm?
Tổ trưởng Duyên thì thầm:
- Cậu kém thế. Khơ me đỏ làm gì có trường dạy văn hóa mà học, nó đang thực hiên chính sách ngu dân mà!
Tư nhận định:
- Vậy thì có thể dân làng, bố mẹ nó bỏ chạy khi đi chăn trâu hay vào rừng làm rẫy?
- Cũng có thể. Duyên trả lời.
Tư nói:
- Nó đói nhiều ngày quá mà sốt cao có lẽ nó chết mất. Ta phải đưa nó đi anh à, mai để em cõng cho.
Trời đã tối song tôi thấy Tư đưa tay lên như lén gạt nước mắt. Tổ trưởng Duyên nói:
- Thôi thay phiên nhau ngủ lấy sức mai ta bàn quyết đinh nhưng nhiệm vụ ta dài ngày nặng nề lắm nếu đưa nó đi theo e không hoàn thành nhiệm vụ.
Chúng tôi thay phiên nhau ngủ, song tôi thấy hình như cả bốn đều trằn trọc thâu đêm có lẽ vì chuyện thằng bé.
Sáng sớm dậy cả bốn cùng bàn để có quyết định nhọc nhằn này. Tư và Thịnh ý kiến phải đưa thằng bé đi theo vì để lại nó sẽ chết. Nhưng tổ trưởng đã quyết định để lại bởi đường đi còn dài gặp địch cơ động sẽ khó khăn. Chúng tôi bớt khẩu phần ăn mỗi người 1 ngày để lại cho thằng bé cà cho nó uống thuốc cảm với hi vọng ngày quay trở lại nó còn sống sẽ đưa nó về đơn vị. ( Lính trinh sát trên dây lưng chiến đấu khi nào cũng có dao găm, bi đông nước, túi bao đạn, túi thuốc cá nhân. Còn lưng đeo gùi vải đựng quần áo, tăng võng, LTTP). Trao "tiêu chuẩn" cho thằng bé chúng tôi không quên múc cho nó vò nước để cạnh thầm nhủ rằng: "chỉ cần em sống đến ngày các anh trở về thì cuộc sống sẽ dang tay đón em". Trước lúc chia tay chúng tôi muốn nói với em nhiều lắm song ngôn ngữ bất đồng đành nhìn em yên lặng. Chúng tôi vẫy tay chào, nhìn thấy ánh mắt em đượm buồn nhưng vẫn ánh ngời niềm hi vọng. Em đâu biết được rằng cái chết đang chờ em phía trước. Tôi thấy trong mắt thằng đồng hương đa cảm, nước mắt đã lăn dài trên má. Đi đã được vài chục bước như sực nhớ gì đó Tư chạy quay trở lại hình như dấu chúng tôi cho nó thêm phong lương khô.
Đến chốt cuối cùng của ta chúng tôi hiệp đồng thời gian quay trở lại để tránh bắn nhầm. Các đ/c BB nói rằng hãy cẩn thận vì cách đây 2 ngày địch đánh vào chỗ này. Đúng 4 ngày sau hoàn thành nhiệm vụ chúng tôi quay trở lại. Đến gần bản Vuông đi càng nhanh, Tư lúc nào cũng đi trước, những ngày thực hiện nhiệm vụ chúng tôi lúc nào cũng nhắc về em. Tư nói đi nói lại mấy lần: "Thương nó quá, nó bằng tuổi em út mình"! Kia rồi, em vẫn nằm kia. Chúng tôi ùa chạy lại. Trời ơi thằng bé đã cứng lạnh rồi, trong tay vẫn còn cầm miếng lương khô ăn dở. Mắt vẫn mở như đang trông chờ chúng tôi trở về. Chúng tôi vuốt mắt cho em khá lâu mới được chứng tỏ em chết chưa lâu, tuy vậy ruồi nhặng đã bay đậu như đàn ong. Chúng tôi nhanh chóng mai táng em ngay vườn nhà rồi để quần áo, dép của nó ngay trên mộ với hi vọng sau này bố mẹ nó còn nhận ra được, vừa đào, rồi lấp mà tất cả chúng tôi mắt đều ứa lệ.
Xong việc chúng tôi cắt đường về đơn vị, không ai nói câu nào mà đều tự thấy lòng mình nặng trĩu. Hãy tha thứ cho các anh, các anh đã về muộn vì sự hoàn thành nhiệm vụ, vì cứu cả đất nước hồi sinh nên đành lòng bỏ em lại để rồi lương tâm bứt rứt cho đến bây giờ.
Cuối tháng 7/1979 chúng tôi ra Bắc đóng quân ở Đại Từ - Thái Nguyên. Vào dịp chào mừng ngày thành lập Quân đội 22/ 12 năm đó, bởi chữ đẹp tôi được chi đoàn C20 TS F320A chọn vào ban biên tập báo tường. Đó là số báo đầu tiên khi trở về đất Bắc chuyên đề chào mừng ngày thành lập quân đội. Đa số bài đều viết về kỷ niệm chiến tranh song có 1 bài thơ làm nhức nhối tim tôi. Đó là bài thơ " Qua xóm vắng" của tác giả Ngô Thanh Tư với dòng ghi chú: " Kỷ niệm chuyến công tác qua bản Vuông". Tôi đọc đi đọc lại mà nước mắt dâng trào tự trách mình vô cảm,thằng Tư ít nói mà trái tim giàu đến vậy. Tôi không thể sửa một ngôn ngữ nào bởi nghĩ rằng hãy để yên cho trái tim đồng đội rung động, hãy để cho dòng nước mắt tự chảy. Trong bài thơ này có cả trăn trở của tôi, của Thịnh, của anh Duyên và sẽ như bao người lính tình nguyện VN trong hoàn cảnh đó.
Cho đến bây giờ đã 34 năm trôi qua. Quãng thời gian không ngắn trong đời mỗi con người, tôi còn nhớ 8 câu thơ mở đầu bài "qua xóm vắng":
Trên đường công tác anh gặp em
Bản hoang nhà vắng cảnh điêu tàn
Mình em bơ vơ nơi xóm nhỏ
Ổ rơm ai lót đặt em nằm
Em nhỏ mới lên độ 9 - 10
Có biết gì đâu lứa tuổi chơi
Đã mấy ngày nay em sống vậy
Không gạo không tiền không mẹ cha
... ... ... ... ... ...
Và 4 câu cuối:
Chiến tranh lửa khói ngợp trời mây
Tràn đến bản em miền quê vắng
Anh khắc mãi một lời tâm niệm
Em là nạn nhân của chiến tranh
Đức Cường trân trọng cảm ơn những ai đã đọc câu chuyện này và hãy giải cho chúng tôi đáp số của một quyết định day dứt mà đến bây giờ vẫn chưa biết đúng hay sai.