Phi công Cấch mạng đầu tiên là Cụ Lê Hồng Phong người Hưng Nguyên xứ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cái đó đúng rồi.
Còn phi công người Việt đầu tiên là người xứ Nam Kỳ (vào làng tây), con điền chủ ở Chợ Lớn Đỗ Hữu Phương, ông là Đỗ Hữu Vị. Ngôi trường Phan Đình Phùng ở phố Cửa Bắc Hà Nội hồi tây gọi là trường Đỗ Hữu Vị. Trong Thế chiến 1 ông phục vụ trong không quân Pháp, là phi công cường kích theo cách gọi bây giờ, trước đó ông phục vụ trong 1 phi đội ở mặt trận Maroc-Algerie năm 1912-1913. Thế chiến 1 ông là biên đội phó 1 biên đội phóng pháo trên mặt trận Pháp-Đức, từng ném bom xuống Karlsruhe, Ludwigshafen.
Đỗ Hữu VịĐỗ Hữu Vị thứ 2 từ trái sangĐỗ Hữu Vị từng bị rơi 1 lần (sau khi công kích trên đường về bị gió lốc) năm 1915, sau đó KQ không nhận về nữa do bị thương không đủ sức khỏe lái máy bay, ông trở về bộ binh, trung đoàn lê dương 1, cấp đại úy, chỉ huy đại đội 7 trung đoàn này tham chiến tại mặt trận sông Somme, trong cuộc "chiến tranh chiến hào" nổi tiếng của Thế chiến 1. Hy sinh vì trúng nhiều viên đạn trong một trận xung phong ở vị trí dẫn đầu hồi 16h ngày 9 tháng 7 năm 1916. Trên mộ ông người Pháp viết thế này:
Capitaine-aviateur Do-Huu
Mort au Champ d'Honneur
Pour son pays d'Annam
Pour sa patrie, la France. Trả lời những người bạn trách ông sao hăng thế, ông trả lời:
« Il me faut être doublement courageux, car je suis à la fois Français et Annamite." ("Tôi phải dũng cảm gấp đôi, vì tôi vừa là người An-nam, vừa là người Pháp").
Hay nói theo bài hát thời tây là
"Tôi có 2 mối tình, quê hương tôi và Paris" như dưới đây:
J'ai Deux AmoursOn dit qu'au-delà des mers,
Là-bas sous le ciel clair,
Il existe une cité, au séjour enchanté.
Et sous les grands arbres noirs,
Chaque soir,
Vers elle s'en va tout mon espoir.
J'ai deux amours
Mon pays et Paris.
Par eux toujours,
Mon coeur est ravi.
Manhattan est belle,
Mais à quoi bon le nier :
Ce qui m'ensorcelle, c'est Paris,
c'est Paris tout entier.
Le voir un jour,
c'est mon rêve joli.
J'ai deux amours,
Mon pays et Paris.
Manhattan est belle,
Mais à quoi bon le nier :
Ce qui m'ensorcelle, c'est Paris,
c'est Paris tout entier.
Le voir un jour,
c'est mon rêve joli.
J'ai deux amours,
Mon pays et Paris.
Bài này trong "Số Đỏ" được bà Phó Đoan hát xuyên tạc là
"J'ai deux amours, mon amant et mon mari" (
Dè đơ da múa mồng ná măng mồng ma rí, nghĩa là -
em có 2 mối tình, chồng em và thằng nhân ngãi của em).
Hãy nghe bài này trên youtube qua giọng hát của Madeleine Peyroux:
Ảnh Đỗ Hữu Vị (1881-1916) trên máy bay Blériot:
Ảnh có chữ ký của thân chủ tặng một ai đó:
Nói cho chính xác hơn thì Đỗ Hữu Vị có thể từng là phi đoàn phó (commandant adjoint d' un groupe de bombardement) vì từ năm 1949 KQ Pháp dùng từ
escadron thay cho
group. Khi Thế chiến 1 nổ ra năm 1914 ông đang ở Việt Nam và đã xung phong quay về Pháp, ra mặt trận. Do chiến đấu ở Maroc đầu tiên, hiện tại ở thủ đô Casablanca của Maroc có một con phố mang tên ông.
Đỗ Hữu Vị từng tốt nghiệp võ bị Saint-Cyr (nhập trường năm 1904), sau khi học tại các trường trung học lớn của Paris như lycée Janson-de-Sailly và Louis le Grand. Sau khi ra trường ông là thiếu úy và đi đánh nhau ở Maroc từ 1907. Ông theo sát đoàn khai thác hàng không Bleriot bay qua biển Manche và từ đó thích nghề bay. Ngày 10 tháng 12 năm 1910, ông vào trường phi công quân sự và sau 11 tháng tốt nghiệp trung úy-phi công với bằng số N°649 do CLB Hàng không nước Pháp cấp (l’Aéroclub de France).
Ảnh thẻ chuẩn bị cho trường Louis Le Grand (tương tự như một trường dự bị đại học của nước Pháp):
Đây là sổ trực ban tác chiến có tên Đỗ Hữu Vị của phi đội 101 quý 4 năm 1914:
Phi đội 102, quý 1 năm 1915:
Hình Đỗ Hữu Vị trên 1 con tem Đông Dương thời tây:
Ngày Đỗ Hữu Vị rơi máy bay năm 1915 là một ngày có gió lớn, không nghe lời khuyên của mọi người, ông cứ hăng hái xuất kích, oanh tạc xong quay về thì gió lớn quá và máy bay lật nhào xuống đất. Không còn sức khỏe để lái, thì ông làm quan sát viên trên máy bay của nhóm phóng pháo. Rồi không quân cũng không cho phép ông cất cánh nữa nên ông quay về bộ binh. Năm 1921, anh cả của ông là một sỹ quan Pháp colonel Đỗ Hữu Chấn đưa hài cốt ông về quê chôn ở nghĩa trang gia đình gần Chợ Lớn (Bois du Phu).