Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:35:03 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đinh Đức Thiện - Một chiến sĩ cách mạng trung kiên, một vị tướng hậu cần t  (Đọc 46801 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #40 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2013, 09:53:23 am »

ĐỒNG CHÍ ĐINH ĐỨC THIỆN VỚI VIỆN TRỢ QUÂN SỰ

Đại tá NGUYỄN ĐỊCH(*)

Tôi được biết anh Đinh Đức Thiện từ cuối năm 1951. Khi đó anh là Cục trưởng Cục Vận tải, còn tôi làm công tác tiếp nhận hàng viện trợ quân sự ở biên giới Việt - Trung. Công tác tiếp nhận và công tác vận tải gắn bó với nhau rất khăng khít. Những năm 1950 - 1951, hàng viện trợ chủ yếu là gạo, quân trang, vũ khí nhẹ. Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là khi chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ, thì khối lượng ngày càng nhiều, nhất là xe và các loại pháo. Để giữ bí mật các trang bị mới, anh Thiện đã chỉ thị cho binh trạm vận tải phải chở các loại pháo bằng xe: pháo nhỏ thì mỗi xe xếp hai khẩu, pháo lớn thì mỗi xe một khẩu; xếp xong, chằng chèn cẩn thận, rồi làm dàn, che kín. Những khẩu pháo cao xạ 37 li, có 4 bánh, cồng kềnh, không xếp lên xe được, anh đã bày cách đóng khung gỗ úp lên rồi phủ bạt kín, trông bề ngoài như những rơ moóc chở hàng. Cách làm thận trọng này, đã làm cho địch bị bất ngờ đối với hỏa lực của ta ở Điện Biên Phủ. Đây là tác phong của một cán bộ ở cơ quan chiến lược, nhưng khi cần thiết đã chỉ đạo từng việc rất cụ thể.

Trong chiến tranh chống Mĩ, anh làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, rồi sau kiêm cả Chủ nhiệm Tổng cục Kĩ thuật, được Bộ Quốc phòng ủy nhiệm thông qua các đơn hàng viện trợ quân sự, tham gia đàm phán và chỉ đạo công tác tiếp nhận hàng vào các ga, cảng và sân bay.

Trong việc xin viện trợ, phần trang bị chiến lược chủ yếu do Bộ Tổng Tham mưu đề xuất, còn các mặt bảo đảm kĩ thuật và hậu cần, do Anh chỉ đạo, Phòng Vật tư, Bộ Tham mưu Hậu cần là cơ quan, dựa vào các ý kiến của cấp trên, lập đơn hàng xin viện trợ, theo dõi và tổ chức tiếp nhận hàng.

Về bảo đảm giao thông vận tải, Anh chỉ đạo tập trung xin máy ủi, xe tự đổ, máy xúc… để mở đường vận tải, sửa chữa và phục hồi giao thông nhanh chóng khi bị địch đánh phá và xin ô tô để vận tải. Những năm cao nhất, các nước anh em đã giúp ta hàng trăm máy ủi và máy xúc, hàng nghìn xe tự đổ, hàng vạn xe vận tải… Anh chủ trương xin rải ra mỗi nước một ít, bạn có khả năng cho loại gì thì nhận loại đó, ta có được chừng nào tốt chừng đó, còn hơn là không. Thí dụ, đối với ô tô vận tải thì xin xe mới của Liên Xô, Trung Quốc, còn một số nước khác không có xe mới, cho xe đại tu ta cũng nhận…

Về bảo đảm kĩ thuật, anh chủ trương xin nhiều phụ tùng thay thế cho xe, súng, pháo, các thiết bị toàn bộ và đồng bộ của các xưởng sửa chữa các loại trang bị kĩ thuật, các trạm sửa chữa lưu động đặt trên xe…

Về bảo đảm nhiên liệu cho quân đội, thì đề nghị bạn giúp đỡ xăng cho ô tô, điêden cho tầu chiến, dầu hỏa cho máy bay phản lực, dầu nhờn, mỡ bôi trơn các loại, vật liệu làm kho, thùng chứa xăng dầu… Anh là người đã đề xuất viện xin Liên Xô, rồi Trung Quốc cung cấp cho các bộ đường ống dã chiến. Nhờ đó, trong kháng chiến chống Mĩ, ta đã có vật tư và trang bị để xây dựng tuyến đường ống chiến lược Bắc - Nam, bảo đảm kịp thời nhu cầu xăng dầu cho quân đội.

Về phương tiện cấp cứu, điều trị thương, bệnh binh và bảo vệ sức khỏe bộ đội, anh yêu cầu các nước bạn giúp từ những thiết bị toàn bộ của bệnh viện hậu phương, các thiết bị động bộ cho các bệnh viện dã chiến, các đội điều trị, phẩn thuật cơ động, vệ sinh phòng dịch, tẩy uế chiến trường, các xe cứu thương… đến các loại dụng cụ y tế, các loại thuốc, kể cả thuốc đông y… Anh cũng không quên các loại thuốc bồi bổ sức khỏe cho cán bộ, trong đó có sâm Triều Tiên, thuốc bổ tổng hợp của Trung Quốc, vitamin của Liên Xô, Hunggari…

Về vật tư sinh hoạt, ngoài các loại lương thực, thực phẩm thông thường, anh rất quan tâm đến việc tăng cường dinh dưỡng cho bộ đội ở chiến trường, nên đã xin bạn giúp các loại lương khô, thịt, cá hộp, bột trứng, sữa bột, đường, mì chính… Chính anh đã chỉ đạo Viện Kĩ thuật của Cục Quân nhu, nghiên cứu mẫu các loại lương khô 701, 702, 705, đưa sang nhờ bạn sản xuất hàng vạn tấn để cung cấp cho bộ binh, đặc công, lái xe, không quân, hải quân… Các loại lương khô này được cán bộ, chiến sĩ các binh, quân chủng hoan nghênh vì rất phù hợp trong chiến đấu.

Về mặt quân trang, quân dụng, anh rất quan tâm đến việc giảm nhẹ mang vác của chiến sĩ và phù hợp với điều kiện thời tiết ở chiến trường. Anh đã đề nghị bạn giúp các loại dụng cụ cấp dưỡng bằng nhôm gọn, nhẹ, sử dụng thuận tiện trong hành quân cũng như trong chiến đấu, các loại tăng, võng, bạt nằm, tấm đắp, quần áo… làm bằng các loại vải mỏng, nhẹ, bền nhưng giặt lại mau khô. Những thứ này đều được xây dựng theo mẫu của ta. Anh chú ý đến việc nghiên cứu đôi dép bằng ni lông, vừa nhẹ nhàng, vừa đẹp đẽ, để cung cấp cho chị em nữ dân quân.

Trong việc lập đơn hàng viện trợ, trong cơ quan Bộ Quốc phòng, cũng có ý kiến: “Nên xin những thứ ra tấm ra món, còn những cái lặt vặt, thì đừng nên xin làm gì, để khỏi mang tiếng”. Nhưng anh Thiện lại thường nói: “Mình là con nhà nghèo, cái gì cũng thiếu thốn, bạn cho được cái gì cũng cứ nhận. Cũng như anh nông dân đi đánh dậm, mỗi mẻ được con cá, con cua, con ốc đều nhặt tất cả đem về nhà, phân loại ra mà tận dụng. Đi xin viện trợ cũng phải thế! Ta cần thì ta cứ đề ra, còn bạn cho hay không, cho được bao nhiêu là tùy ở khả năng và thiện chí của bạn. Nếu ta không đề ra, thì bạn biết ta cần gì mà cho”.

Chính vì có quan điểm này, nên anh đã giải quyết được không những các yêu cầu to lớn, mà cả những vật dụng tuy nhỏ bé nhưng rất cần thiết cho cán bộ và chiến sĩ ở chiến trường như: bật lửa, đèn pin, hộp dao cạo râu, tông đơ, kéo cắt tóc, đồng hồ báo thức cho quản lí và anh nuôi, hộp dầu con hổ chống cảm, lọ thuốc chống muỗi, chống vắt v.v. Các cán bộ trung, cao cấp trong quân đội thời chống Mĩ, đều rất phấn khởi khi được ấp phát chiếc đồng hồ deo tay tự động kiểu Đức. Đây là món quà mà bà Bộ trưởng Bộ Cơ khí Luyện kim nước Cộng hòa Dân chủ Đức tặng cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 1969, theo đề nghị trực tiếp của anh Thiện khi sang thăm Đông Đức.

Ngoài các nhu cầu bảo đảm hậu cần, anh còn đề xuất với Quân ủy Trung ương nhiều ý kiến thiết thực, để nhờ bạn giúp các loại vũ khí hỏa lực, tên lửa, pháo cao xạ, súng chống tăng, máy bay chiến đấu, tầu chiến, các loại đạn dược, xe chở xe tăng, các loại phụ tùng thay thế cho trang bị kĩ thuật quân sự…

Mỗi năm, thường phải làm đơn hàng viện trợ chính thức một lần, và làm đơn hàng bổ sung từ 1 đến 2 lần. Mỗi lần làm, thì cơ quan vật tư thường bận rộn, tấp nập từ 2 đến 3 tháng liền vì phải tính toán, đối chiếu, hiệp đồng với các ngành chuyên môn, các quân, binh chủng, lập đơn hàng, làm bản thuyết minh, thông qua các cơ quan, các cấp có thẩm quyền, dịch ra tiếng các nước bạn… Mỗi khi có ý kiến thay đổi, thì phải làm lại. Mà trong quá trình làm thì anh Thiện lại hay có nhiều sáng kiến, hay đề ra những vấn đề mới, phải nghiên cứu, tìm hiểu, tinh toán lại, làm thuyết minh, có khi phải chỉ đạo ngành chuyên môn có liên quan chế tạo mẫu đưa cho bạn. Cơ quan phải vất vả để thực hiện ý kiến của anh: nhưng ai nấy đều rất vui vẻ, vì đây không phải là chấp hành mệnh lệnh, mà các vấn đề anh nêu ra thường độc đáo, có tác dụng đối với chiến trường, nên có sức thuyết phục rất mạnh. Thí dụ như anh đã đề ra việc nghiên cứu loại áo giáp chống bom bi, loại áo phao cung cấp cho lái xe và bộ đội công binh trên tuyến vận tải chiến lược; như mô hình người bằng cao su để nghi binh trên mặt đường, túi nilông để đóng gạo thả trôi dưới nước.

Qua việc chỉ đạo làm đơn hàng viện trợ, cũng thấy ở anh Thiện, tính kiên trì, sáng tạo, chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, luôn luôn lo lắng đến chiến trường, đến đời sống người chiến sĩ, thấy cái gì cần thiết, thì hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em, bè bạn để tạo nguồn vật chất, bảo đảm cung cấp cho bộ đội, cho chiến đấu.

Chú thích
(*) Nguyên Cục trưởng Cục Vật tư, Tổng cục Hậu cần.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Năm, 2013, 10:24:45 am gửi bởi anhquaynop » Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #41 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2013, 09:59:51 am »

MỘT VỊ TƯỚNG HẬU CẦN GẮN BÓ VỚI CHIẾN TRƯỜNG

Đại tá PHẠM KINH(*)

Lực lượng vũ trang Nam Bộ, nhất là những cán bộ, chiến sĩ trong ngành Hậu cần, ai cũng biết và yêu mến đồng chí Đinh Đức Thiện, Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

Là người đứng đầu ngành Hậu cần, với tính tình bộc trực, cởi mở, đượm chút dân dã, nhưng ý chí và quyết tâm cao, có óc sáng tạo, táo bạo và quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã có công lớn trong việc xây dựng ngành Hậu cần thời chiến, phục vụ kịp thời cho quân dân ta giành thắng lợi trên khắp các chiến trường. Đặc biệt đối với Nam Bộ, là một chiến trường xa Trung ương, xa miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nơi có cơ quan đầu não chiến tranh của Mĩ - ngụy, đồng chí đã quan tâm đặc biệt, luôn luôn có sự tính toán, dự đoán, đi trước tình hình một bước, để chỉ đạo ngành Hậu cần chủ động, phục vụ kịp thời cho tác chiến.

Ngay từ những ngày đầu, Đoàn 559 mới thành lập, đồng chí đã thay mặt Quân ủy Trung ương, trực tiếp chỉ đạo xây dựng con đường Trường Sơn, mang tên Bác và tổ chức công tác vận chuyển chi viện vật chất, vũ khí, khí tài cho các chiến trường Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Liên Khu V và nhất là cho Nam bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu chiến đấu và xây dựng lực lượng ngày càng lớn.

Khi Quân khu miền Đông Nam Bộ đưa tầu ra miền Bắc xin chi viện, lãnh đạo Tổng cục Hậu cần đã giải quyết nhanh chóng, và chuyến tầu đầu tiên chở 20 tấn vũ khí đã được đưa về đến bến Lộc An (tỉnh Bà Rịa) an toàn. Có số vũ khí đó, quân dân miền Đông đã đẩy mạnh hoạt động: đánh địch, phá nhiều ấp chiến lược, mở rộng hậu phương tại chỗ, tạo điều kiện cho chiến dịch Bình Giã thành thắng lợi lớn. Tiếp đó là chuyến tầu thứ hai chở 57 tấn vũ khí, đạn dược vào Bến Tranh, Sông Ray, rồi sau đó, là chiếc tầu sắt do Lê Quốc Thân làm thuyền trưởng đổ bộ vào cửa Lộc An, Bến tranh, Sông Ray, mang theo nhiều vũ khí mới như AK47, B40, B41. Số vũ khí mới đưa về, được trang bị cho các đơn vị miền Đông và Quân khu VI, đã góp phần vào các chiến thắng vang lừng trong chiến dịch Đồng Xoài, Phước Long và những trận tiêu diệt quân Mĩ ở Bầu Bàng, Dầu Tiếng… góp phần đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ.

Đầu năm 1965, sau hi chiếc tầu không số của ta bị lộ ở Vũng Rô, địch kiểm soát gắt gao trên biển, việc dùng tầu thuyền tiếp tế cho Nam Bộ trở nên rất khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, đồng chí Đinh Đức Thiện đã chỉ đạo chuyển hướng vận chuyển cho miền Nam bằng tầu lớn quá cảnh Campuchia. Nhờ đó đã giải quyết cho các chiến trường một khối lượng khá lớn vũ khí, đạn dược, thuốc nổ, thực phẩm, thuốc men…

Sau cuộc đảo chính 18 tháng 3 năm 1970, bè lũ phản động Lon Non lật đổ chính quyền của Quốc trưởng Xihanúc. Với sự giúp đỡ của ta, cách mạng nước bạn giành được thắng lợi to lớn: giải phóng được 5 tỉnh Đông Bắc Campuchia. Trong điều kiện đó, đồng chí Đinh Đức Thiện đã chỉ đạo củng cố và mở rộng đường lối vận tải chiến lược Tây Trường Sơn, cung cấp liên tục, kịp thời cho yêu cầu của chiến trường Nam Bộ (kể cả miền Đông, miền Trung và miền Tây). Đồng thời từ đầu năm 1973, đồng chí chỉ đạo gấp rút xây dựng tuyến đường Đông Trường Sơn. Cuối năm, chiến dịch Tuy Đức, Bù Bông thắng lớn, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn từ ba biên giới đến tận vùng căn cứ của miền Đông Nam Bộ, nối thông với đường Đông Trường Sơn. Đồng chí đã chỉ đạo các đợt vận chuyển lớn, nhanh chóng đưa vũ khí, khí tài và các phương tiện vật chất tăng cường cho các chiến trường miền Nam. Đặc biệt là đã làm được tuyến đường ống dẫn xăng dầu vượt dãy Trường Sơn, vào đến sân bay Bù Gia Mập, bảo đảm được nhu cầu hoạt động lớn của hàng nghìn xe vận tải, xe tăng, thiết giáp, pháo cơ giới… tạo điều kiện phục vụ cho Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Là người đứng đầu ngành Hậu cần, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mĩ quyết liệt, đồng chí đã luôn luôn đi sát chiến trường, đứng mũi chịu sào trước mọi khó khăn thử thách, dũng cảm, quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước quân đội về mọi quyết định của mình. Đến đâu, đồng chí cũng đi sâu, nghiên cứu giúp cấp dưới tháo gỡ khó khăn, giải quyết những yêu cầu cụ thể của chiến trường, của địa phương.

Riêng đối với Nam Bộ, đồng chí đã ba lần vào tận chiến trường để chỉ đạo. Đó là lần vào giữa năm 1969, địch phong tỏa kinh tế gắt gao, công tác hậu cần gặp nhiều vấn đề nan giải, đặc biệt là thiếu gạo, muối. Vào thời điểm đó, các đơn vị chủ lực chỉ còn gần một tháng dự trữ, đồng chí đã có mặt kịp thời ở chiến trường, cùng Bộ Tư lệnh Miền nghiên cứu tình hình, đề ra ý kiến chỉ đạo, tạo điều kiện cho khai thác “hậu cần tại chỗ”, giúp cho chiến trường vượt qua được thời điểm khó khăn, gay gắt nhất. Tháng 2 năm 1973, đồng chí lại cùng các cán bộ chủ chốt của ngành Hậu cần vào miền Đông Nam bộ, nghiên cứu tình hình chi viện cho chiến trường tiếp tục đánh địch, trước nguy cơ Mĩ - ngụy xẻ bỏ Hiệp định Pari. Trong dịp này, đồng chí đã quyết định điều động vào Nam Bộ một số lượng khá lớn cán bộ hậu cần các đơn vị, đặc biệt có hàng trăm bác sĩ và cán bộ kĩ thuật các ngành, giúp đỡ tăng cường tổ chức và nâng cao chất lượng công tác hậu cần của chiến trường. Và lần thứ ba, đồng chí lại vào tới Nam Bộ, đó là là trong những ngày tháng 4 năm 1975 sôi động. Sau khi trực tiếp chỉ đạo hậu cần mặt trận Tây Nguyên phục vụ thắng lợi chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột, mở màn cho cuộc Tổng tấn công Buôn Ma Thuột, mở màn cho cuộc Tổng tấn công mùa Xuân 1975, đồng chí Đinh Đức Thiện đã vào ngay chỉ đạo hậu cần Miền, phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh bại ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Trong suốt 10 năm với cương vị là chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, lúc nào đồng chí Đinh Đức Thiện cũng toàn tân toàn ý phục vụ cho quân đội, cho người lính, cho chiến trường và cho chiến thắng của quân và dân ta.

Đã 10 năm đồng chí đi xa, nhưng công lao to lớn và tình cảm của đồng chí vẫn sống mãi trong lòng toàn quân, toàn dân chúng ta, đặc biệt là trong lòng cán bộ chiến sĩ hậu cần Nam Bộ.

Chú thích
(*) Nguyên Phó Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu VII.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #42 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2013, 10:18:59 am »

NHỚ NGƯỜI CHỈ HUY ĐẦU TIÊN CỦA NGÀNH VẬN TẢI QUÂN SỰ

Đại tá VŨ CAO BẰNG(*)

Đồng chí Đinh Đức Thiện là người đầu tiên đặt nền móng xây dựng ngành Vận tải quân sự Việt Nam. Ôn lại tiểu sử và sự nghiệp của đồng chí, chúng tôi bồi hồi, xúc động nhớ tới một chặng đường lịch sử hào hùng đã qua, với biết bao thành tích oanh liệt đạt được dưới sự lãnh đạo của đồng chí, biết bao kỉ niệm sâu sắc với người chỉ huy nhiệt tình, thân thiết và đầy tài năng của ngành.

Đầu năm 1950, khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới, đồng chí Đinh Đức Thiện là Ủy viên Thường vụ Liên khu ủy Việt Bắc, đã được Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng và Chính phủ đưa vào quân đội và bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Vận tải. Bằng tinh thần chủ động vượt lên những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn về mọi mặt trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, từ đầu tháng 3 năm 1950, đồng chí đã cùng 36 cán bộ và chiến sĩ lên Cao Bằng tổ chức tuyến vận tải đầu tiên của Cục Vận tải, chuẩn bị tiếp nhận 200 tấn vũ khí ở biên giới, rồi tổ chức vận chuyển về Chợ Mới, theo lệnh của bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh.

Cuối năm 1950, quân đội ta mở chiến dịch Biên giới, chiến dịch đầu tiên có quy mô lớn, đồng chí đã tập trung lực lượng của Cục, giao cho đồng chí Vũ Văn Đôn, Cục phó đưa ra phía trước để tổ chức Ban Vận tải chiến dịch. Trong quá trình chiến dịch, Ban Vận tải được đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, trực tiếp dìu dắt, giúp đỡ, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trưởng thành vượt bậc và đã rút ra được nhiều kinh nghiệm mới mẻ rất quý để vận dụng trong xây dựng lực lượng và phục vụ tác chiến ngày càng phát triển.

Sau chiến dịch Biên giới, đồng chí Đinh Đức Thiện đã sớm chủ động nắm bắt được tình hình và nhiệm vụ mới, cùng tập thể cán bộ, cơ quan và các cơ sở, triển khai xây dựng, mở rộng hệ thống vận tải quân sự, kết hợp chặt chẽ với lực lượng vận tải Nhàn ước và vận tải nhân dân, nên chỉ trong một thời gian ngắn, Cục vận tải đã có bước phát triển nhảy vọt về tổ chức, lực lượng, phương tiện và phương thức vận tải: quân số từ 36 người ban đầu tăng lên gần 3.000 người; phương tiện từ mấy trăm xe bò, xe trâu, xe quệt, ngựa thồ, thuyền nan và hơn một chục xe ô tô, tổ chức và phạm vi hoạt động của Cục từ một số chi nhánh và trạm vận tải trên đường số 3 ở hai tỉnh Cao Bằng và Bắc Cạn, đã phát triển thành năm Binh trạm, hai đại đội ô tô, ba xưởng sửa chữa, một đại đội công binh… hoạt động trên bốn tuyến đường (1, 2, 3, 4), trên địa bàn các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Hà Giang, rồi từ tháng 4 năm 1951 tiến xuống Phú Thọ, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa… Từ chỗ vận tải chủ yếu bằng sức người và phương tiện thô sơ đã tiến lên kết hợp thô sơ với cơ giới, và cơ giới ngày càng chiếm tỉ trọng cao hơn.

Trong những năm 1951-1953, dưới sự chỉ đao của đồng chí Đinh Đức Thiện, lực lượng vận tải quân sự ngày một phát triển và đã liên tiếp phục vụ các chiến dịch: Trung Du, đường 18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào giành thắng lợi to lớn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí Đinh Đức Thiện là Đại diện của Tổng Cục tiền phương, đặc trách chỉ huy tuyến vận tải từ Sơn La lên Tuần Giáo để chuyển gạo từ Liên Khu III, IV đưa ra tiền tuyến. Đó là một nhiệm vụ rất trọng yếu, rất nặng nề của hậu cần chiến dịch vào thời điểm đó.

Quá trình xây dựng và phục vụ chiến đấu của bộ đội vận tải trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Cục trưởng Đinh Đức Thiện, đã để lại cho các thế hệ tiếp sau nhiều bài học kinh nghiệm thực tiễn phong phú và vô cùng quý báu. Đó là những kinh nghiệm về tổ chức công tác vận tải quân sự, trong điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu, chiến trường bị chia cắt, phân tán, địa hình, khí hậu, thời tiết phức tạp. Đó là những kinh nghiệm về tổ chức sử dụng, động viên lực lượng, sức người, sức của theo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng để phục vụ cho vận tải quân sự. Đó còn là những kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy vận tải quân sự trong các trận đánh và các chiến dịch có quy mô từ nhỏ đến lớn.

Từ những kinh nghiệm rút ra trong cuộc kháng chiến chống Pháp, khi bước vào cuộc chiến tranh chống Mĩ, tuy không trực tiếp phụ trách công tác vận tải, nhưng trên cương vị là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần trong suốt nhiều năm chiến đấu oanh liệt, cho đến khi giải phóng miền Nam, đồng chí Đinh Đức Thiện luôn luôn nắm vững vị trí hàng đầu của vận tải trong nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, nên đã thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển ngành Vận tải quân sự, mà lực lượng chủ yếu là Đoàn 559 và Cục Vận tải, ngày càng lớn mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược cho các chiến trường miền Nam, và hai nước bạn Lào, Campuchia, đồng thời vận tải đầy đủ nhu cầu cho lực lượng vũ trang đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ đối với miền Bắc. Đồng chí đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho bộ đội vận tải hoàn thành nhiệm vụ, góp phần bảo đảm cho các lực lượng vũ trang nhân dân ta chiến đấu, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước; do đó, bộ đội vận tải đã được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu “đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Nhân dịp kỉ niệm 26 năm ngày truyền thốn của bộ đội vận tải (18-6-1975), Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã cùng với đồng chí Đinh Đứ Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đã đến thăm, căn dặn và chỉ thị cho bộ đội vận tải. Chấp hành chỉ thị của đồng chí, Cục Vận tải đã từng bước tiến hành tổng kết kinh nghiệm công tác vận tải quân sự trong hai cuộc chiến tranh, để đưa vào học tập huấn luyện, nhằm tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ chiến sĩ. Ngoài chăm lo xây dựng tổ chức, lực lượng vận tải tiến lên chính quy, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trung tâm đột xuất và tham gia xây dựng kinh tế, bộ đội vận tải đã góp phần hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kì xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp bạn.

Thực hiện lời dạy của ông cha ta: “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, là thế hệ được vinh dự kế tiếp sự nghiệp của cố Cục trưởng Đinh Đức Thiện, người anh cả của lực lượng vận tải quân sự, chúng tôi mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng chí và các cán bộ lão thành lớp trước.

Học tập và noi theo bản lĩnh chiến đấu kiên cường, tác phong giản dị, sâu sát, hết lòng thương yêu, gắn bó với đồng chí, đồng đội, với ngành vận tải quân sự, đặc biệt là sự quan tâm chăm sóc đối với các chiến sĩ lái xe, lái tầu của đồng chí cố Cục trưởng, cán bộ, chiến sĩ vận tải chúng tôi nguyện không ngừng học tập, rèn luyện để tiếp thu những kinh nghiệm quý báu về công tác vận tải quân sự mà các thế hệ cha, anh để lại, vận dụng vào điều kiện mới, tiếp tục quán triệt đường lối quân sự của Đảng về công tác hậu cần, vận tải trong công cuộc đổi mới đất nước, tích cực xây dựng bộ đội vận tải cách mạng, chính quy, từng bước tiến lên hiện đại để luôn luôn sẵn sàng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chú thích
(*) Nguyên Cục trưởng Bí thư Đảng ủy Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #43 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2013, 10:22:56 am »

CẬU VỀ LO GIÚP PHÍA SAU

Thiếu tướng NGUYỄN AN(*)

Tháng 4 năm 1972, kết thúc vận chuyển mùa khô, tôi đang ở Sư đoàn 471 viết báo cáo tổng kết, thì được điện cấp tốc gọi về Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Tôi không tiện hỏi kĩ trong điện thoại, nhưng anh Đồng Sĩ Nguyên cũng kịp thông báo mọt tin không vui là anh Nguyễn Danh Phan - Cục trưởng Cục Vận tải - mới hi sinh trong khi đi kiểm tra đơn vị ở Quảng Bình.

Lúc này, Tổng thống Mĩ Níchxơn đang cho máy bay, tàu chiến đánh phá trở lại miền Bắc dữ dội hơn trước, đồng thời triệt để phong tỏa các cảng biến và các cửa sông từ Móng Cái đến Cửa Tùng.

Tôi vừa chân ướt, chân ráo về tới cơ quan, chưa kịp hạ ba lô thì bom đạn đã nổ rầm rầm trên toàn khu vực. Tội gọi điện thoại hỏi trực ban tác chiến thì được biết B52 đã đánh một vệt dài ngang qua khu cơ quan Bộ Tư lệnh. Anh Nguyên hẹn là sau đợt oanh tạc này, sẽ làm việc trong Sở chỉ huy ở địa đạo, có anh Đinh Đức Thiện cũng tham gia.

Mùa khô năm nay, kết quả vận chuyển của Sư đoàn 471 khá tốt, lại được các trung đoàn xe cơ động của bộ Tư lệnh 559 chạy ban ngày trên đường kín, đi vượt cung vào sâu hỗ trợ, nên lượng hàng giao cho Sư đoàn 470 ở phía trong đạt trên 100% kế hoạch và Sư đoàn 470 cũng đã giao hàng cho cả hai hướng Nam Bộ và Tây Nguyên vượt mức trên giao, nên không khí buổi làm việc rất vui vẻ.

Anh Thiện đợi cho đợt hoan hỉ dịu đi, mới nêu nhận xét: “Về kết quả vận chuyển của hai Sư đoàn 470 và 471 mùa khô này, đạt cao so với năm trước, mặc dù địch đã tập trung đánh phá tuyến 559 dữ dội hơn trước rất nhiều, cả về cường độ lẫn chủng loại bom đạn. Nhưng cán bộ chiến sĩ Đoàn 559 nói chung và hai Sư đoàn phía trong nói riêng, đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nay địch chuyển ra đánh phá miền Bắc với thái độ rất hung hăng. Sau khi thắng cử, Níchxơn muốn dàn xếp được công việc quốc tế có liên quan đến chiến trường Việt Nam một cách  có lợi cho Mĩ, nên đã ra lệnh đánh phá lại miền Bắc với mức độ không hạn chế, có thể sẽ dùng cả B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng, đồng thời phong tỏa sự chi viện quốc tế bằng đường thủy đến Việt Nam. Tôi e rằng việc vận chuyển ở phía sau sẽ có khó khăn hơn trước, từ đó cũng sẽ ảnh hương đến chân hàng của 559”.

Anh dừng lại một chút rồi ngậm ngùi thương cảm, nói tiếp: “Anh Phan đã hi sinh, trong lúc khối lượng vận tải phía sau càng nặng nề, hoàn cảnh thực hiện nhiệm vụ càng khó khăn. Lúc này, có lẽ tuyến trước phải chia lửa với tuyến sau”. Anh dừng lại một chút, nhìn anh Nguyên rồi quay sang tôi. Anh nói; “Tôi đã trao đổi với anh Nguyên và báo cáo với Quân ủy Trung ương xin điều động anh An, Phó Tư lệnh 559 về làm Cục trưởng Cục Vận tải và anh Bùi Đức Tạm, Phó Chính ủy 559 về làm Chính ủy Cục. bộ đã chuẩn y. Anh An phải chuẩn bị bàn giao công việc ở đây, về sớm, để lo tiếp chân hàng cho 559, ngay sau mùa khô này.

Buổi chiều, trước khi lên đường, anh Thiện gọi tôi sang ăn cơm. Vừa ăn, Anh vừa thân mật dặn tôi; “cậu phải về sớm, lo việc vận tải phía sau cho mình. Cậu ra trước, ngoài ấy có Lê Lương và Đặng Ba làm phó, anh Tạm ở Sư đoàn 571 sẽ ra sau ít ngày, nhưng phải đề bạt thêm một số Cục phó nữa để lo các mặt, vì bây giờ tuyến sau cũng có các binh chủng bảo đảm như cao xạ pháo, công binh, thông tin… Các cậu phải lường cho hết khó khăn, phải sẵn sàng đón nhận những nhiệm vụ đột xuất, có khi ra ngoài cả chức năng vận tải cũng phải làm vì đây là giai đoạn đọ sức quyết liệt với Mĩ trong cuộc chiến tranh này!”.

Tôi xếp ba lô để chuẩn bị lên xe, anh còn sang đưa cho chiếc màn chiến  lợi phẩm, một gói lương khô và nói: “Vợ cậu, trước làm chiến sĩ cơ yếu ở Cục Vận tải, cô ấy có công lao cả thời chống Pháp, cậu cho mình hỏi thăm và tặng ít quà chiến trường”. Anh dừng lại một chút rồi hỏi thêm: “À cái con bé hay nghịch, chạy như chuột ở Phòng Bí thư của Cục Vận tải, bây giờ cháu bao nhiêu tuổi rồi?”. Tôi cười và trả lời anh; “Cháu bác đã 21 tuổi rồi và sắp ra bác sĩ đấy!”. Anh trầm ngâm: “Nhanh quá nhỉ, chẳng trách mình chóng già!”.

Rồi anh lại than thở về việc anh Phan hi sinh: “Tao nghĩ thương thằng Phan quá, lắm lúc nhớ lại thấy ân hận về cái tính nóng nảy của mình, nhiều khi làm anh em xa lánh và hiểu lầm! Cái hôm máy bay ném bom ga Khoa Trường, trúng đoàn tầu quân sự, tao thốc vào kiểm tra, thấy các toa tầu chở toàn chiếu cói, tao bực quá, gọi thằng Phan vào xạc cho một trận. Nó cũng giận mình nhưng không cãi lại lúc đó vì biết mình đang nóng. Bây giờ nghĩ lại vừa thương nó lại vừa tự trách mình”. Anh quay đi, chùi vội dòng lệ đang tràn ra trong khéo mắt.

Tôi biết anh có lúc nóng nảy, đôi khi không tự kiềm chế được, nhưng ở trong thâm tâm, Anh rất mực yêu thương cấp dưới. Những khuyết điểm về công tác của dưới, Anh luôn nhận trách nhiệm lãnh đạo, chỉ huy của mình. Tôi nhớ lại đợt ra quân đầu mùa khô 1967, xe Đoàn 559 mới nhập tuyến, dồn dập đổ hàng ở kho Binh trạm 33 tại Thà Mé. Vì kho mới di chuyển, nên chưa ngụy trang kĩ, địch lại theo dõi qua nhiều đêm, nên đã phát hiện và tập trung đánh phá kho ngay giữa lúc xe đang xuống hàng, làm nổ tung 1.200 tấn vũ khí, đạn và 500 phuy xăng dầu. Đó là một tổn thất lớn trong những ngày đầu mùa, gây choáng váng cho mọi người. Bộ Tư lệnh 559 đánh điện ra Bộ và Tổng Cục xin nhận khuyết điểm. Vài hôm sau, anh Thiện được Thường trực Quân ủy Trung ương ủy niệm điện vào, có đoạn nói: “Cần cẩn trọng hơn nữa trong việc phòng tránh và hiệp đồng thật chặt hơn nữa trong việc đánh địch, vận chuyển và nghi binh. Tổng cục sẽ cho chuyển ngay vào tuyến, bù cho số tổn thất”.

Bức điện đọc giữa buổi giao ban cơ quan Bộ Tư lệnh làm cho mọi người lặng đi vì xúc động trước tấm lòng bao dung của cấp trên mà anh Thiện là người trực tiếp chỉ đạo.

Anh Thiện có tầm nhìn xa chiến lược, đã có những chủ trương, quan điểm, cách giải quyết các vấn đề xây dựng hậu phương và công tác hậu cần trong chống Mĩ rất sắc sảo. Đối với việc chuẩn bị hậu cần, kĩ thuật cho chiến trường bao giờ Anh cũng chủ động, kiên quyết đưa sớm, gối sẵn, ém sâu vao sát hậu phương các chiến trường những nhu cầu thiết yếu nhất, để bảo đảm cho nhiệm vụ tác chiến mà Anh được phổ biến, được bàn bạc trong các cuộc hội nghị của Quân ủy Trung ương hoặc Bộ Chính trị.

Công lao to lớn của Anh là đã chỉ đạo xây dựng rất cơ bản ngành hậu cần phục vụ quân đội đánh thắng đế quốc Mĩ, tên xâm lược đầu sỏ rất tàn bạo, nhưng cũng rất hiện đại, trong đó nổi lên việc chỉ đạo xây dựng và phát triển tuyến vận tải chiến lược Trường Sơ, với phương châm lấy vận tải cơ giới là chủ yếu, có lực lượng binh chủng hợp đồng bảo đảm. Đó là then chốt đưa đến thành công lớn trong nhiệm vụ vận tải chi viện chiến trường.

Mấy tháng sau, Anh cùng một đoàn cán bộ, vào Nam Bộ kiểm tra công tác hậu cần, kết hợp đi duyệt lại cả hai tuyến đường Đông và Tây Trường Sơn, nối vào các căn cứ hậu cần chiến trường. Tất cả các Cục trưởng thuộc Tổng cục Hậu cần đều đi, chỉ riêng Cục trưởng Cục Vận tải phải ở nhà. Anh biết tôi có băn khoăn về việc này, nên chủ động bảo tôi: “Công tác vận tải ở chiến trường rất nặng, nhưng hiện nay chưa gắp bằng việc đẩy mạnh vận tải phía sau, lập chân hàng sớm cho Đoàn 559. Nếu tới đây ba tháng không phụ vụ được hàng kịp thời cho bộ đội đánh mạnh, thì ở Pari chắc chắn cũng sẽ bị ảnh hưởng!”. Anh nhắc tôi phải chuẩn bị chu đáo cho khâu vượt sông ở Long Đại và Gianh, để đón thời cơ, đưa các đơn vị binh khí kĩ thuật nặng, gấp rút vào chiến trường. Anh còn hướng dẫn cụ thể cách ghép phà lớn để chở được một lúc 16 xe vận tải 4 tấn, và yêu cầu phà ghép xong, phải đưa gấp vào để hoạt động ngay. Các cán bộ và chiến sĩ dũng cảm và mưu trí của Xí nghiệp đóng và sửa chữa tầu A173 và Đoàn Vận tải Hồng Hà đã hoàn thành được kế hoạch ghép và và kéo phà từ Hải Phòng vào Long Đại và sông Gianh đúng thời gian anh Thiện quy định, mặc dầu lúc đó, địch đang phong tỏa gắt gao trên đường biển.

Sau này, khi các đạo quân thần tốc ào ạt vào chiến trường, xe pháo đầy đường, ùn ùn vượt sông, tôi mới thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược đi đôi với kế hoạch chỉ đạo cụ thể của Anh, đúng là kiệt xuất!

Chú thích
(*) Nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 559; Cục trưởng Cục vận tải; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #44 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2013, 10:24:20 am »

NHỚ MÃI ANH ĐINH ĐỨC THIỆN

Thiếu tướng BÙI ĐỨC TẠM(*)

Tôi công tác ở Đoàn 559 từ năm 1966 đến giữa năm 1971. Anh Đinh Đức Thiện thay mặt Quân ủy Trung ương và Tổng cục Hậu cần, trực tiếp chỉ đạo Đoàn 559 từ cuối năm 1965 đến khi quân, dân ta toàn thắng đế quốc Mĩ xâm lược. Anh đã đóng góp rất nhiều công sức và trí tuệ vào việc xây dựng và chỉ đạo Đoàn 559, tạo điều kiện để Đoàn thực hiện được vai trò là cái cầu chiến lược, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh thắng giặc Mĩ xâm lược của quân đội và nhân dân ta.

Ở Anh, nổi bật lên tính cách đặc biệt của một người chỉ huy có quyết tâm rất cao trong công tác, nhưng về tình cảm thì lại luôn luôn thương yêu đồng chí, đồng đội vô hạn.

1. Quyết tâm cao của Anh thể hiện trong việc xây dựng Binh đoàn vận tải Trưởng Sơn, mở nhiều tuyến đường ô tô ngang, dọc liên hoàn, đẩy nhanh quá trình cơ giới hóa vận tải, xây dựng mạng thông tin chỉ huy, đưa lực lượng phòng không vào tuyến vận tải, để đánh trả máy bay địch, bảo vệ cơ sở và lực lượng vận tải, và đặc biệt trong việc xây dựng tuyến đường ống xăng dầu từ miền Bắc vào miền Đông Nam Bộ.

Đây là một công trình lớn mà Anh đã suy nghĩ rất nhiều và quyết làm bằng được. Anh đã chỉ đạo bộ đội xăng dầu lập được chiến công kì diệu: bắt dòng xăng chảy ngược vượt lên những triền núi cao, qua những dòng suối sâu, trên dọc dải Trường Sơn hùng vĩ.

Đây cũng là một việc làm thật táo bạo, một sự vận dụng sáng tạo của Anh cùng đội ngũ cán bộ chỉ huy và kĩ thuật xăng dầu, vào hoàn cảnh thực tế của chiến trường Việt Nam, dùng những bộ đường ống dã chiến chiến dịch của quân đội các nước anh em, lắp ráp thành tuyến đường ống chiến lược dài hàng nghìn kilômét để bơm xăng từ các kho ở hậu phương miền Bắc cung cấp cho lực lượng vận tải Đoàn 559, cho các chiến trường, cho các đoàn xe chở bộ đội và các binh khí kĩ thuật hành quân thần tốc vào tham gia các chiến dịch mùa Xuân 1975 để giải phóng miền nam.

Trước khi có tuyến đường ống này, đường vận tải bị địch tập trung đánh phá hết sức ác liệt, đường tắc nghẽn xe chở xăng không qua được, có binh trạm đã phải dùng can nhựa 20 lít và túi nilông gùi xăng qua các trọng điểm, phải chịu khá nhiều thương vong, có lúc phải thả các phuy xăng cho trôi theo dòng nước chảy trên các sông suối. Có đơn vị đã phải tổ chức các tiểu đội xe xung kích, lợi dụng lúc đường vừa chữa xong, lái xe chở xăng vọt qua trọng điểm thật nhanh; nhưng rồi phần lớn cũng không thoát, xe bị bắn trúng, lái xe hi sinh, xăng bốc cháy và hàng tốp máy bay “bâu” lại bắn phá tan hoang cả quãng đường! Anh em công binh và thanh niên xung phong bảo đảm giao thông đã tặng cho các lái xe xi téc chở xăng danh hiệu “anh hùng mặc áo lửa”! Nhưng, những cách làm thủ công và nhỏ lẻ như vậy, mặc dầu rất dũng cảm, sáng tạo, cũng không đáp ứng được nhu cầu mà thường phải chịu thiệt hại lớn!

Nhờ xây dựng thành công tuyến đường ống, đã giảm được tối đa xương máu của chiến sĩ vận tải, giảm được tổn thất xăng dầu, xe cộ, mà lại chi viện được khối lượng rất lớn xăng dầu cho tuyến vận tải và cho các chiến trường.

2. Anh Đinh Đức Thiện là người chỉ huy có tinh thần thương yêu đồng chí và đồng đội vô hạn.

Thu Đông 1967, tôi đi kiểm tra các binh trạm phía Nam. Lúc này, ta chưa vận chuyển được lớn, nên các Binh trạm 3 và 4 (ở Hạ Lào) thiếu gạo, thực phẩm, thuốc chữa bệnh nghiêm trọng. Bộ đội có khi phải ăn mang và củ rừng thay cơm. Vì vậy, trên tuyến có câu ca dao truyền miệng:

“Ai đi qua đất tuyến ba,
Chớ có la cà mà đói khổ thân”.

Đến Binh trạm 3 các đồng chí Nguyễn An, Vũ Quang Bình ra đón và nói: “Hôm nay có đoàn của cấp trên vào, chúng tôi ưu tiên mời đoàn mỗi suất ăn một lạng gạo với măng”. Câu nói nghe có vẻ khôi hài, nhưng đúng là sự thật!

Đến Binh trạm 4, các đồng chí Lê Quang Dự, Lê Xi vừa khỏi sốt rét, người gầy rộc, báo cáo:

“… Cần đây, bộ đội ốm nhiều, một số đã chết vì sốt rét ác tính; hàng trăm người sau khi khỏi sốt, không có gì bồi dưỡng, nên bị teo cơ hoặc mờ mắt…”. tôi hỏi: “Trong kho hàng có thuốc gì để chữa bệnh và bồi dưỡng cho anh em không?”. Các anh cho biết: “Có 5 kilô B1, nhưng là hàng của chiến trường, chúng tôi không dám đụng đến”. Tôi báo cáo ngay tình hình đó về anh Đinh Đức Thiện và anh Đồng Sĩ Nguyên ở Sở chỉ huy. Sau này, trở về cơ quan tôi được anh em kể lại: “nghe xong báo cáo, anh Thiện lau nước bắt bảo anh Nguyên: “Cho xuất ngay 2kg B1 để cứu anh em, nếu không thì còn ai mà vận chuyển cho chiến trường nữa”.

Đối với cá nhân tôi, anh Đinh Đức Thiện để lại những kỉ niệm sâu sắc không bao giờ có thể quên được.

Tháng 6 năm 1970, khi tôi nhận nhiệm vụ đi thành lập Sư đoàn 470 ở khu vực Nam Lào - Đông Bắc Camupchia, Anh đến thăm và nói rất thân tình: “Như vậy là cầu đi “a văng xăng” (trung phong), tin ở câu trên mới giao, nhất định cầu làm được”. Anh rất hiểu cán bộ, tin ở cấp dưới và thường tạo điều kiện cho cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ.

Mùa khô 1970-1971, địch dùng cách đánh mới: đưa máy bay AC130 được trang bị pháo 40 li, có máy nhìn đêm phát hiện tia hồng ngoại, đi săn lùng xe, vừa bắn phá, vừa rải hỗn hợp các loại bom từ trường, bom phá, bom nổ chậm, mìn… trên những đoạn đường dài hàng trăm kilômét, để gây tắc đường, ngăn chặn không cho xe qua. Lúc đầu, chưa có kinh nghiệm đối phó, nên có lúc ở các binh trạm phía ngoài, trong một tuần có tới hơn một trăm xe bị bắn cháy, hàng trăm cán bộ và chiến sĩ công binh bị gẫy chân vì mìn lã; đường vận chuyển bị tắc.

Đùa năm 1972, sau khi bộ đội phòng không Đoàn 559, bắn rơi hai máy bay AC130 ở khu vực sân bay A Lưới và Sê Pôn, ta đã rút kinh nghiệm về cách đánh lại loại máy bay này, và cách phá bom mìn hỗn hợp, đem ra phổ biến trên toàn tuyến.

Đầu năm 1971, máy bay AC130 bắt đầu đánh vào khu vực chúng tôi. Chiều tối 30 tháng 3, tôi cùng một số cán bộ cơ quan Sư đoàn đi ra đường, để trực tiếp chỉ đạo cách chống phá địch qua kinh nghiệm các binh trạm phía Bắc. Khi qua đường 49 thì xe tội bị địch phát hiện và hai máy bay AC130 đến quần đảo và bắn phá khu vực đó suốt hai giờ liền. Chúng tôi chạy được vào hầm nhưng hầm cũng bị trúng bom. Tôi cùng một số cán bộ, chiến sĩ bị thương. Tổ cấp cứu lưu động khiêng tôi ra khỏi hầm, máu đầm đìa từ bụng xuống đến hai chân. Các trạm “barie” báo cáo về Binh trạm và Đoàn 559 là tôi bị gẫy hai chân. Sau tôi được biết, hôm đó anh Đinh Đức Thiện đang ở Sở chỉ huy Đoàn, Anh xúc động bảo cơ quan điện ngay cho Viện Quân y 45 “cố giữ cho anh Tạm một chân”. Tôi hiểu Anh rất thương tôi và các cán bộ, chiến sĩ bị thương vong! May mắn quá, khi bệnh viện tháo băng ra thì tôi bị sáu vết thương, nhưng chỉ một vết gẫy xương ống chân phải, còn đều vào phần mềm.

Hơn một tháng sau anh Thiện lại diện vào Sư đoàn: “Chuyển đồng chí Tạm ra hậu phương điều dưỡng, khỏi sẽ vào sau”, mặc dù tôi đã hai lần xin ở lại đơn vị, tiếp tục công tác.Sau hai tháng điều trị ở Viện Quân y 108, tôi lại xin về Đoàn 559. Anh đến thăm tôi và bảo: “Bây giờ cậu không đi “a văng xăng” được nữa, cậu sẽ giữ “arie” (hậu vệ( thôi!”. Thế là tôi được giao nhiệm vụ đại diện cho tiền phương Tổng cục Hậu cần giao hàng cho Đoàn 559, ở Nam Quân khu IV. Đây là vùng “cán xoong” mà địch đã tập trung đánh phá rất ác liệt trong mùa mưa 1972.

Trải qua nhiều năm tháng công tác căng thẳng và nhiều đêm không ngủ từ trước đây, tôi bị bệnh huyết áp thấp và suy nhược thần kinh nặng. Anh biết tin đã viết thư động viên tôi cố giữ gìn sức khỏe để công tác và gửi quà cho tôi hai lạng cao ban long và bốn con chim bồ câu để bồi dưỡng.

Tôi còn thấy ở Anh, một người chỉ huy luôn luôn có tinh thần cách mạng tiến công, không chịu lùi bước trước khó khăn, nên thường không ưa những người hay bàn lùi. Anh là một người “khẩu xà, tâm phật!”: đối với cán bộ dưới quyền, người nào mắc khuyết điểm do thiếu trách nhiệm, Anh hay phê bình gay gắt, nhưng xong rồi, lại bỏ qua; có khi anh dọa cách chức, nhưng thực ra Anh chưa kí quyết định thi hành kỉ luật nặng với ai. Hiểu rõ tính tình của Anh như vậy, nên nhiều cán bộ rất quý trọng Anh.

Để tưởng niệm Anh, tôi xin ghi lại mấy việc mà tôi biết rõ và đã trở thành những kỉ niệm sâu sắc của tôi trong những năm tháng hoạt động dưới sự chỉ đạo của Anh trên tuyến đường Trường Sơn.

Những cống hiến của Anh đối với kháng chiến, đối với quân đội, đối với nhân dân là to lớn. Anh đã để lại tấm gương sáng cho các thế hệ nối tiếp học tập và phát huy để hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.

(*) Nguyên Phó Chính ủy Đoàn 559, Chính ủy Cục Vận tải, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kĩ thuật.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #45 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2013, 10:28:08 am »

PHẢI TẬN DỤNG MỌI LOẠI PHƯƠNG TIỆN VẬN TẢI

Đại tá VŨ BÁ TƯỚC(*)

Năm 1965, khi tôi ề công tác ở Cục vận tỉa, cũng là lúc đế quốc Mĩ bắt đầu đưa máy bay ra bắn phá miên Bắc. Cục Vận tải vừa được thành lập trở lại, do anh Nguyễn Danh Phan làm Cục trưởng. Anh Đinh Đức Thiện cũng mới từ Bộ Công nghiệp nặng trở lại quân đội làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Trước đây tôi chưa được gặp Anh nhưng đã nghe nhiều “giai thoại” về Anh: nào là “người Cục trưởng Vận tải rất tài năng trong kháng chiến chống Pháp”, nào là “người cán bộ lãnh đạo rất quyết tâm, rất nhiệt tình, nhưng tính nóng như lửa, mà một khi đã nóng thì không kiêng nể một ai, làm ăn với “ông” mà lơ mơ thì chỉ có chết”.

Sau này, tôi thường được lên Tổng cục giao ban, hoặc báo cáo kế hoạch vận tải, khi thì đi theo Cục trưởng Nguyễn Danh Phan, khi thì làm việc trực tiếp với anh Đinh Đức Thiện, được nghe những chỉ thị, những ý kiến chỉ đạo của Anh, tôi thấy rõ Anh là một người chỉ huy có tư tưởng làm ăn lớn, có nhãn quan nhìn xa, trông rộng, luôn luôn nắm được những trọng tâm, những vấn đề then chốt cần phải giải quyết, đồng thời cũng không bỏ qua mọi khả năng có thể tận dụng để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Điều này đã thể hiện rõ trong tư tưởng chỉ đạo của Anh đối với công tác vận tải.

Lúc đó, Cục Vận tải được Tổng cục Hậu cần giao nhiệm vụ tổ chức vận chuyển hàng hóa từ miền Bắc  vào Nam Quân khu IV, tạo chân hàng cho Đoàn 559 tiếp chuyển trên tuyến đường Trường Sơn, chi viện cho các chiến trường. Cục vận tải chủ yếu sử dụng lực lượng vận tải của Nhà nước: tầu hỏa, tầu thủy, các đoàn vận tải ô tô các tỉnh và một phần lực lượng của Cục gồm có một ít ca nô, xà lan, ô tô (Tổng cục Hậu cần có 3 Trung đoàn xe thì đã được điều hết vào Đoàn 559).

Mục đích chính của địch đánh phá miền Bắc là nhằm ngăn cản chi viện cho miền Nam, nên đối tượng chủ yếu để đánh phá là giao thông vận tải, và khu vực trọng tâm là phía Nam Quân khu IV. Trong năm 1965, máy bay Mĩ đã bắn phá ác liệt các cầu, phà, bến cảng, các đoạn đường sắt, đường bộ xung yếu nhất là từ Hà Tĩnh trở vào, làm cho giao thông vận tải bị ách tắc nghiêm trọng. Đến giữa năm, kế hoạch tạo chân hàng cho Đoàn 559 mới chỉ đạt 25%.

Anh Đinh Đức Thiện chỉ thị cho Cục Vận tải phải tìm mọi cách để đảm bảo đủ chân hàng cho Đoàn 559 trước mùa khô. Địch đã phá hỏng phần lớn đầu máy, toa xe ở Nam Khu IV, anh Thiện đã bàn với Bộ Giao thông Vận tải, lắp các camiông ray (camion rail) kéo các toa xe goòng để tận dụng tuyến đường sắt Chu lễ - Tân Ấp - Đò Vàng(1). Nhưng chỉ sau một thời gian, địch phát hiện lại tập trung đánh phá sập hầu hết các cầu, làm cho đoạn đường goòng này chỉ dài có 28km, mà phải chuyển tải tới bốn, năm lầm…

Một buổi sáng, anh Đinh Đức Thiện trệu tập Cục Vận tải và Quản lí xe lên làm việc. Anh nói: “Để bộ đội ở chiến trường miền Nam đói, thiếu súng, thiếu đạn là tội của miền Bắc, tội của hậu cần; phải tìm mọi cách, bằng bất cứ giá nào, đưa hàng vào chiến trường, không chịu bó tay. Địch đánh tắc đường bộ, đường goòng, thì ta phải phát triển thật nhanh đường thủy; lúc này địch đang tìm cách ngăn ngoài biển, ta phải tận dụng các sông, ngòi, kênh, rạch trong nội địa để vận chuyển”. Anh yêu cầu Cục Quản lí xe triển khai việc đóng ca nô, xa làn, và Cục Vận tải đi khảo sát ngay khả năng vận chuyển đường thủy ở nam Khu IV, tìm các bến bãi, kho chứa hàng, nơi cất giấu phương tiện vận tải, đặc biệt chú trọng “Kênh nhà Lê” qua kênh này đưa phương tiện thủy vào hoạt động trên các sông Khu IV, đặc biệt chú ý tuyến Khương Hà - Minh Cầm - Cù Lạc(2), để hỗ trợ cho tuyến đường goòng đang có khó khăn.

Cục Vận tải cử cán bộ đi khảo sát “Kênh nhà Lê”(3), thấy có thể dùng cho loại thuyền hoặc xà lan 30 tấn. Anh Thiện liền hạ lệnh cho Cục đưa ngay một đầu kéo và sáu xà lan 30 tấn, theo “Kênh nhà Lê” vào vận chuyển trên sông Lam, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố(4).

Riêng tuyến Khương Hà - Cù Lạc, vì không thể đưa phương tiện đến bằng đường thủy, nên tôi được giao nhiệm vụ cùng một số cán bộ Cục vận tải và xưởng A173 Cục Quản lí xe đi khảo sát đường bộ để vận chuyển ca nô và sả lan đến bằng ô tô. Đường ra sông, nhiều đoạn rất hẹp, xe 4 tấn khó đi qua lọt, nên chúng tôi phải vừa đi vừa phát cây mở rộng đường. Tuy nhiên cũng còn nhiều đoạn cua gấp khúc quá hẹp, nên xe chở xà lan dài quá cũng không qua được.

Chúng tôi về báo cáo tình hình, anh Đinh Đức Thiện liền quyết định giao cho Cục Quản lí xe sản xuất loại xà lan 10 tấn nhưng chia làm 3 khoang tách rời (2 khoang mũi và 1 khoang giữa). Còn một khó khăn nữa phải giải quyết là chúng tôi chỉ có một xe cẩu 5 tấn, tay đòn ngắn, mà ở bờ sông thì đường rất hẹp, địa hình mấp mô, lầy lội, không có chỗ cho xe cẩu đứng để hạ các khoang xà lan xuống sông. Chúng tôi đã bàn cách khắc phục: bạt đất thành một dốc thoải từ bờ sông xuống mặt nước, lót tà vẹt cho ca nô, xà lan trượt xuống nhờ sức thả của tời xe Zil 157…

Một đêm tối trời, chúng tôi bắt đầu dùng xe 3 cầu, chở ca nô và các khoang xà lan ra bờ sông. Trời mưa, đường trơn, lầy, xe chở cồng kềnh, nên đi rất chậm, phải nhích dần từng đoạn, từng đoạn, nhất là khi vượt qua những “cua” ngoặt gấp khúc. Đến 2 giờ sáng, xe mới vào đến bờ sông. Mặc dầu rất mệt, nhưng cũng phải hạ hàng xuống trước khi trời sáng. Cán bộ, chiến sĩ dùng sức người kết hợp với tời thả từng khoang, cho trượt từ từ xuống sông. Trong khi thả phải có một số người đỡ cho khoang xà lan đặt đúng vào đường trượt; khi xà lan trượt, hai bên rãnh phải có người điều chỉnh, khi xà lan xuống nước, phải có người nhảy xuống theo, để giữ, kéo, móc nối 3 khoang lại với nhau thành một xà lan, rồi đem đi cất giấu ở chỗ có bụi cây che khuất.

Hai tuần sau, Cục Vận tải đã có 1 ca nô và 6 xà lan 10 tấn chạy trên tuyến Khương Hà - Minh Cầm - Cù Lạc. Các phương tiện được ngụy trang cẩn thận, địch lại bị bất ngờ nên không phát hiện được.

Việc tổ chức tuyến vận tải đường thủy này đã giúp khắc phục được khó khăn về chuyển tải và đối phó với địch trên tuyến đường goòng.

Nhờ phát triển mạnh vận tải đường thủy ở Nam Khu IV, nên đến mùa khô năm đó, đã bảo đảm chân hàng cho Đoàn 559 đạt 80%.

Nhớ lại chuyện này để thấy rõ sự khôn ngoan, sáng tạo, tài tình, tầm nhìn toàn diện của anh Đinh Đức Thiện trong chỉ đạo công tác vận tải chi viện chiến trường.

Chú thích
(*) Nguyên Cục trưởng Cục Vận tải.
(1) Chu Lễ - Tân Ấp - Đò Vàng nằm trên tuyến đường sắt Bắc - Nam thuộc huyện Hương Khê (Hà Tĩnh).
(2) Khương Hà - Minh Cầm - Cù Lạc: thuộc huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình).
(3) Là con kênh đào từ Thanh Hóa vào Nghệ An, được vua Lê Đại Hành cho đào từ năm 972 để mở đường tiến quân vào phía Nam. Đến đời nhà Trần, từ năm 1231, vua Trần Thái Tông cho tu bổ, mở rộng, đào sâu thêm.
(4) Là hai con sông chảy qua huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) đổ vào sông Cả..
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #46 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2013, 01:13:49 pm »

VẬN TẢI: THÔ SƠ HAY CƠ GIỚI

NÔNG TÁC LÂM(*)

Trong những năm 1967 - 1968, đế quốc Mĩ tập trung cao độ lực lượng không quân và cả pháo tầm xa, đặt trên các hạm tầu, đánh phá ác liệt các tuyến giao thông ở miền Bắc, nhằm ngăn chặn nguồn tiếp tế từ hậu phương vào các chiến trường miền Nam. Đặc biệt, từ sau khi Tổng thống Mĩ Giônxơn tuyên bố “ném bom hạn chế” từ vĩ tuyến 20 trở vào, thì địch đã tập trung đánh rất dữ dội khu vực Nam Quân khu IV, mà chúng gọi là “vùng cán xoong”. Ở một số trọng điểm như ngã ba Đồng Lộc, các cửa khẩu vào tuyến 559, đầu đường nối ào các chiến trường, các bến phà, máy bay địch đủ loại đã thay nhau bắn phá suốt ngày đêm, hầu như không có lúc nào ngừng. Hố bom chi chít của các loại bom nổ ngay, bom nổ chậm, bom napan, bom bi, mìn… chồng chất lên nhau. Đường cũ không còn vết tích, cây cối bị phá trụi, núi đồi bị cày xới, sạt lở chỉ còn một mầu đất nâu xám, đồng ruộng biến thành bãi bùn… Có những nơi, do địch đánh phá liên tục, hàng nửa tháng liền, không một phương tiện giao thông nào qua được. Trong khi đó thì hàng trăm xe trên đường Trường Sơn phải chờ hàng, nhất là chờ xăng dầu.

Đặc biệt khó khăn là Quân khu Trị Thiên, mặc dầu ở sát ngay hậu phương lớn, nhưng từ sau cuộc tổng tiến công “Tết Mậu Thân”, tuyến vận tải vào chiến trường đã bị máy bay địch băm nát, không những đường ô tô mà cả đường gùi thồ cũng bị ách tắc nghiêm trọng. Bộ đội, thanh niên xung phong và dân công, có nơi thiếu gạo đã phải ăn cháo.

Để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ nhằm phong tỏa giao thông vận tải ở tuyến Nam Quân khu IV, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu IV - do Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải làm Tư lệnh. Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Chính ủy Quân khu IV làm Chính ủy, Đại tá Hoàng Văn Thái, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Phó Tư lệnh. Trong tình hình địch đánh phá ác liệt, giao thông vận tải bị đình đốn không chuyển được hàng vào chiến trường, Bộ Tư lệnh Bảo đảm giao thông vận tải đã họp để bàn việc đẩy hàng qua các trọng điểm, giao cho Đoàn 559 vận chuyển vào các chiến trường, và đặc biệt có Đại tướng Võ Nguyên Giáp; đồng chí Đinh Đức Thiện, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; đồng chí Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; đồng chí Lương Nhân, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; đồng chí Hoàng Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy Trị Thiên. Tôi là Phó Tham mưu trưởng Ban Bảo đảm giao thông vận tải làm thư kí hội nghị.

Các phương án đề xuất để bảo đảm giao thông vận tải chi viện chiến trường được hng thảo luận rất kĩ lưỡng. nhưng tựu trung, có hai phương án chính:

Phương án thứ nhất của đồng chí H.A. căn cứ vào tình hình địch đánh phá ngăn chặn tuyến giao thông rất quyết liệt, không thể vận chuyển lớn bằng ô tô được, ta nên mở những tuyến đường nhỏ bí mật trong rừng, có thể che mắt máy bay địch, để tổ chức vận chuyển bằng xe đạp thồ.

Để thực hiện riêng đối với tuyến vào Trị Thiên, cần có vài nghìn chiếc xe đạp và điều khiển xe đạp thồ. Xe đạp thì không có gì khó khăn lắm vìa đã có sẵn trong kho của Bộ Vật tư và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước sẵn sàng cấp cho chiến trường. Riêng về dân công, nhắt là loại biết điều khiển xe đạp thồ ở đường rừng, đề nghị huy động ở Thanh Hóa, vì tỉnh này là nơi có đông người làm nghề thồ hàng bằng xe đạp, đã nổi tiếng về sức dẻo dai và khả năng chở đường nhiều hàng trên một xe từ Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Vấn đề này tuy có khó khăn nhưng cũng có thể đáp ứng được.

Phương án này, xem xét thì có vẻ đơn giản, thực hiện không có gì trở ngại nhiều lắm, nhưng có nhược điểm là phải đưa thêm khá nhiều nhân lực vào chiến trường. Việc cung cấp, tiếp tế cho lực lượng này sẽ rất tốn kém, trong khi chiến trường Trị Thiên đang có nhiều khó khăn về lương thực, thực phẩm do không vận chuyển vào được. Vả lại cũng không thể nào tin chắc chắn là với một lực lượng xe và người đông đảo như vậy, vào trong thời gian dài, mà địch không phát hiện được và sẽ không bị đánh phá. Và còn điều quan trọng nhất là với lực lượng thô sơ này thì khối lượng hàng đưa vào không được nhiều, không bảo đảm được nhu cầu thường xuyên của chiến trường, chứ không nói gì đến nhu cầu để đánh lớn.

Phương án thứ hai của đồng chí Đinh Đức Thiện; dựa trên căn cứ trong hơn hai năm qua, ta đã thực hiện vận tải cơ giới có kết quả và ta cũng có một số kinh nghiệm. Do nhu cầu của chiến trường ngày càng lớn, đòi hỏi ta nhắt thiết phải tìm mọi cách chẳng những để duy trì mà còn phát triển nhanh vận tải cơ giới thì mới đáp ứng được. Không những tiếp tục vận chuyển cơ giới trên hành lang Trường Sơn, mà cả trên các tuyến đường từ hậu phương vào Đoàn 559, và từ Đoàn 559 vào các chiến trường. Nay địch tập trung đánh phá rất ác liệt vào nam Quân khu IV và đường vào Trị Thiên, nhưng chúng cũng không có đủ lực lượng rải ra đánh khắp mọi nơi, nên đã có phần lơi lỏng đối với các tuyến phía trong. Ta cần khắc phục khó khăn, chuyển nhanh chân hàng cho Đoàn 559 để tranh thủ thời cơ, đưa vào các chiến trường, ngay trong mùa khô này. Anh Thiện đề nghị cụ thể:

- Tập trung lực lượng vận tải của quân đội và của Nhà nước tạo kì được chân hàng cho Đoàn 559 theo một kế hoạch thống nhất: ở phía sau, do lực lượng của Bộ Giao thông Vận tải (xe goòng, tầu, thuyền, xà lan, ô tô…), kết hợp với một phần lực lượng của Cục Vận tải quân đội thực hiện; ở phía trong, gần các cửa khẩu do lực lượng vận tải quân sự đảm nhiệm. Sẽ dùng các đại đội, tiểu đoàn xe, lợi dụng những lúc thông đường, tổ chức các đợt vận chuyển đột kích, vượt qua các trọng điểm, các cửa khẩu để giao hàng cho Đoàn 559 và dưa tới các kho của Quân khu Trị Thiên.

- Nói về xe, thì trước hết phải nói đến đường, vì có đường thì xe mới chạy được. Địch chủ yếu nhằm vào đường cầu để đánh phá; cho nên cần tăng chường thêm lực lượng làm đường, cầu và bảo đảm giao thông (công binh, thanh niên xung phong, dân công…), để khi địch đánh hỏng chỗ nào, ta có lực lượng sửa ngay, không để tắc đường lâu; ta phải làm nhiều đường phụ, đường vòng, đường tránh, đường ngầm, để khi địch đánh đường này ta đi đường khác; đường chính cũng phải mở thêm để ta có nhiều cửa vượt khẩu, lực lượng đánh phá của địch sẽ bị phân tán, không tập trung được. Cụ thể là, ngoài đường 12, đường 20 đang sử dụng, tiếp tục duy trì tuyến đường vận tải tô sơ qua làng Ho (Nam Quảng Bình) để hỗ trợ một phần cho vận tải cơ giới, nay cần mở thêm tuyến đường ô tô chạy từ Long Đại, qua nông trường cao su Lệ Ninh, qua biên giới Lào (Bắc sông Sê Băng Hiên).

- Địch đánh phá giao thông vận tải của ta, ta phải đánh lại chúng mà đi. Cần dưa lực lượng phòng không từ pháo cao xạ 100, 57, 37 li đến các loại súng 12,7 và 14,5 ly của B5, của Quân khu, của Tỉnh… đến yểm trợ giao thông vận tải; có những đơn vị bố trí cố định để bảo vệ các trọng điểm, có những đơn vị cơ động để bảo vệ các đoàn xe, nhất là trong các đợt vận chuyển đột kích, hoặc để tập trung bảo vệ những mục tiêu cần thiết. Có lực lượng cao xạ đánh trả thì máy bay địch cũng chùn, không thể tự do muốn đánh đâu thì đánh, mà về phía ta thì công binh, thanh niên xung phong, dân công và lái xe cũng yên tâm hơn.

Cần xác định nhiệm vụ các đơn vị phòng không ở đây là để bảo vệ giao thông, bảo vệ vận tải; phải đánh địch không cho chúng phá đường, phá cầu, phá kho tàng, phá phương tiện… là chính. Bắn rơi máy bay địch là rất tốt, nhưng nếu chỉ bắn xua được địch đi, không cho chúng đánh trúng mục tiêu, cũng là hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc rồi!

- Cần thống nhất chỉ huy: ở trên đã có Ban Bảo đảm giao thông chung, ở các địa phương, cũng lập Ban bảo đảm giao thông của từng địa phương. Riêng ở phía tro9ng, gần các cửa khẩu do tính chất phải đối phó với địch rất quyết liệt, các lực lượng vận tải của quân đội, các lực lượng làm đường, bảo đảm giao thông, phòng không đều đặt dưới quyền chỉ huy của Binh trạm vận tải. Binh trạm là hình thành tổ chức binh chủng hợp thành. Có như vậy mới tạo ra sức mạnh, tránh được tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”…

Đồng chí Phan Trọng Tuệ nhiệt liệt ủng hộ phương án tổ chức vận chuyển lấy cơ giới là chính, không nên quay trở lại vận chuyển thô sơ! Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng tán thành phương án này.

Sau khi thảo luận cân nhắc mọi người đều nhất trí với phương án 2 do đồng chí Đinh Đức Thiện trình bày.]

Anh Thiện hứa nhất định sẽ bảo đảm đầy đủ nhu cầu cho chiến trường, mong các đồng chí ở Quân khu và địa phương cứ yên tâm.

Phương án này được đem ra thi hành ngay và đã đưa đến kết quả rất tốt. Mặc dầu, tập trung lực lượng tối đa, để quốc Mĩ đã không bao giờ còn ngăn chặn được việc vận chuyển hàng chi viện chiến trường của ta đi qua vùng “cán xoong” và các cửa khẩu của tuyến vận tải chiến lược. Riêng đối với Quân khu Trị Thiên, nhờ vận chuyển cơ giới mùa khô 1969 trở đi đã nhận được hàng chi viện không những đủ mà còn vượt mức yêu cầu của chiến trường.

Nhắc đến câu chuyện về lựa chọn phương án vận tải: “cơ giới hay thô sơ”, trong thời kì địch tập trung đánh phá ác liệt ở Quân khu IV, nhất là vào cuối năm 1968, để nhớ lại công lao của đồng chí Đinh Đức Thiện, một người chỉ đạo công tác vận tải trong chiến tranh rất tài tình, rất sáng tạo. Anh là nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, nhạy bén, sắc sảo, và có cách làm rất táo bạo và độc đáo.

Chú thích
(*) Nguyên Phó Tham mưu trưởng Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần; Phó Tham mưu trưởng Ban Bảo đảm giao thông Vận tải Quân khu IV; Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Bộ Cơ khí luyện kim..
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #47 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2013, 01:15:13 pm »

NGƯỜI THẦY CỦA CÔNG TÁC VẬN TẢI TRONG CHIẾN TRANH

Đại tá TRẦN LÂN(*)

Cuối tháng 11 năm 1968, ngay sau khi đe quốc Mĩ tuyên bố ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc, Bộ Tư lệnh 500(1) đã triệu tập các cơ sở lên họp và chỉ rõ: địch sẽ tập trung hỏa lực đánh phá tuyến 559 dữ dội hơn, kể cả các cửa khẩu từ miền Bắc vào và các đường ngang từ hành lang chiến lược vào các chiến trường, quyết ngăn chặn luồng hàng từ hậu phương miền Bắc chi viện cho miền Nam.

Để hỗ trợ cho vận tải cơ giới, đề phòng những khó khăn bất trắc, Bộ Tư lệnh giao cho Binh trạm 16 tổ chức một tuyến vượt khẩu bí mật bằng phương tiện thô sơ, không để địch phát hiện. Chúng tôi báo cáo quyết tâm sơ bộ, rồi trở về đơn vị làm phương án hoàn thiện xin Bộ Tư lệnh phê chuẩn sau.

Tháng 12 năm 1968, Anh Đinh Đức Thiện vào thăm Binh trạm, đúng lúc chúng tôi chuẩn bị thực nghiệm việc thả trôi xăng phuy và bao gạo trên dòng suối Băng ở miền tây huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Con suối này có dòng chảy tương tự sông Sê Băng Hiên trên đất bạn Lào mà chúng tôi sẽ thực hiện kế hoạch vận chuyển vượt khẩu.

Nhận lời mời xem cuộc thực nghiệm, Anh cùng ngồi thuyền với chúng tôi, đi theo những bao gạo, thùng xăng lững lờ trôi theo dòng nước. Anh không hỏi han gì về công việc chúng tôi đang làm. Hình như anh đang bận tâm suy nghĩ về những việc khác. Sinh ý kiến Anh nhận xét, chỉ bảo, Anh trả lời đại ý: các cậu bây giờ trực thuộc Đoàn 500, cứ theo chỉ đạo của Bộ Tư lệnh mà làm.

Ba ngày sau, từ Tỉnh ủy Quảng Bình, Anh điện cho tôi ra làm việc với đồng chí Hoàng Anh. Tôi được biết đồng chí Hoàng Anh vừa được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ vào làm Bí thư Khu ủy Trị Thiên. Tôi ra ngay và được biết thêm: trên đường vào Trị Thiên, anh Hoàng Anh dừng lại ở Quảng Bình để nắm tình hình và khả năng vận tải chi viện của hậu cần chiến lược đối với chiến trường đầy gian khổ và khó khăn này.

Tôi nhớ lại tháng 8-1968, một bộ phận chủ lực của Quân khu Trị Thiên đã phải rút quân về tuyến 559, vì địch phản kích quyết liệt, chiến trường thiếu gạo, thiếu đạn, không thể trụ lại để giữ vững những thắng lợi đã giành được từ Tết Mậu Thân. Lúc đó, Đoàn 559 cũng không còn lương thực, thực phẩm, nên bộ đội Trị Thiên phải rút về hậu phương miền Bắc, tạm thời đứng chân trên tuyến giao liên, dựa vào nguồn hàng dự trữ của Binh trạm 16 để củng cố lực lượng. Nhớ lại hình ảnh đoàn quân ốm yếu vì thiếu cơm, nhạt muối, thiếu thuốc men, từ chiến trường trở về, tôi càng nhận rõ trách nhiệm nặng nè, to lớn và vai trò quan trọng có tính chất quyết định của tuyến chi viện chiến lược mà binh trạm chúng tôi là một mắt xích trên dây chuyền vận tải quân sự rộng lớn.

Anh Hoàng Anh yêu cầu tôi cho biết kết quả thử nghiệm thả trôi, và phương án vận chuyển đường sông theo kế hoạch của Đoàn 500. Anh Thiện cũng bảo tôi báo cáo đầy đủ với anh Hoàng Anh và làm phương án với mức độ cố gắng cao nhất.

Mùa mưa năm 1968, không quân địch tập trung đánh phá ác liệt từ vĩ tuyến 20 trở vào, đã làm nát các tuyến đường chiến lược, đặc biệt là ở Nam Quân khu IV, làm cho giao thông vận tải bị ách tắc nghiêm trọng. Ta đã tập trung khắc phục, nhưng vẫn chưa làm chuyển biến được tình thế, hàng vẫn không vào được chiến trường! Sự đình đốn của vận tải trong mây tháng qua là một thực tiễn làm cho nhiều người, trong đó có cả một số đồng chí lãnh đạo phải phân vận, lo lắng và suy nghĩ: trong điều kiện địch đánh phá dữ dội như vậy, liệu phương thức vận tải cơ giới có còn phù hợp không? Có làm được không? Có nên duy trì không? Hay là quay về với vận tải thô sơ, ít nhất là trong thời gian trước mắt?

Tôi thông cảm và chia sẻ nỗi băn khoăn, lo lắng của đồng chí Hoàng Anh trước những thử thách hiện nay đang đợi anh ở chiến trường, và đã trình bày với Anh các phương án mà chúng tôi đã nghiên cứu và chuẩn bị:

- Dùng vận tải gùi thồ và thuyền trọng tải nhẹ 500 kg vượt thác, ghềnh để vận chuyển khoảng từ 500 - 300 tấn/tháng, thì phải sử dụng khá nhiều lực lượng, khó giữ được bí mật. Lương thực, thực phẩm vận chuyển vào, phải trích ra để nuôi đội quân vận tải sẽ quá lớn, phần còn lại để đưa vào chiến trường chẳng được bao nhiêu.

- Mở đường cho xe tải nhẹ chạy ở phía sau qua đèo 1001 đến bờ sông Sê Băng Hiên, từ đây thả trôi hàng vào bắc đường 9 giao cho tuyến 559, thì số quân và phương tiện sẽ giảm. Lượng hàng trước mắt có thể đạt 300 - 400 tấn/tháng, sau nếu thông suốt thì có thể tăng dần. Đây là phương án mà chúng tôi muốn chọn.

Anh Hoàng Anh động viên tôi hãy cố gắng vì chiến trường, làm từ ít tới nhiều, lúc này 1 tấn hàng vào tới chiến trường là rất quý. Anh còn cho biết sẽ tổ chức một tuyến thồ riêng của chiến trường, đón hàng ở bờ nam sông Sê Băng Hiên, qua Hướng Hóa vào hậu phương của Trị Thiên để có thể tự bảo đảm một phần, đề phòng trường hợp vận tải cơ giới của tuyến 559 gặp khó khăn, không thực hiện được kế hoạch chi viện. Anh yêu cầu Binh trạm 16 chúng tôi làm nhiệm vụ phía sau cho tuyến thồ: vận chuyển vài nghìn chiếc xe đạp và đưa mấy nghìn dân công từ hậu phương vào triển khai tuyến và sau đó, tạo chân hàng, theo yêu cầu của chiến trường.

Anh Đinh Đức Thiện chỉ nghe tôi báo cáo mà không có ý kiến gì thêm, chỉ nhắc chúng tôi phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đồng chí Hoàng Anh…

Tôi có nhiều năm làm công tác dưới quyền Anh, nhất là từ khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh. Anh trở lại làm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, được Quân ủy Trung ương phân công phụ trách chi viện vật chất, kĩ thuật cho các chiến trường. Lúc Anh trở lại quân đội thì Đoàn 559 với các tuyến vận tải thô sơ và một ít xe ô tô đã không đáp ứng được nhu cầu chi viện khi Mĩ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, và bộ đội chủ lực ta cũng tiến vào các chiến trường.

Anh cùng các cơ quan Tổng cục Hậu cần, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, tập trung mọi nỗ lực để nhanh chóng đưa tuyến 559 lên vận tải cơ giới.

Chú thích
(*) Nguyên binh trạm trưởng các Binh trạm 9, 16 ở Nam Quân khu IV.
(1) Đoàn 500 được thành lập ngày 28-10-1968 để thay cho Tổng cục Hậu cần Tiền phương có nhiệm vụ tổ chức chỉ huy tuyến vận tải ở Nam Quân khu IV, chuyển hàng từ Nam sông Lam vào qua đường 12 và đường 20, giao cho Đoàn 559. Đoàn 500 do Thiến tướng Nguyễn Đôn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy.
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #48 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2013, 01:15:58 pm »

Ngay trong những năm đầu chống chiến tranh phá hoại, Anh không chỉ lo về vận tải cơ giới trên đường bộ, mà còn quan tâm rất nhiều đến vận tải thủy và đường ống dẫn dầu. Anh đã chủ trương tăng cường phương tiện vận tải đường sông trong nội địa, và đưa một phần lực lượng đường sông ra hoạt động ở ven biển, mặc dù địch phong tỏa rất gắt gao. Khối lượng xăng dầu cho vận tải cơ giới chiếm một phần tư tổng trọng lượng hàng hóa vận chuyển, nên trong nhiều năm, bộ đội vận tải thường bị thiếu nhiên liệu. Qua sáng kiến táo bạo của Anh, từ cuối năm 1968, đường ống đã được xây dựng, đang kéo dài theo tuyến vận tải chiến lược để cung cấp xăng dầu cho Đoàn 559 và sẽ phát triển vào các chiến trường trong tương lại không xa.

Khi vận tải cơ giới của tuyến chiến lược đã phát triển mạnh, các chiến trường miền Nam đã trở thành địa bàn tác chiến thường xuyên của bộ đội chủ lực, thì không thể chỉ dựa vào đôi vai của bộ đội và dân công, để mở các chiến dịch lớn, đánh dài ngày. Anh Thiện đã gợi ý làm đường chiến dịch cho các chiến trường, cung cấp các phương tiện kĩ thuật để mở đường, và đưa các đơn vị vận tải cơ giới từ hậu phương vào hoạt động cũng như giúp đỡ tổ chức lực lượng vận tải cơ giới cho các Quân khu miền Nam, khắc phục tình trạng mất cân đối giữ sức đẩy cao của tuyến chi viện chiến lược, và sức thút thấp của tuyến vận tải chiến trường, làm cho hàng hóa không bị ứ đọng, chậm đến tay bộ đội.

Hầy như mùa khô năm nào Anh cũng đến các tuyến vận tải và các chiến trường để trực tiếp kiểm tra, đôn đốc, điều chỉnh nhịp nhàng, kịp thời hoạt động của tuyến trước và tuyến sau, nắm vững tình hình thực tế và những yêu cầu mới để chỉ đạo hậu phương quân đội và kiến nghị với hậu phương quốc gia đáp ứng.

Đế quốc Mĩ lợi dụng những khó khăn về khí hậu, thời tiết và nhược điểm của hệ thống cầu đường của ta, đã làm cho tuyến vận tải chiến lược bị thất bại tạm thời trong mùa mưa 1968. Nay chúng đang tiếp tục cuộc chiến tranh ngăn chặn ác liệt gấp bội, trọng điểm nhằm vào các cửa khẩu, với tham vọng không cho miền Bắc chi viện cho miền Nam, để quân ta ở các chiến trường bị đẩy lùi về rừng núi, trở lại thời kì chiến tranh du kích, âm mưu làm cho cuộc chiến tranh giải phóng tàn lụi dần!

Tất cả suy tư và lo lắng của Anh trong thời điểm này là không cách nào thắng địch trên mặt trận giao thông vận tải, giữ vững được vận tải cơ giới, nhằm bảo đảm đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu của các chiến trường ngày càng phát triển to lớn. Ngày nay trong điều kiện mới, Anh thấy rõ không thể nào lặp lại phương thức huy động hàng chục vạn dân công đưa vào tuyến vận tải, đưa ra chiến trường như ở chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa! Anh không quan tâm mấy đến việc thả trôi của chúng tôi cũng chính là vì vậy!

Từ mùa khô năm 1969, cuộc chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn giữa ta và địch đã phát triển đến đỉnh cao. Với sự chi viện của cả nước, với sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Tổng cục Hậu cần, với sự thông minh, mưu trí của các cấp chỉ huy các tuyến vận tải, với tinh thần hi sinh, dũng cảm tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ trong các đơn vị binh chủng hợp thành: công binh, phòng không, bộ binh, vận tải, kho, trạm, đường ống, thông tin, của thanh niên xung phong và dân công, của nhân dân… trong đó phải kể đến sự chỉ đạo sát sao với quyết tâm không mệt mỏi của đồng chí Đinh Đức Thiện, bộ đội vận tải của ta đã thắc được địch trên các tuyến. Ta cũng phải chịu những tổn thất không nhỏ, nhưng lượng hàng đưa vào chiến trường ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước.

Riêng chiến trường Trị Thiên, ngay trong mùa khô 1969, đã nhận được khối lượng hàng chi viện vượt mức kế hoạch.

Thắng lợi của vận tải cơ giới trong mùa khô 1969 đã củng cố niềm tin của các cấp lãnh đạo và chỉ huy ở chác chiến trường cũng như ở hậu phương.

Cũng trong mùa khô 1969, tuyến thồ của khu Trị Thiên đã phải giải thể vì địch đánh ác liệt, vì khí hậu thời tiết khắc nghiệt, làm dân công đau ốm bệnh tật nhiều, năng suất vận tải quá thấp. Còn tuyến thả trôi của Binh trạm 16 chúng tôi, phát triển khá thuận lợi, từ 300 - 400 tấn lúc đầu, đã đạt tới mức cao điểm 3000 tấn/tháng vào mà mưa năm 1960. Nó đã hỗ trợ đắc lực cho tuyến 559, tạm ngừng hoạt động trong mùa mưa. Tuy vậy, nó cũng phải kết thúc nhiệm vụ lịch sử vào thời điểm này, vì thực tiễn hai mùa khô 1969 - 1970 đã khẳng định: Không quân địch không có khả năng ngăn chặn nổi vận tải cơ giới của ta nữa!

Trong những năm tiếp theo, đường, cầu ngày càng phát triển, và được củng cố vững chắc. Xăng dầu có đầy đủ. Thông tin chỉ huy thông suốt trên toàn tuyến. Các Trung đoàn ô tô vận tải cơ động được thành lập, và được sử dụng chạy đường dài, đi ban ngày trong đường kín vào thẳng đến các chiến trường Tây Nguyên, Khu 5 và Nam Bộ… Tất cả những nhân tố đó đã góp phần làm cho thời gian chuyển hàng giảm đi một nửa so với tuyến trước, và lực lượng vận tải chiến lược đã đáp ứng được đầy đủ và kịp thời nhu cầu thường xuyên cũng như đột xuất của chiến trường.

*
*    *

Kỉ niệm 10 năm ngày Anh Đinh Đức Thiện qua đời, chúng tôi nhớ tới công lao to lớn của Anh trong việc xây dựng và phát triển vận tải cơ giới trên tuyến chi viện hậu cần chiến lược trong chiến tranh chống Mĩ.

Anh là người Anh cả của bộ đội vận tải quân sự anh hùng, người thầy của công tác vận tải trong chiến tranh. Ngay cả trong lúc khó khăn gian nguy nhất, Anh vẫn kiên trì phương thức sử dụng cơ giới trên tuyến vận tải chiến lược, vì biết chỉ có vận tải cơ giới mới có thể bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho các chiến trường để đánh thắng đế quốc Mĩ.. anh là người lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược, có quyết tâm và mạnh dạn xóa bỏ những gì lỗi thời, ràng buộc, cản trở sự phát triển của công tác vận tải trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Anh là người dám làm, dám chịu trách nhiệm với đảng, với quân đội, với nhân dân để đưa công tác vận tải chi viện chiến trường phát triển tới đỉnh cao, sẵn sàng chờ đón thời cơ chiến lược lớn để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ở cương vị người lãnh đạo ngành Hậu cần toàn quân, Anh luôn luôn nắm chắc vận tải là khâu trọng tâm để hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm cho bộ đội chiến thắng!
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
anhquaynop
Thành viên
*
Bài viết: 244


« Trả lời #49 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2013, 01:17:49 pm »

ĐỒNG CHÍ ĐINH ĐỨC THIỆN VÀ NGÀNH XĂNG DẦU QUÂN ĐỘI

PHAN TỬ QUANG(*)

Trong cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, các kho xăng dầu là những mục tiêu trọng điểm, bị tập trung đánh phá. Mục đích của chúng là phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và nhất là ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Ngay từ ngày 5-8-1964, không quân Mĩ đã đánh vào hàng loạt các kho xăng dầu của Nhà nước ở Bến Thủy (Nghệ An), Thượng Lí (Hải Phòng), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Đến tháng 4-1966, địch lại đánh vào kho Đức Giang và kho Đông Anh ở Hà Nội.

Địch lại càng đặc biệt chú trọng hủy diệt các kho xăng dầu của quân đội: trong 3 năm, từ 1966 đến 1968, chỉ riêng một kho H150 của Cục Xăng dầu ở Nghệ An đã bị đánh liên tiếp 169 trận, với 2420 bom phá và bom sát thương, 1545 quả đạn tên lửa và rốc két, chưa kể đạn pháo từ tầu chiến địch ở ngoài biển bắn vào.

Tuy nhiên, trong suốt cuộc chiến tranh phá hoại, các kho xăng dầu quân đội đã bố trí phân tán, chôn giấu, ngụy trang kín đáo, nên tuy bị đánh ác liệt, nhưng không có tổn thất lớn, vẫn liên tục tiếp nhận và cấp phát, bảo đảm xăng dầu cho các lực lượng vũ trang chiến đấu cho đến ngày thắng lợi. Tuy nhiên việc địch đánh phá, cũng không phải là không gây cho chúng ta nhiều khó khăn và trở ngại.

Vào những năm 1966-1967, ngành xăng dầu quân đội đứng trước một yêu cầu mới: phải bảo đảm xăng dầu với bước phát triển nhảy vọt cả về khối lượng và chủng loại cho các quân binh chủng kĩ thuật, cho các chiến trường và nhất là cho tuyến vận tải chiến lược Trường sơn đang chuyển ssang vận chuyển bằng cơ giới với quy mô lớn. đến thời kì đó, phương thức vận chuyển xăng dầu bằng thùng phuy, xe téc đã không còn thích hợp nữa vì không đáp ứng được nhu cầu mà lại dễ bị thiệt hại khi địch đánh phá. Đã có lúc, do thiếu xăng, nên đích thân đồng chí Tư lệnh Đoàn 559 mỗi đêm phải tự mình phân phối từng phuy xăng để vận chuyển mặt hàng gì, cho chiến trường nào.

Không đêm này không có xe chở xăng bị bắn cháy, không có người lái bị thương vong. Vì xe chở xăng bị đánh trúng có nghĩa là chúng ta mất cả xe, mất cả xăng dầu, và quan trọng hơn cả là sinh mạng chiến sĩ lái xe. Một lít xăng đưa vào tuyến vận tải, đưa vào chiến trường, ít nhiều đều có thấm máu đồng đội! Tình hình này làm cho cán bộ xăng dầu hết sức day dứt và lo nghĩ. Đồng chí Đinh Đức Thiện cũng dành nhiều thời gian để suy nghĩ và trao đổi với chúng tôi ở ngành Xăng dầu.

Đồng chí đã sớm nghĩ đến việc phải chuyển xăng dầu bằng đường ống. Từ cuối năm 1966, đồng chí đã đề nghị Bộ Quốc phòng và Chính phủ đặt vào đơn hàng viện trợ năm 1967, xin Liên Xô cung cấp cho các bộ đường ống dã chiến của quân đội Xô viết. Cuối năm 1967, đồng chí chủ trì một cuộc họp về bảo đảm xăng dầu cho các chiến trường và tuyến vận tải, trước yêu cầu mới. Trong cuộc họp này, đồng chí đã xác định quyết tâm dùng đường ống để vận chuyển xăng dầu. Đó là một suy nghĩ táo bạo, một công việc mới mẻ hoàn toàn, trong lúc cơ sở vật chất kĩ thuật và chuyên gia chưa có. Nhưng phải làm, vì chỉ có phương thức vận chuyển bằng đường ống, mới bảo đảm được xăng dầu liên tục với khối lượng ngày càng lớn, lại giảm được tổn thất của cải và sinh mạng.

Đến giữa năm 1968, Liên Xô viện trợ cho ta 2 bộ đường ống dã chiến, mỗi bộ dài 100 km, kèm theo máy bơm và các phụ kiện đồng bộ. Đồng chí Thiện quyết định sử dụng ngay để làm tuyến đường ống đầu tiên vượt qua tam giác lửa Vinh - Nam Đàn - Linh Cảm.

Sau khi nghe Tổng cục Hậu cần báo cáo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu: “Tôi tán thành ý kiến của anh Đinh Đức Thiện, trước mắt phải làm ngay đường ống đưa xăng dầu vượt qua các trọng điểm đánh phá của địch, rồi làm tiếp tuyến đường ống vượt Trường Sơn”.

Đồng chí Đỗ Mười, cũng hoàn toàn nhất trí với việc xây dựng đường ống và nói nếu gặp khó khăn gì thì trực tiếp báo cáo để đồng chí giải quyết.

Được sự ủng hộ của lãnh đạo quân đội và Nhà nước, chúng tôi bắt tay vào đặt đoạn đường ống đầu tiên từ Nam Đàn qua Linh Cảm vào đất Hà Tĩnh, dài 42 km, trong đó công việc khó nhất là đưa đường ống vượt qua Sông Lam rộng 500m. Đây là đoạn đường phải qua nhiều trọng điểm, địch đánh phá ác liệt nhất mà xe vận chuyển xăng dầu không hoạt động được.

Chúng tôi đã hoàn thành được việc xây dựng đoạn đường ống đầu tiên này, trong điều kiện máy bay địch quần đảo và bắn phá suốt ngày đêm nhưng cũng không bị thiệt hại gì đáng kể. Sau đó đồng chí Đinh Đức Thiện giao cho chúng tôi thi công tiếp, nối tuyến ống vào Khe Ve (Quảng Bình) đi theo đường 12, qua đèo Mụ Giạ (cao 900 mét) vào đến Nà Tông trên đất Lào.

Đúng đêm mồng một Tết năm 1969, xăng dầu đã được vận hành qua tuyến đường ống vào kho Nà Tông. Vào 1 giờ sáng hôm đó, đồng chí Đinh Đức Thiện gọi dây nói cho tôi chúc mừng thắng lợi của cán bộ, chiến sĩ xăng dầu và cho biết: Bác Hồ rất vui lòng. Không có gì vui sướng bằng khi công trình vừa hoàn thành đã được cấp trên và nhất là được Bác Hồ động viên khuyến khích. Cán bộ, chiến sĩ xăng dầu lại hăm hở lao vào chuẩn bị thi công tiếp tuyến đường ống từ Nam Hà Nội và Nam Bộ.

Chú thích
(*) Nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu Tổng cục Hậu cần; Tổng cục phó Tổng cục Dầu khí..
Logged

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quẩy nóp trong hàng quân đi
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM