Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:45:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ván bài lật ngửa  (Đọc 131615 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #260 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2008, 10:57:32 pm »

Thông cáo của Hội đồng quân lực:

Theo quyết định của hội nghị Đà Lạt ngày 4-12, một Hội đồng quân lực Việt Nam Cộng hòa được thành lập với tư cách cố vấn để giúp Tổng tư lệnh thực hiện công bằng trong quân đội.
Hội đồng quân lực cho rằng Thượng hội đồng quốc gia chia rẽ bè phái nghiêm trọng, mua chuộc cả tướng lãnh, làm suy yếu tiềm năng chống Cộng, nên quyết định giải tán Thượng hội đồng. Đất nước không thể bảo tồn được với những phần tử xôi thịt.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trung thành với mục đích ái quốc và chống Cộng, quyết không thi hành chính sách của ngoại bang nào cả.
Thà thanh bạch trong độc lập còn hơn giàu sang mà tủi nhục trong nô lệ ngoại bang.
Hội đồng quân lực vẫn lưu nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và vẫn tín nhiệm chính phủ do giáo sư Trần Văn Hương đứng đầu. Hội đồng yêu cầu chính phủ triệu tập quốc dân đại hội, trong khi chờ đợi, Quốc trưởng giữ quyền lập pháp và quân đội sẽ hòa giải cho mọi tranh chấp.
Sài Gòn, ngày 20 tháng 12 năm 1964
Đại tướng Nguyễn Khánh.

*
Thông cáo báo chí:
Hội đồng quân lực không phải là hội đồng quân đội cách mạng. Sau quyết định tối cần thiết ngày 20-12, Hội đồng trở lại cương vị cố vấn cho Tổng tư lệnh.
Ngày 23 tháng 12 năm 1964.
Bộ Thông tin.

*
Tin các báo:
Mìn nổ dữ dội ở khách sạn Brinsk, gần trụ sở Quốc hội. Khánh sạn Brinsk dành riêng cho quân nhân Mỹ cư ngụ. Thiệt hại được biết là khá nặng. (Các báo Việt ngữ)
Đại tướng Dương Văn Minh từ Đài Bắc trở về Sài Gòn. Đại tướng không tuyên bố gì cả. Cũng không có một nghi lễ đón nào. (Nhật báo Viễn Đông – Tiếng Pháp).
Chiến sự dữ dội tại Bình Giã thuộc Phước Lễ. Việt Cộng tập trung lực lượng khá lớn, đánh vào các đơn vị quân lực Việt Nam Cộng hòa đang hành quân tảo thanh. Hình như Việt Cộng bố trí sẵn trận địa phục kích và quân đội Việt Nam Cộng hòa gồm bốn tiểu đoàn bộ binh rơi vào bẫy của Việt Cộng. Bộ Tổng tham mưu đã điều lực lượng tiếp viện chưa từng có, đổ bộ bằng trực thăng, tham chiến gồm các tiểu đoàn Dù, Biệt Động quân và Thủy quân lục chiến. Không quân bắn phá cực kỳ mãnh liệt các khu rừng nghi là có Việt Cộng. Pháo binh tập trung độ cao, bắn hàng vạn quả đại bác vào khu vực thật ra không rộng. Các giới am hiểu quân sự cho rằng đây là trận đụng độ lớn nhất giữa quân lực Việt Nam Cộng hòa và Việt Cộng từ khi xứ này rơi vào chiến tranh. Theo các giới am hiểu quân sự, cuộc thử sức này cho thấy khả năng của Việt Cộng đã hình thành lên đến đơn vị trung đoàn và phối thuộc nhiều binh chủng – lực lượng không thể hoài nghi từ Bắc Việt vào mà tuyển chọn tại chỗ.
Chắc chắn tướng Nguyễn Chí Thanh, nay là nhân vật số 1 của Việt Cộng ở Nam Việt muốn thể nghiệm quy mô tấn công, không đơn thuần du kích. Người chỉ huy trực tiếp, theo tin tình báo, là Năm Truyện và Sáu Tòng – những cái tên tự nó đã giới thiệu quê quán Nam Bộ của họ.
Tổn thất của quân lực Việt Nam Cộng hòa, cả trực thăng bị bắn rơi, được một số sĩ quan cấp tướng ở Bộ Tổng tham mưu (ông đề nghị dấu tên) đánh giá là “nặng nề hơn bất kỳ trận đánh nào trước đây”.
Cuộc chiến kéo dài ba đêm ngày. Việt Cộng rút lui khi không còn việc gì để làm nữa, với một số khí tài chiến tranh khá lớn và một số tù binh chưa biết là bao nhiêu.
Chúng tôi xin gặp trung tướng Westmoreland, hỏi về trận Bình Giã. Ông trả lời đầy ngụ ý: một cái nhún vai. (Tin của UPI).

*
TƯỚNG NGUYỄN KHÁNH MUỐN GÌ?
Hélen Fanfani (Financial Affairs).

Ngày 25 tháng 12, tướng Nguyễn Khánh – vừa thêm một ngôi sao trên cầu vai do ông tự gắn cho và để đỡ ngượng, ông gắn luôn cho ông Big Minh mà ông này tỏ thái độ khó chịu khi được gọi là đại tướng, Big Minh chỉ thích cấp trung tướng do chính Tổng thống Ngô Đình Diệm phong cho – đi một đường mà báo địa gọi là “lả lướt” khi tuyên bố với phóng viên báo New York Herald Tribune: Đại tướng Taylor, đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng hòa đã có những hành vi “khó tưởng tượng” và “không thể chấp nhận”, tức dùng áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa để thay đổi những con người ở các cấp mà hoàn toàn do ông độc đoán chỉ định. Tướng Khánh còn nói: Việt Nam Cộng hòa sẽ mất nếu vị đại sứ Mỹ muốn đóng vai trò viên Thái thú hay Toàn quyền thuở Việt Nam là thuộc Trung Hoa và Pháp. Theo ông Khánh, Mỹ nên “tính việc lớn với những ai có thực lực ở xứ này; ông Taylor không thể buộc dân Nam Việt chịu đựng những nhà lãnh đạo mà họ không muốn”
Lời tuyên bố của tướng Khánh nhắc chúng ta nhớ những lời tương tự của ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu trước khi hai ông bị trả đũa. Nhưng, ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu lại thuộc lớp người khác. Họ có quan điểm riêng và đúng là họ có thực lực. Ông Khánh nhắc chữ “thực lực” để tự khoe mình trong khi ai cũng biết, ông chẳng có cái gì cả.
Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã ra một thông báo báo chí trả lời trực tiếp ông Khánh. Đại sứ Taylor chỉ làm theo nhiệm vụ của một đại sứ. Thông báo rất ngắn gọn mà ai cũng thấy giọng khinh bạc quen thuộc của người Mỹ.
Tướng Nguyễn Khánh “làm mình làm mẩy” nhằm mục đích gì? Ở Việt Nam Cộng hòa, không phải là điều tối mật về sự tranh giành chức vị trong hàng tướng lãnh. Ông Khánh, tất nhiên, muốn khẳng định chiếc ghế của ông.
Nhưng, hình như một số người Mỹ nào đó có quyền lực “bật đèn xanh” cho ông Khánh. Ông Khánh muốn gì thì hết sức rõ còn một số người Mỹ bảo trợ cho ông Khánh muốn gì, cái đó còn trong vòng bí ẩn.

---
(1) Thời gian là tiền bạc
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2008, 11:11:25 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #261 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2008, 11:12:33 pm »

Chương 20

Việc mà Luân và Dung linh cảm sẽ đến đã đến. Jones Stepp và Saroyan rời Sài Gòn theo lệnh của Bộ Quốc phòng Mỹ, với lý do “Thiếu tướng Jones Stepp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Việt Nam Cộng hòa” và đồng thời vinh thăng lên Trung tướng. Cái không bình thường là hạn kỳ rời Sài Gòn của trung tướng – trong vòng ba hôm.

Jones Stepp không tỏ ra bối rối trước quyết định của chính phủ Mỹ, hình như ông đã biết từ lâu. Mời Luân đến nơi làm việc, Jones Stepp tỏ vẻ hài lòng thời gian gian ông có mặt ở Việt Nam. Cuộc trao đổi bên ngoài coi như rất cởi mở nhưng mỗi bên đều thăm dò lẫn nhau.
- Tình hình Nam Việt tất nhiên là xấu, có thể đi đến chỗ tồi tệ nữa. Song, xét về chức trách cá nhân tôi cố gắng hết mức. Tổ chức tình báo quân sự do tôi lãnh đạo đạt nhiều kết quả hơn tôi hy vọng, và nếu tình hình không ổn thì rõ ràng do ngươi ta chưa biết sử dụng các kiến nghị của tôi và do nội bộ chính trị xứ này quá phức tạp... Tôi cảm ơn đại tá về tình cảm dành cho Saroyan và tôi cũng như về những đóng góp của đại tá vào chính sách chung của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Đại tá dự định sẽ làm gì trong tương lai?
- Người cần phải cảm ơn tướng quân là tôi. Tình bạn mà tướng quân và phu nhân không ngừng thể hiện với tôi và nhà tôi khiến tôi xúc động. Trong tương lai, tôi làm gì? Tôi là một quân nhân và sẽ theo sự điều động của cấp trên...
- Rất tiếc tôi không ở Sài Gòn nữa và càng tiếc hơn tôi sẽ nghỉ hưu khi về đến Mỹ, nên không thể cộng tác với đại tá. Dù sao, tôi không bao giờ quên đại tá và khi cần, đại tá và phu nhân báo với chúng tôi một tiếng, lập tức đại tá sẽ được hỗ trợ của chúng tôi, dĩ nhiên, với tư cách riêng. Tại sao đại tá không vận động ra đơn vị, nơi đó phù hợp với thói quen năng nổ của đại tá.
Luân cười:
- Tôi không bao giờ vận động cho mình một cái gì đó.
- Nhưng bạn bè của đại tá rất thích đại tá cầm quân.
Luân nhún vai:
- Chúng ta là quân nhân và quân nhân cần kỷ luật...
Mắt của Jones Stepp ánh lên một thoáng giễu cợt:
- Đúng... tôi đồng ý. Tôi sẽ không cần giới thiệu đại tá với người tiếp nhiệm tôi. Ông James Casey chẳng lại gì với đại tá – ông ta cũng vừa được thăng đại tá. Tôi không được ủy quyền thay mặt cho nước Mỹ nói mấy lời sau đây, song tôi nghĩ bổn phận buộc tôi phải nói: Nước Mỹ tự hào có ở đây những người bạn tốt như đại tá.
Saroyan đến nhà Luân. Cuộc chia tay thật buồn.
- Ai biết được cái gì sẽ xảy ra với anh Luân, Thùy Dung và bé Lý... Tất cả đều kỳ quặc. James Casey thành thạo mọi thứ và tôi rất lo. – Saroyan ngập ngừng, liếc Dung – Gã thuộc hạng dâm đãng... Ngay với tôi, hễ có dịp là hắn sỗ sàng...
- Cái đáng lo không phải từ gã James Casey đâu. – Luân bùi ngùi bảo Saroyan... - Cuộc tranh giành ghế bất kể sống chết từ khi ông Diệm chết, đến đỉnh cao. Người Mỹ, qua thí nghiệm, đang sửa soạn tốp kéo cỗ xe mới và họ quyết định chơi một canh bạc lớn, thậm chí lớn hơn canh bạc Triều Tiên. Vai trò của Jones Stepp chấm hết, dù Saroyan ở lại hay về Mỹ, tình hình vẫn không thay đổi.
- Anh lo lắng điều gì? – Saroyan hỏi.
- Tôi và Dung mến Saroyan. Chúng ta gần như cùng một nhà với nhau. Tôi nhớ lại, có lần Saroyan nói rằng ở lâu trên mảnh đất này, Saroyan hiểu thêm và kính trọng thêm dân tộc chúng tôi. Một dân tộc như thế mà bị vùi dập bằng bom, bằng pháo, bằng hàng trăm nghìn quân ngoại quốc. Saroyan có thấy nỗi bất công, nỗi đau không? Tại sao? Tại sao người ta nhất quyết bắt dân tộc chúng tôi phải sống theo mẫu của người ta? Tôi bất lực ngăn ngừa thảm họa đó...
- Em hiểu. Nhưng, nếu anh cho phép, em có lẽ khuyên: anh bất lực với cả một ý đồ khó mà cưỡng lại nổi, song lẽ nào anh không đủ sức bảo vệ anh, Thùy Dung và bé Lý? Điều đó chẳng khó khăn mấy, thậm chí dễ dàng nữa...
- Saroyan khuyên tôi khom lưng làm ngựa à?
- Không! Không đời nào! Em trọng anh và dù có mặt Thùy Dung ở đây, em cũng không dấu em yêu anh... vì anh không chịu khom lưng. Tại sao anh không xin giải ngũ và sống ở nước ngoài?
- Saroyan! Em hiểu cho anh, anh ghét thói khom lưng ngang thói đào ngũ...
- Anh đâu có đào ngũ? Anh đã phục vụ hết mình và anh có quyền nghỉ ngơi...
Dung nãy giờ lặng lẽ theo dõi cuộc đối thoại, chợt lên tiếng:
- Saroyan, mỗi người có một lý do riêng. Cám ơn Saroyan quan tâm đến chúng tôi. Nhưng, Saroyan yên tâm. Chúng ta biết cư xử thế nào cho phù hợp...
Bữa cơm tiễn biệt không có lấy một tiếng cười.
- Anh đã từng cứu mạng sống em, suốt đời em không quên... Em nghĩ cách trở lại Sài Gòn... - Saroyan nói.
Luân hốt hoảng:
- Chớ! Saroyan đừng ly dị Jones. Nguy hiểm lắm.
- Và tai tiếng nữa – Dung thêm vào.
- Nguy hiểm? Tai tiếng? Em đâu cần. Em cần cái khác chỉ có anh, Thùy Dung mới giúp em đủ can đảm mà sống. Tại sao em không thể sống có ích hơn?
- Bất kể như thế nào, tôi van Saroyan đừng trở lại đây... – Luân nói thiểu não.
- Đó là quyền của em... Thôi, ta từ biệt. Chúc may mắn.
Saroyan vào phòng, hôn bé Lý, trở ra hôn Dung thật lâu rồi hôn Luân – nước mắt đầm đìa.
Vợ chồng Saroyan lên máy bay được hai hôm thì Luân đựoc công lệnh: bổ nhiệm là tùy viên báo chí của tòa đại sư Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ.
Nhận công lệnh, Luân gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu; vị quốc trưởng ngớ ra: Tại sao điều động người phát ngôn của Quốc trưởng mà không tham khảo Quốc trưởng lấy một tiếng?
Luân thấy không cần trao đổi với Phan Khắc Sửu – ông ta vẫn có thể nhận một công lệnh tương tự!
- Tổng trưởng ngoại giao Phạm Đăng Lâm ký công lệnh à? – Sửu hỏi.
Luân biết Phạm Đăng Lâm chỉ là cái máy ký, nơi quyết định là ở chỗ khác.
- Chắc họ thấy tôi nghe lời đại tá trong một loạt vụ hủy bỏ án tử hình, thả sinh viên học sinh bị bắt nên muốn đẩy đại tá đi xa. Thôi, đại tá cứ thi hành, tôi sẽ bàn lại với ông Hương...
Hẳn là Phan Khắc Sửu chẳng bao giờ bàn lại với ông Huong. Trong đầu Luân, một kế hoạch hành động hiện rõ dần.
Dung không đi theo Luân. Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Trần Thanh Bền dứt khoát bác bỏ đơn xin nghỉ việc của Thùy Dung:
- Bà chưa thể nghỉ, dù nghỉ có thời hạn... Bao giờ tôi thôi nhiệm vụ Tổng giám đốc, lúc đó sẽ tùy bà...

Luân chào tướng Dương Văn Minh tại nhà riêng.
- Thưa đại tướng...
Luân chưa nói hết câu, Big Minh đã ngăn anh:
- Đừng gọi tôi là đại tướng... Tôi không nhận cấp bậc đó, đại tá hiểu từ lâu...
- Thưa trung tướng, – Luân sửa cách xưng hô – Tôi trình với trung tướng tôi được lệnh sang Mỹ, làm tùy viên báo chí đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa...
Tướng Minh không tỏ một chút ngạc nhiên:
- Vậy đó! Tướng Khiêm đi, bây giờ anh. Và, sắp tới, tôi cũng đi, lần này giống anh, đi luôn!
- Làm sao đi luôn được, thưa trung tướng?
- Ờ... Nhưng, họ nắm quyền...
- Ta đành chịu mãi số phận cá nằm trên thớt hay sao?
Tướng Minh nhìn Luân mệt mỏi:
- Không chịu cũng không được! Ngay mấy bạn của tôi nay chỉ đóng vai trò hụ hợ... Cỡ ông Đôn mà trợ lý cho ông Nguyễn Khánh thật tức cười... Anh có biết ông Hinh sang Pháp làm chức gì không?
Luân không theo dõi việc này nên lắc đầu.
- Nguyễn Văn Hinh, bạn của ông Đôn, hàm tướng 4 sao Pháp, tư lệnh không quân Pháp kiêm Tổng tham mưu phó!
Trong cách nói của tướng Big Minh, Luân tìm thấy nhiều ẩn ý: Người Pháp biết trọng dụng nhân tài hơn người Mỹ, loại tướng lĩnh do Pháp đào tạo giỏi hơn loại tướng lĩnh do Mỹ đào tạo...
Luân thở dài. Anh mong chờ một Dương Văn Minh khác.
- Thưa trung tướng, nghe tin ông Dưong Văn Nhựt đang cầm quân...
Tướng Minh không phản ứng gì cả, nói rất bình thản:
- Gia đình tôi chia làm hai xu hướng. Chú Nhựt theo Việt Minh từ ngày đầu. Tôi không giống chú Nhựt... Đó là chuyện mấy chục năm qua...
- Còn bây giờ? – Luân hỏi, hơi lộ liễu.
- Bây giờ, có lẽ chú Nhựt đúng... Việt Minh, Việt Cộng có cái gì đó như lý tưởng. Còn tôi, anh nhiều bạn bè, chúng ta có cái gì?
- Nếu người Mỹ mời trung tướng ra làm Quốc trưởng, trung tướng có chấp nhận không?
Tướng Minh cười, cái cười vừa hộc hạc vừa chua chát:
- Lúc này, Mỹ không nghĩ đến tôi đâu. Nếu họ nghĩ đến tức là tách tôi khỏi Nam Việt. Họ đang thí nghiệm một lý thuyết và tôi phản đối. Tôi đã gặp tướng Taylor, khuyên ông ta thận trọng. Chết hàng triệu người không phải chuyện chơi. Mỗi ngày nghe tin chiến sự gia tăng tôi buồn lắm. Taylor hỏi tôi chịu ném bom miền Bắc không, tôi lắc đầu: ném bom ở đâu cũng không được.
- Nhưng, theo tôi biêt, ông Trần Văn Hương đồng ý...
- Ồ! Ông Hương là thầy dạy tôi, nhưng ông tìm lối đi khác tôi, ông muốn tiêu diệt Cộng sản, cả Cộng sản miền Bắc. Ông thích làm lãnh tụ, nhưng...
- Xin nghe trung tướng...
- Nhưng ngày cái ghế thủ tướng của ông cũng chẳng vững vàng gì. Ông hạ thấp mình trước Nguyễn Khánh...
- Trung tướng có nhiều bè bạn, anh em, học trò, cấp dưới đang nắm quân... - Luân gợi ý chẳng lấy gì làm khéo.
- Anh, đại tá Nguyễn Thành Luân, cũng có nhiều bè bạn, anh em, học trò, cấp dưới đang nắm quân. Anh làm được cái gì? Trừ khi anh là Tổng thống Mỹ hoặc đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tôi không ưa lối làm lơ lửng của anh Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát.
- Thưa trung tướng, tôi biết trung tướng rất quả quyết trong vụ 1-11-1963.
- Cám ơn anh, nhưng anh phải trừ cho tôi tội giết anh em ông Diệm...
- Trong tương lai, trung tướng sẽ làm gì?
- Sẽ gặp anh ở một nước nào đó, ngoài Việt Nam Cộng hòa!
Tướng Dương Văn Minh rõ ràng thối chí, bi phẫn. Luân từ giã “thần tượng 1-11-1963” và đến gặp Nguyễn Khánh.

- Tôi biết quyết định cử anh là tùy viên báo chí tại Mỹ. - Nguyễn Khánh nói liền – Quyết định đó do áp lực của tướng Thiệu và Kỳ. Anh chịu khó một thời gian, rồi đâu sẽ vô đó...
- Liệu “đâu sẽ vô đó” không? – Luân cười mỉm.
- Ờ! Thì nói vậy... Biết ngày mai ra sao? Tôi đang được thổi lên mây đây. Nhưng, có khi tôi gặp anh ở Mỹ... Huê Kỳ mà! Họ làm chính trị y như trên phim, biến các cấp chức y như Garry Cooper, cần giật gân thì rút hai khẩu Colt 45 bắn lia lịa...
- Nhưng đại tướng...
- Trời đất! Đại tướng ăn thua mẹ gì, Chủ tịch cũng chẳng ăn thua mẹ gì. Tụi nó điếm đàng lắm. Tôi hơi chậm hiểu...
- “Tụi nó” là ai?
- Trời đất! Anh còn hỏi đố tôi. Thằng Thiệu, thằng Kỳ, chớ ai!
- Nhưng, hai người đó khó hợp tác với nhau lắm...
- Đúng, rồi hai đứa nó sẽ lôi ông bà ông vãi ra chửi nhau, trong khi trước mặt, hai đưa phải ngoi lên cái đã.
- Còn tướng Nguyễn Chánh Thi nữa?
- Ối! Thằng bá láp. Đại xạo. Nó không nằm trong thực đơn của Mỹ đâu.
- Đại tướng căn dặn gì tôi trước khi tôi sang Mỹ?
- Căn dặn anh là kiếm cho tôi một tiệm ăn nào đó để tôi sang có chỗ mà sống!
- Đại tướng bi quan quá!
- Kép hát nào cũng chỉ một thời ăn khách. Tôi tính toán rồi, bọn Mẽo xài tôi bấy nhiêu thôi...
- Và đại tướng cam chịu số phận?
- Không cam chịu thì làm cái gì? – Anh có một cái đầu để Mẽo suy tính cách đối phó với anh. Tôi thua anh xa quá!
Luân không nói nhiều với Dung. Hai vợ chồng biết rõ bước ngoặc trong đời họ bắt đầu.
- Cố liên lạc với A.07, báo cáo... - Luân dặn.
- Anh nên tin cho anh Nguyễn Thành Động, Lưu Khánh Nghĩa, cả anh Lâm biết anh ra đi...
- Báo chí sẽ công bố. Anh đề nghị báo công bố... Anh lo cho em. Có gì bất trắc, nên vào khu ngay...
- Anh yên tâm. Em đủ sức đương đầu với mọi bất trắc. Nhất là em biết chúng ta xa nhau chẳng bao lâu.
Luân ghì vợ vào lòng, hôn thắm thiết. Đó là đêm cuối cùng của Luân và Dung trên chiếc giường quen thuộc, vương hơi của cả hai gần 10 năm...

*
Thông cáo của Bộ Ngoại giao:
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa vừa cử đại tá Nguyễn Thành Luân làm tùy viên báo chí tòa đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.

*
Tin các báo:
Sáng hôm nay, ngày 1-1-1965, đại tá Nguyễn Thành Luân lên đường sang châu Âu và sẽ từ châu Âu sang Mỹ nhận nhiệm vụ mới: tùy viên báo chí đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa.
Ra tiễn đại tá có bà đại tá và con, phó đại sứ Mỹ ở Sài Gòn William Porter, đại diện đại tướng Nguyễn Khánh, đại diện Tổng trưởng Ngoại giao, đại diện Bộ Quốc phòng và nhiều thân hữu của đại tá, các nhà báo trong ngoài nước. Đại tá Nguyễn Thành Luân đã trả lời phỏng vấn ngắn của nữ ký giả Hélen Fanfani tờ Financial Afairs...

*
Luân tạm biệt Sài Gòn với bao nhiêu sự cố dồn dập. Trận Bình Giã lại nổ ra, với mức độ và quy mô lớn hơn lần trước. Quân đội Sài Gòn rơi vào cái bẫy giăng sẵn, cuộc truy kích của quân đội Sài Gòn thực tế là sai lầm về chiến thuật: ngỡ rằng quân Giải phóng đã rút xa, nên tung hằng mấy trung đoàn cốt giương oai và cũng cốt chứng minh với người Mỹ khả năng đối phó của lực lượng tổng trù bị, can thiệp nhanh ở những nơi sôi bỏng nhất, đạt hiệu quả cao nhất cùng khả năng chỉ huy và tham mưu vững vàng của sĩ quan trong các chiến dịch mang tính chất binh chủng hợp thành. Những tham vọng ấy đều tiêu tan giống như các đơn vị bị băm nát có đơn vị mất luôn phiên hiệu. Đài Giải phóng và đài Hà Nội đánh giá trận Bình Giã là bước ngoặc trong loạt chiến tranh được mệnh danh “không tuyên chiến” hoặc “chiến tranh đặc biệt” – Mỹ cung cấp khí tài và cố vấn là chủ yếu. Bình Giã tuyên án tử hình chiến lược mà Taylor là cha đẻ: một kiểu tiết kiệm nhân mạng Mỹ.
Taylor sẽ phải rời Sài Gòn thôi – Luân nghĩ. Ngũ Giác Đài dứt khoát xem xét phương án thứ hai – đổ bộ thực binh Mỹ lên Nam Việt với một số lượng nhất định, chắc chắn đợt đầu phô trương, không thể ít hơn một trăm ngàn. Chính Taylor đã thú nhận: Mỹ phải trả đũa – tức Mỹ phải tự mình gánh vác trách nhiệm ở Nam Việt. Dọn đường cho phương án thứ hai. Mỹ gợi ý các nước Đông Nam Á chi viện cho Sài Gòn. Philippines đáp ứng sớm nhất nhưng chỉ bằng một đội y tế gồm 34 người. Đại Hàn hưởng ứng tiếp theo: Gởi 2.000 quân trong sư đoàn Mãnh Hổ. Dù sao Mỹ cũng gặp khó khăn hơn lúc chiến tranh Triều Tiên: lúc ấy, lợi dụng được lá cờ Liên hiệp quốc, còn bây giờ thì không. Đồng minh Mỹ ở Tây Âu phản đối sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam. De Gaulle không phải là loại dễ khuất phục. Tuy nhiên, Mỹ vẫn sửa soạn cho phương án đã chọn. Các vụ ném bom bắc vĩ tuyến 17 nhặt hơn, cho phép Sài Gòn bắn phá Vĩnh Linh. Chính Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp lái máy bay Skyraider cùng cả một phi đội làm việc đó. Mỹ đặt ở Đà Nẵng giàn hỏa tiễn đất đối đất Hawks. Và, cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ L.B. Johnson vừa nhậm chức, William Bundy, bay sang Sài Gòn.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2008, 11:19:48 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #262 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2008, 11:13:17 pm »

Muốn triển khai quân, Mỹ cần hai điều kiện: quân đội Sài Gòn phải đảm bảo đương nổi vai trò hỗ trợ và bình định để quân Mỹ đứng trên tuyến 1, tình hình chính trị Sài Gòn phải ổn.

Điều kiện thứ nhất không đơn giản. Các tướng Sài Gòn chẳng ai chịu ai và hội đồng tướng lãnh cứ họp liên miên, khi ở thủ đô, khi ở Vũng Tàu, khi ở Đà Lạt, khi ở Nha Trang. Kết quả đầu tiên là tướng tư lệnh vùng IV Nguyễn Văn Thiệu trở thành tướng 3 sao – trung tướng. Đại tá đầu 1963, trung tướng đầu 1965, Thiệu leo lên chiếc thang quân hàm với tốc độ phi mã.

Điều kiện thứ hai còn gay cấn hơn gấp bội. Thượng hội đồng quốc gia – một kiểu nghị viện – bị giới quân sự giải tán, có người bị bắt, chưa biết xoay xở làm sao để chính phủ có được cái áo hợp pháp thì Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương hục hặc. Nguyễn Khánh đứng ra hòa giải: Hương phải nhận Sửu và Sửu phải nhận Hương trên chức danh do thằng cha tào lao nào đó đặt ra. Rồi, đến lượt Sửu mời hết các phe – cả dân lẫn quân sự - đến phủ Quốc trưởng để “tìm tiếng nói chung”. Trong lúc đó, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đột nhiên nhảy ra tiếp xúc giới Phật giáo gọi là tham khảo thành lập một hội đồng quân dân. Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh vùng I không chịu lép vế: gã họp báo, tuyên bố lia lịa về đủ thứ chuyện, kể luốn chuyện gã dốt trân. Nguyễn Khánh điên tiết, bảo Trần Văn Hương tuyên bố danh sách chính phủ cải tổ: Hương vẫn thủ tướng, Nguyễn Lưu Viên đệ nhất phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng nội vụ, trung tướng Thiệu đệ nhị phó thủ tướng, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đệ tam phó thủ tướng, trung tướng Trần Văn Minh – biệt danh là Minh nhỏ - tổng trưởng quân lực, Phạm Đăng Lâm tổng trưởng ngoại giao, Lữ Văn Vĩ tổng trưởng tư pháp, thiếu tướng Linh Quang Viên tổng trưởng tâm lý chiến, Nguyễn Duy Xuân tổng trưởng kinh tế, Huỳnh Văn Đao tổng trưởng tài chính, Ngô Ngọc Đối tổng trưởng cải tiến nông thôn, Nguyễn Văn Trường tổng trưởng văn hóa giáo dục, Trần Quang Diệu tổng trưởng y tế, Đàm Sĩ Hiến tổng trưởng xã hội, Nguyễn Hữu Hùng tổng trưởng lao động, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tổng trưởng thanh niên và thể thao, Phạm Văn Hoàn tổng trưởng Phủ Thủ tướng.

Chính phủ dự định trình diện ngày 19-1-1965, phải đình hoãn vì bốn tướng không đến họp, mãi ngày 21 mới ra mắt được. Dư luận đón chính phủ Trần Văn Hương bằng các cuộc biểu tình mà xu hướng chống Mỹ mỗi ngày mỗi rõ: Phòng thông tin Mỹ ở nhiều nơi bị người biểu tình đốt phá, quy mô biểu tình khá lớn, xô xát với cảnh sát cũng dự dội. Đặc biệt cuộc biểu tình trưa 22-1, tức một ngày sau khi nội các Trần Văn Hương ra mắt, hàng nghìn người đứng trước sứ quán Mỹ đường Hàm Nghi, với các biểu ngữ: Hãy để cho dân Việt tự quyết định công việc của nước Việt. Đám biểu tình đập phá thư viện Mỹ. Trần Văn Hương bẽ mặt, công khi xin lỗi đại sứ Taylor và chửi rủa dân chúng thậm tệ. Trong một bài phát thanh, Hương gọi phần tử biểu tình là “lũ lưu manh cạo trọc đầu để làm trò khỉ”. Hương điều quân dù canh gác Viện Hóa đạo, lính dù có thái độ cực kỳ khả ố đối với nữ sinh Phật tử. Ở Huế, Phòng thông tin Mỹ bị đốt cháy, phó lãnh sự Mỹ can thiệp, bị dân biểu tình ném đá.
Taylor đành phải họp với Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương và Nguyễn Khánh. Cuộc họp chẳng thu kết quả. Sửu đòi quyền Quốc trưởng thật sự, Hương đòi chức thủ tướng không lệ thuộc vào Sửu, Khánh đòi hai người phải tôn trọng quân đội, Taylor đòi mọi lộn xộn phải được thu xếp thật nhanh.
Hàng nghìn tăng ni khắp Nam Việt tuyệt thực. Học sinh, sinh viên tiếp tục xuống đường, ở Sài Gòn và hầu như không sót tỉnh nào, từ Quảng Trị trở vào. Trường Bồ Đề trở thành một thứ bản doanh của thanh niên. Lại tự thiêu: nữ sinh Đào Thị Yến Phi 17 tuổi; tự thiêu giữa thành phố Nha Trang.
Hội đồng quân lực quyết định: giao cho tướng Nguyễn Khánh giải quyết cuộc khủng hoảng nhưng theo hướng của tướng Kỳ: triệu tập hội đồng quân dân.

Lần này, Sửu thắng Hương: Hương nhường ghế cho tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh. Tiến sĩ Oánh chỉ lót đường thôi. Ngày 16-12-1965, Hội đồng quân lực tuyên cáo:

“Như đã nhiều lần trình với quốc dân đồng bào, các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa chỉ mong muốn ở Nam Việt thiết lập được một thể chế dân chủ, thế nhưng thời gian qua chứng tỏ dân tình ly tán, chính phủ không điều khiển được công việc quốc gia, không đủ sức đoàn kết các đồng bào, làm cho uy tín của Việt Nam Cộng hòa suy giảm, an ninh rối loạn, tạo cơ hội tốt cho Việt Cộng đánh mạnh. Một lần nữa, Hội đồng quân lực buộc phải hành động cứu nước. Hội đồng tuyển nhiệm quốc trưởng, chỉ định thủ tướng, thành lập hội đồng quân dân, triệu tập quốc dân đại hội. Sau khi xong nhiệm vụ lịch sử, Hội đồng trở lại vị trí của mình. Hội đồng quân lực tuyên bố chính sách quốc gia như sau: nỗ lực chiến đấu để xây dựng tự do và thanh bình cho xứ sở, liên kết thân thiện với các nước tự do, chống xâm lược Cộng sản, xây dựng dân chủ, cải tiến xã hội”.

Đại tướng Nguyễn Khánh, Tổng tư lệnh quân đội, theo nội dung tuyên cáo của Hội đồng quân lực, ký quyết định tuyển nhiệm kỹ sư nông học Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và bổ nhiệm Phan Huy Quát làm thủ tướng.
Phan Huy Quát nhanh nhẩu nêu danh sách nội các ngay trong ngày: Quát thủ tướng, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quân lực, luật sư Trần Văn Đỗ phó thủ tướng kiêm tổng trưởng ngoại giao, luật sư Trần Văn Tuyên phó thủ tướng phụ trách kế hoạch, bác sĩ Lê Văn Hoạch quốc vụ khanh, bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ quốc vụ khanh kiêm tổng trưởng giáo dục, thiếu tướng Linh Quang Viên tổng trưởng thông tin tâm lý chiến, Trần Văn Ân, tổng trưởng chiêu hồi, giáo sư Nguyễn Văn Vĩnh tổng trưởng kinh tế, giáo sư Trần Văn Kiện tổng trưởng tài chính, kỹ sư Nguyễn Ngọc Tố tổng trưởng canh nông, kỹ sư Ngô Trọng Anh tổng trưởng giao thông công chánh, giáo sư Trần Quang Thuận tổng trưởng xã hội, bác sĩ Nguyễn Tăng Nguyên tổng trưởng y tế, Nguyễn Văn Hoàng tổng trưởng lao động, Y sĩ trung tá Nguyễn Tấn Hồng tổng trưởng thanh niên, Bùi Diêm bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Nguyễn Văn Tương thứ trưởng nội vụ, kỹ sư Bùi Hữu Tuấn thứ trưởng công chánh.
Danh sách trên cho thấy tham vọng của Phan Huy Quát: lôi kéo đủ phe nhóm, từ Phật giáo, Thiên Chúa, Cần Lao, đến Bình Xuyên, Cao Đài...
Hội đồng quân lực cũng ra quyết định thành lập Hội đồng quốc gia lập pháp gồm 20 người thuộc nhiều xu hướng: Luật sư Nguyễn Huy Chiểu, bác sĩ Phạm Hữu Chương, trung tướng Phạm Xuân Chiểu, Đề đốc Chung Tấn Cang, thiếu tá Đỗ Đăng Công, giáo sư Cao Hữu Định, giáo sư Nguyễn Lương Hưng, bác sĩ Phạm Văn Hạt, giáo sư Bùi Hữu Tuấn, Trịnh Quốc Khánh, đại tá Đoàn Chí Khoa, giáo sư Phạm An Khoang, Nguyễn Long, đại tá Bùi Văn Mạnh, Hùynh Văn Nhiệm, thiếu tá Nguyễn Phúc Quế, luật sư Nguyễn Lâm Sanh, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Trân, Trần Quang Vinh. Phạm Xuân Chiểu được bầu làm chủ tịch hội đồng.

Đài phát thanh BBC dành cho đại tá Nguyễn Thành Luân một buổi phỏng vấn đặc biệt, nhân đại tá trên đường sang Hoa Kỳ nhận nhiệm vụ tùy viên báo chí đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa, ghé thăm Anh quốc: “Như đa số thính giả bản đài biết, đại tá Nguyễn Thành Luân là một nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam Cộng hòa, ông cùng cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu thảo ra nền tảng lý thuyết Cần lao Nhân vị cho chế độ Ngô Đình Diệm và nền tảng đó tỏ ra hữu hiệu ngót 10 năm trên một đất nước mà Cộng sản giữ ưu thế trên nhiều phương diện. Sau đây xin mời quý vị thính giả nghe cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt. Đại tá nhã nhặn dành cho thính giả tiếng Anh buổi phỏng vấn mà bản đài sẽ phát liền khi chấm dứt chương trình Việt Ngữ.

BBC: Thưa đại tá, xin đại tá cho thính giả của đài BBC một cái nhìn tổng quát tình hình hiện nay ở Việt Nam Cộng hòa.

ĐẠI TÁ NGUYỄN THÀNH LUÂN: Tôi cám ơn đài BBC đã tổ chức buổi phỏng vấn này, tạo cơ hội cho tôi trình bày vài suy nghĩ về vị thế hiện tại của Việt Nam Cộng hòa. Nhìn tổng quát, tình hình không khả quan so với trước chính biến 1-11-1963, cách nay hơn một năm. Lúc bấy giờ, trên cả ba bình diện Việt Nam Cộng hòa đều khá ổn định. Về bình diện chính trị, đất nước có một quốc hội, một hiến pháp, một Tổng thống và một nội các khả thi các chính sách, tuy xảy ra vụ Phật giáo song đang trên đà giàn xếp ổn thỏa, dan tâm xao xuyến mức nào đó nhưng vẫn chưa sứt mẻ niềm tin ở chính nghĩa quốc gia và khả năng phục hồi an ninh. Việt Nam Cộng hòa giữ được uy tín quốc tế và mối quan hệ thân thiết với thế giới tự do, không nảy sinh tranh chấp gì quan trọng với các quốc gia theo xu hương Bangdun trong vùng Nam Á và Thái Bình Dương. Việt Nam Cộng hòa là đồng minh trung thành của Hoa Kỳ. Về bình diện kinh tế và xã hội, các mặt nông, kỹ nghệ, kinh tế, thương mại, các mặt học đường và ngôn luận, tất cả đều phát triển bình thường, có tăng hàng năm, số tiền viện trợ của Hoa Kỳ và các nước bạn được dùng đúng mục tiêu, không có tệ nạn tham nhũng. Về bình diện quân sự, Việt Cộng quấy phá từng nhóm nhỏ an ninh lãnh thổ nói chúng không đáng lo ngại, quân lực Việt Nam Cộng hòa đảm đương không quá vất vả các quân khu, sĩ quan không tham chính, kỷ luật được tôn trọng.

BBC: Thưa đại tá theo cách trình bày của đại tá chế độ của ông Diệm là lý tưởng. Nhưng tại sao dân chúng Việt Nam lại ủng hộ chính biến 1-11-1963?

ĐẠI TÁ LUÂN: Tôi không bao giờ cho rằng chế độ ông Diệm là lý tưởng. Nó có một số khuyết tật, tỷ như nó tự giới thiệu gần như độc quyền của những người Thiên Chúa giao di cư, như thuộc địa phương của miền Trung, quê quán của ông Diệm và về sau nó mang dáng dấp cung đình. Tuy nhiên, tôi so sánh thời kỳ ông Diệm với hiện nay là ai cũng thấy sự hoán đổi đáng phàn nàn: từ trị ra loạn, từ hiến chế ra quân phiệt, từ vững vàng ra suy yếu...

BBC: Nghĩa là đại tá kết án chính biến 1-11-1963 và các vị chủ xướng chính biến đó?

ĐẠI TÁ LUÂN: Về một khía cạnh nào, chính biến có nhu cầu khách quan của nó. Một số vị chủ xướng cuộc lật đổ ông Diệm, theo tôi nghĩ, vì lòng yêu dân tộc. Nhưng, sát hại anh em ông Diệm dứt khoát là sai lầm. Sai lầm nối tiếp là không kịp thời định hướng chính trị, thiếu những người sáng suốt cai trị đất nước, quá mềm yếu trước nguy cơ kiêu binh. Tôi cho rằng người Mỹ hối hận đã hại anh em ông Diệm và xóa mà không có cái thay thế.

BBC: Thưa đại tá, có phải đại tá cho rằng mọi sự nay đều quá muộn?

ĐẠI TÁ LUÂN: Tôi không nghĩ một cách tuyệt đối như vậy. Song, nếu người Mỹ từ trước đến nay đều lo lắng sự dính liệu của bản thân mình quá sâu vào một đất nước xa lạ và luôn muốn tránh điều ấy thì tình thế chưa quá muộn...

BBC: Người Mỹ, Tổng thống Johnson chắc chắn ngại một Triều Tiên thứ hai?

ĐẠI TÁ LUÂN: Nam Việt không phải là một Triều Tiên theo nghĩa sao chép sự kiện cách chúng ta 15 năm. Nhưng, Nam Việt có thể dành cho nước Mỹ một số phận bi đát hơn Triều Tiên dù ở đây rất ít khả năng Mỹ chạm trán với Trung Cộng hay Nga Sô mà chỉ chạm trán với Cộng sản Việt Nam thôi.

BBC: Xin đại tá nói rõ hơn ý vửa rồi.

ĐẠI TÁ LUÂN: Không hoặc ít khả năng chạm trán trực diện với Trung Cộng và Nga Sô, tình cảnh Mỹ không vì vậy mà ít phức tạp hơn. Chạm trán với cả làn sóng thế giới kết án chiến tranh xâm lược, với sự thiếu nồng nhiệt của một số đồng minh lớn như Pháp, Anh, với thái độ bất bình của Ấn Độ, Indonésia và sau cùng, với chính các tầng lớp người Mỹ...

BBC: Theo đại tá, đâu là lối thoát?

ĐẠI TÁ LUÂN: Phải đặt vấn đề Nam Việt, vấn đề Nam Việt và Đông Dương trên mối cân bằng chính trị. Đây là bài toán chính trị cần đáp số chính trị. Theo đuôi một phương pháp khác giải bài toán sẽ không bao giờ tìm được chìa khóa và hậu quả thì vô cùng nặng nề, cho cả Việt Nam lẫn Mỹ.

BBC: Xin được hỏi câu cuối cùng: Đại tá dự định làm gì ở Hoa Kỳ?

ĐẠI TÁ LUÂN: Tôi thành thực vui mừng trở lại Mỹ, gặp lại bạn bè. Trong nhiệm vụ tùy viên báo chí, tôi cố làm cho dư luận hiểu thực chấp vấn đề Nam Việt.

BBC: Thế thì đại tá sẽ làm ngược lại ý kiến của chính phủ Việt Nam Cộng hòa!

ĐẠI TÁ LUÂN: Miễn tôi không làm ngược lợi ích lâu dài và cơ bản của Việt Nam Cộng hòa và Mỹ.

BBC: Xin cảm ơn đại tá.

*
Điện khẩn: Gửi đại tá Nguyễn Thành Luân.
Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Washington.
Thủ tướng chính phủ không hài lòng về những câu trả lời của đại tá với đài BBC. Thủ tướng yêu cầu từ nay đại tá không được lên tiếng nếu không xin ý kiến đại sứ.
Văn phòng phủ Thủ tướng – Sài Gòn.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2008, 11:23:26 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #263 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2008, 11:13:28 pm »

SAI LẦM VÀ SAI LẦM
(Bài của cựu đại sứ ở Nam Việt F. Rheinardt trên báo New Yorker Magazine).

Một người bạn của tôi – và đương nhiên cũng là một người bạn của nước Mỹ- vừa đến thủ đô Washinton trong một nhiệm vụ hết sức khiêm tốn: tùy viên báo chí tòa đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ. Vợ tôi và tôi ra sân bay đón ông cùng với vị đại diện sứ quán Việt Nam Cộng hòa. Buổi đón tiếp, trong bụi tuyết lả tả sẽ hết sức lạnh lẽo nếu không có mặt tướng hồi hưu Jones Stepp và phu nhân, cùng một số nhà báo, truyền thanh, truyền hình đông đảo khác thường. Vị đại diện lên máy bay và chúng tôi biết ông trao cho đại tá Nguyễn Thành Luân, người bạn mà tôi nói, bức điện khẩn của Sài Gòn yêu cầu không được tuyên bố điều gì với báo chí Mỹ. Tất nhiên, như tôi biết về ông trong những ngày đầu khó khăn của chế độ Sài Gòn, ông vẫn là ông. Ông tươi cười bắt tay và ôm hôn chúng tôi, tươi cười với các ống kính. Ông đã thoải mái trả lời nửa giờ liền các câu hỏi của báo chí và đài truyền hình như ông đã làm ở London. Vị đại diện sứ quán mặt tái, còn ông, ông hẹn các nhà báo lần khác, nhiều thì giờ hơn, sẵn sàng thỏa mãn mọi tò mò của công luận Mỹ. Tuy nhiên, 30 phút cũng đủ cho chính giới Mỹ hiểu được hai điều trọng yếu: một là, nếu Tổng thống Johnson tiếp tục đường lối hiện nay thì Nam Việt là con đường hầm như bộ tiêu hóa cực kỳ tốt nuốt hàng nghìn tỉ dollar và hàng trăm nghìn binh sĩ Mỹ, nuốt luôn uy tín của một đại cường quốc đang lãnh đạo thế giới tự do; hai là ông đầy bản lĩnh. Điều trọng yếu thứ nhất, với tôi, chưa phải đã thật hoàn hảo, tôi còn nhiều điểm để tranh luận và tôi chờ đợi dịp thuận lợi, chờ bài báo mà ông hứa sẽ viết ngay cho tờ Washington Post. Điều trọng yếu thứ hai, cũng với tôi, thì không còn gì để bàn cãi. Nguyễn Thành Luân, một sĩ quan cấp cao của Việt Minh kiến thức phong phú, hợp tác với Ngô Đình Diệm khi ông này lên cầm quyền ở Sài Gòn. Là sĩ quan (ông bổ túc ở học viện Fort Bragg), Nguyễn Thành Luân đúng hơn là nhà tư tưởng chiến lược, tổ chức và chỉ đạo. Tôi từng trao đổi với ông và tìm thấy ở ông một tiềm năng trí tuệ đặc sắc. Tướng Collins cũng đồng ý với tướng Taylor nhận định về ông không khác. Lúc còn là phó tổng thống, ông L.B. Johnson từng nói với tôi: Đó là người cần cho nước Mỹ.

Thế nhưng, chính ông Cabot Lodge đã làm hỏng tất cả. Hạ bệ ông Diệm chỉ là một khía cạnh, khía cạnh kia quan trọng hơn, là hình thành đội ngũ kế tiếp. Chúng ta lún sâu vào sai lầm. Tập đoàn đang thống trị Nam Việt bát nháo chưa từng thấy và bây giờ chính nước Mỹ bị họ xỏ mũi dẫn đi chẳng biết về đâu và đến đâu. Lẽ nào nước Mỹ phải thỏa mãn thói đàng điếm, thói bốc đồng của các tướng và chính khách Nam Việt tối dạ nhất về chính trị? Và, một con người, cha đẻ mọi chủ thuyết hoàn hảo, chống Cộng khôn ngoan, con người đó đột nhiên bị đuổi ra khỏi Tổ quốc mình và nhận một chân thơ lại tại một sứ quán. Cách làm của tướng Nguyễn Khánh, chắc chắn được ông Colby ngầm ủng hộ, nhằm thải loại tất cả những ai nhiệt thành tiết kiệm máy cho Mỹ và thuế cho công dân Mỹ. Tổng thống Johnson, ngoại trưởng Dean Rusk cần hiểu: sai lầm như thế là đủ, quá đủ. Tướng Westmoreland đang xin quân. Tôi, với tư cách nguyên đại sứ Mỹ ở Nam Việt xin cái khác: Hãy biết dùng người Việt, họ đủ tài năng và kinh nghiệm hơn chúng ta. Ngăn chặn Cộng sản ở Nam Việt không thể bằng các sư đoàn Mỹ, không thể bằng hạm đội và không quân Mỹ.

Công chúng Mỹ cần biết: ở Việt Nam không chỉ có Nguyễn Khánh lố bịch mà còn có những người nghiêm túc như đại tá Nguyễn Thành Luân.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2008, 11:25:34 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #264 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2008, 11:27:19 pm »

Chương Kết


Tết Nguyên Đán Ất Tỵ là một cái Tết không vui của mẹ con Thùy Dung. Nhà vắng vẻ, tuy vẫn có đủ mọi thứ của ngày Tết, vẫn nhận được quà và thiệp chẳng kém hơn bất kỳ năm nào. Luân không ở nhà, lý dó đó chưa thật sự quan trọng, quan trọng là tương lai của Luân.

Luân đi rồi, Dung bình tĩnh làm một cuộc tính sổ 10 năm. Sơ hở không ít trong từng ấy thời gian họat động song cô tin chắc rằng không có sơ hở nào đến độ bộc lộ chân tướng của Luân cũng như cô. Xét cho cùng, kẻ đáng gờm nhất là John Hing, qua đánh giá của cô chưa vượt qua những dấu hỏi nghi ngờ, phân vân thông thường trước một nhân vật kiểu Luân.
Thế thì, điều nguy hiểm chỉ có thể từ hai hướng: một là chính sách Mỹ thay đổi sâu xa, thay đổi ở tầm vóc chiến lược và Luân không phải là con bài đáp ứng cho chiến lược Mỹ tại Nam Việt, Mỹ cần một tay sai ngoan ngoãn đảm bảo trang trí mặt tiền nhằm giảm nhẹ phản ứng của các nguồn dư luận bản địa và quốc tế khi Mỹ đưa một khối lượng thực binh lớn vào đây, biến cuộc chiến tranh ít nhiều mang ý nghĩa nội chiến thành cuộc chiến tranh Mỹ. Luân bỗng nhiên hóa ra một trở lực Mỹ cần thu xếp; hai là các tay sai Mỹ ganh tị, chúng đều tự thấy bé nhỏ trước Luân và cố loại Luân bằng mọi giá để giữ chân độc quyền chấp hành ý muốn của Mỹ - các tay sai quân phiệt này đều liên quan với các công ty Mỹ, với các phe nhóm “diều hâu” Mỹ, đều phần nào ý thức vai trò cai trị mà 10 năm qua Mỹ đã tập tành cho chúng, chúng đích thị là tầng lớp giàu có và không bao giờ chịu rời quyền lực gắn chặt với của cải, giống bọn độc tài Nam Mỹ, châu Phi, một số nước châu Á...
Thái độ chính trị của Luân có quá cứng không? Hơn ai hết, Dung hiểu chồng mình: nỗi đau khổ dằn vặt anh là viễn cảnh chiến tranh quy mô và hiện đại tàn phá quê hương, không thu hẹp ở miền Nam và anh tự đặt cho mình ngăn ngừa tai họa ấy, tai họa dân tộc. Nhưng, lãnh đạo hơn một lần dặn Luân: trong mọi tình huống, phải giữ đúng thân phận phần tử quốc gia, thậm chí thân Mỹ, để tồn tại trong lòng địch càng lâu càng tốt, leo càng cao càng tốt. Sự can thiệp của Mỹ ở Nam Việt biến thành cuộc chiến tranh xâm lược, theo Dung, đã quá hiển nhiên. Vấn đề là Luân có thể đóng vai trò một gã hỗ trợ cho cuộc chiến tranh xâm lược ấy, cuộc tàn sát đại quy mô không?
Đến tướng Big Minh còn không cam tâm thực hành ý định của Mỹ thì Luân làm sao nhận thân phận tên bù nhìn để mỗi ngày chứng kiến hàng vạn đồng bào mình chết vì bom đạn Mỹ? Luân giữ cá tính riêng: anh phản đối mọi hình thức chiến tranh xâm lược. Trong một bối cảnh nào đó, cá tính của anh phù hợp với mưu toan của Mỹ, nhưng nay thì rõ ràng mưu toan của Mỹ khác xa với quan điểm của Luân từng bảo vệ. Tuy vậy, theo Dung, chiến tranh ở cường độ cao không thể kéo dài. Rồi, Mỹ cũng phải theo các giáo điều của cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn: đánh nhanh; khi không đánh nhanh đươc, một lần nữa, Mỹ sẽ thay đổi chiến lược. Luân có thể ẩn nhẫn chờ thời cơ không? Đáng tiếc, Dung là vợ của Luân, cô giãi bày suy nghĩ chứ không ra lệnh được cho Luân – cô biết, Luân rất tôn trọng kỷ luật.

Phần Dung, cô luôn giữ thân phận một sĩ quan cảnh sát mẫn cán, chưa một lần bị khiển trách về công vụ. Thái độ của Mỹ, của các tướng Nam Việt khiến cô yên lòng – không phải yên lòng cho cô mà cho chồng cô. Ít nhất, người ta chưa quyết xóa bỏ Luân bằng một hình thức nào đó. Dĩ nhiên, cần xin chỉ thị của cấp trên, của anh Sáu Đăng hay của chú Thuận. Dung nghĩ cách trực tiếp báo cáo và xin chỉ thị...
Giữa lúc ấy, M. George Bundy, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ Johnson đến Sài Gòn. Một trong những người mà Bundy đề nghị gặp và làm việc là Dung.
Bundy tiếp Dung tại phòng khách đại sứ quán Mỹ.
- Tôi rất hân hạnh chào bà. – Bundy mở lời rất nhã nhặn – Tôi nghe tin đại tá Nguyễn Thành Luân sang Washington, nhưng chưa được gặp... Bà đã biết nhiệm vụ của tôi trong chuyến khảo sát tại chỗ tình hình Nam Việt, tôi muốn trình với Tổng thống Johnson một hoàn cảnh Nam Việt thật trung thực. Tôi đã làm việc với đại sứ nước chúng tôi, với tư lệnh Westmorland và phó của ông ta, tướng Throckmorton, với quyền thủ tướng chính phủ Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Xuân Oánh, với một số tướng lãnh và với đại tá Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia. Nếu bà vui lòng, thưa bà thiếu ta, tôi xin phép hỏi bà một số khía cạnh mà tôi tin bà rất am tường, khía cạnh dính đến ngành mà bà làm việc.
- Thưa ông cố vấn đặc biệt, tôi rất sẵn lòng, tuy nhiên, tôi xin thưa trước: sự hiểu biết của tôi có giới hạn...
Bundy xua tay:
- Trước khi gặp bà, tôi đã được nghe nói về bà... Ta hãy tiết kiệm thời gian. Theo bà, tình hình an ninh Nam Việt hiện nay như thế nào? Tốt, xấu? Tại sao?
- Câu hỏi của ông hơi rộng. Thưa ông, nước chúng tôi đang ở trong một dạng chiến tranh, tùy cách gọi của mỗi phía, “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh không tuyên chiến” và “chiến tranh chống du kích”... Với thực tế như thế, an ninh cần được hiểu theo nghĩa nào, thưa ông?
Bundy mỉm cười:
- Bà đúng là một sĩ quan cảnh sát... Tôi xin thu hẹp nghĩa an ninh ở các vùng do chính phủ kiểm soát, chủ yếu, ở các thành thị...
- Điều này, có lẽ ông không cần hỏi cũng đã nắm được các diễn biến: chưa lúc nào ở Việt Nam Cộng hòa nhiều cuộc bãi công, bãi khóa, chiếm trường biểu tình và xung đột trên đường phố như lúc này...
- Xin lỗi bà. – Bundy ngắt lời Dung - Từ tháng 5-1963 đến chính biến 1-11, xáo trộn chính trị không kém bây giờ...
- Ông nhận xét không sai. – Dung nhỏ nhẹ - Nhưng, đó chỉ là nhận xét về hình thức, về cái biểu hiện bên ngoài...
- Tôi chưa hiểu ý bà...
- Trước kia, xung đột xuất phát từ những bất đồng quan điểm giữa thế lực chống ông Diệm và ông Diệm, trong khuôn khổ chủ nghĩa quốc gia. Còn bây giờ...
Bundy chăm chú nghe, gật đầu như đã nắm được ý của Dung.
- Còn bây giờ, một sự phân hóa sâu sắc trong cách nhìn vận mệnh Nam Việt. Không ít người cho rằng quân đội Mỹ cần đến Việt Nam Cộng hòa càng đông càng tốt, không giới hạn khu vực và cường độ chiến tranh dưới vĩ tuyến 17, xóa bỏ các hình thức cai trị đất nước bằng bầu cử và dân sự mà có ngay một chế độ độc tài quân sự đủ cứng rắn. Phía khác, đông hơn, cho rằng quân đội Mỹ vào Việt Nam Cộng hòa tức nền độc lập ơ đây bị sứt mẻ, Mỹ khôi phục hình ảnh của Pháp ngày xưa, là quốc gia xâm lăng và để bảo đảm cho ý định xâm lăng Mỹ chỉ dùng những người bản xứ dễ sai bảo... Đáng quan tâm là lối nhìn sau không phải chịu tác động của Việt Cộng, và nó được chia sẻ bởi nhiều giới kể cả giới thượng lưu, tu hành, tầng lớp trí thức, đặc biệt là số trẻ.
Dung ngừng nói. Bundy ngó lên trần nhà.
- Xin bà nói tiếp... Những lời vừa rồi của bà hết sức bổ ích đối với tôi, chắc chắn nó sẽ là môt bộ phần hợp thành bản báo cáo mà tôi sẽ trình cho Tổng thống Johnson.
- Do đó khía cạnh an ninh của Việt Nam Cộng hòa khá phức tạp. Từ hoàn cảnh khách quan xáo trộn nên an ninh và sinh nở các nhân tố mất an ninh có vẻ ngày càng thêm đậm nét và sẽ triền miên. Như ông có thể xác minh, sự ổn định đòi hỏi một loạt điều kiện mà trung tâm phải là đời sống chính trị trở lại trạng thái bình thường, luật pháp với các điều khoản chi tiết hướng đất nước chứ không phải các tuyên cáo, tuyên ngôn, quân luật... Tôi không ngại Việt Cộng quấy rối an ninh – giải quyết vấn đề Việt Cộng là cả một chiến lược lâu dài – mà tôi ngại những xáo trộn từ bản thân chế độ Việt Nam Cộng hòa. Tôi chưa rõ cấp trên của tôi phát biểu với ông ra sao, riêng tôi, nếu không thu xếp ổn thỏa nội bộ chúng ta, thì, ngành an ninh đành bất lực. Làm sao chúng tôi dám nổ súng vào các đám biểu tình?
- Bà có lý... Càng không dám nổ súng vào đám biểu tình khi đám biểu tình chống quân Mỹ đổ bộ lên đây, đất nước đầy ý thức quốc gia. Chỉ có thể ngăn ngừa điều đó bằng một cuộc vận động lớn, rộng rãi, để mọi người Việt Nam Cộng hòa hiểu sự cần thiết phải có mặt quân đội Mỹ...
- Nhưng đó không phải là trách nhiệm của ngành cảnh sát chúng tôi.
- Tôi hiểu... Bây giờ, tôi xin được hỏi bà một câu hoàn toàn riêng: Bà có tán thành sự có mặt của quân đội Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa không?
Bundy ngó thẳng vào Dung.
- Thưa ông cố vấn đặc biệt, tôi chỉ là một sĩ quan cảnh sát trung cấp, một người thừa hành. – Dung tránh đôi mắt của Bundy, làm ra vẻ nghiêm túc.
- Bà vẫn có quyền có ý kiến riêng. Bà đỗ cao học luật, một trí thức. – Bundy không rời khỏi mắt Dung.
- Thưa ông, nếu thế thì tôi xin nói: tôi không tán thành!
- Lý do?
- Không cần thiết!
- Không cần thiết hay bà cho đó là một hành động xâm lược?
Đến lượt Dung ngó thẳng vào mắt Bundy:
- Không cần thiết để phải mang tiếng xâm lược.
- Nếu tôi hay ai đó chứng minh với bà sự cần thiết có mặt của quân đội Mỹ, chứng minh đầy thuyết phục, bà sẽ nói sao?
- Tôi sẵn sàng nghe ông chứng minh!
- Tôi không đủ sức làm việc đó. Người khác sẽ làm...
Dung mỉm cười.
- Bà không tò mò hỏi ai sẽ chứng minh sao?
- Không! Vì tôi đã biết...
- Ai?
- Quân đội Mỹ!
- Bà cực kỳ thông minh.
- Nhưng, quân đội Mỹ sẽ thuyết phục tôi hay ông, điều đó tương lai sẽ trả lời.
- Tôi khâm phục bà, bà thiếu tá! – Bundy đứng lên.
- Rất cám ơn ông cố vấn...

... Hôm sau Trần Thanh Bền gặp Dung:
- Bundy nể bà lắm, bà Luân... Ông ta bảo không dễ gì có được một trợ tá cỡ như bà. Bà làm tôi vinh dự lây!

... Tờ Ngôn luận và vài tờ báo đăng mẩu rao vặt:
“Đồn điền cà phê rộng 20 mẫu gần thị xã Ban Mê Thuột cần bán gấp. Đồn điền đã khai thác mùa thứ hai, có nhà ở, điện nước. Liên lạc với Madame Vũ, 96 Đồng Khánh trong giờ làm việc”.
Bốn ngày sau mẩu rao vặt xuất hiện tren báo, trong giờ làm việc, Sa gọi điện thoại cho Dung:
- Chào chị! Sáu giờ chiều thứ bảy, mời chị đến nhà tụi em ăn cơm.
Dung nén xúc động.
- Vụ gì mà mời chị ăn cơm?
- Nhà em sinh cháu, có bữa cơm mừng.
- Thế à? Tốt quá... Trai hay gái?
- Dạ trai... Chị nhớ nhà tụi em không?
- Nhớ chứ. Đường Trương Minh Giảng...
- Dạ đúng...

... Chiều thứ bảy, Dung dặn chị Sáu hễ ai hỏi thì bảo Dung đi chơi cuối tuần đâu đó, mang Lý gởi nhà bác sĩ Soạn, lái xe qua cầu Trương Minh Giảng. Sa, ăn vận như một sĩ quan bộ binh, đón Dung quá chợ một quãng, thay Dung cầm lái rẽ vào một con đường nhỏ. Xe chui vào một gara. Sau đóng kín cửa gara hai người chuyển sang xe Peugeot, vẫn do Sa cầm lái, phóng lên ngã tư Bảy Hiền.
- Có việc gì gấp lắm sao chị nhắn tin trên báo?
- Gấp. Chị muốn báo cáo trực tiếp với cấp trên một số tình hình và xin chủ trương.
- Anh Luân có tin gì về không?
- Có, anh gọi điện cho chị luôn... Ta đi đâu đây?
- Suối Cụt. Em định đón chị và đưa đến điểm hẹn. Khi nào em ngừng xe, chị cứ xuống, ngay tay mặt có một con đường đất nhỏ. Chị đường hoàng theo con đường đất, đi chừng non trăm mét, thấy ngôi nhà nào cổng gạch thì vào. Sáng mai, trời mờ mờ, sẽ có người đưa chị bằng ô tô trở ngược về Sài Gòn, em đón chị phía trên ngã tư Hóc Môn...
- Chị sẽ gặp ai?
- Em không rõ...
- Sa lập gia đình chưa?
- Thời buổi này, với công tác của em, độc thân dễ xoay sở hơn.
- Em có học hành gì thêm không?
- Có chớ. Em học trường tư, vừa học kỹ thuật cơ khí vừa học ngoại ngữ. Sắp dự thi theo lối ghi danh để lấy bằng kỹ sư.
- Chà, giỏi quá!
- Em còn theo lớp hàm thụ điện trường đại học Canberra ở Úc nữa...
- Chị mừng cho em. Sống thế nào?
- Mỗi ngày em làm thợ nửa ngày trong một xưởng, lương khá. Chỉ mỗi một cái là chưa xoay được giấy miễn quân dịch. Nhưng, thế nào cũng xoay cho xong.
- Có tìn gì về Quyến không?
- Ảnh lại đi tu nghiệp bên Mỹ.
- À! Chị nhớ rồi... Thảo nào!
- Sao?
- Chổ chị làm có cô thiếu úy, cô ấy với Quyến hình như yêu nhau. Một hôm, tình cờ chị thấy cô ta đọc một lá thư mà phong bì đóng dấy bưu điện Philadelphia.
- Em biết. Chị Hằng mà. Anh Quyến đã hứa hôn với chị Hằng...
- Hằng hiểu rõ Quyến không?
- Không đâu! Anh Quyến giữ nguyên tác kỹ lắm. Say này, thành vợ chồng rồi chắc anh Quyến phải nói thiệt thôi. Nghe đâu chị Hằng tốt...
- Cô ấy tốt. Gia đình cũng tốt. Cô ấy là thư ký của chị.
- Chà! Ngộ quá há! Vậy là lão Quyến yên chí lớn rồi. Có chị kiểm tra, lão khỏi lo.
- Sa thường gặp Hằng không?
- Không... Em nghe anh Quyến nói lúc em còn công tác chung, trước khi anh Quyến đi Mỹ. Bây giờ, tụi em sinh hoạt đơn tuyến, không được quyền gặp nhau. Chị Hằng đẹp không hả chị?
- Rất đẹp!
- Tình hình coi bộ rối quá. – Sa đổi chủ đề - Mỹ vô nước mình đông quá, em lo bên mình vất vả...
- Tất nhiên là vất cả rồi.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2008, 11:32:06 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #265 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2008, 11:27:52 pm »

Trời tối. Xe giảm tốc độ đỗ ngay đầu một con đường đất, giữa khu phố đèn leo lét. Dung xuống xe, khuất vào bóng đêm. Xe Sa tiếp tục lao về hướng Trảng Bàng.
Dung tìm ngôi nhà cổng gạch không khó – nó nằm thụt sâu trong xóm và là ngôi nhà duy nhất có cổng gạch. Qua khỏi cổng đã có người đón.
- À, cô Hai bây về tới rồi... - Giọng một phụ nữ lớn tuổi.
Người phụ nữ đó kéo Dung ra phía sau nhà.
- Cô vòng phía cửa hông, mấy ảnh đang đợi cô. – Bà nói vào tai Dung.

Cửa hông hé mở. Dung lách vào và cửa khép lại. Ngọn đèn điện đủ sáng căn phòng và đủ cho Dung nhận ra ông Thuận, chú cô, đang dang rộng tay đón cô.
- Chú!
- Con!
Chú Thuận trỏ người kia – trạc 40, da ngăm, mặt mũi khôi ngô, mặt đồ bà ba đen.
- Đây là anh Chín...
Tự nhiên, Dung đoán ra ngay người mà lần đầu cô gặp.
- Thưa anh... Có phải anh là Chín Dũng...
Người kia cười:
- Chà! Bà thiếu tá Tổng nha theo dõi kỹ các nhân vật Việt Cộng quá... Xem hình tôi ở Tổng nha, phải không?

Dung bẽn lẽn. Về đây, cô thấy như về nhà, nên không giữ ý tứ.
- Ngồi xuống! - Người mà Dung gọi là Chín Dũng mời Dung ngồi trên một trong các chiếc ghế tựa kê quanh một bàn.
- Dạ có ảnh của anh... Có khá nhiều báo cáo về anh.
- Chúng nói giống gì về tôi?
- Dạ, Tổng nha biết anh Chín làm bí thư khu ủy, có chân trong Trung ương Đảng, trong vụ Phật giáo năm 1963, anh Chín đột nhập vào Sài Gòn, nay đóng căn cứ ở vùng Hố Bò. Chúng biết tên thật, quê quán, bí danh của anh Chín.
- Vậy là quá đủ! - Anh Chín cười – Cô đã dùng cơm chưa?
- Dạ, em ăn rồi.
- Có tin gì anh Bảy không?
- Dạ, nhà em gọi điện cho em, lần mới nhất hôm thứ năm rồi. Nhà em đang đi các bang phía đông nước Mỹ.
- Cháu khỏe không?
- Cám ơn, cháu khỏe.
- Bây giờ, chúng ta làm việc. Tôi được ủy nhiệm của A.07 gặp cô. Lẽ ra, anh Sáu Đăng cũng gặp, song anh ấy ở xa, được tin cô nhắn khẩn trên báo, tôi nghĩ là cô không thể chờ đợi, nên một mặt báo về trên, một mặt nhờ anh Thuận tổ chức gặp cô. Tôi không dám dùng điện thoại, e mật mã bị phát hiện, nên viết thư tay báo về trên, thơ tay đi hơi chậm. Tôi và anh Thuận sẽ nghe cô. Lúc đầu, tôi định phái anh Thuận vào Thành, song đầu mối đi vắng, đến nhà cô không tiện nên đành mời cô ra. Liệu kế hoạch đi lại của cô đảm bảo không?
- Thưa, em nghĩ là đảm bảo.
- Dù vậy, cũng không nên ở lâu. Sáng mai cô phải có mặt ở Sài Gòn. Cẩn thận tối đa Mỹ cũng không thừa đâu. Cô có thể nói hết...
- Con báo cáo thật chi tiết. – Chú Thuận nói – Anh Chín là người chịu trách nhiệm cao trong Đảng.
- Dạ, con biết...
- Cô chia thời gian để sau chót hai chú cháu còn nói chuyện gia đình nữa.
- Cám ơn anh Chín nhiều.
- Trước khi cô thông báo, tôi hỏi mấy việc: Từ khi anh Bảy đi, ai thường liên lạc với cô?
- Dạ, John Hing gọi điện mươi lần...
- Giục cô chuyển tin tức của nội tuyến, phải không?
- Dạ, phải. Nhưng gã quan tâm hơn là em liên hệ với các bạn nhà em.
- Các ông bạn đó có điện hay thư từ gì không?
- Thư từ thì không. Điện thoại thì có Nguyễn Thành Động, Trương Tấn Phụng, thiếu tướng Lâm, đại tá Tồn, trung tướng Đức, trung tá Dương Hiếu Nghĩa, James Casey...
- Trừ James Casey, các ông kia điện đến nhà cô, dễ gây chú ý... - Anh Chín nhận xét.
- Dạ, họ chỉ hỏi thăm sức khỏe em và cháu Lý.
- Tất nhiên... Song, làm một bảng liệt kê danh sách người ta thấy ngay là đại tá Nguyễn Thành Luân quan hệ thân mật với ai, xu hướng chính trị như thế nào? Thậm chí có người đã đảo chính. – Giọng anh Chín không vui.
- Em hiểu, nhưng em làm sao ngăn họ?
- Tôi không trách cô. Cô không làm gì được. Chúng tôi sẽ giúp cô...
- Cách đây bốn hôm, em gặp George Bundy...
- Vậy sao? Tay cố vấn đặc biệt của Johnson gặp cô thì có nhiều ý nghĩa đây... Thôi, bây giờ, cô nói đi, nói từ đầu... ..
Dung cố gắng tóm tắt các mặt tình hình, đưa ra các nhận xét. Mất đến hai tiếng đồng hồ. Anh Chín và ông Thuận lặng lẽ nghe, thình thoảng hỏi thêm vào chi tiết. Dung trình bày khá thoải mái.
- Bây giờ đã gần 10 giờ. Ta giải lao một chút! - Anh Chín bảo, mà mặt vẫn còn trầm ngâm.
Ông Thuận gõ nhẹ lên vách.
Một mâm cháo gà do người phụ nữ đón Dung ở cổng mang vào.
- Sắp tới giờ giới nghiêm rồi. Hễ ăn xong thì đèn tắt. Tôi thay bằng đèn dầu. Chú ý, nghe tôi gõ nhẹ lên vách thì vặn lu đèn, im lặng, bởi tụi dân vệ tuần tra. Còn có động, tôi sẽ dẫn cả ba vào chỗ bí mật. Cứ yên tâm. Bảo đảm trăm phần trăm. Chung quanh, có bảo vệ võ trang, nột quá họ nổ súng... - Người phụ nữ nói mà không ngó Dung.
- Gì mà phải nổ súng? - Anh Chín cười – Dân vệ cũng có anh em mình...
- Ậy, tôi nói cho hết lý vậy thôi. Tôi với con Út canh cho tới sáng...
Cháo gà nấu ngon. Dung ăn cứ ngỡ lần đầu dùng món này.
Đèn tắt. Tiếng kẻng giới nghiêm vang trong đêm vắng. Ngọn đèn dầu thay đèn điện.
- Ta đợi một chút! – Anh Chín nói – Dân vệ sắp tuần tra.
Đúng vậy, độ vài phút sau, bên ngoài vọng vào tiếng giầy khua trên đường, tiếng huýt gió, tiếng cười và chửi thề.
- Tôi có vài ý kiến. Cô Dung cố nhớ. À! Mimôsa cố nhờ và truyền đạt bằng cách nào cho Kỵ sĩ. – Anh Chín bắt đầu trình bày suy nghĩ của anh.
- Sau chiến dịch Bình Giã, chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở Nam Việt Nam phá sản. Mỹ không còn hy vọng dùy trì chủ nghĩa thực dân mới nguyên bản nữa. Trước đây, chúng lập luận rằng tiềm năng chống Cộng tại chỗ bị ức chế do chính sách không được lòng dân và không liên minh được các phe phái của Ngô Định Diệm, nên ra tay gạt bỏ Diệm. Chúng vẫn tin vào công thức viện trợ Mỹ cộng với một chính quyền và quân đội tay sai đủ sức dánh bại Mặt trận Giải phóng. Nhưng, với nhóm Dương Văn Minh, chúng thấy nguy hiểm. Kéo dài thêm một thời gian nữa, chính quyền Sài Gòn dễ ngã theo xu hướng thân Pháp, theo hướng trung lập kiểu Cao Miên, Lào thì Mỹ phải thua thiệt. Cho nên, chúng cho Nguyễn Khánh “chỉnh lý”. Đến đây, một yếu tố Mỹ không lường trước nhảy lên vũ đài, tôi muốn nói lực lượng quần chúng Sài Gòn và các thành thị. Trước kia, vì Mỹ còn giấu mặt nên đối tượng đấu tranh của quần chúng là Ngô Đình Diệm, nhưng sau vụ “chỉnh lý”, đối tượng phơi bày mỗi lúc mỗi rõ ràng hơn. Nguyễn Khánh phải nhượng bộ, tức Mỹ phải thay đổi chiến thuật. Thế là vở tuồng “chính phủ dân sự” ra đời. Nhưng, vở tuồng không hấp dẫn. Mỹ lại quay trở về với nhóm quân sự. Cái vòng lẩn quẩn ấy khiến chúng vừa suy yếu về lực, vừa rối loạn về ý chí. Ta lại đánh mạnh. Nội bộ Mỹ phân chia làm hai: duy trì công thức cũ và thay đổi công thức. Phe diều hâu mạnh hơn. Tức Mỹ sẽ đưa quân vào, số lượng chắc chắn đông. Mỹ cần nhóm tay sai lo cung cấp quân hỗ trợ, còn quân chủ công thì Mỹ đảm đương. Mỹ mở rộng phạm vi oanh tạc ra Bắc vĩ tuyến 17, trực tiếp khiêu khích ở Vịnh Bắc bộ. Nói cách khác, chiến tranh sẽ ác liệt. Lực lượng chính trị trong các thành phố đang phân hóa, số tiến bộ lần lần xây dựng thành tổ chức nhưng chưa đủ sức ngăn chặn ý đồ của Mỹ. Chúng ta cần một thời gian sửa soạn đồng thời cũng là thời gian đụng độ thẳng với quân đội Mỹ. Chừng nào, với một số lượng lớn, mà Mỹ không thắng được thì bấy giờ một giải pháp sẽ ra đời. Tuy nhiên, cần hết sức chú ý thái độ của đông đảo quần chúng các thành thị khi Mỹ vứt bỏ mặt nạ “chỉ hỗ trợ cho chính quyền Nam Việt” mà trực tiếp tham chiến, tức công khai xâm lược nước ta, kéo theo các hậu quả xấu khác về đạo lý, về kiểu sống; quần chúng sẽ được cổ vũ ý thức dân tộc. Đồng thời, nội bộ tay sai cũng vì giành ăn đồng thời một bộ phận chịu tác động ý thức quần chúng sẽ bị chia rẽ nghiêm trọng. Chính giới Mỹ không thể thuần nhất được. Các đồng minh quan trọng hàng đầu của Mỹ chắc chắn không hoàn toàn tán thành đường lối của Mỹ. Các quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Á như Ấn Độ, Nam Dương sẽ phản ứng. Phe xã hội chủ nghĩa dĩ nhiên càng tăng cường ủng hộ chúng ta, trừ Trung Quốc bắt đầu bộc lộ bản chất cơ hội, về khách quan tiếp tay cho Mỹ.
Từ tầm nhìn chung ấy, tôi xin lưu ý Kỵ sĩ và Mimôsa mấy điểm sau đây: cuộc chiến đấu cảu dân tộc ta nhất định phải lâu dài, khó khăn, phực tạp, đòi hỏi nhiều hy sinh và đòi hỏi nhiều sách lược khôn khéo. Trận địa không chỉ ở nông thôn và rừng núi mà cả các thành thị, phương thức không chỉ bằng vũ trang mà cả chính trị, đôi khi chính trị giữ vai trò đột phá ở những thời điểm nào đó. Xoáy sâu vào nội bộ kẻ thù, gây xáo trộn cũng là một cách đánh địch hiệu quả. Cuộc đảo chính 1-11-1963 và các mâu thuẫn bùng nổ trong nội bộ chế độ Sài Gòn trong hơn năm nay đã hủy hoại nghiêm trọng thế lực của kẻ thù. Nay mai, đến lượt quần chúng Mỹ và các nước sẽ tỏ thái độ, chúng ta tin điều đó.

Kỵ sĩ và Mimôsa len sâu vào bộ máy ngụy, lại có quan hệ với Mỹ, kẻ cả cơ quan tình báo, nên cố bảo tồn, chỉ hành động khi thật sự cần thiết, khi xét hành động của mình mang lại giá trị chiến lược. Kỵ sĩ đôi lúc thiếu bình tĩnh. Hiện nay, Mỹ và ngụy đánh hơi thấy Kỵ sĩ là mối lo cho chúng, bởi vậy, phải hết sức thận trọng. Ta cần đặt ra nhiều phương án. Nếu bị uy hiếp, thì cả hai lập tức rời Sài Gòn vào chiến khu. Cũng có thể Kỵ sĩ rời Sài Gòn, còn Mimôsa thì tiếp tục bám trụ, tất nhiên với điều kiện an toàn tuyệt đối. Tôi tin là Kỵ sĩ không ở Mỹ lâu, bản thân Kỵ sĩ không thích mà một bộ phận tình báo Mỹ cũng muốn Kỵ sĩ có mặt ở Sài Gòn đóng vai trò đối tượng với các nhóm cầm quyền dù trước mặt Mỹ chưa dùng Kỵ sĩ như con chủ bài. Để bảo vệ Kỵ sĩ, chúng tôi quyết định tuyển chọn một trung đội tin cẩn, hai vệ sĩ, một lái xe và một cán bộ làm thư ký cho Kỵ sĩ. Họ đang lần lượt đăng ký và Dân vệ và Bảo an các tỉnh, chúng tôi sẽ cung cấp danh sách để Kỵ sĩ thông qua thủ tục hợp pháp điều động họ về quanh Kỵ sĩ. Trong hoạt động Kỵ sĩ hẳn cần một số tiền, chúng tôi đã bố trí cách cung cấp cho Kỵ sĩ rất bí mật...

Dung chú ý lắng nghe từng lời anh Chín. Khi anh Chín dứt lời thì Dung thưa:
- Nhà em nóng ruột quá. Xin anh Chín tìm cách dặn trực tiếp nhà em, coi như mệnh lệnh... Thú thực, em chỉ góp ý thôi còn nhà em bao giờ cũng suy nghĩ và hành động không phải lúc nào cũng trao đổi với em.
Anh Chín cau mày, còn chú Thuận thì thở ra.
- Tôi hiểu... Anh Bảy rất nhạy bén và cũng dễ kích động. Tôi sẽ gởi thơ cho anh ấy... Nhưng...
Anh Chín ngập ngừng một thoáng. Dung chăm chú ngó, chờ đợi.
- Nhưng nếu một cái gì đó xảy ra ngoài dự kiến của chúng ta thì tôi mong cô chú mình thật vững. Ý tôi muốn nó tuy vợ chồng, song Kỵ sĩ và Mimôsa nhận hai nhiệm vụ khác nhau, trước kia, Mimôsa trợ thủ cho Kỵ sĩ, từ nay trở đi, mỗi người độc lập tác chiến. Điều này rất khó, tôi biết, song nguyên tắc công tác đòi hỏi hai đồng chí phải chấp hành. Tôi còn băn khoăn cháu Lý. Nên chăng đưa cháu ra Hà Nội?
Dung lắc đầu:
- Không cần, thưa anh. Vả lại...
Mặt Dung bừng đỏ.
- À, ông bà sẽ có cháu thứ hai?
Dung dạ thật nhỏ:
- Khoảng tháng 7 em sinh...
- Tùy cô... Không có vấn đề gì. Ta sẽ xoay và đâu rồi vô đó thôi.
Toán dân vệ tuần canh đợt hai, vẫn bước chân rào rạo ngoài đường.
- Tôi đã nghe và đã nói. Bây giờ, tôi phải về căn cứ. Chúc cô và Kỵ sĩ thắng lợi!
Anh Chín bắt tay Thùy Dung thật chặt.
- Anh Thuận ở lại với cô. Hai chú cháu cần trò chuyện riêng. Có gì cần dặn thêm, anh Thuận sẽ dặn cô.
Anh Chín ra cửa. Dung ngồi yên khá lâu, cho đến lúc tiếng chó cuối xóm ngừng sủa.
Từ đó cho đến hết giờ giới nghiêm, hai chú cháu to nhỏ. Rồi Dung, rời Suối Cụt, trên một mô tô do một cô gái đèo, đến chỗ hẹn với Sa, khi quốc lộ đã rộn ràng xe cộ. Một điều mà Dung không biết: Chú Thuận đã giấu cô về tin bố đẻ Dung qua đời...

*
Điện khẩn:
Nơi gởi: Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa – Sài Gòn.
Nơi nhận: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa – Washington.
Thủ tướng chính phủ quyết định triệu hồi đại tá Nguyễn Thành Luân, tùy viên báo chí của sứ quán. Yêu cầu đại tá Nguyễn Thành Luân về Sài Gòn bằng chuyến bay gần nhất. Lúc nào lên đường, Đại sứ quán điện báo cho biết.

*
Phúc trình của Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ gởi Bộ Ngoại giao Sài Gòn:
Từ khi đại tá Nguyễn Thành Luân sang Mỹ, ông rất ít đến Đại sứ quán. Các giới Mỹ, trong đó có những giới quan trọng như một số thượng và hạ nghị sĩ, tướng lãnh, nhà chính trị, nhà báo, giáo sư ở nhiều bang mời ông họp mặt, nói chuyện. Ảnh hưởng của ông khá lớn trong dư luận do các cuộc diễn thuyết và một số bài báo của ông. Hiện nay, ông đang ở Cựu Kim Sơn theo lời mời của Thống đốc bang California. Chúng tôi đã điện thoại cho ông báo quyết định của chính phủ. Ông trả lời chưa thu xếp được nhanh. Chúng tôi xin lưu ý ở nhà: Ông cùng đi với vợ chồng tướng hồi hưu Jones Stepp và hình như ông George Bundy từ Sài Gòn về đã hỏa tốc bay đến Cựu Kim Sơn gặp đại tá Luân, có lẽ môi giới cho gặp gỡ giữa đại tá và ngoại trưởng Dean Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara, không loại trừ ông Colby.

*
Điện khẩn:
Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đệ nhất Phó chủ tịch Hội đồng quân dân gởi Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ.
Thu xếp cho đại tá Nguyễn Thành Luân về Sài Gòn nhanh nhất.

*
Phúc trình của Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Mỹ gởi Hội đồng quân dân:
Chúng tôi đã truyền đạt lệnh triệu hồi đại tá Nguyễn Thành Luân về Sài Gòn. Nhưng, hôm qua, văn phòng Bộ ngoại giao Mỹ điện thoại cho chúng tôi: Đại tá Nguyễn Thành Luân còn một cuộc tiếp xúc quan trọng với Ngoại trưởng Mỹ, Cố vấn đặc biệt của Tổng thống, chủ tịch Hội đồng các tham mưu trưởng Mỹ nên chưa thể về nước sớm được.

*
Điện khẩn:
Gởi Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa - Sài Gòn.
Đại tá Nguyễn Thành Luân lên đường về nước chuyến bay thứ nhất của hãng Pan American vào 18 giờ, giờ Washington hôm nay.
Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ.

*
Điện khẩn:
Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa gởi Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ.
Chuyến bay mà Đại sứ quán bảo là đại tá Nguyễn Thành Luân về Sài Gòn đã hạ cánh tại sân bay Tân Sơn Nhất sông không có mặt đại tá. Yêu cầu xác minh đại tá ở đâu? Trên đường bay, máy bay chỉ ghé Honolulu và không có ai ở lại đó. Danh sách hành khách không có tên đại tá.

*
Điện khẩn:
Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ gởi Bộ Ngoại giao – Sài Gòn.
Chính Đại sứ Trần Thiện Khiêm cùng nhiều nhân viên sứ quán và cả vợ chồng tướng Jones Stepp cùng nhiều quan chức Mỹ tiễn đại tá Luân tận cầu thang máy bay. Chúng tôi đã kiểm tra danh sách ở hãng hàng không. Đúng là không có tên đại tá. Bộ Ngoại giao Mỹ thông báo với chúng tôi, đại tá là khách quý của chính phủ Mỹ, do đài thọ riêng của Hãng hàng không khỏi mua vé.
Chúng tôi sẽ điều tra và báo cáo sau.

*
Mệnh lệnh của Hội đồng quân nhân:
Ra lệnh cho đại tá Nguyễn Thành Luân, tùy viên báo chí của sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, trong vòng 24 giờ đồng hồ phải ra trình diện với trung tướng Trần Văn Minh, Tổng tham mưu trưởng tại Bộ Tổng tham mưu.
Sài Gòn ngày 15 tháng 2 năm 1965.
Ký:
Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu.

HẾT

Tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngửa đến đây là hết.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2008, 11:40:27 pm gửi bởi baogt » Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM