Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Tư, 2024, 09:33:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ván bài lật ngửa  (Đọc 131994 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #90 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:12:26 am »

Chương 11

Vụ mưu toan đầu độc đại úy Phùng Quốc Tri bị phát giác. Thức ăn dành riêng cho đại úy khi vứt cho chó ăn chó hộc máu, chết lăn, trước mắt Tri.

Luân đích thân điều tra. Thức ăn gửi từ ngoài vào nhưng Tri không có bà con, đó là giỏ thức ăn đầu tiên đề tên ông ta.
Nhân viên trại giam, không tài nào nhớ tên thân nhân thăm nuôi tù hằng tuần. Công việc điều tra gần như bế tắc.
Đại tá Trần Vĩnh Đắt chỉ báo với Luân bấy nhiêu “Người ta định bịt mồm Tri, khả năng nhiều nhất là đánh thuốc độc vào thức ăn”. Đánh thuốc độc bằng cách nào, Đắt cũng không rõ, nhóm sĩ quan Mỹ hóa trang nhân viên dân sự làm việc trực tiếp với phó đại sứ Mỹ William Porter, thường trực trong trại giam Phú Lợi. Nhưng, những sĩ quan Mỹ không thể trực tiếp đánh thuốc độc. Luân nghĩ đến Trần Viết Lượng. Rất có thể. Phán đoán vậy thôi, lấy chứng cứ gì để buộc tội viên trung tá hống hách nầy?
Người loé lên ánh sáng lại là Tri. Trong lúc dấu vết mờ mịt, Luân chợt nhớ đến Tri. Anh cho gọi viên đại úy lên văn phòng. Phùng Quốc Tri bị giam, người không đỏ au như trước.

- Anh thấy rõ có kẻ muốn hại anh. – Luân nói - Nếu không kịp thời ngăn ngừa, anh đã bị giết...

- Tôi sẽ chết như con chó! - Tri chua chát.

- Tôi rất muốn phanh phui việc này và cũng muốn mở cho anh con đường sống. Anh hãy nhớ kỹ xem ai có thể nhẫn tâm giết anh. Nuôi ý định giết anh thì chắc nhiều người, song ai có điều kiện xuống tay nhất? Tôi xem anh như người cộng tác với tôi tìm ra sự thật. Bằng công trạng đó, tôi hứa sẽ cứu xét trường hợp anh với nhiều đặc ân, thậm chí có thể anh khỏi ra tòa.

- Đại tá Trần Vĩnh Đắt! – Tri quả quyết.

Luân lắc đầu.

- Tôi đã nghiên cứu kỹ, đại tá Đắt không định hại anh. Hoặc, nói chính xác, ông ấy không trực tiếp hại anh...

Tri nhíu mày.

- Anh nhớ cho: các món ăn đưa vào có phải là các món anh thích không? Ai biết anh thích các món đó? Những món gì nào? Thịt bò bít tết, giò chả, thịt đông, giả cầy, thuốc độc trộn vào giả cầy... Phải là người biết anh thích giả cầy...

- Tôi biết rồi! – Tri thét to – Con mụ Yến Thu!

- Tại sao là Yến Thu?

- Một lần trung tá Vũ Thành Khuynh thiết tôi. Chả là bọn lang bạt ở Bắc Việt với nhau. Bữa ăn thiếu món giả cầy mặc dù trung tá nói trước là bữa ăn sẽ hoàn toàn địa phương. Tôi cười: Phi giả cầy bất thành đại tiệc... Yến Thu ngồi đó, hỏi tôi tại sao thích giả cầy: tôi giảng giải cho mụ nghe. Lần sau vợ chồng mụ thiết tôi món giả cầy thực ngon...

- Cám ơn anh! – Luân dịu dàng – Tôi đã dặn trại giam chăm sóc anh. Đề phòng thức ăn đã đành, còn đề phòng nhiều thức khác. Người ta dám sả vào anh một băng tiểu liên nếu có dịp. Đề phòng tốt nhất là tự anh, hễ thấy có điều gì khác thường phải báo ngay. Tôi giữ lời hứa: anh sẽ được giảm tội...

Phùng Quốc Tri rơm rớm nước mắt khi từ giã Luân. Tuy Luân nắm được kẻ gửi thức ăn tẩm độc cho đại úy Phùng Quốc tri, song đó, chỉ là tính hợp lý của suy luận. Chưa đủ buộc tội con mụ nhiều mánh khoé này.

“Yến Thu dùng ai đưa giỏ thức ăn vào khám?”.

Luân hút hết gần một gói thuốc mà vẫn bí rị.

“Phải có Dung ở đây, cô ấy sắc sảo hơn mình”. Luân nói thầm.

Có thể người nhà của Yến Thu. Không, cô ả đời nào dám dùng người nhà. Tài xế của Vũ Thành Khuynh! Không! Cận vệ ông ta! Không! Ai?

Việc này không phải là sáng kiến của Yến Thu. Ả không có lý do. Vậy sáng kiến từ hai sĩ quan Mỹ hoặc tay trung tá Trần Viết Lượng.

Trung úy Vi cung cấp cho Luân tài liệu: Trần Viết Lượng thỉnh thoảng hò hẹn với Yến Thu, song không mê. Trái lại, hai sĩ quan Mỹ - một trung tá tên McKinsey và một đại úy tên Henry Forward thì say mê say mệt con mụ. Đại úy Tình, bị cách chức quận trưởng Dầu Tiếng là người đầu mối. Tình đang làm việc ở trại Phú Lợi - hắn phụ trách phòng giao thiệp với thân nhân các người tù.

Luân gọi Tình đến văn phòng. Anh quyết định phủ đầu.

- Theo tài liệu của cảnh sát, đại úy đã nhận giỏ thức ăn của bà Yến Thu gửi cho đại úy Phùng Quốc Tri. Tôi đã đủ bằng cớ...

Nếu Tình chối thì Luân cũng không đưa ra được bằng chứng nào. Nhưng Tình nhận:

- Thiếu tá thương giùm em... Bà Yến Thu, các ông Mỹ biểu em... Em đâu có thù oán gì ông Tri.

Ký tên vào lời cung xong, Tình được thong thả. Luân chỉ dặn Tình: không nói với bất kỳ ai, nếu muốn không vào tù...

... Luân sang nhà tỉnh trưởng ăn cơm chiều. Tất nhiên vợ chồng Vũ Thành Khuynh cực kỳ hoan hỉ.

Vũ Thành Khuynh từ 6 tháng nay tựa như người ngồi trên lửa. Phủ tổng thống coi như tỉnh Bình Dương không có viên tỉnh trưởng nào trên ông. Công việc của tỉnh đoàn bảo an lại chạy đều đều. Theo đẳng cấp, ông chỉ huy Nguyễn Thành Luân, song chưa bao giờ ông dám hé môi. Bình định là một thứ nghề không phải trời sinh ông để gánh vác. Trong thâm tâm ông phục Luân. Điều mà ông cầu Chúa che chở là Luân bỏ qua cho ông những vụ áp phe về rừng – đụng vào đâu cũng có - và về quân số ma – tổng số thật của bảo an tỉnh chưa đến 40% báo cáo giấy để nhận lương và trang cấp.

Yến Thu, sau lần sang tận văn phòng Luân, không có dịp nào gặp Luân. Trung úy Vi mô tả Luân như con người lạnh lùng với đàn bà. Ả cố gắng mời Luân đến chơi nhà ả, nhưng Luân chỉ đến tiền sảnh, làm việc xong là về. Đại tá Đắt dặn ả cẩn thận:

Luân dám tống ả vô khám nếu nắm được các mối làm ăn của ả.

Yến Thu nửa tin nửa ngờ. Trong tỉnh Bình Dương nầy ả muốn “chài” ai mà chẳng được.

Cho nên, Yến Thu để cả tiếng đồng hồ trang điểm. Nhất định cho Luân vào tròng.

- Anh đừng có ghen em nhen! - Ả dặn Vũ Thành Khuynh – Anh giả say đợi khi nào em ra hiệu, anh xông tới bắt tại trận. Gã chịu phép rồi ta buộc gã làm tờ tự thú, sau nầy muốn xỏ mũi gã tới đâu gã cũng phải đi.

Vũ Thành Khuynh mê tín người đàn bà lão luyện nầy. Trò gì ả bày ra, Khuynh cũng cho là hay. Vả lại, đúng là ả xỏ mũi Trần Vĩnh Đắt bằng một việc nhỏ nhưng không nghĩ tới: chụp ảnh Đắt đang ôm ghì ả và ả đang giãy giụa mặc dù chính ả mời mọc Đắt.

Bữa ăn bày ở sân sau, ngay cửa vào phòng ngủ của Yến Thu... Cửa hé mở, hiện ra chiếc giường lò xo trải drap trắng muốt. Vợ chồng Khuynh mời Luân ở vị trí ngó thẳng vào phòng.

Yến Thu sóng đôi với Luân, còn Khuynh thì đối diện, ả liền miệng khoe các món ăn do ả nấu, tự tay gắp thức ăn cho Luân.

Uống vài chập rượu, Vũ Thành Khuynh tựa ghế, thở dốc.

- Ông trung tá dở rượu lắm. Sắp ngáy rồi! - Yến Thu thỏ thẻ, vừa nép người sát Luân vừa liếc vào phòng.

- Ngon quá! Yến Thu nấu ngon thật! – Luân khen.

- Yến Thu vì ai mà nấu ngon, anh biết không?

Luân gật đầu, Yến Thu dấn lên một bước, kề môi vào tai Luân, thì thào:

- Yến Thu yêu anh từ khi mới gặp lần đầu!

Luân tức cười trong bụng: ả sắp gọi mình là “hoàng tử của lòng em” như gọi trung úy Vi! Ả quá sành sỏi nghề đàng điếm, chỉ có một khuyết điểm là không phân biệt ai với ai...

- Yến Thu chưa thật yêu tôi đâu! - Luân nói đủng đỉnh, không cần hạ thấp giọng trước Vũ Thành Khuynh.

- Yêu thiệt mà! Nhớ chết được... người gì...

Yến Thu đóng vai gái nhà lành khá vụng, còn đóng vai gái yêu đương thơ ngây còn vụng hơn. Ả đi vào bài ngay – cầm tay Luân đặt lên đùi trần của ả.

- Nếu yêu tôi, sao bữa ăn thiếu món mà tôi thích?

- Anh thích món gì?

- Tôi thích món giả cầy... - Giọng Luân bình thường.

- Chèn đét ơi! Yến Thu đâu có dè... Chiều mai, món đó. Vậy mà không chịu nói...

Yến Thu uốn éo người, bắt đầu giả bộ thở hổn hển.

- Yến Thu tự làm?

- Thôi mà đừng hỏi nữa.. Yến Thu làm chớ ai. Bây giờ anh... - Ả làm như sắp mê sảng...

- Nhớ làm giả cầy... một phần Yến Thu gửi cho đại úy Phùng Quốc Tri, như hôm nọ.

Yến Thu đang đinh ninh giờ phút Luân đầu hàng sắp điểm, sửa soạn một động tác quyết định. Nghe Luân nói, ả sựng mấy giây và rùng mình.

- Anh.. Anh... - Ả lùi khỏi Luân.

- Tôi biết. Đại úy Tình khai rồi! – Luân ngó ả độ lượng.

- Ông… - Đôi mắt to gắn lông mi giả bình thường biêng biếc, bấy giờ một màu trắng.

Vũ Thành Khuynh ngồi thẳng người, tự hỏi không biết nên tiếp màn kịch như thế nào?

Luân đứng lên khẽ xoa đầu Yến Thu:

- Cũng không có gì quá nguy hiểm, nếu bà nói thật. Tôi đảm bảo với bà...
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:16:16 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #91 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:17:40 am »

Chương 12

Dung đi làm về, sớm hơn mọi hôm. Như thói quen, mỗi khi Luân vắng nhà, cô nằm trên chiếc ghế xếp đặt ở hàng hiên nghe buổi phát thanh của đài Hà Nội qua một máy thu nhỏ mà cô kề sát tai. Đài đang truyền tin tức miền Bắc sửa soạn kỷ niệm Cách mạng tháng Tám. Khu gang thép Thái Nguyên đang san mặt bằng - cái nồi luyện kim của cả nước dần dần tượng hình. Công trình Bắc Hưng Hải ráo riết thi công... Sau phần tin là phần ca nhạc. Những bài hát cũ – chúng gợi lại ký ức Dung thuở cô còn niên thiếu xếp hàng đếm một hai qua các phố - như “Cùng nhau đi Hồng binh”, “Tiếng gọi sinh viên”, “Lên đàng”,… rồi “Sông Lô”, “Du kích sông Thao”, “Hành quân xa”... Thuở cô, cũng như bây giờ - chỉ dám hát khe khẽ giữa thủ đô tạm chiếm. Và “Chiến thắng Điện Biên” sôi sục – lúc ấy cô đang học trường nghiệp vụ của Bộ, “Cô thợ hàn” là bài cô thích, ngọt ngào làn điệu.

Đèn đường đã bật. Chị Sáu đặt mâm cơm lên bàn. Sắp sửa phải ăn và Dung sẽ đối diện với chiếc ghế trống. Dẫu sao, vẫn phải chờ anh ấy gọi về nói chuyện dăm ba câu. Dung cảm thấy như Luân cùng ăn cơm tối với cô.

Từ khi lên Bình Dương, ngày bốn lần – trừ những ngày Luân đi khỏi tỉnh lỵ - hai người gọi điện cho nhau, hỏi thăm sức khoẻ.

Hằng tuần, Luân về, cũng có tuần anh xin lỗi Dung.

Dung lên Bình Dương không nhặt lắm, công việc của một người đều bận rộn.

Chuông điện thoại reo:

- Hôm nay, ông kỹ sư gọi về sớm. – Chị Sáu nhận xét. Chị trở thành người chí thân của gia đình.

- Alô! - Dung vội vàng nhấc máy.

Chị Sáu thấy Dung cau mày. Không phải ông kỹ sư rồi! Dung nói một câu nước ngoài mà chị Sáu không hiểu.

- Ông James Casey! – Dung gác máy, bực bội.

- Ổng đến nhà ta! - Chị Sáu lo lắng.

- Ông ấy muốn như vậy, song tôi bảo là anh Luân không có nhà, đợi lúc nào anh Luân về.

Gần như cách một ngày James Casey lại gọi Dung.

Lúc đầu, Dung còn lịch thiệp, về sau cô thấy không thể tiếp tục để bị phá rối, nên sẵng giọng. Vậy mà tên Mỹ vẫn lì lợm.

- Sau này, cô để tôi nghe. Tôi mắng cho ổng một trận... - Chị Sáu càu nhàu, mặc dù chị sẽ mắng bằng tiếng Việt, còn James
Casey hiểu hay không thì thây kệ hắn.

Điện thoại reo lên:

- Bây giờ thì chắc ông kỹ sư! Không biết chừng ông về ăn cơm với cô.. - Chị Sáu vui hẳn.

Dung nhấc máy:

- A lô! Em nghe đây... Ủa! Xin lỗi.

Chị Sáu cụt hứng, ngó chiếc điện thoại trân trối.

- Thưa phải! Tôi là Madame Luân đây... Ông là… Xin chào bác sĩ.. Chuyện chi ạ?

Mặt Dung từ đỏ hồng chuyển sang xanh tái, tay run bần bật. Chị Sáu bước đến cạnh Dung.

- Gì đó cô?

Dung vứt ống nghe chạy vút vào phòng, nói trong nước mắt.

- Anh Luân bị thương nặng...

- Ở đâu? Bị thương... có hề chi không?...

Dung không trả lời chị Sáu. Cô thay vội quần áo, cầm ví tay và chiếc áo choàng, nhảy ba bước một đến garage.

- Bị thương nặng, đang ở bệnh viện... Tôi sẽ điện thoại về.

Dung nói bấy nhiêu và chiếc Open vọt ra cổng, quẹo gấp, bánh xe bật tiếng rít rờn rợn.

Bác sĩ ở Thủ Dầu Một báo với Dung một tin khủng khiếp: thiếu tá Nguyễn Thành Luân trong khi thi hành công vụ bị thương nặng đang hấp hối ở bệnh viện.

Dung ra đường Phan Thanh Giản, rẽ sang Đinh Tiên Hoàng, vượt Cầu Bông, qua Bà Chiểu, cô lái xe hoàn toàn theo quán tính, cầu Bình Lợi...

Trời tối hẳn. Chiếc Opel xé màn đêm, càng lúc càng nhanh. Đường 13 vắng ngắt. Dung nhấn thêm ga. Kim đồng hồ vọt lên trên con số 100. Cô vẫn thấy chậm...

- Anh ơi! - Dung kêu khe khẽ. Cái mất mát mà Dung đoán có thể xảy ra; bây giờ đã xảy ra. Anh ấy hôn mê.. Còn kịp gặp mặt không? Tất cả những gì mà Dung và Luân tuân theo kịch bản bỗng vô nghĩa. Luân là người yêu, là chồng của Dung – đó là cái đọng lại lớn nhất, trọn vẹn nhất vào giờ phút nầy – em chết mất, anh ơi! Thương anh lắm.. Anh của em...

Dung nói với Luân, mắt dán về phía trước, theo ánh đèn pha.

Lái Thiêu. Đúng. Những thị trấn như sợ hãi, nép bên lề trước tốc độ điên cuồng của chiếc Opel.

*
Cũng đúng vào chiều ấy, Luân mang xấp báo lại gần điện thoại. Giờ nầy, hẳn là Dung chưa về. Luân tranh thủ đọc tin trong ngày. Tờ Tiếng chuông chạy tít to: Quân đội Cộng hòa tảo thanh phía bắc Bình Dương, chạm súng với nhiều toán võ trang lạ mặt.

