Phải tuyển lao động nữ cho công trường!
Khi lấy thêm lao động ở địa phương vào làm việc ở khu Gang thép, anh Thiện nêu chủ trương phải tuyển một tỉ lệ nữ nhất định. Nhưng có những đơn vị không muốn nhận “phái yếu”, vì sợ không làm được việc nặng ở công trường. Anh phải giải thích: “Các đồng chí lo chị em yếu ư? Thế trong kháng chiến, chị me nữ đi dân công, gánh vác có kém gì nam giới, mà có khi còn dẻo dai hơn nữa. Phải quan tâm thích đánh đến đời sống, và đào tạo nghề nghiệp chu đáo thì chị em nữ làm năng suất không thua gì nam giới đâu! Vả lại, công trình của ta rất lớn, lại ở vùng đất rộng người thưa, đưa hàng nghìn anh em bộ đội đã trải qua bao năm đánh giặc, về đây công tác, chả lẽ cứ để anh em độc thân mãi ư? Nếu không có nơi để tìm hiểu, không có đối tượng để xây dựng “tổ ấm” tại chỗ, tất nhiên, anh em phải về quê lập gia đình, thì làm sao chúng ta có lực lượng công nhân, cán bộ ổn định được” Mọi người đều nghe ra và nhất trí.
Sau một thời gian xây dựng công trình, một hôm, Anh bàn với anh Trần Bảo, là Thư kí công đoàn khu Gang thép: “Chúng ta nên chọn chị em phụ nữ lao động xây dựng đưa đi bồi dưỡng thêm nghiệp vụ và nâng cao tay nghề, nhất là phải chú ý đến các chị em chưa chồng, tuổi cao mà cũng không được đẹp gái lắm, để chị em có công việc ổn định, thu nhập được khá hơn, thì mới dễ lấy chồng!”.
Ngày nay, ở khu Gang thép có biết bao nhiêu cặp vợ chồng đều cùng là cán bộ, công nhân viên trong nhà máy; một số đến tuổi nghỉ hưu, thì lại đến thế hệ con cái họ tiếp tục sự nghiệp của cha mẹ vào tham gia xây dựng và sản xuất trong khu công nghiệp. Mọi người lại nhớ đến chủ trương đúng đắn, mà nghĩa tình sâu nặng của anh Thiện để xây dựng đội ngũ cán bộ, công nhân viên lâu dài cho khu công nghiệp lớn đầu tiên của đất nước.
Bữa riêu cua trên đường vào tuyến lửa!
Tôi làm bí thư riêng của anh Thiện trong 10 năm vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp và khi hào bình mới được lâp lại. Anh phụ trách xây dựng khu Gang thép Thái Nguyên. Khi Anh trở lại quân đội thì tôi vẫn tiếp tục công tác ở khu công nghiệp.
Cuối tháng 12 năm 1966, Anh điện gọi tôi về gặp Anh ngay. Tôi về gặp Anh ở nhà riêng. Anh hỏi tình hình công việc ở Xí nghiệp Gang thép, rồi Anh hỏi thăm gia đình tôi ở Hà Tĩnh, nay địch đánh phá dữ dội như thế thì làm ăn, sinh sống như thế nào? Tôi trình bày hoàn cảnh rất khó khăn của vợ con ở quê nhà, và dự kiến tương lai phải tính chuyện đưa gia đình ra Thái Nguyên thôi. Anh bảo ngày mai Anh sẽ vào Đoàn 559 làm việc, và tôi hãy cùng đi với Anh, khi qua Hà Tĩnh, Anh sẽ gặp các đồng chí ở Tỉnh ủy, nhờ bố trí đưa gia đình tô ra ngoài Bắc. Tôi ngần ngại, sợ phiền Anh và các đồng chí lãnh đạo ở quê nhà, đang phải lo bao nhiêu công việc to lớn. Nhưng Anh bảo tiện chuyến, tôi cứ đi, không có ảnh hưởng gì cả vì đằng nào Anh cũng phải dừng chân ở Hà Tĩnh và làm việc với các đồng chí lãnh đạo ở Tỉnh. Thế là một lần nữa tôi lại được đi với Anh.
Anh tranh thủ đi vào ngày 24 và ngày 25 tháng 12, trong dịp lễ Nôen, địch tuyên bố ngừng ném bom. Cùng đi chuyến này có cả anh Hoàng Tùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng biên tập báo Nhân dân. Chuyến đi khá vất vả vì nhiều đoạn đường, cầu bị địch phá hỏng chưa kịp khôi phục, và phải đi tránh những chỗ còn nhiêu bom chưa nổ.
Qua nửa đêm, vừa qua ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), thì điện đài trong xe nhận được thông báo của Bộ Tư lệnh Phòng không: “Mục tiêu địch xuất hiện ở Quảng Bình… Sông Gianh… Ba Đồn… Kỳ Anh…”, Xe phóng nhanh, đến chỗ có bìa rừng thì dừng lại. Chúng tôi vội dắt hai anh xuống xe, đưa vào một khe núi cạnh đường. Vừa chạy được khoảng 50 mét, thì đã nghe tiếng máy bay, ánh chớp lòe và tiếng bom nổ ở đoạn đường xe vừa đi qua.
Gần sáng thì đến chỗ nghỉ. Đồng chí Binh trạm trưởng đến đón, dẫn các Anh và chúng tôi vào nghỉ tại mấy cái lán của Binh trạm, làm nhờ trong vườn nhà dân ở ven đồi, cách đường khoảng hơn một kilômét. Chỗ này ở xa các trọng điểm, lại khuất nẻo, các lán được bụi cây um tùm che khuất, có hầm hố ngay cạnh, nên mặc cho máy bay lượn đi lượn lại, chúng tôi vẫn yên trí nằm ngủ tới gần trưa mới dậy. Anh Thiện hỏi tình hình công tác của Binh trạm, rồi mọi người cùng đi ăn cơm trưa. Sau bữa ăn, ngồi nghỉ uống nước, nói chuyện một lúc, anh Thiện mời anh Hoàng Tùng tiếp tục đi nghỉ, vì đêm nay sẽ phải đi cả đêm. Anh bảo đồng chí Lư (bí thư), ở lại với anh Tùng. Anh rủ tôi và đồng chí công vụ đi chơi. Chúng tôi biết đây là thói quen của Anh: trên đường đi, mỗi khi dừng chân ở đâu, Anh không hay nghỉ trưa, mà thường ra đồng xem đồng bào làm ăn, đi bắn chim, ra ngồi chơi bên bờ suối, dưới bóng cây… Chúng tôi mang theo cây súng săn và một bi đông nước, cùng Anh ra cánh đồng nhỏ cách chỗ ở của Binh trạm khoảng một kilômét.
Đang nói chuyện rôm rả thì thấy 1, rồi 2, 3, 4… con cua bò dưới ruộng. Thế là ba thầy trò, cùng xắn quần, lội xuống nước bắt cua. Cua nhiều quá, không có cái đựng nên đồng chí công vụ phải cởi quần dài, buộc túm hai ống lại bỏ cua vào. Bắt một lúc, hai ống quần đã chứa đầy, hết chỗ đựng, đành phải thôi! Ba anh em lên bờ vào dưới gốc đa, ngồi vừa nói chuyện vừa nghỉ một lúc, rồi trở về Binh trạm.
Anh Thiện bảo kiếm một nồi nước nóng. Tôi nhờ cô cấp dưỡng đun hộ; cô hỏi: “Để Thủ trướng tắm à?”. Nhưng không phải. Anh dùng nước nóng rửa cua cho sạch. Hai cô cấp dưỡng, đồng chí công vụ và tôi cùng xúm vào làm với Thủ trưởng. Rửa xong, Anh hướng dẫn cho chúng tôi cách móc cua, cách giã cua, lọc nước cua và khều gạch cùng trứng cua, sao cho lấy được hết khỏi lãng phí. Anh bảo cho nước cua vào nồi, cùng mấy quả khế, nấu riê… Anh lại hướng dẫn chị em cấp dưỡng phải đun nhỏ lửa, và khi đã sôi đều mới đổ gạch, cùng hành, mỡ, rau thơm vào… Các cán bộ, chiến sĩ của Binh trạm cũng có mặt lúc đó với chúng tôi, tròn mắt ngạc nhiên, không hiểu sao mà thủ trưởng cũng biết cách làm ăn dân dã tỉ mỉ đến như thế!
Bữa cơm chiều hôm đó của chúng tôi cùng cán bộ, chiến sĩ Binh trạm có thêm món riêu cua, cùng rau ghém nõn chuối. Ai cũng khen ngon và thích thú! Trong bữa ăn, hầu như Anh không đụng đũa đến món thịt bò xào, do nhà bếp của binh trạm đã chuẩn bị để thết đoàn chúng tôi, mà chỉ ăn toàn riêu cua! Anh cũng không quên bảo chị em đem biếu gia đình chủ nhà một cặp lồng đầy. Bà cụ chủ nhà ăn xong, thấy ngon quá đến cảm ơn, hỏi cách nấu và nói: “Dạm trong ni, nhiều vô kể, mà bà tui không biết ăn ra ri, có biết mần mô nà…”. Anh Thiện lại hướng dẫn các kiểu nấu cua: riêu, canh, kho, rim, rán… Sau đó Anh tủm tỉm cười và nói với chúng tôi: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới mà!”. Chị em cấp dưỡng nói lại: “Không phải chỉ người già đâu, chúng cháu được ăn canh của của bác cũng thích lắm ạ”. Anh có vẻ rất khoái, nét mặt vui tươi, rạng rỡ hẳn lên!
Trong lòng tôi cảm thấy rất vui sướng, vì đã góp phần tạo ra cho Anh những giờ phút thư thái, ung dung, trước khi bước vào tuyến lửa, với bao công việc khó khăn đang chờ đợi Anh.