Tin ở đâu ra? Luân khó chịu. Đúng, sẽ có cuộc tảo thanh lớn – lớn nhất trong chiến dịch “Cơn hồng thủy”- nhưng súng lệnh chưa phát. Mấy hôm nay, Luân cho nghi binh ở vùng Lái Thiêu, An Sơn, phía Nam tỉnh. Kẻ nào tiết lộ trọng điểm phía Bắc tỉnh, báo cho bọn Rừng Xanh.

Không chỉ tờ “Tiếng chuông” mà các báo khác cũng loan tin na ná. Luân không đọc báo nữa, suy tính.

Từ tầng lầu trên của sở chỉ huy, Luân thấy rõ con sông Sài Gòn nhận nước qua những trận mưa dầm cuồn cuộn đổ về xuôi. Chắc chắn là các con suối dâng cao cắt đường xe vào rừng. Phải hành quân thâu đêm mới kịp tập kết quân nơi quy định, nhất là pháo.

Luân chờ báo cáo của các mũi.

Bất kể như thế nào, không sửa đổi giờ nổ súng được nữa, chỉ phải bổ sung mệnh lệnh: Địch có thể phân tán trên một khu vực rộng hơn dự kiến ban đầu.

Có tiếng điện thoại reo, Luân cầm máy, tươi cười. Dung gọi anh đây...

- A lô!... - Nhưng, Luân bỗng hoảng hốt - Chị Sáu đó hả? Luân đây... Không, tôi vẫn bình yên... Ai báo? Bệnh viện? Dung đi hồi mấy giờ? Thôi được, chị chờ đó... Hễ Dung về chị gọi điện cho tôi liền...

Luân bấm chuông khẩn. Trung úy Vi và Thạch hối hả lên lầu.

- Một kẻ nào đó gọi điện thoại cho nhà tôi báo tôi bị thương nặng, đang hấp hối ở bệnh viện Thủ. Cô ấy hấp tấp tự lái xe lên đây, đi được nửa giờ... Nửa giờ mà chưa đến chắc chắn cô ấy bị bắt cóc.

Luân run giọng, mặt anh tái hẳn.

- Báo động liền, thưa thiếu tá! - Vi toan quay lưng.

- Khoan!... Theo tôi, cô ấy bị bắt cóc ngay khu rừng chồi ngoài thị xã... Chỉ có chỗ đó thôi... Chú Thạch gọi gấp Lái Thiêu hỏi có thấy chiếc Opel sơn màu xám tro, nếu chưa thì ngăn lại giúp.
Thạch lao xuống lầu.

- Em nghi ông Trần Vĩnh Đắt! - Trung úy Vi nói.

- Không phải! - Luân lắc đầu – Bây giờ trung úy dùng bộ đàm ra lệnh cho các đơn vị đóng gần khu rừng... Tránh nổ súng, chỉ kêu gọi đầu hàng...

Vi quay xuống Thạch lên: Chiếc Opel BBL qua khỏi Lái Thiêu hồi chạng vạng..

- Chú điện ngay cho quân trấn Lái Thiêu giữ chiếc xe ấy nếu nó trở lại và báo về đây. Chú dẫn hai tiểu đội lùng sục khu rừng...

Một lúc sau, chiến Land Rover nổ máy.. Thạch khoác tiểu liên nhảy lên xe.

*
Trước Dung, một cái dốc ngắn. Qua khỏi dốc này và khu rừng chồi, đã là rìa của thị xã. Nhiều lắm, năm phút nữa. Dung sẽ tới bệnh viện, cầu mong anh ấy không đến nỗi trầm trọng. Đây rồi, tấm bảng to: Phú Cường 4 km.
Đèn pha quét đỉnh dốc: một tốp nười ra dấu bảo xe ngừng. Tuy bực mình, Dung vẫn giảm tốc độ. Một tốp quân nhân, có thể là quân cảnh. Ba người tiểu liên trên tay.

Dung hãm xe, vẫn để máy nổ. thò đầu ra:

- Xin lỗi, tôi có việc gấp!

Một sĩ quan, cầu vai đính hàm đại úy, người dong dỏng cao, trắng trẻo đưa tay lên vành mũ chào Dung.

- Thưa bà, - Đại úy nói giọng Hà Nội rất lễ phép song Dung cảm thấy giọng ông ta hổn hển như quá xúc động. - Chúng tôi thuộc Bộ tư lệnh hành quân, xin bà cho xem giấy tờ.

- Thế à? Ông ở Bộ tư lệnh... Ông có thể cho biết tình trạng của thiếu tá chỉ huy trưởng hiện nay ra sao?

Dung hỏi, hơi rụt rè. Cô ngó mặt đại úy, mong chờ một tin vui.

Đại úy nhún vai, lạnh lùng:

- Tôi không biết, xin bà cho xem giấy tờ.

Giọng ông ta bây giờ đã bình thường và Dung mang máng hình như đã nghe giọng này ở đâu đó một lần.

Dung đành phải chìa giấy ra. Xem xong, đại úy bảo:

- Phiền bà xuống xe, chúng tôi cần khám xe.

Dung mở cửa, xuống xe, cầm theo chiếc ví, và trong một thoáng Dung hiểu tất cả:

- Chính ông! Đúng rồi!... Tôi không thể nhầm lẫn giọng nói của ông được. Chính ông điện thoại cho tôi vừa rồi! Chưa chắc ông chỉ là đại úy. Sao không đeo cấp hiệu cao hơn cho phù hợp với tuổi tác và tư thái của ông... Sao? Các ông định làm gì tôi, nào?

Dung nghiêng đầu, hơi mỉm cười.

Một người đã lên chiếc Opel

- Các ông cướp xe?

- Không... – Gã đại úy trả lời - Chỉ tạm giấu xe bà ở nơi an toàn. Sau nầy, khi mọi việc xong xuôi, xin hoàn trả xe lại nguyên vẹn. - Gã cười khá lẳng - Cũng như xin trả bà lại nguyên vẹn... với điều kiện mọi việc xong xuôi.

Chiếc Opel quay đầu, lao xuống dốc, chỉ còn để lại chấm đỏ nhỏ dần.

- Dù sao, tôi cũng phải cám ơn ông. – Dung nói bình thản – Ông đã trút cho tôi gánh nặng: chồng tôi vô sự.

- Rất khâm phục xét đoán đặc biệt nhanh và sắc xảo của bà! - Gã đại úy nói - Trước hết tôi nhận sai sót đã làm bà lo sợ về tin ông gặp chuyện chẳng may, kế đó, lại đường đột gặp bà trên đỉnh ngọn đồi hoang vu này. Tuy vậy, sẽ không có bất kỳ một xúc phạm nào với bà. Chúng ta cần thương lượng...

- Chúng ta? Tôi không có gì phải thương lượng với các ông cả.

- Có chứ! Rồi bà sẽ hiểu ngay. Đã thương lượng thì phải ngồi vào bàn. Xin mời bà quá bộ vào trong kia, cũng gần đây thôi.
Khu rừng chồi khoác màu nâu sẫm, từng đàn đom đóm lập lòe... Biết cưỡng lại cũng vô ích, Dung bước theo lối mòn nhỏ..

- Bà thông cảm cho, đón tiếp một phụ nữ đẹp như bà mà phải chọn chỗ này là vạn bất đắc dĩ... Ngay trên mặt lộ cũng không tiện vì có thể xe tuần cảnh và trong thương lượng, chúng tôi không thích bà lại chiếm ưu thế...

Dung biết bọn nầy sợ.

Cách đường chừng vài mươi bước. Dung bước vào vùng mồ mả hình như vô chủ.

- Thương lượng giữa vùng cổ mộ, đó là các ông thêm thắt cho nó ly kỳ hay định tra tấn tinh thần tôi? Nếu với ý định sau, các ông sẽ thất vọng vì thuở bé tôi vẫn thường vào chơi các khu mồ mả...

- Bà gan dạ lắm, bà thiếu tá. – Gã đại úy rõ ràng khó chịu trước thái độ xem thường bọn gã của Dung.

- Trò chơi thú vị đấy! - Dung vẫn cười cợt – Tiếc là bài toán của ông nhiều sơ hở quá, tỷ như các ông chọn khu rừng chồi này, nơi duy nhất có thể cho phép các cuộc bắt cóc. Và chiếc Opel quay về, biết đâu giờ nầy, người lái xe đã bị bắt và chừng mấy
phút nữa, các ông sẽ bị bao vây...

« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:21:27 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #92 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:17:48 am »

Gã đại úy nổi cáu:
- Bà không được lắm lời.. Có thể chúng tôi có sơ hở, song bà đang nằm trong tay chúng tôi.
- Ai nằm trong tay ai, rồi mọi sự sẽ rõ. Ông gọi điện cho tôi xong, hộc tốc phóng môtô đến đây... Đúng không! Ông kinh ngạc lắm sao? Dễ quá mà! Dấu bánh xe nguyệch ngoạc trên mặt đường đã tố cáo các ông... Tôi hơi chậm hiểu một tí, nhưng khi nhìn thấy dấu môtô là biết ngay các ông định giở trò gì rồi..
- Bà nói khẽ cho, nếu bà muốn được cư xử lịch sự! - Gã đại úy gằn giọng - Bây giờ đến nơi rồi..
Đó là một khoảng đất trống nhỏ giữa khu rừng chồi có vài ngôi mộ xây đá đỏ, hiện lờ mờ dưới ánh trời cao.
- Hóa ra thương lượng không quanh một chiếc bàn dù tròn hay vuông. Lịch sử ngoại giao đành phải có từ mới: hội nghị đứng! – Dung vẫn đùa.
- Bà có thể ngồi trên thành mả
- Tất nhiên... - Dung trải chiếc khăn tay, ngồi xuống – Trò chơi của các ông sẽ phản lại các ông... Tôi cam đoan như vậy.. Nó sẽ biến thành trò chơi của chúng tôi.
Tuy chưa nắm rõ mục đích của bọn này, song Dung phát hiện những yếu tố và cố kéo dài thời gian để chờ tiếp viện - cô tin sẽ có – và để suy tính...
- Thế nào? Thương lượng về việc gì? – Dung hỏi.
- Bà viết cho thiếu tá mấy dòng: hoãn cuộc hành quân tập kích rừng Bình Chánh đến ngày kia! - Gã đại úy nói toạc ra.
- Nếu chồng tôi không nghe, thì sao?
- Thì bà sẽ vĩnh viễn nằm với những người trong vùng cổ mộ nầy. – Gã đại úy hằn học.
“Chúng có tất cả ba đứa” – Dung nhẩm tính – “Mình bắn có nhanh gì cũng không thể thanh toán hết. Chúng có tiểu liên. Một tên lại đứng sau lưng mình”.
- Tại sao các ông buộc tôi làm như vậy?
- Bà cần gì phải hỏi... Không được hỏi... Giấy bút đây, viết ngay! - Gã đại úy bắt đầu gay gắt.
*
Điện thoại reo, Luân nhắc ống nghe:
- Tôi đây... Tôi đoán thế nào cũng có người gọi tôi... Đúng, tôi chờ.. Không phải vì lo cho số phận của vợ tôi, mặc dù tôi rất yêu vợ... Lo cái gì à? Lo trò trẻ con của các ông đưa chế độ chúng ta tới chỗ sụp đổ, không có đất mà chôn... Tôi vẫn nghe ông... Ông nhân danh cho cái gì?... Thế à? Cho nền tự do của nước cộng hòa chúng ta? Ly kỳ thật... Không, tôi nói nghiêm chỉnh, rất nghiêm chỉnh... Sao ông cứ phải bịt mũi.. Tôi sẽ bị trừng phạt? Nầy, ông bạn, ông ra giá đi. Sao? Ngừng cuộc tấn công? Vợ tôi sẽ nếm mùi đau khổ? Ông học ở truyện kiếm hiệp? Phim Mỹ đầu độc ông rồi... Có thể tôi sẽ gặp một cái gì đó, nhưng ông cần nhớ là ông đang nói chuyện với một người còn đứng… Sao, đem vợ tôi ra để dọa tôi... Vợ tôi hiểu tôi hơn ông nhiều.
Trung úy Vi vào, Luân che máy:
- Thưa thiếu tá, thiếu úy Thạch gọi bộ đàm về mọi việc kết thúc tốt đẹp.
Luân gật đầu, nói tiếp qua điện thoại:
- Ông mơ ngủ, ông bạn! Cái đổi giá không còn nữa. Vợ tôi bình yên, không chờ các ông.. Tùy ông, ông muốn làm gì thì làm..
Vi lại vào:
- Thưa, quân trấn Lái Thiếu đã bắt được gã lái chiếc Opel, tên gã là Hùng, đại úy...
- Tôi báo cho ông một tin, - Luân nói trong điện thoại – Đại úy Hùng của ông bị bắt rồi... Không, tôi không bịa... Làm sao tôi biết anh ta là Hùng nếu tôi không bắt được... Ông đừng sợ hãi, trước khi tới lượt ông… Tôi khám phá thêm một điều thú vị: các ông trước kia ở an ninh quân đội, đúng không?... Thôi, cuộc nói chuyện phiếm của chúng ta như vậy là quá dài...
Luân gác máy, sang phòng điện báo. Cả một dãy bộ đàm đang hoạt đồng khẩn trương: Luân hoàn toàn không thể biết ở một căn nhà nhỏ trong sở chỉ huy, trung sĩ Toàn, người lái xe cho anh, cũng vừa gác máy điện thoại, ngó xuôi ngó ngược rồi ra sân...
- Bạch Hổ đâu? Bạch Hổ đâu? – Viên hạ sĩ quan truyền tin gào to... - Bạch Hổ nói chuyện với Ngân Hà.
Luân đứng trước máy bộ đàm.
- Bạch Hổ... Theo bản đồ... Ô chỉ định thấy chưa?
- Thấy rồi! – Tiếng đáp rè rè.
- Ngay chữ C... Thấy chưa?... Trong vòng ruột của chữ C...
- Thấy rồi...
- Sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng!
- H plus cing! (1) – Nói lại đi...
- H plus cing...
- Chúc ăn ngon!
- Chúc ăn ngon!
*
Tiếng xe ngoài lộ xóa cái yên tĩnh của khu rừng chồi.
- Cuộc phiêu lưu của các ông sắp kết thúc! - Dung bảo – Bây giờ, khôn ngoan nhất là các ông lui nhanh, thật nhanh, trước khi bị gông cổ...
Gã đại úy nhấp nhỏm:
- Thế này là thế nào?
Hai đứa cùng theo gã nháo nhác.
- Thưa bà, người của thiếu tá đến. – Gã đại úy nói giữa lúc pha ô tô rọi khắp khu rừng và có tiếng chân người từ xe nhảy xuống đường – Nghĩa là cuộc thương lượng thất bại. Tôi bắt buộc phải xử trí với bà... Thật không hợp lý khi xả vào người đẹp một băng đạn...
- Ông ngỡ là ông có thể chạy trốn khỏi đây? – Dung bắt được một con đom đóm, đặt nó lên lòng bàn tay - Cả khu rừng bị bao vây, tôi báo cho ông hay, có thể sẽ có một băng đạn như ông nói. Và, cả ba người, sau tôi một lúc, cũng vĩnh viễn nằm xuống đây... Chồng tôi là tư lệnh hành quân, sẽ quyết định bắn các ông ngay...
Tiếng động bây giờ đã khắp khu rừng.
- Các ông nghe chứ? Ngay con cáo cũng không thoát đừng nói các ông...
Loa đột ngột vang lên:
- Bộ tư lệnh hành quân ra lệnh cho bọn cướp phải đầu hàng ngay...
- Thậm chí, người ta lột lon ông và ghép tất cả vào bọn cướp... - Dung cười cười.
- Bà.. bà! – Gã đại úy vụt mất oai phong, sà gần Dung.
- Ông bình tĩnh. Tôi bảo đảm cho cả ba. Các ông kém thông minh quá.. Nói thật, nếu tôi muốn giết ông thì không đợi đến bây giờ. Ông quên tôi có súng? Nhưng, tôi thương hại các ông, những vật hy sinh của cấp trên các ông.
- Bà... Bà!... - Gã đại úy gần như phủ phục dưới chân Dung.
- Các ông xếp vũ khí lại đây, trốn vào một bụi rậm nào đó... Tôi sẽ cứu cho! Nhớ, thoát rồi chạy cho xa...
Tiếng chân rậm rịch đã rất gần. Đèn pin loang loáng.
- Không được chậm! – Dung ra lệnh.
Gã đại úy cởi súng trước tiên, hai gã kia đặt tiểu liên lên thành mả. Rồi, cả ba lủi vào một lùm cây um tùm cạnh đó.
- Tôi ở đây! – Dung gọi to.
Thạch bươn tới:
- Bà... có sao không?
Dưới ánh đèn, Dung cười thật tươi...
*
Luân sắp sửa lên xe. Nhưng, trung sĩ Toàn chưa có mặt. Vừa lúc đó, chiếc Land Rover quanh vào cổng. Dung bước xuống. Luân đón Dung trong vòng tay, hôn như mưa lên má, lên mắt, lên trán cô...
- Em sợ lắm phải không? Anh phải đi gấp.. Sáng mai, ta gặp nhau. Em nghỉ, nghe!
Đây là lần đầu tiên Luân xưng hô như vậy với Dung.
- Anh đi ư? – Dung nghẹn ngào.
Luân thấy thương Dung quá chừng:
- Cái đáng ngại nhất đã qua rồi...
Mãi khi trung sĩ Toàn nổ máy chiếc Jeep, Luân mới rời Dung.
 
---
(1) H cộng 5: giờ quy ước nổ súng
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #93 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:22:03 am »

Chương 13

Khu rừng Bình Chánh rậm rạp, đó là khu rừng nguyên thủy hiếm hoi còn sót ở phía bắc tỉnh. Nó nằm tận phía trên làng Tân Tịch, đối diện với Rạch Động bên kia sông. Đường kiểm lâm vào rừng quanh co, lầy cát...

Trong kháng chiến, có lúc tỉnh đội Thủ Biên đóng ở đây. Sau hiệp định Genève, các nhóm trộm cướp chọn khu rừng làm nơi ẩn náu. Chiến dịch Trương Tấn Bửu kết thúc thì khu rừng trở nên bí hiểm. Dân quanh vùng không ai dám vào rừng. Đôi người nhổ nấm có đi mà không có về... Người ta đồn rằng một đảng cướp bề thế tên là Rừng Xanh đặt sào huyệt giữa rừng...

Khu rừng rộng chừng 50 mẫu tây, đứng từ xa đã có thể trông thấy chòm cây cao xanh rờn.

Chưa có một lực lượng vũ trang nào của chính phủ mò đến đây. Tề các làng tiếp giáp với rừng Bình Chánh mỗi khi nhắc tới khu rừng phải hạ giọng.

Những cuộc khủng bố ghê rợn nhất, ai cũng biết, người của đảng Rừng Xanh thực hiện khắp tỉnh Bình Dương, Bình Long, Biên Hòa. Lúc đầu, dân chúng hơi lạ: đảng cướp mà được tiếp tế gạo thịt bằng xe cam nhông, đôi khi bằng ca nô. Rồi, mọi người hiểu ra: đảng cướp ăn chia với chính phủ. Và, mọi người gọi đảng cướp bằng cái tên mới: biệt kích Mỹ.

Tất nhiên; dân chúng không hiểu được trại biệt kích Mỹ ở Bình Chánh nầy - cũng như trại Bình Hưng của linh mục người Tàu Nguyễn Lạc Hóa ở vịnh Thái Lan, sát rừng U Minh – chưa được chính phủ Mỹ công khai cho phép hoạt động, với chính phủ Diệm, càng không được chấp nhận cho nên nó phải kín đáo. Nó không giống các trại biệt kích chuyên tung thám báo ra miền Bắc do Mỹ và Việt Nam Cộng hòa thỏa thuận một chương trình hành động từ vài năm qua. Mặc dù cả hai hướng đều do Fishell phụ trách. Người đại diện của CIA có hai bộ máy làm việc riêng biệt. Trường đào tạo thám báo đánh ra miền Bắc đặt ở Nha Trang, còn trường đào tạo biệt kích nội địa, ngay trong vòng rào Phú Lợi.

Trại Bình Chánh được dựng lên từ đảng cướp Rừng Xanh – nay bổ sung thêm nhiều lính mộ trong hạng cặn bã xã hội ở các thành phố. Phạm Văn Bời, đảng trưởng Rừng Xanh đồng thời là đại tá biệt kích.

Chiến dịch “Cơn hồng thủy” đe dọa trại Bình Chánh. Những bộ hạ của Phạm Văn Bời, thường là sĩ quan chỉ huy bảo an các đồn, lần lượt bị cách chức hay đổi chỗ. Mất nhân mối bên trong, tầm hoạt động của trại hạn chế dần. Yến Thu rời Phú Cường bởi Vũ Thành Khuynh bị gọi về Bộ Tổng tham mưu, tỉnh trưởng mới là trung tá Huỳnh Văn Còn có vẻ ăn cánh với Nguyễn Thành Luân. Lực lượng dân vệ phát triển, làng xóm được canh gác nghiêm mật.

Cướp bóc hay biệt kích đều khó, nhiều lần cánh Rừng Xanh phải cõng đồng bọn bị thương về căn cứ, bụng đói meo. Luồng tiếp tế vừa khai thông có một chuyến, Bá Thượng Đài suýt vô khám nếu Ly Kai không dúi cho Trần Lệ Xuân một món tiền lớn. Trần Vĩnh Đắt co vòi. Ngay trường huấn luyện Phú Lợi cũng đã dự định dời đến một chỗ khác...

Các nhóm của Rừng Xanh rút về Bình Chánh. Cái túi khá to, chứa gần 200 con người ta, sống lây lất.

Fishell nhiều lần ngỏ ý với Durbow gây sức ép để Diệm chấm dứt nhiệm vụ của Nguyễn Thành Luân, nhưng đại sứ Mỹ không tán thành. Lấy cớ gì mới được chứ? Chẳng có cớ nào cả. Trong khi đó, cái lưới của Luân tung ra đang thắt lần quanh trại.

Trần Viết Lượng đề nghị Fishell cho di tản đảng Rừng Xanh xuống bán đảo An Sơn. Fishell đi thị sát vùng đó, nhưng thấy không ổn vì vẫn nằm trong phạm vi chỉ huy của Luân. Sau cùng Lượng chọn được một khu vực trên đường 14, nơi giáp ba tỉnh Biên Hòa, Quảng Đức và Lâm Đồng. Kế hoạch di tản thảo xong: năm chiếc GMC sẽ bốc toàn bộ đảng Rừng Xanh chạy một mạch đến đó... Cần thêm một ngày nữa.

*
Luân vừa ra khỏi cổng chưa đến năm phút. Thạch về, anh còn bận ít việc ở rừng chồi nên không cùng về với Dung. Chiếc Land Rover của Thạch lại vọt ra cổng, đuổi theo Luân.

Đoàn xe của Luân gồm ba chiếc Jeep phóng hết tốc độ. Luân ngồi chiếc xe chạy giữa, cạnh tài xế Toàn. Sau anh là một chuẩn úy, tên Thục, trong đội cận vệ sở chỉ huy. Trung úy Vi ngồi giữa. Một hạ sĩ truyền tin với chiếc máy bộ đàm lúc nào cũng kêu rè rè ngồi phía ngoài. Hai xe kia đều là cảnh vệ.

Khi xe rẽ vào con đường cát, tốc độ chậm hẳn và cự ly giữa ba xe cũng không còn giữ như cũ. Chốc chốc xe xô mạnh, hất tung. Tuy nhờ mưa, đường cát có dẽ, những vốn là đường xe bò, rất gồ ghề...

Luân xem đồng hồ tay: 9 giờ 7 phút. Giờ nổ súng quy định thống nhất là 9 giờ 35. Còn non nửa giờ nữa. Nửa giờ để vượt mươi cây số.

Trung sĩ Toàn thỉnh thoảng liếc Luân. Anh chàng lái xe ba gai nầy – Luân nghĩ- muốn phân bua với Luân về con đường quá tồi chớ không phải “tiên chỉ” lái tồi. Cho nên Luân đáp cái liếc của Toàn bằng nụ cười động viên.

Chuẩn úy Thục mặt nặng chình chịch, tay không rời báng súng ngắn. Trung úy Vi thì ngó láo liên, anh chưa từng ra trận. Xe càng dấn sâu vào ven rừng, Vi càng hoảng bộ râu Clark Gable của anh bây giờ trông thật hài hước, nó luôn động đậy. Còn hạ sĩ truyền tin thì giấu nỗi sợ hãi bằng gào thất thanh: Ngân Hà đây...

Xe chạy giữa đám vườn hoang. Hễ qua khỏi đám vườn hoang nầy là đến bìa rừng, nơi Luân sẽ đặt chỉ huy dã chiến.

Những hàng cây giao tàn che kín con đường. Một cành lá chắn ngang đường. Có thể ai đó vào vườn hoang hái đã chặt cành bừa bãi.

Khoảng cách giữa ba xe xa dần: Đèn pha đi sau chỉ chập chờn, còn đèn đuổi xe trước thì mất hút. Luân bảo hạ sĩ truyền tin gọi xe trước chầm chậm và thúc xe sau:

- Báo đen đâu? Ngựa rằn đâu...

Một cành cây thứ hai vứt ngang đường, cách cành thứ nhất những 300 thước. Luân bắt đầu thấy lạ. Không phải vô tình mà có thể là mật hiệu. Mật hiệu cho cái gì?

Trung sĩ Toàn nhấn ga, chiếc Jeep cán bẹp cành cây và anh ta giữ nguyên tốc độ đó. Xe lao vùn vụt. Luân đã phải nhiều lần nép người tránh cành lá bên ngoài quật vào anh.
Trung sĩ Toàn bỗng đưa tay đập muỗi trên cổ. Luân chú ý liền cử chỉ không bình thường đó. Nhưng trung sĩ Toàn đột ngột bẻ ngoặt tay lái chiếc Jeep nghiêng hẳn một bên, phóng vào một đám vườn um tùm.

- Ngừng lại! - Luân ra lệnh.

Lệnh của anh không được chấp hành: Chuẩn úy Thục chĩa họng súng Colt 12 vào gáy Luân bóp cò. Nếu xe không vướng cái nền nhà cũ chồm lên rồi rơi xuống thì viên đạn đã xuyên óc Luân rồi. Lợi dụng xe chồng chềnh, Luân đạp mạnh thành xe nẩy ngửa ra ngoài. Rơi chạm đất, anh lăn liền mấy vòng.

Chiếc Jeep ngừng. Luân bây giờ mới biết phát đạn xuyên xương vai và anh không thể sử dụng được cánh tay mặt. Khẩu P.38 bật chốt an toàn, Luân dán mắt nhìn chiếc Jeep ẩn hiện lờ mờ giữa khu vườn.

- Tôi đầu hàng! - Đó là tiếng trung úy Vi.

- Đầu hàng con mẹ gì, mầy đi kiếm thằng Luân, nó còn sống thì chẳng đứa nào hòng thoát nó.

Đó là tiếng trung sĩ Toàn. Mấy bộ đàm vẫn rè rè: Ngân Hà đâu?

- Cái gì kìa? - Chuẩn úy Thục thét.

- Em! - Tiếng của Thi hạ sĩ truyền tin.

- Mầy tắt mẹ cái đài cho tao!

Tiếng của Thục giúp cho Luân vật chuẩn. Từ tay anh, khẩu P.38 khẽ rung, tiếp sau là tiếng rú của Thục..
Luân vừa bóp cò xong, lăn mấy vòng. Anh chọn được gốc mít làm chỗ nấp.

- Đ.m mày! - Toàn rít. Hắn lia về hướng Luân cả băng Thompson.

- Anh em Rừng Xanh! Xung phong! - Toàn khom người bên xe, thét to.

Phía cuối xóm, vài phát súng nổ. Luân biết chiếc Jeep dẫn đường bắn hú họa.

- Thằng Luân còn sống không?

Một giọng oang oang cất lên bên kia rào dứa.

- Đại ca Bời đấy hả,... Em là Toàn đây... Có thể nó ăn hết băng đạn của em rồi..

- Uổng quá! Bắt sống nó tốt hơn!

Từ lộ, nhiều loạt súng bắn vào. Ánh pha của ba chiếc xe soi thủng khu vườn rậm.

- Đ.m, đâu thêm xe nữa? – Toàn chửi thề, Toàn đứng thẳng lưng. Luân vẫy nhẹ. Nhưng lần này anh bắn trượt.

- Nó còn sống!

Toàn tru tréo, xả một băng Thompson. Gốc mít trở thành công sự tốt của Luân. Ánh lửa lóe ngay từ nòng Thompson định hướngcho Luân. Anh lại vẫy tay, bây giờ thì Toàn gục không có cả tiếng rú.

- Cái gì? - Bên kia rào, “đại ca” hỏi và Luân biết người đó là đảng trưởng Rừng Xanh kiêm đại tá biệt kích Phạm Văn Bời.

- Tụi bây bịt miệng mấy thằng lính chó ngoài lộ cho tao.

Súng nổ giòn. Đèn pha tắt. Luân biết số “lính cậu” của anh đã co giò chạy thoát thân. Nếu còn bắt thì chỉ có Thạch.
Phạm Văn Bời đã vẹt được rào. Hắn ta đứng lên đầu xe Jeep, theo ánh đèn pin tìm kiếm. Hắn tìm kiếm Luân.
Tình thế hiểm nghèo rồi. Luân đinh ninh mình khó thoát. Song chắc chắn Phạm Văn Bời cũng không thể sống. Anh thận trọng nâng khẩu P.38 cố gắng cuối cùng của đời anh.

Luân chưa kịp bóp cò, nhiều loạt đạn nổ giòn. Phạm Văn Bời té như diều đứt dây.

- Đại ca “bị” rồi! - Một tên nào đó hô hoán.

- Tụi nó tập hậu! Chạy! - Một tên khác gào thất thanh.

Luân chưa hề bố trí lực lượng tập hậu này. Có vẻ không phải là một lực lượng tập hậu vì Luân nghe rõ chỉ có súng trường nổ.
Cuộc phục kích rối loạn. Nhiều tốp xông ra đường nhưng khẩu trung liên hất ngược chúng lại. Chú Thạch bắn đấy! Luân mỉm cười.

Cơn đau chợt ụp tới. Luân tối sầm mặt. Trước khi rơi vào cơn mê, anh còn kịp nghe vài tiếng pháo và bọn Rừng Xanh nhốn nháo:

- Tụi nó thụt cà nông vô căn cứ.

*
Các báo xuất bản buổi chiều ở Sài Gòn đều đăng tít lớn, chạy suốt tám cột: Đảng trưởng đảng Rừng Xanh Phạm Văn Bời bị hạ sát tại rừng Bình Chánh (Bình Dương). Quân lực Việt Nam Cộng hòa phá tan sào huyệt bọn cướp.

Một số tự xưng là “Phóng viên chiến trường” đã vẽ rồng vẽ rắn trận đánh. Không báo nào nói đến trận phục kích của Phạm Văn Bời, càng né những tin tức về tên Toàn, tên Thục. Tất nhiên, các báo nhắc đến “người anh hùng của chiến thắng”, thiếu tá Nguyễn Thành Luân, mặc dù báo chỉ đăng ảnh Phạm Văn Bời nằm chết, con cọp nhanh vẫn nhe răng chơm chởm trên ngực hắn mà không có ảnh của Luân.

Chính Ngô Đình Nhu chỉ thị Bộ Thông tin khai thác trận đánh tới mức tối đa. Dễ hiểu thôi, lẽ nào không nhân cơ hội này mà mắng xéo Mỹ.

Luân tỉnh dậy, trí nhớ của anh mau chóng hồi phục và anh không lạ về màu trắng bao quanh anh. Đây bệnh viện. Nhưng bệnh viện nào? Kia rồi trần thiết của phòng cho anh biết anh đang nằm ở Grall.

Ai hạ đảng trưởng Rừng Xanh? Câu hỏi trước phút Luân mất tri giác bây giờ trở lại. Và, Luân chợt thấy lòng lâng lâng: nhất định một nhóm dân vệ vũ trang vùng Bình Chánh. “Cơn hồng thủy” như vậy đó.

Nhưng Luân không vui lâu. Tại sao anh không nghĩ đến tên Toàn, tên Thục sớm hơn?

Luân trở mình. Cả người anh ê ẩm và nửa vai bó trong một khối bột to tướng.

- Anh đã tỉnh! - Dung ngồi trên ghế đặt ngay cửa, vứt chiếc áo mà Luân nhận ra áo anh mặc hôm đánh nhau - Dung đã giặt sạch và vá chỗ thủng - chạy lao đến. Nhìn đôi mắt sâu trũng của Dung, anh biết cô khóc nhiều và không ngủ. Nước mắt đang chảy tiếp.

- Anh vào đây bao lâu rồi?

Dung không trả lời. Cô vùi mặt vào ngực Luân, khóc rấm rứt.

Cửa phòng mở. Cố vấn Ngô Đình Nhu, đại tướng Lê Văn Tỵ, tỉnh trưởng Huỳnh Văn Còn bước vào sau họ bác sĩ, y tá, một số nhà báo trong đó có Fanfani.

Dung rời Luân, chùi nước mắt.

- Đừng khóc chi! Không nguy hiểm đâu! - Nhu bảo Dung.

Luân toan nhỏm dậy, Nhu ấn anh xuống.

- Chưa được động đậy... Cứ nằm. Mới ngày thứ ba thôi. Báo với anh: tổng thống quyết định tặng anh “Anh dũng bội thinh” thứ hai...

Nhu trân trọng gắn lên ngực Luân chiếc mề đai. Chiếc “Anh dũng bội tinh” đệ nhất đẳng có nhành dương liễu – chiếc thứ hai mà Luân nhận. Máy ảnh ghi cử chỉ ưu ái đó.

- Anh nghỉ cho khỏe. Công việc còn lại tôi đã bàn với trung tá tỉnh trưởng. - Nhu nói trước khi ra về.

Fanfani nấn ná một lúc. Đôi mắt cô hình như cũng ươn ướt.

- Ông có biết Fishell tức đến mức nào không? - Cô hỏi. Luân nhếch mép. Cả một trại biệt kích tan tành, hắn không tức sao được.

- Từ nay, ông nên hết sức cẩn thận. Trận địa đang mở rộng đó!

Fanfani nắm tay Luân thật chặt.

Trong phòng còn lại hai người. Luân nhìn Dung thật lâu. Những sợi tóc lòa xòa buông trên má, đôi mắt Dung vừa âu yếm vừa kiêu hãnh.

Luân vẫy Dung, Dung choàng tay qua người Luân, giáp mặt với Luân.

- Anh ơi! James Casey vừa báo: “Bản tango thứ ba đã cất tiếng...”

Thế là Lục đã đến nơi an toàn. Một cái gì hết sức hạnh phúc tràn khuôn mặt Luân.

Ánh nắng len qua cửa. Thạch ngập ngừng mãi - anh muốn đưa một người vào chào Luân: trung tá Trần Viết Lượng. Ông ta được Dung tha ở khu rừng chồi...

Song Thạch không dám kinh động. Hai người đang hôn nhau thật đắm đuối.

Thạch không thể biết đây là lần đầu họ hôn nhau với sự chọn lựa mới: lấy nhau cũng là hy sinh.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:28:10 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #94 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:29:04 am »

PHẦN 5
Trời xanh qua kẽ lá

Chương 1

Mái tôn thủng lỗ chỗ, nhiều tấm xô lệch cong queo, mặt trời sắp trưa ném xuống vô số tia châm chọc, luôn cả mấy khối sáng lóa mắt báo ngày cuối cùng của năm Kỷ Hợi đang cận đến những giờ cuối cùng. Ngôi nhà trống hoác, khung cửa sổ ngổn ngang, tường lém khói. Đại tá Phan Cao Tòng - thân hình thực tế tương phản với tên gọi - ngồi sau chiếc bàn sắt màu “ghi” méo mó, trên chiếc ghế xoay mất chỗ dựa, dán mắt vào xấp giấy. Hàng chục sĩ quan đeo quân hàm thiếu tá, trung tá dồn nơi góc phòng, nín thở theo dõi từng cái nhíu mày của đại tá. Không khí im vắng, trang nghiêm đến độ những người có mặt dường như cử hành một lễ truy điệu. Đúng, 20 tử thi phủ vải dù loang lở im lặng nằm trên băng ca xếp hàng ngang ngay phòng bên cạnh. Nhưng, không phải sự mất mát nhân mạng kia gây hốt hoảng mà cái kho vũ khí lồ lộ ngay trước mặt - kho vũ khí chỉ còn nền gạch và giá gỗ - ám ảnh họ.

Ngôi nhà - Sở chỉ huy trung đoàn Lam Sơn - hết còn vẻ hách dịch và trung tá trung đoàn trưởng phiền muộn vì cha mẹ trót sinh anh ta cao lỏng khỏng, thật bất tiện vào lúc như thế này, lúc mà anh ta thấy thừa cả một cái đầu trong số những cái đầu càng cúi thấp càng tốt.

Nói chung, đại tá Tư lệnh sư đoàn đọc là chính, và khi ông liếc về hướng thuộc hạ thì có nghĩa tình thế chưa ổn. Quả đại tá chẳng còn bụng dạ đâu mà lên mặt - ông thích làm như thế để trả thù lũ thuộc hạ từng khinh nhờn ông: Trước khi xảy ra sự cố hãi hùng này chúng gọi ông là “đại tá lái bò” - việc cấp bách số một của ông bây giờ là “bào chế” bản báo cáo trơn tuột để cấp trên có thể ôkê. Chốc chốc, đại tá lau kính. Cặp kính gọng vàng ngày thường dán một chút trí thức trên khuôn mặt bè của ông giờ đây trở chứng, cứ đóng lớp hơi đục, lau mãi vẫn mờ. Lần đầu, thuộc hạ gặp vị chỉ huy sư đoàn không chải đầu và cũng lần đầu ông gặp thuộc hạ nhìn ông với sự mong chờ và đồng lõa. “Tao chứ không phải bất cứ ai trong bọn chúng mày đến hiện trường khi mùi thuốc súng chưa tan… bố tiên sư chúng mày, giỏi thì trêu ông, xem nào!”. Đại tá chợt nổi nóng, tay xoa nhẹ má - mảnh băng to tướng quấn vòng ót ông, công trình của cô vợ đã nâng thêm uy thế ông. Tuy vậy, chưa phải lúc… Bộ tư lệnh quân khu và Bộ tổng tham mưu điện liên hồi đòi báo cáo. Ông hứa giữa trưa mai thì có, báo cáo sẽ được gửi bằng một chuyến trực thăng đặc biệt.

Ông lại tiếp tục đọc, quên rít chiếc tẩu đang kéo trệ mép ông, mũi phập phồng. Nếu ngày thường, bọn thuộc hạ đã kháo: Coi kìa, đại tá đang đánh hơi dái bò!

Cô vợ mang cho ông cốc cà phê đặc, rồi kéo ghế ngồi sát ông, ghé đọc. Chẳng ai coi đó là chuyện chướng. Trái lại, ai cũng cầu khẩn cho bà đại tá đủ tài năng giữ nổi hoa mai trên cầu vai họ hoặc chí ít giúp họ khỏi ra tòa án binh như bà biến cái gò cằn cỗi ở Cẩm Giang thành trại bò sung nhất tỉnh. Băng Trinh - tên của cô - thì thầm điều gì với đại tá mà đại tá thoáng cười - cái cười hiếm hoi suốt mấy giờ qua - và mọi người nhìn cô như chiêm ngưỡng Phật Bà Quan Âm, mặc dù, lần đầu tiên họ gặp cô không thoa son, đánh phấn…

Có bốn bản báo cáo. Đại tá tự phát hiện hay cô Băng Trinh phát hiện, không ai rõ, song đại tá rút bút gạch lia lịa.

- Mỗi ông nói một phách như thế này thì chết! - Đại tá gằn giọng - Giờ Việt Cộng nổ súng không thống nhất, ông thì bảo 11 giờ, ông bảo 12 giờ, ông bảo 3 giờ sáng… Sự thật là 1 giờ 2 phút, biết chưa? Giờ mới của Việt Nam Cộng hòa còn giờ Việt Cộng thì đúng giữa khuya…

- Báo cáo thế này lố bịch quá! - Đại tá bảo, rồi lè nhè giọng - Nhân lúc lính đổi gác, một toán Việt Cộng lén lút bò vào bên trong trào trại Sùng định trộm súng. Bị phát hiện, chúng bắn bừa bãi rồi bỏ chạy. Lập tức trung đoàn trưởng trung đoàn Lam Sơn Hà Duy Cường truy kích. Quân ta đuổi kịp chúng tại rìa rừng Trà Vông, phía đông thị xã Tây Ninh 25 kilômét, diệt nhiều tên (Việt Cộng khiêng xác đồng bọn, song dựa vào dấu máu, có thể tính chắc chắn chúng bị hạ không dưới 50 tên). Ta thu 6 súng cá nhân, 2 súng cộng đồng. Bên ta 20 chiến hữu anh dũng đền nợ nước.

- Trung tá dám ký tên vào báo cáo, tôi mời! - Đại tá mỉa mai - Tôi không dám. Một toán Việt Cộng lén lút bò vào doanh trại, bỏ chạy như vịt khi bị phát hiện lại có thể gây cho quân lực Việt Nam Cộng hòa những 20 tử thương! Xác Việt Cộng thì được khiêng đi sạch, còn xác quốc gia nằm chềnh ềnh kia… Trung tá diệt hết toán Vixi nhỏ mọn đó, lấy đâu chúng đủ người khiêng đồng bọn? Và, trung tá, chạy cách nào mà nhanh thế? Hai mươi lăm kilômét nhé! Bịa…

Đại tá kịp nhận ra mình đã lỡ lời:

- Bịa, tất nhiên… Mà bịa phải hữu lý.

Không ai lên tiếng. Trung tá Hà Duy Cường thở dài.

- Đây là báo cáo của trung tá Tạ Khai, các ông nghe. - Đại tá lườm viên trung tá tham mưu trưởng sư đoàn: anh chàng mang một chiếc bụng cực to - “Vào 0 giờ 27 phút ngày 27 tháng 1, Việt Cộng thuộc các tiểu đoàn 60, 70, 80, 90, 100 của khu ủy Cộng sản Đông Nam bộ do thiếu tướng Cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến tự Tám Kiến Quốc (còn gọi là Tám Dên Dên) chỉ huy, Xứ ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ tự Tám Cao làm chánh ủy, đại tá Nguyễn Nhọn tự Tám Lê Thanh (còn có tên Tám Bằng Lăng) làm tham mưu trưởng, quân số chúng lên đến 3.000 tên, trang bị sơn pháo, bích kích pháo và đại bác không giật, dùng bộc phá đánh sập cổng trại Sùng, tràn ngập hậu cứ sư đoàn 13 bộ binh tại Tua Hai, cách thị xã Tây Ninh 5 kilômét về hướng Bắc. Trung đoàn Lam Sơn bị tổn thất tương đối nặng. Tham mưu trưởng sư đoàn, trung tá Tạ Khai sử dụng trung đoàn Bãi Sậy phản công. Sau nửa giờ kịch chiến, Việt Cộng bỏ chạy tán loạn. Quân ta truy kích tận bờ sông Vàm Cỏ. Ghi nhận đầu tiên, địch chết và bị thương 500 tên. Theo tin dân chúng, thiếu tướng cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến và Xứ ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ đã tử thương. Chúng tôi đang phối kiểm và sẽ phúc trình nay mai. Ta thâu 80 vũ khí cá nhân, phần lớn sản xuất tại Trung Cộng, 10 vũ khí cộng đồng gồm: 4 bích kích pháo 60 ly, 2 trọng liên 12 ly 8.

- Con số địch hơi nhiều! - Đại tá nhếch mép - Trung tá tham mưu trưởng bấy giờ ngủ tại Gò Dầu, nên tưởng tượng quá viễn vông. Ông lại cho trung đoàn Bãi Sậy truy kích địch về hướng Tây, ngược hẳn hướng với trung tá Hà Duy Cường… Người ta nhất định không tin báo cáo này bởi người ta biết trung tá không thể hành quân truy kích với cái bụng to như thế. Muốn thêm một hoa mai không có gì xấu, miễn đừng chơi trội người khác…

Ngôi nhà tiếp tục im ắng. Đại tá đay nghiến cay độc bao nhiêu cũng được, nhưng cần có lối thoát trước 12 giờ… Tạ Khai không có vẻ gì tự ái, ông ta chăm chú lắng nghe, chờ đợi… Báo cáo tiếp của thiếu tá trưởng phòng quân báo sư đoàn. Phần đầu, báo cáo giống phần đầu của tham mưu trưởng, chỉ khác giờ nổ súng và thêm một chỉ huy phó Việt Cộng: đại tá Nguyễn Văn Thượt tự Năm Quốc Đăng. Quân số Việt Cộng ở đây rút xuống còn 1.000 tên, không có vũ khí nặng, hình thức chiến thuật là đặc công “phối hợp với vài tên nội tuyến”, trận đánh nhằm yêu cầu tuyên truyền, thương vong đối phương chưa xác định, vũ khí tịch thu thuộc loại súng cũ. Trung đoàn Yên Thế truy kích về hướng Bắc, hủy 2 xe vận tải quân sự hiệu Môlôtôva tại cầu Cần Đăng. Thương vong của ta “không đáng kể”…

- Lộn xộn quá! - Đại tá nhận xét - Gán hai chiếc GMC cho hãng Môlôtôva không ổn… Nhắc làm gì bọn nội tuyến? Không có nội tuyến trong sư đoàn, các ông nhớ cho… Theo tôi, báo cáo của thiếu tá Lê Đạo, trưởng phòng an ninh sư đoàn là khá hơn hết, nếu sửa chữa đôi chút và bổ sung vài chi tiết có ở báo cáo của trung tá tham mưu trưởng và thiếu tá trưởng phòng quân báo.
Thiếu tá Lê Đạo được đại tá cho phép đọc báo cáo viết sẵn. Con người lùn choắt, nói giọng Quảng Bình rất khó nghe phút chốc trở nên “cây đinh” của buổi diễn tập. Bản báo cáo được hối hả đánh máy. Đại tá ký tên xong, chiếc trực thăng quay cánh. Ngôi nhà nhẹ hẳn.

Liền đó, những tiếng nổ của bộc phá, các cỡ súng rộ lên, mấy căn trại khu gia binh bốc cháy trong khi công binh vội vã xây lại cửa kho vũ khí cho nó nguyên vẹn như chưa hề vơi đi dù là vài khẩu súng lẻ…

*
Trong quân đội Liên hiệp Pháp, Phạm Văn Cảm và Phan Cao Tòng được xem như là anh em song sinh. Cảm cao to, Tòng thấp. Cảm quê Sơn Tây, Tòng Nam Định. Cảm lớn hơn Tòng trọn một con giáp. Thế mà hai người vẫn “song sinh”. Cớ sự như sau: Phạm Văn Cảm xuất thân từ lính khố đỏ, sau chuyển sang chăn ngựa cho tướng Alessandri, tư lệnh Bắc Bộ. Cảm thường đánh bạc ở phố Mã Mây, có lần thua cháy túi, nhờ Tòng cho vay. Tòng làm bồi trong một khách sạn. Hai người trở thành bạn. Chủ khách sạn, một cựu sĩ quan Pháp, có cô vợ bé tên là Băng Trinh mà hắn đưa từ Sài Gòn ra, cô này dan díu với Tòng, bị bắt tại trận, Băng Trinh phải vào nhà số, Tòng ra tòa với bản án ăn cắp.

Cảm trả ơn Tòng, xin Alessandri can thiệp hủy bản án và thu nhận Tòng cùng chăn ngựa với anh ta. Đại đội kỵ binh thành lập, hai người đều được phong chức “thống chế” – Cảm là Maréchal de logis, tương ứng với thượng sĩ bộ binh, còn Tòng Maréchal ferrant tức hạ sĩ chuyên đóng móng ngựa (1). Băng Trinh đưa tiền dành dụm cho Tòng chuộc cô ra khỏi nhà số. Hai người ăn ở chính thức từ đó. Hiệp ước Pháp Việt - gọi là hiệp ước Elyséc 8-3-1949 - ra đời, thiên hạ nháo nhào lo xây dựng quân đội quốc gia. Tổng trấn Bắc phần Nguyễn Hữu Trí đề nghị Alessandri giúp đỡ một số sĩ quan nòng cốt cho Bảo chính đoàn. Phạm Văn Cảm được phong chức phó đốc quân, tương đương hàm thiếu úy. Hai năm sau, Cảm đã là tổng chỉ huy Bảo chính đoàn, hàm đại tá và Tòng chỉ huy Bảo chính đoàn Hà Đông, hàm thiếu tá. Kết thúc chiến tranh, Tòng được thăng trung tá. Di cư vào Nam, Cảm bị bãi chức vì tội lập quân số ma. Tòng lận đận theo. Nhờ vợ vận động, Bộ tổng tham mưu lôi Tòng ra khỏi cảnh “ngồi chơi xơi nước” và dự kiến thăng Tòng lên đại tá trừ bị, giao chỉ huy sư đoàn 13 bộ binh. Đeo lon đại tá thì Phan Cao Tòng thích, nhưng làm sư trưởng cái sư đoàn mang con số 13 hãm tài thì Tòng ngại. Không có sư đoàn nào ở Việt Nam Cộng hòa ghê rợn bằng sư đoàn 13. Kể từ ngày thành lập năm 1956 đến năm 1959 - năm người ta mớm chức sư trưởng cho Tòng - sư đoàn trải qua ba lần lột xác mà nguyên nhân chỉ có một: Việt Cộng thâm nhập hạ tầng. Năm 1957, binh sĩ sư đoàn cùng dân chúng kéo biểu tình đập phá dinh tỉnh trưởng Tây Ninh; đầu năm 1958, phát hiện âm mưu binh biến trong hai trung đoàn, cuối năm lại phát hiện âm mưu binh biến liên quan tới ngót 200 binh lính và sĩ quan - cả hai lần đều dính với Hoàng Lệ Kha, Ủy viên ban thường vụ Tỉnh ủy Việt Cộng Tây Ninh phụ trách binh vận. Sư đoàn lại hoạt động trên địa bàn rừng rậm, dọc biên giới đầy dẫy mật khu Cộng sản. Có thể nói, chức sư trưởng sư 13 “ế độ”, ai cũng ê răng.

Băng Trinh suy nghĩ khác Tòng, cô thỏ thẻ bên gối: “Anh sắp 50 tuổi đầu, danh thì em không cần nhưng tụi mình cần vốn. Anh nhận chức sư trưởng, em nhơn đó mà buôn bán. Vài năm, hễ hai đứa vững chơn đứng, anh thôi đời lính. Thế nào mình cũng có con… Anh tính cho kỹ.”
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:32:40 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #95 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:29:18 am »

Băng Trinh khuất phục Tòng dễ dàng: lính, quan sư đoàn theo ai mặc kệ chúng, sư đoàn tuy đóng gần vùng Việt Cộng mà mình không đụng họ thì mắc mớ gì phải sợ… Để Tòng thật yên tâm, Băng Trình mời một nhà tướng số nổi tiếng bói một quẻ cho tử vi. Quẻ tử vi vô cùng đẹp: Tòng có số giàu sang, sống lâu và sắp lên cha… Điểm sau cùng lại ứng trước tiên: ngày Tòng nhận hàm đại tá và chức sư trưởng, Băng Trinh mang thai. Đứa con đầu lòng giống hệt Tòng. Tòng nổi tiếng sợ vợ, Băng Trinh lấy Tòng lúc Tòng cù bơ cù bất. Nếu cô ả chỉ ham giàu thì hết me Tây sẽ thành me Mỹ, cớ chi đeo đuổi Tòng. Ngay bây giờ, Tòng không có một chút gì hấp dẫn: dốt nát, xấu mã. Còn Băng Trinh, tuổi ngấp nghé 30, vẫn hơ hớ… Băng Trinh nói sao, Tòng nghe vậy. Trong đêm hãi hùng của sư đoàn, Tòng ngủ tại nhà. Lúc đó, hơn một giờ ít phút. điện thoại dựng Tòng dậy: một chuẩn úy trực ban của trung đoàn Lam Sơn báo trại Sùng bị tấn công. Tòng ra sân nghe ngóng. Tua Hai cách thị xã không xa, thế mà chỉ vọng đến mấy tràng súng nhỏ kèm vài tiếng mọt-ta (2). Tòng gọi trại Sùng. Không ai trả lời. Ông lại gọi đến nhà riêng các trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng sư đoàn, trung đoàn. Im lặng. Đêm 29 Tết mỗi người vui chơi mỗi ngã… Ông đành gọi Tỉnh đoàn bảo an. Không có trực máy. Công đường của tỉnh trưởng lẫn nhà riêng đều giống vậy. Chẳng lẽ gọi về Sài Gòn? Ông gác máy, ngồi cú rũ. Vào những lúc rối ren này, Băng Trinh tỏ ra hết sức cần đối với ông.

- Việc gì mà anh rầu rĩ? Nếu quả Việt Cộng tấn công, đâu họ lại không tấn công được… Cứ đợi mọi việc rõ ràng, ta sẽ liệu. Ít ra, anh cũng hơn tất cả sĩ quan trong sư đoàn: anh gọi điện và chỉ có anh có mặt ở Tây Ninh… Bây giờ, anh thay quân phục, cho sửa soạn xe.

Tòng răm rắp theo lệnh vợ. Hai chiếc xe Jeep nổ máy, bật pha, song không lăn bánh.

Ba giờ sáng, thiếu tá Lê Đạo cỡi mô tô tới. Gã bảo là gã theo dõi tình hình tại nhà trong thị xã, song Tòng biết chắc gã ngủ đêm ở nhà một chức sắc cao cấp Cao Đài gần chợ Long Hoa, tay chức sắc này chịu cho con gái làm lẽ Lê Đạo.

Đại tá Phan Cao Tòng không thích Lê Đạo: hắn đồng hương với Tổng thống, phụ trách an ninh quân đội, nghĩa là chuyên nhìn chuyện phòng the của binh sĩ qua lỗ khóa, ai hắn cũng nghi, không Vixi thì giáo phái… Nhưng bây giờ, họ cùng đắm thuyền nên cùng tìm phao để bám. Lê Đạo là con nguời sắc sảo, nhấn mạnh rằng nguy cơ lớn nhất mà họ phải đối phó - tất nhiên không với Việt Cộng mà với thượng cấp: nếu trại Sùng bị hạ thì chỉ có thể bị hạ vì nội tuyến của Cộng sản. Trước thượng cấp, mọi tội đồ đều có thể giảm khinh, trừ tội dung dưỡng nội tuyến Cộng sản. Lê Đạo đã hình dung sẵn bản tường trình bịt kín những cái liên quan đến điều đại kỵ này.

Vào lối 4 giờ sáng, liên lạc nối được với hậu cứ. Một trung sĩ truyền tin tên Hai nào đó báo với sư trưởng là Việt Cộng đã rút trước đây một giờ rưỡi, dùng hai chiếc GMC chở chiến lợi phẩm ngược quốc lộ 22, thiệt hại chung của căn cứ là nhẹ: chẳng đánh đấm gì, trừ nhóm sĩ quan tình báo sư đoàn trốn vào Sở chỉ huy trung đoàn Lam Sơn kháng cự và bị diệt. Đúng như Lê Đạo đoán, cuộc tấn công của Việt Cộng trót lọt nhờ nội ứng. Viên trung sĩ truyền tin không đủ điều kiện đánh giá bao nhiêu binh sĩ Việt Nam Cộng hòa tiếp tay với Cộng sản, nhưng anh ta cho biết một loạt chi tiết khủng khiếp: cổng chính trại Sùng mở đúng một giờ đêm, thủ kho trao chìa khóa cho Việt Cộng; tài xế của tiểu đoàn tiếp vận mang xe đến như sẵn sàng từ lâu; lính của các trung đoàn hướng dẫn Việt Cộng truy lùng nhân viên tình báo và an ninh quân đội. Theo trung sĩ Hai, số Việt Cộng dự trận chừng 200 có cả nữ và phần lớn không vũ khí, nhưng khi rút, có vẻ quân số tăng gấp đôi…

Ra lệnh cho hậu cứ sư đoàn bố trí đón ông dọc đường và nhờ Tỉnh đoàn bảo an cho hai xe hộ tống, đại tá Phan Cao Tòng cùng thiếu tá Lê Đạo vào Tua Hai.

“Họa đơn vô chí”, câu nói vớ vẩn ấy mà lại linh nghiệm: Bảo an tỉnh hộ tống đại tá nhè bắn lực lượng sư đoàn đón đại tá. Bảo an vô sự, sư đoàn chết bốn, bị thương cả chục. Một mảnh đạn của sư đoàn sớt má đại tá…

Đại tá đến trại Sùng, cho nổi đèn đóm lên. Lúc sau, Băng Trinh có mặt - cô nghe tin chẳng lành về đại tá, lập tức lên xe phóng vào Sở chỉ huy. Vết thương - thật ra, khó gọi một vết trầy là vết thương - được băng bó và đại tá thêm một bằng chứng hùng hồn nữa về vai trò của cá nhân mình trong sự cố.

Mãi khi trời sáng, các sĩ quan mới lục tục đến trình diện, kèm theo cái tin mà đại tá uất ức, ông bảo: “Sư đoàn 13 vừa bị đánh vừa bị đạp. Một đại đội thuộc trung đoàn Yên Thế tuần tra phía Bắc cầu Cần Đăng, khi rút về Trại Bí, đụng Việt Cộng đang đốt hai chiếc GMC, nổ súng ẩu rồi bỏ chạy, gần một trung đội nhảy xuống sông, chết chìm sáu”.

*
… Một ngày nặng nề trôi qua. Đại tá Phan Cao Tòng hy vọng mọi sự trót lọt, ông có thể yên ổn đón giao thừa.

Vào 9 giờ đêm, điện thoại réo. Phủ tổng thống lệnh cho ông ngày mai phải có mặt tại Tham mưu biệt bộ dù ngày mai là mồng một Tết. Phan Cao Tòng rụng rời chân tay. Chắc là kẻ nào đó đã thóc mách.

- Mấy thằng ở Tham mưu biệt bộ hay kiếm chuyện lắm! - Tòng than thở - Phen này tù mọt gông.

- Anh thử nghĩ có ai quen biết ở đó không? Ai chịu giúp mình, đền ơn đáp nghĩa bao nhiêu cũng được. - Băng Trinh gợi ý.

- Quen thì có, nhưng thằng chịu ăn lại không quyền hành, thằng quyền hành lại không chịu ăn… Thế mới rối!

Băng Trinh chợt nhớ người anh họ đang làm chỉ huy phó Bảo an tỉnh Tây Ninh. Cô hấp tấp tìm anh ta. Khi trở về, cô bảo chồng:

- Anh biết trung tá Nguyễn Thành Luân không?

- Biết. Cùng học trên Đà Lạt với anh. Biết mặt chớ không giao du. Thằng đó trước là Việt Minh, sau theo quốc gia, người được ông Diệm, ông Nhu tin cậy…

- Không hối lộ được thằng đó đâu! - Tòng kêu lên - Nó học giỏi, hay nói chính trị… - Tòng không tiện thú nhận: ông ta vừa nể vừa phục Luân.

- Đâu phải chổ nào cũng hối lộ hết! - Băng Trinh rầy chồng.

Theo lời khuyên của vợ, Tòng quyết định sáng mai gặp Luân. Để thật yên tâm, Tòng rủ vợ cùng đi.

---
(1) Tác giả chơi chữ. “Maréchal” cũng có nghĩa là “thống chế”
(2) mortar: súng cối
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:35:58 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #96 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:37:03 am »

Chương 2

Luân đọc đi đọc lại phần nhận xét sau cùng trong báo cáo của đại tá Phan Cao Tòng. Ngô Đình Nhu vạch một nét đỏ đậm dọc theo lề phần nhận xét đó.

Báo cáo viết: Từ cuộc đột kích này, chúng tôi thấy: a) Việt Cộng xuất phát từ bên kia biên giới - chắc chắn được sự ủng hộ ngầm của Sihanouk - ngoài khả năng trinh sát của chúng ta; b) Tuy nhiên, mặt khác, thực tế ấy vẫn cho thấy Việt Cộng chưa đủ mạnh theo cái nghĩa chưa đủ thực lực tại chỗ để tổ chức những cuộc đột kích tương tự; c) Kỹ thuật tiến công nặng yếu tố bất ngờ - chọn hậu cứ cấp sư đoàn của ta và nhân ngày giáp Tết - nói rõ, Việt Cộng không thể nhận chiến vào các trường hợp khác. Chúng chưa được huấn luyện chính quy, nhiều dấu hiệu cho thấy đây là một toán ô hợp; d) Cuộc đột kích do cơ quan quân sự và cán binh cao cấp nhất của Việt Cộng chỉ huy chứng minh đây là cố gắng tối đa của chúng; e) Hành động của Việt Cộng nhằm mục đích tuyên truyền hơn là quân sự; f) Từ tất cả những bằng chứng kể trên, chúng cần thì giờ chuẩn bị. Trên bình diện quân sự, đây là hành động đột xuất. Nó sẽ không luôn luôn hữu hiệu nếu quân lực Việt Nam Cộng hòa đề phòng cẩn mật, tạo được màng lưới thu nhập tin tức bên kia biên giới. Hơn nữa, quân lực Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn có thể dẫn dụ bọn phiến loạn vào cái bẫy giăng sẵn để tiêu diệt chúng; g) Trận đột kích Tua Hai của Việt Cộng và phản đột kích của sư đoàn 13 bộ binh là chiếu lệ đầu tiên cần được phân tích từ góc độ công tác tham mưu, chúng tôi đã biên soạn sơ bộ và mong được thượng cấp cho phép có dịp trình bày ở Cục quân huấn.

- Anh chú ý các ý kiến của Phan Cao Tòng… - Nhu bảo Luân - Hay đấy! Chỉ có một vấn đề thôi: tôi hiểu Tòng, hắn không đủ trình độ để đưa ra nhiều ý kiến như vậy…

“Đâu chỉ có mỗi một vấn đề!” - Luân nghĩ thầm, “Các báo cáo khác nhau đến độ kỳ quặc: báo cáo của Trung tâm tình báo, của tỉnh trưởng Tây Ninh, thông báo của tùy viên quân sự sứ quán Mỹ… Nhu đọc tất cả, nhưng lại bỏ qua những điểm sai biệt, có thể vì Nhu đang dồn tâm trí cho một đòn chính trị mà với tư cách cố vấn của Tổng thống, Nhu sẽ phát biểu trên đài phát thanh quốc gia nay mai, có thể vì Nhu tin cánh nhà binh hơn. Trong mớ hổ lốn đó, báo cáo của Phan Cao Tòng lại rất giống báo cáo của Lê Khánh Nghĩa, chỉ huy phó bảo an tỉnh Tây Ninh”.

Năm 1959, với chính thể Ngô Đình Diệm, đầy diễn biến phức tạp. Có vẻ cơ ngơi mà chính thể tạo lập đạt đến tột đỉnh sau 5 năm bò theo một triền núi, tuy nhiều chướng ngại vật song đều có thể vượt qua, đến nay sườn phía khác tuồn tuột tận chân núi.

Đầu năm, Sài Gòn choáng váng: chế độ Cộng sản Fidel Castro chiến thắng ở Cuba. Tổng thống rất quyền lực và khá lâu năm, Batista - người của Mỹ, tất nhiên, bị lật đổ và phải chạy trốn. Chiến thắng càng thêm lạ lùng khi người ta đo khoảng cách giữa hòn đảo với thành phố Miami thuộc bang Florida của Mỹ, 200 cây số thôi - và quân phiến loạn Cộng sản thực tế chỉ là một nhóm vũ trang do một luật sư trẻ cầm đầu. Đức Hồng y Aganianian, khâm mạng của giáo hoàng La Mã, nhận sang dự đại hội Thánh Mẫu ở Sài Gòn, không giải thích với anh em Diệm, Nhu lý do vì sao Fidel đánh tan Batista và vì sao Hiệp chủng quốc Mỹ không đối phó khi nạn Cộng sản lăn sát cửa ngõ nhà mình mà trong lời huấn dụ lại có hàm ý cảnh cáo: Chúa không ở với kẻ bị dân oán. Nhà thờ Đức Bà được Tòa thánh nâng lên hàng Vương cung thánh đường không trấn an nổi gia đình Tổng thống: Chỗ dựa Vatican chỉ là vật phản chiếu mọi cử động của Washington. Người bạn lớn của Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, chết vì bệnh ung thư - chỗ dựa thêm một xói mòn quan trọng. Cho nên, mặc dù vị cựu tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, đô đốc Felix Stump, long trọng trao cho Tổng thống Diệm giải thưởng danh dự “Lãnh đạo tự do” của Tổ chức bảo vệ tự do Pensylvanie, Sài Gòn vẫn không thoải mái.

Ngày 7-7, nhân kỷ niệm 5 năm chấp chánh, Tổng thống đáp lời giáo sư Wesley Fishel vừa là người dìu dắt Diệm đến chiếc ghế Tổng thống, vừa là quan chức CIA cao cấp điều hành công việc tại Việt Nam hiện nay - bằng lối nói bóng gió, thành công của chế độ trong 5 năm qua là do nỗ lực của toàn dân…

Cái chết bí ẩn của Tổng thống Philippin Magsaysay chưa thôi ám ảnh Diệm và lời khuyên còn bí ẩn hơn của người kế nhiệm Carlos García nhân ông này sang Sài Gòn củng cố những mặc cảm của Diệm mỗi lúc mỗi sâu thêm trong quan hệ với nước Mỹ: “Chúng ta là kẻ sống với Đức tin và hãy phó thác tất cả cho Chúa”.

Đùng một cái, Colagrove, nhân viên hãng Thông tấn Serrips-Noward tung ra một loạt bài nói về việc sử dụng sai lệch các nguồn viện trợ Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa - đúng hơn, tố cáo nạn ăn cắp viện trợ. Quốc hội Mỹ, mà Đảng Dân chủ giữ trọng lượng, la ó. Tổng thống Mỹ buộc gọi một lô tai to mặt lớn Mỹ ở Sài Gòn từ đại sứ Durbrow đến giám đốc USOM Gardiner về Mỹ trả lời đủ thứ chất vấn và Quốc hội ủy thượng nghị sĩ Dân chủ Mansfield - vốn không ưa gia đình ông Diệm - cầm đầu một phái đoàn điều tra sang Sài Gòn. Không ai không thấy qua sự việc này, chính phủ Mỹ muốn thò dần cây gậy bên cạnh củ cà rốt…

Quan hệ với Nhật tốt hơn - món tiền bồi thường của Nhật trong Thế chiến thứ hai được dành trọn cho Việt Nam Cộng hòa và để tỏ lòng biết ơn, nhân thái tử Nhật Akihito cưới vợ, Tổng thống Ngô Đình Diệm gởi một cặp ngà voi làm quà. Nhưng, vào cuối thập niên 1950 này, vai trò quốc tế của Nhật còn khiêm tốn, hơn thế, sự liên hệ quá vồ vập với một đất nước từng gây đau khổ cho cả châu Á rất dễ bị hiểu lầm đã không cho phép ông Diệm đi xa hơn trong tìm kiếm liên minh với Nhật. Tình hình Nam Dương nói chung khích lệ chế độ Sài Gòn: sự tồn tại của Tổng thống Soekarno - quán quân nổi tiếng của chính sách trung lập thân Cộng - đang được đếm từng ngày trước sức ép của lãnh tụ Hồi giáo Hatta và quân đội.

Lào thì chưa ngã ngũ mà thêm rối ren. Sau khi bắt giam các cán bộ cao cấp Pathét Lào, trong đó có “ông hoàng đỏ” Souphanouvong, phái hữu quay sang tự xâu xé. Tướng Phoumi Nôsavãn mang cả thiết giáp bao vây chính phủ Sananikone, ông này từ chức, gia quyền cho Abhay, một lão già sắp chết. Cả Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa xắn tay áo nhảy vào Lào: Mỹ tăng viện trợ quân sự, Việt Nam Cộng hòa ký kết hiệp ước kinh tế, song cả hai đều thất vọng - người Lào thích dollar nhưng không thích đánh nhau…

Trước sau, Miên vẫn khiến Sài Gòn đau đầu. Biên giới lộn xộn. Chưa xảy ra trận đụng độ nào lớn nhưng súng cứ nổ dai dẳng, ngày nào cũng có. Sài Gòn lóe lên hy vọng: Sam Sary và Dap Chhuon tấn công Sihanouk. Ngô Trọng Hiếu, đại diện Việt Nam Cộng hòa ở Nam Vang, đạo diễn cú đánh ngoạn mục này. Tuy nhiên, Sài Gòn mừng hơi sớm. Sam Sary bỏ chạy. Dap Chhuon bị bắn chết ngay trên lãnh địa hùng cứ của ông ta là Siem Reap. Sài Gòn đánh giá quá cao nhóm thân Mỹ và đánh giá quá thấp Sihanouk, ngỡ rằng chỉ với vài cuộc động binh ở biên giới của Dap Chhuon kết hợp với nhóm cảnh vệ tại thủ đô của Sam Sary, chế độ Sihanouk bị lật đổ. Âm mưu phản loạn của Dap Chhuon - Sam Sary thật ra không lọt khỏi cặp mắt theo dõi của triều đình Nam Vang, nói đúng hơn, của Phòng nhì Pháp. Umsvouth và Kossem, thừa lệnh Nhiek Tioulong, đưa lính dù xung trận và họ dẹp loạn thật nhanh, gọn. Sự việc không kết thúc ở mức đó, bởi Sihanouk thừa hiểu cái gì đằng sau Dap Chhuon. Và, ông ta họp báo: hai sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa làm nhiệm vụ cố vấn tác chiến trong Bộ tham mưu của Dap Chhuon bị bắt sống và được trình diện. Tất nhiên, Việt Nam Cộng hòa phủ nhận, Sihanouk không cần sự công nhận hay phủ nhận. Ông muốn cảnh cáo Sài Gòn chớ chơi trò cắn trộm. Khá đông các quốc gia Đông Nam Á - tuy hùa với Mỹ - không thích Sài Gòn trở thành một lính sen đầm khu vực. Tuy ghét Sihanouk, các quốc gia đó ngại cú gây loạn vừa rồi ở Miên mở ra tiền lệ. Washington phê phán Fishel - thiếu chặt chẽ trong kế hoạch hành động - nhưng không lên tiếng công khai về sự việc đảo chính hụt ở Miên ở Sihanouk không tố cáo Mỹ mặc dù ông ta nắm nhiều tài liệu đủ vạch trần Mỹ - cùng với Sài Gòn - kẻ chủ mưu lật đổ ông. Sihanouk là con người lắm mưu mẹo vặt. Tháng 8, ông ta nhắc lại lời Nhu mời ông viếng Sài Gòn và ông đến thủ đô Việt Nam Cộng hòa giữa hàng rào danh dự, đi trên thảm nhung, nhận hoa cùng những cái hôn nóng bỏng của các cô gái… Hai bên tuyên bố “dẹp hiểu lầm, thắt chặt tình thân hữu”. Nhưng, chưa đầy một tháng kể từ chuyến viếng thăm mà báo chí đôi bên cho là “hết sức kết quả” đó, ngày 1-9, Hoàng hậu Cao Miên Kossamak - mẹ đẻ của Sihanouk - nhận được một gói quà của một hãng buôn từ Hương Cảng gửi sang nhân sinh nhật của bà.

Đó là hãng buôn vẫn chuyên cung cấp các vật dụng sinh hoạt của gia đình hoàng gia. Quốc vương Suramarit và hoàng hậu ngự trên ngai vàng, muốn đích thân xem món quà quý. Hoàng thân nội giám Vakrivan mở gói quà - trong một hộp, ràng rịt cẩn thận. Khi gói quà bóc đến lớp giấy cuối cùng, sắp mở ra thì thái tử Sihanouk vào. Ông ra hiệu cho Vakrivan tạm ngưng, để quốc vương và hoàng hậu ra phòng ngoài tiếp khách. Mọi người vừa an vị ở phòng ngoài, thì ở phòng trong, một tiếng nổ dữ dội giết chết hoàng thân Vakrivan, phá tung gian phòng… Gói quà chính là một quả bom.

Dư luận Cao Miên sôi sục. Người ta đề quyết Sài Gòn gây tội ác nhằm diệt nhà vua. Một chút ánh hữu nghị vừa nhen lên đã tắt ngấm.

Ngô Đình Nhu lỡ khóc lỡ cười. Anh ta gọi Ngô Trọng Hiếu tới dinh Độc Lập, cạo cho một trận là tên quân sư này thiếu điều độn thổ:

- Anh ngu như bò. Ai lại cho nổ vào lúc này? Tôi đã bảo ngưng tất cả các dự định dính đến bọn Miên, tại sao anh dám cãi?

Ngô Trọng Hiếu chỉ chống chế:

- Kế hoạch này sửa không kịp…

Hắn ta giấu biệt nguyên nhân: Hắn giao cho Ly Kai bố trí, Ly Kai báo với Dương Tái Hưng và Dương Tái Hưng tự mình sang Hồng Kông bố trí. Khi Hiếu bảo Ly Kai ngừng lại, Ly Kai báo với Tái Hưng. Tái Hưng lớn tiếng:

- Không! Tôi đã thu xếp xong… Ngô Trọng Hiếu là cái gì mà ra lệnh cho tôi? Thủ tiêu Sihanouk với cha mẹ nó cần thiết cho tôi chớ không phải vì Ngô Trọng Hiếu hay Ngô Đình Nhu!

Nói thì găng như vậy song Dương Tái Hưng đưa Ly Kai 1.000 dollar bảo giúi cho Hiếu.

Ly Kai vừa giúi tiền vừa bảo:

- CIA thực hiện kế hoạch này, không sửa được.

Hiếu biết nếu hé với Nhu rằng có bàn tay của CIA thì lập tức hắn bị ném xuống hầm cọp ở Sở thú - cái P.42 rùng rợn ấy.

Thế là bang giao Việt - Cambốt trở lại điểm chết. Có vẻ người Mỹ còn hung hăng hơn trong tham vọng tiệu diệt xu hướng trung lập ở Nam Á. Ngày 25-9, thủ tướng Sri Lanka Bandaranaike bị ám sát tại Colombo. Và, dư luận đặt một dấu hỏi to tướng về sự a tòng của Trung Cộng trên lĩnh vực này - lĩnh vực chống trung lập: Quân đội Trung Cộng tràn qua biên giới Ấn…

Tình hình đối nội của Việt Nam Cộng hòa cũng không bằng phẳng. Nếu giáo chủ Phạm Công Tắc từ trần ở Nam Vang được Sài Gòn đón nhận như một người vô danh tắt thở thì cuộc bầu cử Quốc hội khóa II lại đưa những Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán ngoi lên và ngoi lên ngay tại đô thành. Đán giành được nhiều phiếu nhất và nói chung, phe “độc lập” đánh bại phần lớn ứng cử viên Phong trào Cách mạng Quốc gia, ở nơi mà sự gian lận của Chính phủ bắt buộc phải khéo léo.

Kể ra mươi dân biểu chống đối không thể lung lay nổi cơ chế của cái Quốc hội đã được đủ thứ luật lệ rào chắn bảo đảm ưu thế tuyệt đối của chính phủ, nhưng Diệm không bằng lòng. Nhu khác Diệm, anh ta muốn Quốc hội có đôi tiếng nói ngược - món trang sức rẻ tiền mà rất hào nhoáng. Diệm không thể hình dung những tay không tôn sùng ông là lãnh tụ cả chính trị lẫn tinh thần lại chiếm ghế ở Quốc hội, dùng diễn đàn của Quốc hội xỉ vả ông và gia đình ông. Về mặt này, Diệm chịu tác động của Trần Lệ Xuân.

Theo ý của Diệm, Ủy ban hợp thức hóa đại biểu Quốc hội không thừa nhận Phan Quang Đán và Nguyễn Trân. Quyết định được đưa ra trước mũi của thượng nghị sĩ Mansfield, lãnh tụ đảng Dân chủ đang cùng một đoàn quan chức thanh tra việc sử dụng viện trợ Mỹ ở miền Nam. Thái độ khiêu khích công khai đó khiến ngay cả Eisenhower cũng bực mình. Đại sứ Durbrow nhận chỉ thị phải trình bày với Diệm hậu quả xấu trước dư luận và Quốc hội Mỹ của những hành động kiểu “Hoàng đế phương Đông” như vậy, song Diệm thậm chí không tiếp Durbrow, viện cớ bận kinh lý nơi này nơi khác. Con người từng tuyên bố “biên giới tự do kéo dài tận vĩ tuyến 17” bất bình chính sách của Nhà Trắng, nhất là từ sau khi Foster Dulles chết, Diệm đôi lần thổ lộ với Luân:
- Chính phủ Eisenhower núng thế trước Nga Sô đồng thời bị Khrushchov mê hoặc trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ gần nửa tháng của ông này… Bao nhiêu điều tôi và Tổng thống Hoa Kỳ thoả thuận bỗng tan biến. Chúng tôi chẳng những đã nói tới mà còn đi sâu vào kế hoạch “Bắc tiến”. Người Mỹ không thích tôi, họ cũng không thích ông Lý Thừa Vãn. Họ muốn áp đặt ý riêng của họ và chính phủ do tôi lãnh đạo chỉ có nhiệm vụ thi hành. Đâu được! Tôi không phải là bù nhìn. Họ thích Phan Quang Đán. Nếu họ thích thì xin cứ rước Đán về Mỹ, làm tổng thống hay làm bồi, tuỳ họ, còn ở Việt Nam, Đán không phải type (1) mà tôi cần.

Ngô Đình Nhu đau khổ thật sự. Anh ta lắc đầu, trút lo lắng lên làn khói thuốc. Điều an ủi Nhu phần nào là Luân chia sẻ lo lắng với anh ta.

- Fishel bủa lưới quanh chúng ta! - Nhu kêu lên - Anh tổng thống, vợ tôi, cha Cẩn, chị Cả Lễ… đều không chịu hiểu. Anh thừa biết corruption (2) là cái cớ mà Mỹ thường dùng để xóa bỏ những kẻ họ không ưa, mặc dù họ khuyến khích corruption ở các chế độ đồng minh với họ. Lưới của Fishel cụ thể là ai, ta còn mù mờ, song tôi linh cảm cái lưới ấy đang thắt.

Nhờ lối nhìn tình hình chính trị như vậy của Nhu mà Luân cứu được Phúc, người xả mấy phát tiểu liên vào Diệm ở Ban Mê Thuột. Sau một thời gian điều tra không kết quả. Nhu quyết định bắn Phúc. Anh ta hỏi ý kiến Luân, Luân trầm ngâm khá lâu. Đợi Nhu giục mấy lần, Luân mới nói:

- Phúc không khai không có nghĩa là Phúc không biết gì cả. Muốn Phúc khai, cần bền bỉ, cảm hóa anh ta. Bắn Phúc tức là mặc nhiên cho phép cái lưới của Fishel thắt lại, Phúc còn, đối thủ của ta nghi hoặc: ta biết hay chưa, biết tới đâu… Có thể ta biết tất cả mà ta không bắt, ta muốn ban ân huệ cuối cùng hay ta “lót ổ” để nắm quả tang cả bọn… Phúc nghiễm nhiên đóng vai trò kềm chế, các đối thủ của ta rất muốn thủ tiêu Phúc, lưỡi gươm lơ lửng trên đầu họ. Tôi phải dặn khám Chí Hòa giữ gìn Phúc như giữ gìn sanh mạng của giám đốc khám. Tất nhiên, nếu anh có một lập luận khác vững chắc hơn thì anh hành động…

Nhu không bắn Phúc. Trái lại, giám đốc khám Chí Hòa được lệnh lấy cái đầu của mình ra đảm bảo an toàn cho Phúc - Phúc không chết với bất kỳ lý do nào, kể luôn bịnh tật đau yếu!
*
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:42:31 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #97 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:37:15 am »

Luân sắp sửa vào dinh Độc Lập. Hôm nay, mồng một Tết, anh đến mừng tuổi Tổng thống. Từ vài ba năm trở lại đây, sáng mồng một Tết, tất cả quan viên văn võ của Sài Gòn đều phải chào Tổng thống, giống như ở Huế. Trước kia, ở Huế ngày mồng một Tết là buổi khai triều đầu năm của Đức Kim thượng. Khác chăng là Tổng thống sẽ mời mỗi người một ly sâm banh ngọt dịu thay cho ngự tửu gắt cổ. Bản thân Tổng thống khó lòng nhớ hết thuộc hạ nhưng Văn phòng Tổng thống ghi chú cẩn thận tên họ từng vị và chiếc máy quay phim không bỏ sót một ai. Người nào vắng mặt không lý do sẽ được lên danh sách - tội bất kính với Tổng thống ngang với tội phản loạn.

Chuông ngoài cổng reo. Thạch báo có khách - một phụ nữ.

Luân ngồi trước một phụ nữ rất trẻ và cũng rất đẹp. Cô mặt áo dài, quần lụa, trang điểm vừa phải.

- Thưa ông kỹ sư, em là Băng Trinh - Lưu Thị Băng Trinh - vợ của đại tá Phan Cao Tòng, sư trưởng sư đoàn 13 bộ binh… - Cô ta thỏ thẻ.

- Chào bà đại tá! - Luân nói. Nói xong, anh gọi vọng vào trong phòng: - Dung ơi, có khách!

- Em xin gặp riêng ông kỹ sư… - Cô ta ấp úng.

- Không sao, Dung là vợ tôi, không có gì bất tiện cùng tiếp khách với tôi.

Dung ra phòng khách, bắt tay Băng Trinh.

- Theo lệnh của Phủ tổng thống, hôm nay đại tá Tòng có mặt ở Sài Gòn… Tôi được giao làm việc với đại tá. Xin hẹn một giờ nữa, tức là 9 giờ, tại văn phòng Tham mưu biệt bộ, từng dưới dinh Độc Lập… - Luân nói

- Dạ! Nhà em biết… Vì vậy em xin gặp ông kỹ sư.

- Tốt nhất mời đại tá đến văn phòng… - Luân nhỏm dậy. - Xin lỗi bà!

Băng Trinh cắn môi. Dung thông cảm với bạn gái:

- Anh nghe một chút… - Dung ngăn Luân - Thế nào?… Bà nên nói ngắn. Anh Luân tôi sắp phải đi…

Luân ngồi xuống.

- Thưa ông, bà! - Băng Trinh nói bằng một giọng thiểu não - Em nghe tiếng ông kỹ sư, nhà em cũng nhắc. Bởi vậy, em mạnh dạn tới đây, mong ông kỹ sư thương dùm em…

Luân lạ gì viên sĩ quan cấp tá hay nhậu nhẹt, đầu óc trống rỗng này. Tuy vậy, Tòng không thuộc hạng mưu mô, ít nhiều còn liêm sỉ. Hai người chưa uống với nhau một cốc bia. Từ khi Tòng nắm sư 13, Luân theo dõi ông ta chặt hơn. Luân biết ông ta cầu an, né tránh các cuộc lùng sục và đụng độ, nói chung nặng nề làm ăn.

Về cô vợ, Luân đọc một số thông báo của mật vụ: nguyên là gái điếm, lấy Tòng lúc Tòng còn làm bồi, nay hoàn lương, lợi dụng địa vị của chồng mua bán bò ở biên giới - không phải là hạng chanh chua đanh đá.

- Chị nói đi - Dung thay đổi cách xưng hô, sau khi quan sát Băng Trinh. Trên gương mặt già dặn phong trần, Băng Trinh còn giữ những nét chất phác.

- Tụi em biết là giấu giếm ai chứ khó mà giấu giếm ông trung tá… - Băng Trinh nói đứt đoạn. - Cái vụ hậu cứ sư đoàn bị tấn công đó… Dạ! Trăm sự nhờ ông bà thương… Được lịnh trình diện ngày mồng một Tết, vợ chồng em thấy nguy. Em đã sửa soạn quần áo cho anh Tòng. Ảnh vô khám thì mẹ con em khó sống. Tội ảnh nặng lắm, em mong ông bà thương giùm…

Dung không rõ đầu đuôi sự việc nên chưng hửng, Luân không hơn, cũng chưng hửng. Lệnh gọi Tòng về Tham mưu biệt bộ đúng mồng một Tết chẳng qua là do lối làm việc máy móc của Văn phòng - trong khi ký điện, người ta căn cứ vào lịch Tây mà quên ngày 28-1 là Tết Nguyên Đán. Còn nội dung báo cáo, ngoài Luân, chưa ai ghi nhận một cái gì không bình thường.

- Tôi bận. - Luân xem đồng hồ - Xin hẹn đại tá vào 9 giờ hôm nay…

Băng Trinh biến sắc, bụm mặt khóc.

- Tôi chưa nói hết, - Luân tiếp - 9 giờ hôm nay, mời đại tá tới đây, nhà riêng tôi… Nếu bà không bận mời luôn bà…

Đến phiên Băng Trinh chưng hửng.

Luân đi rồi, hai phụ nữ nói chuyện tiếp, dần dần như đôi bạn tâm tình. Băng Trình thuật vắn tắt cho Dung nghe quãng đời gai góc của mình.

Là con một công chức Đức Hòa, Băng Trinh học đến năm thứ hai trung học thì cách mạng bùng nổ. Gia đình chạy giặc xuống tới Rạch Giá, không còn đường chạy nữa, cha mẹ đưa cô và đứa em trai quay về Đức Hoà. Cha Băng Trinh ra trình diện, nhưng Pháp tình nghi bác của Băng Trinh theo Việt Minh, nghe đâu là chỉ huy quân sự. Trong một trận bố ráp, lính lê dương bắt Băng Trinh và thay nhau làm nhục. Cô gái 15 tuổi, sau đó, bị sung vào cái gọi là “tổ chức tình nguyện” - chuyên sống ở các doanh trại để lính Tây mua vui. Một sĩ quan thích Băng Trinh, khi anh ta giải ngũ và làm chủ một khách sạn ở Hà Nội, đem Băng Trinh về hầu hạ. Tại đây, cô gặp Phan Cao Tòng. Tòng thuộc hạng “điếm vườn”, lù khù. Hai người lén lút với nhau. Băng Trinh yêu Tòng chân thật - đó là người Việt đầu tiên mà cô ăn nằm, không coi cô như món đồ chơi. Bị bắt tại trận, cô trở lại nhà số. Với tiền của dành dụm của cô, Tòng chuộc cô ra và hai người sống chung với nhau.

- Anh Nghĩa của em giận em. Cha mẹ từ em. Bác em thì từ năm 1945 tới giờ em không biết tin. Nhưng, khi em với anh Tòng về Tây Ninh, anh Nghĩa có lui tới.

Dung đã có thể nắm đầu đuôi: Tua Hai sở dĩ bị hạ dễ dàng là nhờ nội tuyến trong sư 13 - con số khá lớn. Tòng muốn che giấu việc đó. Và, rất có cơ sở để cho rằng chính Lê Khánh Nghĩa - nguyên quận trưởng Gò Dầu, nay là chỉ huy phó Bảo an, mà Luân đinh ninh là con trai của đồng chí Lưu Khánh - liên can đến vụ binh vận quy mô này.

Dung nhìn Băng Trinh với đối mắt phấn khởi. Dứt khoát không phải trò gài bẫy của Mai Hữu Xuân, Trần Kim Tuyến hay Fishel…

… Băng Trinh gọi Phan Cao Tòng tới khi Luân từ dinh Độc Lập trở về. Tòng mặc thường phục, mắt trũng sâu. Chắc là mất ngủ. Ông ta lúng túng mãi khi đối diện với Luân, mặc dù vẻ mặt rạng rỡ của vợ báo tình hình đã khả quan. Luân chìa tay bắt, ông ta chập gót chân. Luân phải đỡ ông vào ghế:

- Hôm nay, ngày Tết, anh chị đến nhà tôi. Trước hết, xin cám ơn! - Luân thân mật chào, không gọi theo cấp chức của Tòng.

- Ta nâng ly mừng tuổi nhau năm mới! - Luân khui một chai sâm banh…

- Thưa trung tá! - Tòng đứng lên. Ông ta đứng lên vì Băng Trinh giật áo ông mấy lần - Thưa ông, bà trung tá…

Tòng lúng túng mãi, ly sâm banh sánh ra ngoài.

- Mời cạn ly! - Luân cười.

- Nghe tin anh chị đã có cháu, xin cạn ly thứ hai - Luân tiếp tục xởi lởi.

Phan Cao Tòng được trấn an. Câu chuyện từ dè dặt ban đầu, cởi mở hơn về sau.

- Chúng ta là lính, - Luân nói - Đời lính khó suôn sẻ, nhất là vào thời buổi bây giờ. Tôi hứa giúp anh, giúp với tư cách bạn bè. Vả lại, sơ thất của anh không thể quy tội một mình anh. Nếu phải ra tòa án binh thì trung tá Hà Duy Cường ra đầu tiên vì trung đoàn Lam Sơn chịu trách nhiệm giữ trại Sùng. Kế đó, thiếu tá Lê Đạo, ông ta canh gác sư đoàn thiếu nghiêm ngặt, để địch trà trộn… - Luân vụt hỏi - Anh còn giữ bản báo cáo của thiếu tá Lê Đạo không?

Tòng ngó vợ, Băng Trinh gật đầu.

- Thưa, em còn giữ… Em có mang theo đây!

- Chị cho tôi xin.

Luân đọc lại bản báo cáo đó, cười mỉm:

- Vậy là ổn. Anh chị có thể về ăn Tết. Lúc nào cần, tôi sẽ điện mời anh… À, anh chơi thân với thiếu tá Lê Đạo không?

- Không! - Tòng trả lời quả quyết - Tôi với hắn mới liền lưng lần này thôi. Hắn thuộc An ninh quân đội, trung tá thừa biết. Khó chơi lắm!

Lúc chia tay, Tòng do dự mãi, rồi đánh bạo:

- Tôi có một da cọp dồi bông, muốn tặng trung tá làm kỷ niệm…

Nói xong, Tòng và vợ khắc khoải chờ đợi. Luân xua tay:

- Đừng! Người ta dị nghị chết…

Anh xua tay mà Tòng hiểu là anh không từ chối

*
- Phân tích sự việc này coi… - Luân bảo Dung, khi trong phòng còn hai người.

Từ lúc Luân bị thương, quan hệ giữa anh và Dung khăng khít. Họ không còn kiềm chế tình cảm song vẫn chưa dám phá vỡ giới hạn trước khi được tổ chức chính thức cho phép. Luân viết một điện báo với A.07, mãi chưa có trả lời, mặc dù liên lạc đã nối chặt khi Lục nhảy dù xuống miền Bắc. Cứ vài tuần, James Casey nhận được tin của Lục - có nghĩa là hoạt động chung trôi chảy. Không chỉ tin của Lục, mà một số toán biệt kích nhảy dù sau này gửi tin đều đặn, James Casey hí hửng, Luân và Dung mừng hơn. Chưa biết đến lúc nào cuộc đấu trí kiểu này chấm dứt, song trước mắt, địch bị dẫn sâu vào tròng.

- Phan Cao Tòng sẽ có ích cho ta! - Luân kết luận. Anh mân mê bàn tay Dung… Giữa lúc đó, từ chiếc rađiô đặt giữa nhà, đài phát thanh Quốc gia đang truyền đi bài nói của cố vấn Ngô Đình Nhu.

---
(1) Loại, mẫu
(2) Tham nhũng, nạn hối mại quyền thế
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:46:25 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #98 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:47:45 am »

Chương 3

Ngọn núi lửa Nam Việt Nam - Thực tế và cường điệu

Bài của Helen Fanfani (Financial Affairs)
Sài Gòn, tháng 2.

Những người nước ngoài tại Sài Gòn am hiểu tình hình Nam Việt Nam đều phân vân về bài nói của Ngô Đình Nhu, em trai và cố vấn chính trị của Tổng thống, cũng là nhà lý luận quả quyết và hùng biện, người đề ra chính sách của chế độ. Ông dành một giờ trên đài phát thanh để thuyết phục dư luận Nam Việt Nam rằng Quốc gia chống Cộng non trẻ này đang đứng trước hai nguy cơ, một là tai họa Cộng sản lớn hơn điều mà người ta tưởng, hai là thái độ thiếu kiên định của Hoa Kỳ, cũng là một thứ nguy cơ. Có lẽ một chi tiết cần chú ý trước tiên: bản ký âm bài nói của ông Nhu không hoàn toàn khớp với bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh mà Việt Tấn xã phát hành trong bản tin buổi chiều và cũng không hoàn toàn khớp với bản tiếng Việt được công bố trên báo Việt ngữ. Ai cũng thấy bản công bố chính thức được giảm nhẹ giọng hằn học ở phần phê phán Hoa Kỳ. Tỉ như, ông Nhu khi nói, dùng danh từ “thiếu đạo lý”, khi công bố là “thiếu thông cảm”. Một tỉ dụ khác: khi nói, ông Nhu gọi những quan chức Mỹ thường chỉ trích Tổng thống Ngô Đình Diệm là “những quan thuộc địa với thói quen nhìn các dân tộc châu Á qua con số chi xuất đồng dollar”; khi công bố, lại là: “những viên chức ích kỷ, chừng nào đó theo cách nhìn “nước Mỹ trước hết” của một vài Tổng thống Mỹ trước kia muốn giới hạn trách nhiệm nước Mỹ chỉ ở Tây bán cầu…”

Đây không phải là chuyện vặt vãnh. Phải chăng, anh em ông Diệm muốn dấy lên làn sóng chống Mỹ - dù hạn chế trên mặt trận báo chí - để chứng minh một cái gì đó hoặc để vòi vĩnh một cái gì đó. Và, khi mà đọc lại bài viết, họ giật mình và cố gắng điều chỉnh? Một nhân viên đại sứ quán Mỹ có vai vế, yêu cầu không nêu tên, nói với nhà báo: Người nghe đài phát thanh bao giờ cũng đông hơn người đọc báo. Đã có giả định được không, tình trạng bát nước đổ và người đang hốt nó - như cách nói dí dỏm của người Việt?

Cách đây vài tuần lễ, cũng trả lời phỏng vấn của tờ báo lớn của Pháp - tờ Le Figaro - cũng chính ông Nhu nói: Chúng tôi đang ngồi trên một ngọn núi lửa, chưa biết bao giờ nó sẽ phun.

Đã 3 năm kể từ một kẻ vô danh bắn vào Tổng thống trên miền đất hứa Cao nguyên. Bộ trưởng cải cách điền địa bị tử thương - chỉ một người thôi - nhưng cuộc thanh trừng như bất tận. Dẫu sao suốt 3 năm đó, không một biểu hiện nguy kịch nào khiến chế độ phải sợ hãi, về phía Cộng sản cũng như về phía những người Quốc gia khác chính kiến với ông Diệm, nếu những thông báo công khai có thể tin cậy được. Không ai không lạ lùng giữa khi guồng máy chạy bình thường - rất bình thường nữa - thì đột nhiên chính phủ Nam Việt Nam ban hành một sắc lệnh thời chiến: luật 10-59. Với đạo luật này - ngay nhà độc tài mụ mẫm ở một Quốc gia Nam Mỹ cũng chưa dám áp dụng - Cộng sản và đồng lõa phải bị xử chém.

Chiếc máy chém được lau chùi, sau khi nó biểu dương một lần cách nay 4 năm để thi hành bản án đối với tướng Ba Cụt của giáo phái Hòa Hảo. Chiếc máy chém bây giờ cần phát huy công suất, cho nên nó lưu động. Và, luật 10-59 có hiệu lực ngay - một chiếc đầu rơi, của một cán bộ Cộng sản cấp tỉnh tên là Hoàng Lệ Kha. Đồng thời, Nam Việt Nam áp dụng kinh nghiệm Malaysia, thành lập các khu tập trung gọi là khu trù mật - dồn dân bấy lâu sống tản mạn vào đây, giữa bờ rào và tường đất, dưới tầm súng của các chòi gác, hoàn toàn không có một tiện nghi sinh hoạt nào, ngay nước uống.

Ở thành thị, chính phủ ông Diệm cho bầu cử Quốc hội, nhưng lại không cho ứng cử viên nhiều phiếu bước lên thềm Nhà hát lớn.
Sự trái ngược, lộn ẩu trong chính sách của Nam Việt nảy ra một loạt giả thuyết. Bài nói của ông Nhu phản ảnh rõ rệt sự trái ngược, lộn ẩu đó và nhân thêm các phỏng đoán. Ông Nhu nói: “Chế độ Cộng hòa đang ở vào giờ báo động. Chính phủ không muốn giấu giếm với quốc dân tình thế nguy hiểm hiện nay”. Tuy vậy, ông Nhu không hề chứng minh “tình thế nguy hiểm” một cách cụ thể mặc dù ông cố gắng chứng minh nguyên nhân của tình thế đó. Có hai điều, theo lời ông Nhu: Một, những kẻ tự nhận là Quốc gia, là chống Cộng nhưng nặng quyền lợi ích kỷ, vô tình hay cố ý tiếp tay cho Cộng sản. Hai, đồng minh của Nam Việt Nam bị những kẻ nói trên mê hoặc, có thái độ chập chờn trong sự lựa chọn giữa thời điểm nhạy cảm hiện nay - hoặc giữ đúng lời cam kết ủng hộ các nỗ lực của chính phủ mà Tổng thống là đại biểu hiến định để đối phó hữu hiệu với Cộng sản, hoặc dung dưỡng bọn bất tài đang bất mãn, gây khó khăn cho quá trình củng cố chế độ tự do ở Nam Việt Nam và như vậy có nghĩa là sửa soạn dâng một phần đất còn lại này cho kẻ thù…

Không ai nghi ngờ ý chí chống Cộng của Tổng thống Diệm. Song, không ai không phát hiện qua bài nói của ông Nhu, những mục tiêu đấu tranh mà chế độ ông Diệm xem ngang, thậm chí nguy hiểm hơn Cộng sản: những người Nam Việt Nam không tán thành một số mặt chính sách nào đó của Tổng thống và bản thân chính giới Mỹ, ở những phần khác ý kiến với ông Diệm. Ít nhất, ông Diệm tự đặt cho mình ba đối thủ. Trên bình diện thực hành, chế độ Sài Gòn chưa dám làm cái gì phạm thượng đối với người Mỹ ngoại trừ sự nói xiên nói xéo. Còn đối với các nhóm theo chủ nghĩa Quốc gia thì chế độ chắc chắn không nương tay.
Nước Mỹ đang ở vào năm bầu cử. Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng vừa bắt đầu. Đảng Dân chủ có vẻ chiếm lợi thế nhờ xu hướng của công chúng Mỹ đòi hỏi cải thiện quan hệ với khối Cộng và nhờ Kennedy - người mà các cuộc thăm dò nhất trí là sẽ được đảng Dân chủ đề cử trong cuộc so găng vào tháng 11 với đảng Cộng hoà. Đó chính là cơ sở - nếu không phải là cơ sở duy nhất - cưỡng ép ông Nhu có bài nói thách thức vừa rồi. Tổng thống Eisenhower có thể phiền lòng, song ông không còn mấy thì giờ để làm một errata (1) đằng sau tác phẩm sinh nở và lớn khôn dưới thời của ông. Nhưng, Kennedy thừa thì giờ để “lập lại trật tự” trong cái tôn ti mà nước Mỹ đang cố giữ gìn.

Trái với phong tục cổ truyền của nước ông, ông Nhu không chúc lành mà chúc dữ nhân ngày Tết. Quả núi lửa có thể phun - nó phải phun - bởi trong vòng chiến, không chỉ có Cộng sản và chế độ ông Diệm. Và, bởi chính ông Diệm và gia đình ông muốn nó phun, hơn thế nữa, đang cố hết sức mình để thúc đẩy cho nó phun.

Câu ngạn ngữ sau đây không chắc tới bạn đọc Finacial Affairs vì cây kéo kiểm duyệt Sài Gòn: Con ếch thích to bằng con bò… Cường điệu một khi biến thành hiện thực - lạy Chúa - không phải là điều mà chúng ta cầu nguyện…

*

Báo cáo của Sở nghiên cứu chính trị.
Nhóm “Caravelle” - tên gọi do chương trình hành động của nhóm được thông qua tại một bữa tiệc mở trên tầng sáu khách sạn Caravelle. Chỉ có tờ Thời Luận đăng chương trình này. Báo tiếng Pháp - Journal d’Extrême Orient - đưa tin vắn tắt. Nhưng, hãng UPI, AFP đánh đi tin chi tiết - giới thiệu tỉ mỉ tiểu sử những người đứng đầu, nhất là Trần Văn Hương.

Chương trình nhấn mạnh hai điểm:

1- Đòi chính phủ thực thi dân chủ, cụ thể là đòi để các xu hướng quốc gia được quyền tập họp thành tổ chức, có cơ quan ngôn luận, được sử dụng đài phát thanh và có quyền phát ngôn khác như in ấn, lưu hành ấn phẩm, diễn thuyết. Đòi chính phủ đối thoại với các chính đảng, nhóm. Đòi tổ chức bầu cử quốc hội và công nhận phe thiểu số đối lập trong nghị viện.

2- Tự do kinh doanh, hủy bỏ các hình thức độc quyền của chính phủ
Chương trình nhằm khai thác sự bất mãn trong một số trí thức và một số nhà doanh nghiệp. Chương trình cũng tỏ ra khéo léo mơn trớn dư luận Mỹ, đặc biệt là dư luận ủng hộ đảng Dân chủ Mỹ đồng thời bỏ ngỏ khả năng thiết lập lại quan hệ tốt hơn với Pháp.

Trong phiên họp chót, Phan Quang Đán, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Trân phát biểu rất hăng. Đán khoe là “đã có những cuộc tiếp xúc bổ ích với người có thẩm quyền của đảng Dân chủ Mỹ”. Nguyễn Trân phân tích con đường cứu Việt Nam Cộng hòa khỏi rơi vào tay Việt Cộng: thay đổi chế độ, từ tổng thống chuyển sang chế độ nghị viện, từ độc đảng sang đa đảng. Hoàng Cơ Thụy nói về việc “phá thế cô lập của Việt Nam Cộng hòa trong thế giới tự do” mà hành động đầu tiên là “tỏ ra hiểu biết đầy đủ về vai trò của Pháp ở Đông Dương, một vai trò mang ý nghĩa lịch sử lẫn thực tiễn hiện tại, bởi Pháp là một cường quốc.
Trần Văn Hương kết luận cuộc họp. Ông nói ngắn và chung chung: Phải thực hiện đoàn kết quốc gia để chiến thắng Cộng sản. Chương trình hành động của nhóm được thông qua theo lối đưa tay.

Theo các nguồn tin, linh hồn thật sự của nhóm là Nguyễn Trân. Với các bằng chứng, chúng tôi thấy rõ hai thế lực sau đây đồng tình với Nhóm: một số sĩ quan và trí thức từng dính với Phòng nhì Pháp và đảng Đại Việt Hà Thúc Ký, Trương Tử Anh, kết liên với các nhóm Quốc dân đảng Nguyễn Hòa Hiệp. Cũng không loại trừ khả năng Nhóm thoả thuận ngầm với Thích Tâm Châu. Riêng nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn thì hình như đứng ngoài cuộc. Phần Trần Văn Hương, ông ta không thích Đán và các phe, song háo danh, tự coi như người đứng trên nên bị lợi dụng.

Sau đây, đính kèm:

1) Chương trình của Nhóm.
2) Băng ghi âm cuộc họp.
3) Danh sách 21 người dự họp.

*
Nhu rõ ràng thấm mệt sau những ngày căng thẳng liên tục. Anh ta gần như nằm hẳn trên ghế, chân gác lên bàn. Đôi mắt nặng nề nhìn người đối thoại với mình một cách lơ đãng. Luân thông cảm với hoàn cảnh và gánh nặng mà Nhu đang xốc đỡ. Chợt nhớ đến bài báo của Fanfani, Luân mỉm cười: Mỹ có trước mắt hai mục tiêu - cách mạng và phe phái; Nhu thêm một bận tâm nữa - Tổng thống Diệm. Như vậy, Nhu phải là người bận rộn nhứt.

- Anh cười cái gì? - Nhu hỏi, uể oải.

- Cười anh! Tôi vừa đọc một quyển sách, tựa là “Anh hùng thấm mệt”… - Luân trả lời, vẫn cười tiếp.

- Sách triết học hay văn học?

- Tiểu thuyết…

- Có chỗ nào giống tôi không?

- Giống… Giống chỗ “thấm mệt” nhưng con đường đi tới “thấm mệt” khác nhau xa.

- Anh còn thời giờ đọc tiểu thuyết, giỏi quá. Tôi chẳng những không còn thì giờ mà không còn đầu óc.

Nhu chống người dậy, châm thuốc.

- Mệt kinh khủng! - Nhu nói khi nhả ra làn khói - Trước kia, chính tôi đưa ra các đề thi, bây giờ chính tôi phải giải các đề thi.

Toàn các đề thi hiểm hóc. Anh có thấy như vậy không?

- Thấy chớ! - Luân gật đầu - Tôi khâm phục sức làm việc của anh…

- Anh đọc báo cáo tuần của Bộ tham mưu chưa? - Nhu đùa sang Luân một xấp giấy - Tình hình xấu lắm. Rất xấu. Ta mất một
phần lớn làng xã, Cộng sản đột ngột đẩy mạnh hoạt động, đặc biệt ở đồng bằng Nam phần. Tôi không hiểu họ lấy súng ở đâu, mà trong một thời gian kỷ lục, lập ra bao nhiêu tiểu đoàn, không có một dấu hiệu nào Bắc Việt tuôn người, tuôn súng vào Nam. Vậy mới lạ!

Luân lật qua xấp giấy. Những con số khô khan, những ghi nhận cụt ngủn mà anh quá quen. Với loại thông tin kiểu này, không trách Ngô Đình Nhu càng đọc càng mù tịt.

- Súng ngựa trời là cái gì, anh Luân? - Nhu hỏi - Súng bập dừa nữa?

Luân vừa đến Cục tác chiến, ở đó, anh thấy mấy khẩu “súng ngựa trời” tịch thu được trong các cuộc hành quân. Sĩ quan tác chiến không gọi chúng là “súng ngựa trời” mà là súng thô sơ, sứng tự tạo… chế theo kiểu súng săn, bắn đạn ghém, gồm một ống sắt làm nòng, một cơ bẩm mổ vào hột nổ đốt cháy khối thuốc và tống các thứ: miểng chai, đinh, mảnh sắt vụn, thậm chí dây kẽm cắt ngắn… thành một vòng sát thương rộng. Hồi kháng chiến chống Pháp, tiểu đoàn 420 chế được vài loại súng, nhưng không tiện bằng “súng ngựa trời”. Luân hiểu hoàn cảnh mới cho phép lực lượng vũ trang cách mạng tạo được vũ khí lợi hại. Người biết kỹ thuật quân khí đông hơn trước, vật liệu không khó kiếm. Tỉ như phosphore rouge (2) đâu mà chẳng có. Thuốc nổ còn lan tràn hơn.

“Súng ngựa trời” đi vào huyền thoại. Quân cách mạng muốn đặt “súng” ở đâu cũng được, trên ngọn cây, cạnh bờ đất, trong mái chòi. Chỉ chuyền một dây giật cơ bẩm, súng sẽ khai hoả. Người bắn an toàn. Súng không có cỡ nòng nhất định, nó tùy ống sắt - thậm chí, ống tre cũng tốt. Từ vài tháng nay, “súng ngựa trời” gây khủng khiếp trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Bộ Tổng tham mưu và Cục tác chiến buộc phải mổ xẻ khẩu súng oái oăm đó. Các nhà chuyên môn về vũ khí đều lắc đầu: trò chơi này làm suy sụp tinh thần quân lính được sao? Tướng Williams, trưởng phái bộ quân sự Mỹ cũng bỏ công nghiên cứu khẩu súng.

- Anh chưa thấy “súng ngựa trời” sao? - Nhu thấy Luân im lặng, hỏi tiếp… - Tôi thấy rồi. Thấy súng… như cái ống thổi lửa ở nhà quê. Tại sao nó nguy hiểm?

Luân nghĩ rằng tốt nhất là không nên đi sâu vào khẩu súng ngựa trời. Nhu làm sao hiểu được sức mạnh của khẩu súng, không chỉ từ “cái ống thổi lửa ở nhà quê”

- Tôi đã xem qua một lần, nhưng chưa để ý tính năng, cấu trúc… Nếu anh cần, tôi sẽ trả lời sau.

- Được, hôm nào anh cho biết… Còn “súng bập dừa”? Súng “oảnh tầm sào”? Nước nào chế tạo? Quân độc chưa tịch thu được khẩu “bập dừa” mặc dù tôi ra lệnh phải kiếm cho được…
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:52:35 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #99 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2008, 07:48:34 am »

Tới đây, Luân bí như Nhu. Trong các sách nghiên cứu vũ khí bộ binh, kể cả vũ khí chế tạo tại các nước xã hộ chủ nghĩa, không đâu nói đến hai kiểu súng có cái tên rất lạ tai này. Còn lúc kháng chiến - quả chúng nó chưa ra đời.

- Tôi chịu thua! - Luân thú nhận.

- Không sao… Thế nào cũng có lần ta tóm được chúng… Bây giờ tôi muốn bàn với anh…

Nhu gọi thức giải khát và sau khi hớp mấy hớp bia, anh ta nói, giọng trầm trầm:

- Tôi tin là anh không khác tôi trong đánh giá tình hình. Bài nói của tôi trên làn sóng bị cô nhà báo Fanfani gọi là sự thổi phồng có dụng ý. Ngay Tổng thống cũng bảo tôi: Chú nói hơi quá. Nhưng không hại gì, tôi cần báo động trước để trị bọn thằng Đán, thằng Trân… Anh thấy không, Tổng thống đinh ninh tình hình không đáng ngại… Ta đành chưa vội tranh luận với Tổng thống. Còn cô nhà báo, cô ta rất thông minh, thậm chí, hơi dư thông minh. Cô ta là bạn của anh…

Luân nhún vai. Nhu cười:

- Tôi quả quyết về phần cô ta, chưa chắc cô chịu dừng mối quan hệ với anh ngang mức bạn, nếu không có cô Dung! Tất nhiên đó là chuyện riêng tư…

Nhu bỏ lửng câu nói. Luân hiểu rằng Nhu không đơn thuần cột anh với Fanfani theo kiểu tình cảm trai gái. Fanfani về Mỹ cuối năm 1958 và đã chính thức lấy chồng - phóng viên tờ Newsweeks chuyên săn tin ảnh khu vực Đông Nam Á, cách vài tuần từ Hồng Kông sang đây thăm vợ và Fanfani cũng làm ngược lại như vậy, rất đều đặn. Tuy nhiên, Luân vẫn cứ lặng thinh. Trong trường hợp anh để Nhu nghi nghi hoặc hoặc về quan hệ cá nhân giữa anh với một cô nhà báo Mỹ, có thể chưa phải là có hại.

- Trên mọi cái, - Nhu tiếp tục nói - An ninh nội địa đóng vai trò tiên quyết. Ta đủ mạnh làm chủ tình thế tại đất nước ta thì mới hòng trả giá với đồng minh. Nhóm Caravelle sở dĩ lăng nhăng vừa qua là vì an ninh nội địa mỗi ngày mỗi xấu. Cho nên, nhiệm vụ số một của chính phủ là vãn hồi an ninh. Vãn hồi an ninh hiện thời khác thời kỳ các giáo phái. Cộng sản khôn ngoan, có tổ chức, có kinh nghiệm hơn giáo phái. Tôi nghiền ngẫm nhiều đêm các bài viết của đại tá Thompson. Anh đã đọc rồi, phải không?
Luân gật đầu. Đó là tài liệu phân tích tình hình Mã Lai của viên tư lệnh người Anh.

- Cộng sản Mã Lai không yếu, nhưng khi họ bị cô lập khỏi dân chúng thì chỉ còn còn đường rút vào rừng sâu. Chánh sách khu trù mật dựa vào kinh nghiệm Mã Lai: tôi có thể nói nó là một bước nâng cao sáng kiến vũ trang tự vệ của Anh ở Bình Dương. Khu trù mật toàn diện hơn: ta lập ra các pháo đài chống Cộng cả về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế. Tôi không cho chính sách khu trù mật đã trăm phần hoàn hảo, bởi vậy muốn anh đi một vòng kiểm tra, nơi đã lập xong, nơi sắp lập… Chúng ta sẽ trao đổi cách bổ khuyết, sau chuyến kiểm tra của anh.

Luân đồng ý ngay. Anh xin Nhu nửa tháng để làm việc đó. Khi từ giã nhau, Nhu hỏi:

- Sao ông bà lâu có tin mừng quá vậy?

- Cô ấy chưa muốn có con. - Luân trả lời, thản nhiên.

- Anh đã lớn tuổi rồi, chậm con là không tốt… Tôi cứ ngỡ ông bà khó có con, nếu muốn, nhờ các giáo sư giỏi giúp…

Trên xe về nhà, Luân nghĩ ngợi mãi về câu nói của Nhu: Anh ta nói có hậu ý gì không?

*
Chuyến kiểm tra khu trù mật giúp Luân hiểu đầy đủ hơn thực tế tình hình. Về phương diện này anh thầm phục Nhu: Nhu ước lượng đúng nguy cơ mà chế độ Sài Gòn đang bị đe dọa - bị đe dọa mạng sống.

Luân chọn Tuyên Nhơn làm nơi đến đầu tiên. Anh chỉ có thể dùng trực thăng từ Tân Sơn Nhứt đáp xuống bờ Kênh Xáng. Khu trù mật chưa có hình thù. Lính đóng giữa vòng thành đất và dây kẽm gai. Hàng nghìn dân chúng dưới nắng Đồng Tháp Mười đổ lửa, nai lưng đào các tuyến phòng thủ. Các làng quanh đó bị lùa ra Tuyên Nhơn - hồi kháng chiến, Luân từng qua lại đấy và bấy giờ gọi là vàm kênh Dương Văn Dương, con kênh đổ vào sông Vàm Cỏ Tây. Trung tá tỉnh trưởng Kiến Tường đích thân chỉ huy xây khu trù mật Tuyên Nhơn - một trong bốn khu trù mật trong tỉnh đã được Tổng thống duyệt; ba cái kia là Mộc Hóa, Thủy Đông và Nhơn Hòa Lập. Quốc sách khu trù mật được giới thiệu khá đầy đủ về ý nghĩa trong nhiều quyển sách, bài viết của những tác giả lớn, như cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng giám đốc thông tin… Nhưng trung tá tỉnh trưởng hiểu nó ở mức đơn giản hơn hết.

- Thưa trung tá! - Ông ta báo cáo với Luân - Công chuyện đuổi dân khỏi làng xóm cũ không phải dễ. Như tụi ở kinh Năm Ngàn, ở kinh Mười Hai, hầu hết gia đình Cộng sản, tôi cho lính đốt nhà. Đốt nhà mà tụi nói chưa chịu ra. Tôi cho thụt cối vô. Ra được một mớ. Sau Tết, đồng cạn nước, tôi cho xe bọc thép ủi láng tè! Ra thêm mớ nữa. Tới bữa nay, tôi quy về tỉnh lỵ Mộc Hóa phân nửa, còn phân nửa chia cho mấy khu… Trung tá có thể trình với ông cố vấn rằng Kiến Tường xây xong khu trù mật nội trong năm nay..

Luân hỏi han thêm các mặt tình hình trong tỉnh. Không phải viên tỉnh trưởng - nhiều nét hao hao viên quận trưởng Gò Đen mà Luân và Dung gặp khi Nhu mở màn đợt tố Cộng năm xưa, nghĩa là dư thừa máu lưu manh - mà thiếu tá quận trưởng Tuyên Nhơn nho nhã kể cho Luân nghe nhiều điều, với Luân, rất đặc sắc. Tay thiếu tá xuất thân sinh viên luật khoa, học trường võ bị, đầu tiên làm ở Cục quân huấn, do cãi vã với cấp trên, bị tống khứ về xứ trống lốc trống lơ này, hè mùa khô thì nắng cháy da, ngó mút con mắt chưa thấy chòm cây xanh, mùa mưa thì nước dâng tận mí chân trời, bốn bề y biển cả.

- Em chắc chắn là ông cố vấn, Tổng thống, đại tướng và ông, không ai được đọc báo cáo chỉ huy phó bảo an tỉnh… Bởi trung tá tỉnh trưởng đốt báo cáo đó rồi, đốt rồi còn vò cho tro nát bấy… Báo cáo về trận gò Măng Đa. Gò Măng Đa nằm về phía tây Mộc Hóa, cách Mộc Hóa 20 cây số đường chim bay. Sau Tết chừng bốn hay năm ngày, tỉnh trưởng ra lịnh cho thiếu tá chỉ huy phó bảo an hành quân vào gò Măng Đa, lùa số dân còn sót, - chừng mươi hộ - ra khu trù mật. Em với thiếu tá chơi thân, bạn học ở trường Pétrus Ký, nên anh ta rủ em cùng đi. Còn chờ làm việc với tỉnh trưởng, em theo anh ta. Nước vừa rút, đường hơi khó đi. Tụi này bắt đầu đi hồi 6 giờ sáng mà 11 giờ mới tới cái gò nhỏ, non một tiếng nữa mới tới Măng Đa. Thiếu tá Long - tên anh chỉ huy phó bảo an - bảo lính tạm nghỉ trên cái gò nhỏ đó. Tụi này đang vạch sậy leo lên gò thì bỗng nghe có tiếng hô: “Tất cả đứng im! Đưa tay lên… Các anh rơi vào ổ phục kích của quân cách mạng rồi… Ai kháng cự, ai chạy sẽ bị bắn…”

Người nói trong sậy, không biết mặt mũi ra sao và cũng không biết họ đông hay ít. Thế của tụi em thì rõ là bất lợi: họ ở trên gò cao, có cây cối che, tụi em ở dưới đồng, không có cái gì để núp. Nước lại sền sệt…

Thiếu tá Long không biết phải làm sao. Lính, sĩ quan đã đứng như trời trồng, đưa súng lên cao.

- Xếp súng chỗ đất khô đó rồi dang ra ngoài ra, ngồi xuống, đặt tay lên ót, nhớ quay lưng vô gò…

Lịnh lần này được chấp hành thiệt lẹ, luôn thiếu tá Long và em - tụi em nộp hai khẩu súng ngắn.

Tuy ngồi quay lưng lại, em vẫn cố gắng liếc xem họ sẽ làm gì. Trong lùm cây nhô ra hai người, mình mẩy lấm sình. Họ chuyển số súng lên gò. Số súng khá lớn - em quên nói: quân số của em gồm 380 người cho nên có lẽ thấy chuyển chậm, họ ùa xuống đông hơn. Trung tá biết ai không? Hai chú nhỏ chừng 13, 14 tuổi, ba người đàn bà, bốn ông già… Giữa lúc chuyển súng, hai người tiến về phía tụi em - một trung niên thủ khẩu Colt của thiếu tá Long, người thanh niên, ngoài khẩu Vicker của em giắt ngang lưng, thủ khẩu Thompson. Người trung niên bắt đầu diễn thuyết. Đại khái ông ta chửi bới Tổng thống Diệm và đế quốc Mỹ, kêu gọi đấu tranh đánh đổ chế độ độc tài gia đình trị. Ông ta nói không hay, không lưu loát, lộn xộn nữa. Một người lính biết mặt ông ta và người thanh niên - hồi đó, người lính sợ run, cố không để bị hai người kia phát hiện - anh ta nói với em khi đã thoát nạn: ông trung niên là dân đặt trúm, cậu trẻ hơn là dân nhổ bàng, chẳng phải quân đội Việt Cộng gì ráo!

Sau đó, tụi em được tha vì, theo lời ông trung niên: tui em lầm lạc, chưa có nợ máu với nhân dân.

Thế là Kiến Tường mất trọn một tiểu đoàn súng. Thiếu tá Long tình thật khai ngay, trung tá mắng cho một trận: Anh muốn kéo tôi chết chìm hả? Báo cáo sửa đổi vụ gò Măng Đa thành một trận đụng độ ác liệt, Việt Cộng chết mấy chục, ta vô sự, thu được gần 200 súng… Nhưng, sau đây mới thật là chuyện khôi hài, vợ của tay lính mà em vừa nhắc, khi thăm chồng, thuật cho mọi người nghe: Hôm đó, dân gò Măng Đa đi tát đìa, “quân số” gồm tổ trưởng nông hội, một nam thanh niên, hai cô gái, một bà xồn xồn, bốn ông già, hai chú nhỏ, tổng cộng 11. Họ chỉ có một khẩu “oảnh tầm sào” và mươi viên đạn. Tát xong đìa, họ bắt cá thì thấy lính Quốc gia dàn hàng ngang tiến vào gò. Không thể chạy vì đồng trống trải. Tổ trưởng nông hội túng quá, hô hoán. Không dè lính Quốc gia ríu ríu đầu hàng. Súng chuyển tới chiều mới hết.

Nghe rồi, em tức quá, xin trung tá cho em truy kích. Trung tá can em: Đừng dại, chết uổng mạng… Cái ông trung tá này hùng hổ với dân, lại rất ngán Việt Cộng.
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Tám, 2008, 07:56:57 am gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM