Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:52:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp  (Đọc 109303 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #80 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2008, 10:26:22 pm »


NGUYỄN DƯỠNG GIÁ1

                                                    TIẾT NGHĨA PHAN ĐÌNH PHÙNG2

                                                    Công danh không phụ với khoa danh,
                                                    Ồ! Thế mà nên, thế cũng đành.
                                                    Thuốc đắng ngọt ngào lòng tiết nghĩa,
                                                    Lửa nồng mát mẻ tấm trung trinh.
                                                    Sống chưa thỏa chí trừ da trắng,
                                                    Thác cũng còn tên ở sử xanh.
                                                    Gương sáng người Nam coi học lấy,
                                                    Sinh mà như Cụ chẳng hư sinh3.

Chú thích:
1. Nguyễn Dưỡng Giá: người xã Văn Lâm, nay là xã Đức Lâm, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông học giỏi, thi đậu Tú tài, được các nhà Văn thân đề cử làm Thương biện quân vụ kiêm Ngự tiền văn hỗ giá của vua Hàm Nghi thường ở cạnh vua (cùng với Ngự tiền võ hỗ giá là Tăng Bạt Hổ). Sau khi vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Nguyễn Dưỡng Giá bỏ về nhà, vào tu ở một ngôi chùa vắng gần làng Yên Phúc, xã Yên Hồ (nay là xã Đức Phúc), huyện Đức Thọ. Năm 1890, Phan Đình Phùng ra Bắc trở về, quân cũ lại hoạt động mạnh, Nguyễn Dưỡng Giá có trở lại hàng ngũ nghĩa quân cũ không, chưa thấy tài liệu nào nói đến, song qua một số thơ văn của ông còn lại, ta thấy ông cũng là người có nghĩa khí.
2. Theo tài liệu chính thức thì Phan Đình Phùng mất vì bệnh lỵ kinh niên, lại thêm lam sơn chướng khí ở chốn rừng sâu. Nhưng lúc đầu có tin nói ông đã uống thuốc độc tự tử, nên Nguyễn Dưỡng Giá mới làm bài thơ điếu có nội dung như trên.
3. Theo tạp chí Văn học số 5-1970.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #81 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2008, 10:34:53 pm »


KHUYẾT DANH

BÀI VÈ KỂ CHUYỆN PHAN ĐÌNH PHÙNG
KHỞI NGHĨA ĐÁNH PHÁP
1

Quan Đình người ở quê ta
Khí thiêng hun đúc sơn hà Hồng Lam.
Vốn là dòng dõi họ Phan,
Tiếng thơm Đông Thái đồn vang khắp miền.
Tài cao từ thuở thiếu niên,
Đã gồm văn võ lại hiền xưa nay.
Vua ban chức Ngự sử đài,
Phụng công thủ pháp đêm ngày chăm lo2
Triều quan từ nhỏ đến to,
Ngài đều hặc tấu không cho hỗn hào.
Nước nhà đang buổi nhôn nhao,
Ngoài đường có giặc, trong sao lăng loàn.
Giận thay mấy kẻ quyền gian,
Thay vua đổi chúa coi thường nhân luân
Quan Đình vốn trọng nghĩa nhân,
Thanh thiên bạch nhật ngài phân tỏ tường.
Rằng nay giữa chốn miếu đường,
Mưu toan phế lập luân thường ra chi.
Tự quân chưa có tội gì3,
Mà đem phế lập vậy thì có nên.
Quan Tướng nổi giận xung thiên4,
Đã toan trảm quyết nhãn tiền cho coi.
Nhưng rồi lại nghĩ xa xôi,
Trọng gương nghĩa khí, thương người đởm trung5
Truyền cho giáng chức hoàn dân,
Quan Đình khi ấy lui chân ra về.
Quê hương cách trở sơn khê,
Tin nhà vội báo ngài về cư tang6.
Mấy năm mến cảnh xóm làng,
Càng nhìn lại chốn miếu đường càng đau.
Phải là gỗ đá chi đâu,
Chí cao vẫn rắp mưu sâu những ngày.
Đến năm Ất Dậu vừa hay,
Trấn Bình súng nổ, giặc Tây chiếm thành7.
Tan hoang phố xá, miếu đình,
Quân gia vất vả, dân tình bơ vơ.
Cháy nhà mặt chuột mới trơ,
Quận Tường sớm đã thừa cơ đầu hàng8
Bám phường tả đạo cho an,
Mặc quân với quốc, mặc làng với dân.
Một mình quan Tướng ân cần,
Thua được sự thường, phải giữ lòng trung.
Xe loan đành nhuốm bụi hồng,
Vua quan lúc ấy một lòng quyết đi.
Vượt qua mấy nẻo trùng vi,
Đèo cao núi thẳm quản gì gian lao.
Cần vương xuống hịch ruổi sao9,
Phải lấy máu đào đền đáp giang sơn.
Anh hùng thảo dã, thâm sơn,
Phải ra mà giúp quân vương hội này.
Quan tướng nghĩ được chước hay,
Liền cho lệnh chỉ vời ngay quan Đình10.
Cầm tay ký chú đinh ninh,
Tòng vong hộ giá sự mình phải lo.
Còn như xây dựng cơ đồ,
Phất cờ tụ nghĩa phải nhờ cậy ông11.
Tước ban Tể tướng sơn trung,
Quan Đình khi ấy vui lòng đảm đương.
Trở về giữa chốn quê hương,
Nằm gai nếm mật lo lường quốc gia.
Hương Khê non nước bao la,
Giang sơn riêng hẳn một toà cõi Nam.
Mười tám quân thứ rõ ràng,
Suốt từ Thanh Hoá đi sang Quảng Bình12.
Trong tay mấy vạn tinh binh,
Đã trừ quân đạo, lại bình quân Tây
Trăm họ hớn hở đêm ngày
Tụng công đức ấy ví tày mẹ cha.
Bảo nhau của cải đem ra
Gửi lên sơn trại gọi là quân lương.
Quan Đình tâm vẫn chí cường,
Đêm đêm trằn trọc tính đường thế công.
Bảo cùng Cao Thắng đổng nhung,
Quân Tây nó có thần công rất màu.
Súng ta có đọ được đâu,
Làm sao chế được mới hầu hơn thua.
Khen thay Cao Thắng tài to,
Lấy ngay súng giặc về cho lò rèn.
Đêm ngày tỷ mỷ mở xem,
Lại thêm có cả đội Quyên cũng tài13,
Xưởng trong cho chí trại ngoài,
Thợ rèn các tỉnh đều mời hội công.
Súng ta chế được vừa xong,
Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay.
Bắn cho tiệt giống quân Tây,
Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe.
Các tướng mưu lược cũng ghê,
Đội Văn, quản Đạt, đứng kề Lãnh Chanh.
Hồng Lam mặc sức tung hoành,
Đánh đồn tỉnh Nghệ, phá thành Nam Giang14
Bắt sống tuần phủ Đinh Quang,
Giết Trương Qụang Ngọc hết đàng theo Tây.
Vận trời còn bĩ khi nay,
Để cho xa giá lọt tay kẻ thù
Trời Nam gió bụi mịt mù,
Quan Đình ngài vẫn giữ cờ không nao.
Hồng Lam tỏ mặt anh hào,
Văn thân bốn cõi trông vào một ta.
Thua cơ Tây phải cầu hoà,
Sai Hoàng Cao Khải tiến thơ thuyết hàng.
Quan Đình sắt đá bền gan,
Lại xui Tây tặc phải thời tiến binh.
Sao không biết hổ với mình,
Hỏi rằng chức tước hiển vinh nỗi gì?
Mang danh khoa mục làm chi,
La Giang một nước mà chia đôi dòng15.
Hoàng Cao nhục nhã đã xong,
Nguyễn Thân đâu cũng vào vòng khuyển nô.
Lại cùng Tây tặc mưu mô,
Người Nam lại phá cơ đồ nước Nam.
Tử sinh liều giữa chiến tràng,
Thương thay Cao Thắng nửa đàng mệnh chung.
Anh hùng vẫn giống anh hùng,
Há đem thành bại luận trong cao dày
Quan Đình như gãy cánh tay,
Nghĩ tình thủ túc đêm ngày xót thương.
Nguyễn Thân lập kế tuyệt lương,
Chia binh các ngả chặn đường quân ta.
Quan Đình nhuốm bệnh tháng ba,
Thương thay Ngũ Trượng sao sa chí kỳ16.
Vụ Quang huyết chiến vừa khi
Mấy ngàn lính Pháp xác thì chặt sông.
Trong quân chưa kịp hạ công
Quan Đình phút đã xe rồng lên tiên.
Bàng hoàng thương nỗi con đen,
Chim non mất mẹ vẹn toàn được sao.
Sông dài biển rộng trời cao,
Sử xanh còn với anh hào dài lâu.
Nguyễn Thân hèn hạ xiết đâu,
Đốt thây làm thuốc nhồi đầu hoả mai.
Gian tà đắc chí mấy hơi,
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương.
Quan Đình giữ tiết cương thường,
Vẫn còn hương hoả từ đường dài lâu.
Bình Tây ai dựng cờ đầu,
Hồng Lam danh tiếng về sau còn nhiều.
Dặn con, dặn cháu mọi điều,
Vè này phải thuộc cho nhiều mới hay.

(Theo Ninh Viết Giao: Kho tàng về xứ Nghệ,
tập 8, Nxb Nghệ An 2000)


Chú thích:
1. Bài vè do Ninh Viết Giao, PGS. Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh Nghệ An, sưu tầm và công bố.
2. Phụng công thủ pháp: theo phép công mà giữ gìn lề lối.
3. Tự quân: vua kế vị chỉ vua Dục Đức.
4. Quan Tướng: chỉ Tôn Thất Thuyết. Khi Phan Đình Phùng đứng lên đàn hặc việc phế lập Dục Đức, Tôn Thất Thuyết định ra lệnh chém ông, nhưng thấy ông là người ngay thẳng, có tài nên lại thôi, cách chức quan và cho về làng.
5. Đởm trung: can đảm và trung thành.
6. Ý nói vừa lúc đó có tin báo ở quê nhà bà mẹ qua đời, ông phải về cư tang.
7. Năm Ất Dậu: Ngày 1-7 năm 1885, giặc Pháp nổ súng vào Trấn Hải Đài còn gọi là Trấn Bình Đài rồi đồn Mang Cá, sáng ngày 5-7-1885 quân ta tấn công đồn Mang Cá. Nhưng đến khi nghe De Courcy tiến vào thành thì sau 3 giờ hỗn chiến quân ta thất bại.
8. Quận Tường: tức Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường. Khi Hàm Nghi xuất bôn, Nguyễn Văn Tường đem vua và tam cung tạm lánh ra Khiêm Lăng rồi ra Quảng Trị. Đến đây Nguyễn Văn Tường trở lại Phú Xuân, nương nhờ giám mục Caspar. Việc đó nhiều người cho là Tường đầu hàng. Gần đây có ý kiến xét lại hành động ấy của Nguyễn Văn Tường.
9. Ý nói ở nơi hành tại này, Hàm Nghi xuống hịch Cần Vương và hịch được truyền đi rất nhanh.
10. Chỉ Tôn Thất Thuyết lúc này nghĩ đến một người có tài đức có thể cần vương cứu nước là Đình nguyên Phan Đình Phùng.
11. Mấy câu này là lời của Tôn Thất Thuyết nói với Phan Đình Phùng.
12. Đây nói những ngày Phan Đình Phùng ra Bắc về, ông tập hợp được nhiều tướng tá ở các phủ, huyện, tỉnh, và liên hiệp với cả nghĩa quân ở Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình. Cứ mỗi nơi đóng quân của một đề đốc, lãnh binh hay tác vi, gọi là một quân thứ. Bài này nói có 18 quân thứ, nhưng theo “Lịch sử Nghệ Tĩnh” tập I thì chỉ có 15 quân thứ.
13. Đội Quyên: tên là Lê Quyên, người làng Nội Diên, nay là xã Đức Diên, huyện Đức Thọ.
14. Chưa rõ đánh đồn tỉnh Nghệ là đồn nào, ở đâu và thành Nam Giang là thành nào.
15. La Giang: con sông trước làng Đông Thái. Một nước mà chia đôi dòng, ý nói Hoàng Cao Khải và Phan Đình Phùng người cùng một làng mà bên theo giặc bên trung với vua với nước, quyết chí đánh giặc.
16 Dẫn tích Gia Cát Lượng mưu việc nhà Tây Thục không thành, mất ở gò Ngũ Trượng để ví với Phan Đình Phùng cũng như Gia Cát Lượng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #82 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2008, 10:54:31 pm »


C. VỀ THƠ VĂN PHAN ĐÌNH PHÙNG
VÀ HÌNH ẢNH PHAN ĐÌNH PHÙNG TRONG THƠ VĂN



PHAN VĂN CÁC1

BÀI VĂN SÁCH ĐÌNH ĐỐI
CỦA ĐÌNH NGUYÊN PHAN ĐÌNH PHÙNG

Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1847) trong một gia đình khoa bảng ở làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Tuổi niên thiếu, không phải là người thông minh, nhưng cậu Phùng đã sớm bộc lộ một chí khí kiên cường quyết tâm “đóng cửa đọc sách”, “thề chiếm giải khôi nguyên”.

Quả nhiên, ông đã đỗ Cử nhân năm Bính Tý (1876) và đỗ Đình nguyên Tiến sĩ năm Đinh Sửu (1877) khi ông tròn 30 tuổi. Năm 1878, được bổ làm Tri phủ Yên Khánh (Ninh Bình), mở đầu chặng đường làm quan dưới triều Nguyễn.

Sau đó, ông được triệu vào kinh, sung Đô sát viện, cơ quan có chức năng can gián vua và đàn hặc lỗi lầm của bá quan văn võ. Là Ngự sử, ông đã vạch tội Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Chánh đục khoét dân lành, khiến y bị bài chức.

Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết nắm toàn quyền sinh sát, phế Dục Đức lập Hiệp Hòa. Đình thần có mặt trong cuộc họp phế lập ấy đều biết làm như vậy là trái với di mệnh của Tự Đức nhưng trước uy quyền của Thuyết, đều buộc phải im lặng. Riêng Phan Đình Phùng đã nổi giận đứng phắt lên quát mắng Thuyết. Có người lo cho ông, níu áo ông lại nhưng ông đã giật đứt cả vạt sau của tấm áo đại triều. Tôn Thất Thuyết cả giận hô chém đầu ông, nhưng sau chỉ cách hết chức, đuổi ông về làng.

Năm 1884, Phan Đình Phùng được cử làm Tham biện Sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 9 năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn, phong cho ông làm Tán lý quân vụ, thống lĩnh quân cần vương.

Phan Đình Phùng truyền hịch khởi nghĩa ở quê hương Đông Thái, rồi rút lên Phụng Công. Giặc bắt được Phan Đình Thông, anh ruột Phan Đình Phùng. Chúng đặt điều kiện: Hoặc Phan Đình Phùng phải đầu hàng, hoặc chúng sẽ đào mộ bố mẹ Cụ và chém đầu Phan Đình Thông. Phan khẳng định: “Nay tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, tôi có một ông anh rất to đang bị nguy vong là cả mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về sửa sang phần mộ nhà mình thì ngôi mộ cả nước kia ai giữ? Về để cứu ông anh của mình thì mấy mươi triệu anh em trong nước ai cứu? Bây giờ tôi chỉ có một chết mà thôi...”

Nghĩa quân xây dựng căn cứ tại vùng núi rừng Hương Sơn - Hương Khê (Vụ Quang) hiểm trở, nhằm tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Địa bàn hoạt động khá rộng, bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh và một phần Quảng Bình và Thanh Hóa. Ngay từ buổi đầu, Phan Đình Phùng đã có nhận thức đúng đắn, cần phải dựa vào sức mạnh của toàn dân mới có thể chiến thắng được quân thù có vũ khí hiện đại. Phan đã giao cho Cao Thắng trách nhiệm tổ chức và xây dựng phong trào ở Nghệ Tĩnh, rồi tự mình ra Bắc (1887) liên hệ và vận động thống nhất các lực lượng chống Pháp ở cả hai miền Trung và Bắc.

Năm 1888, Phan Đình Phùng ở Bắc về, trực tiếp lãnh đạo phong trào, thanh thế của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. Phan chia nghĩa quân ra làm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 150 nghĩa binh, do một Đề đốc hay Lãnh binh chỉ huy, riêng đại đồn Vụ Quang lúc nào cũng có 500 quân trở lên.

Nghĩa quân đã khéo dựa vào núi rừng hiểm trở, áp dụng chiến thuật du kích để tiêu diệt quân địch. Trận Vụ Quang tháng 10-1894 với kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa, đã khiến địch phải chịu tổn thất nặng nề: hơn trăm binh lính và 3 sĩ quan bị tiêu diệt, nghĩa quân thu 50 súng và rất nhiều quân trang quân dụng. Trong điều kiện vô cùng gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã duy trì cuộc kháng chiến được 11 năm là thời gian dài nhất trong phong trào Cần vương kháng Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX.

Chiến thắng Vụ Quang có tiếng vang lớn, nhưng không xoay chuyển được đại cục. Quân xâm lược với ưu thế tuyệt đối về vũ khí, lại có thêm sự phối hợp của triều đình Huế (tháng 8-1895 triều đình Huế cho Nguyễn Thân đem 3000 quân ra giúp Pháp đàn áp nghĩa quân) đã tăng cường bao vây căn cứ địa của nghĩa quân, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế, mặt khác dùng quân cơ động luân phiên càn quét dài ngày, khiến lực lượng của nghĩa quân hao mòn suy yếu.

Cuối 1895, Phan Đình Phùng lùi về rú Quạt. Bị thương trong khi chỉ huy chiến đấu, Phan Đình Phùng lại bị bệnh tật giày vò, đã từ trần ngày 28 tháng 12 năm 1895.

Chủ tướng qua đời, nghĩa quân tan rã dần, cho đến cuối năm 1896 thì phong trào tắt hẳn.

Cuộc đấu tranh vũ trang Hương Sơn - Hương Khê dưới sự chỉ huy của nhà chí sĩ yêu nước Phan Đình Phùng kéo dài trên 10 năm trời (1885- 1896) là biểu hiện hào hùng của tinh thần độc lập dân tộc của truyền thống yêu nước Việt Nam. Các chiến sĩ Cần vương đã ngã xuống trên trường tranh đấu, để lại cho hậu thế một tấm gương bất khuất vì giống nòi. Phan Đình Phùng, vị lãnh tụ tiêu biểu của phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX là một anh hùng dân tộc vĩ đại mà tên tuổi còn sáng mãi trong lòng hậu thế.


***


Tác phẩm Phan Đình Phùng để lại có Việt sử địa dư vựng sách (lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A971) là một tập tài liệu lịch sử và địa lí có giá trị khoa học, cùng một số thơ văn, trong đó có bài thơ tuyệt mệnh nói lên tâm sự của một nhà Nho yêu nước mà sự nghiệp kháng Pháp còn dang dở.

Dưới đây xin trình bày một số cảm nghĩ của chúng tôi khi đọc Bài văn sách đình đối của ông trong khoa thi Đinh Sửu năm Tự Đức 30 (1877).

Văn bản của bài văn sách này được lưu giữ trong Hội Đình văn tuyển tờ 13-20, bản in khắc Liễu Chàng tàng bản xếp ở cuối tập Hương thí văn tuyển, kí hiệu A.3173, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Chế sách của vua Tự Đức và đối sách của Phan Đình Phùng đều đã có bản dịch của Phạm Thị Kim và Chương Thâu, Đặng Thai Mai hiệu đính.


***


Lệ thi văn sách có từ đời Trần, vào năm Quang Thái 9 (1396) triều vua Thuận Tông có ban chiếu định cách thức thi cử nhân. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi hội, ai đỗ hội thì nhà vua ra một thi một đề văn sách để định thứ tự. Buổi đầu đời Trần, thi Thái học sinh chia ra Thượng trại, Hạ trại và thi Đình chia ra Kinh và Trại, lấy đỗ có Tam khôi nhưng văn thể không nhất định. Đến đây theo phép thi của nhà Nguyên, dùng văn thể bốn trường, bỏ bài ám tả cổ văn. Trường nhất thi một bài kinh nghĩa, có những đoạn phá, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết thúc, bài làm hạn 500 chữ trở lên; trường nhì thi một bài thơ dùng Đường luật, một bài phú dùng cổ thể, hoặc thể ly tao, hoặc thể văn tuyển, cũng hạn 500 chữ trở lên; trường ba thi một bài chiếu dùng thể đời Hán, chế biểu mỗi thứ một bài, dùng thể tứ lục đời Đường, trường tư thi văn sách một bài, ra đề về kinh sử, thời vụ, 1000 chữ trở lên.

Văn sách thực chất là một bài văn nghị luận trình bày kiến giải riêng của thí sinh về vấn đề được nêu ra hỏi trong đầu bài. Sách ở đây nghĩa là kế sách, mưu hoạch; phần câu hỏi của đề bài được gọi là Sách vấn; phần trả lời của sĩ tử được gọi là Đối sách. Cũng như kinh nghĩa, văn sách có thể được viết bằng văn xuôi hay biền ngẫu, nhưng phải tuân theo những công thức nhất định. Mở đầu phải có ba chữ Đối sĩ văn (xin thưa kẻ sĩ này nghe) nếu là ở khoa thi Hương; Đối sinh văn (xin thưa kẻ nho sinh này nghe) nếu là ở khoa thi Hội; Thần đối thần văn (thần xin thưa thần nghe) nếu là ở khoa thì Đình. Thân bài phải bắt đầu bằng câu Tư thừa sách vấn nhi nhược trần chi (nay vâng lời sách hỏi mà bày tỏ qua như sau). Mở đầu một câu trả lời lại có mấy chữ Thiết vị (trộm nghĩ rằng) tỏ ý khiêm tốn. Kết thúc bao giờ cũng có một câu: Sĩ giả hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn trường, quản kiến như tư, vị tri khả phủ, nguyện chấp sự kì trạch nhi tiên chi, sĩ cẩn đối (Kẻ sĩ này may gặp đời thịnh, theo việc văn trường, kiến giải hẹp hòi như vậy, chưa biết có được hay không, xin quan trường chọn lựa mà cân nhắc cho. Kẻ sĩ này kính cẩn thưa). Nếu đề do vua ra (ngự đề, chế sách) thì bài làm phải kết thúc bằng câu Thần cẩn đối [cẩn luận] (kẻ hạ thần kính cẩn thưa, hoặc kính cẩn bàn).

Nội dung bài văn sách thường gồm hai phần: phần đầu lấy kinh điển để trả lời câu hỏi, và phần sau nêu kiến giải của mình về vấn đề mà đề bài nêu ra, đồng thời phải vận dụng tình hình thực tế.

Kế thừa chế độ thời Trần, ở các khoa thi Hương và thi Hội thời Lê, văn sách vẫn được xếp ở trường thứ tư; đến thi Đình thì chỉ thi một bài văn sách, gọi là Văn sách đình đối.

Văn sách trong thi Hương và thi Hội giống nhau về bố cục, chỉ khác nhau về độ dài quy định của bài thi và độ khó của câu hỏi. Thời Lê sơ, văn sách thi Hương dài nhất là 1000 chữ, văn sách thi Hội khoảng 2000 chữ. Văn sách thi Hương và thi Hội đều được chú ý cả ở nội dung lẫn nghệ thuật, thường thì nghệ thuật được chú ý hơn, nên nói chung văn sách mang nặng tính từ chương. Riêng văn sách trong kì thi Đình chỉ dùng để xếp hạng các Tiến sĩ, nên phần nội dung được coi trọng hơn hẳn, vì đây là lúc và là chỗ để các cống sĩ hiến kế sách với vua và triều đình. Văn sách đình đối là loại bài nghị luận ít bị gò bó về các quy cách đối ngẫu và tu từ, ít nhiều được tương đối tự do về tư tưởng.

Tại kì thi đình khoa Đinh Sửu, năm Tự Đức 30 (1877) này, chế sách của nhà vua xuất phát từ tiền đề “Vận trời đã có lúc thường lúc biến. Vận đời há chẳng có khi thịnh khi suy?” (Thiên vận kí hữu thường biến, thế vận khởi vô long ô?) để yêu cầu các thí sinh trình bày các vấn đề:

1 - Các lẽ dị đồng, tà chính của các triều đại Trung Hoa từ thượng cổ đến đời Minh và các triều đại Việt Nam Đinh, Lý, Trần, Lê khi trị khi loạn khi hợp khi phân và lí do khiến các triều đại ấy vận số dài ngắn không đều.

2 - Các đạo Đế, Vương, Bá khác nhau những gì? Giống nhau chỗ nào? Nhân hậu sao đến nỗi yếu hèn? Giàu mạnh sao dẫn đến thôn tính?

3 - Người có khí độ nhỏ nhen mà khuôn được thiên hạ về chính thống, người có tài vương bá lại không thể thống nhất được non sông, là cớ làm sao?

4 - Thuyết “chúng định” làm thế nào mà tin chắc được, sự phân biệt giữa lí và thế làm sao tin cậy được?

Chế sách lại hỏi đến những vấn đề quốc tế:

5 - Quân và Địch vào Trung Quốc bắt đầu và kết thúc bao giờ? Lúc nhỏ yếu và lúc cùng cực mạnh nhất thì như thế nào?

6 - Các nước Thái Tây tại sao ngày càng thịnh vượng? Có thật họ giỏi về kĩ xảo hay không? Xét đến cùng, há không thể chế ngự được sao?

7 - Nay các nước Đông Phương đều muốn bỏ tập tục cũ, bắt chước người mà mưu toan cái mới để được giàu mạnh. Xét xem như thế có đúng hay không?

8 - Và cuối cùng, câu hỏi trọng tâm của chế sách đặt vào vấn đề cốt lõi nóng bỏng của thời sự đất nước lúc bấy giờ là vấn đề quan hệ với người Pháp. Xuất phát từ nhận định: “Người Pháp vốn có tình cũ với ta, thường vẫn đi lại, không hề có chuyện hiềm khích, chỉ có thời gian gần đây việc thăm hỏi hơi thưa. Họ muôn nối lại tình thân cũ, không ngại đường xa mà đến, chỉ vì ngôn ngữ, chữ nghĩa không truyền đạt được mà khó đặt quan hệ bang giao, đến nỗi sinh việc can qua. Thật Trẫm xét có chỗ bất đắc dĩ, tuổi trẻ hiểu biết nông cạn, đã sai thì khó kéo lại” (!) và một sự phân tích nếu không phải là tự dối mình thì là quá đỗi cả tin và ngây thơ về chính trị rằng: “Bản tâm họ chẳng phải muốn chiếm đất đai của người, chỉ nặng về tình nghĩa mà coi nhẹ chuyện thiệt hơn, nên mới không cho phép An Nghiệp (Francis Garnier) làm càn2” mà tin rằng “Một lời hứa giá ngàn vàng, họ đã đem cả bốn tỉnh trả lại cho ta (bốn tỉnh Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương quân Pháp đã chiếm được năm 1873. Chúng trả lại bốn tỉnh này vì Francis Garnier tử trận, xem ra chưa giữ được nên tạm trả để kí Hiệp ước 1874 chiếm cả sáu tỉnh miền Nam và được chính thức công nhận để lại buôn bán khắp nước Việt Nam). Bốn tỉnh đã như thế thì sáu tỉnh có thể biết. Quốc vương, đại thần, nguyên soái nước họ vốn có ý tốt như vậy” (!) và hi vọng hão huyền: “Nếu họ sớm trả lại đất (lục tỉnh) cho ta thì không những tiếng nghĩa của họ sáng ngời bốn bể, tiếng hay truyền lại ngàn năm, mà còn được nhiều trong việc thông thương... Chỉ có không biết ý họ thế nào mà họ còn tạm hoãn ít lâu” (!!!)

Nhà vua yêu cầu các sĩ tử sẵn có hoài bão kinh bang tế thế hãy trình bày hết ý kiến để “Trẫm sẽ xem và chọn dùng”, “đừng phụ lòng Trẫm ham hỏi ham xét”.

(Lời lẽ của nhà vua tỏ ra rất chân thành và tự tin!)

Xin đi vào đối sách của Đình nguyên Phan Đình Phùng. Sau những lời xưng tụng nhà vua phải phép “trường quy”, tác giả đã tóm tắt nội dung của chế sách bằng mấy câu:

(Thần cứ đọc chế sách ban rằng:)

Vận trời đã có lúc thường lúc biến, vận đời há không có khi thịnh khi suy. Đời thượng cổ xa xăm vốn không thể bàn, nhân hỏi đến những điều có thể khảo cứu như sự bất đồng giữa chinh phạt và thiên nhượng, những chỗ khác nhau giữa trị và loạn, giữa phân và hợp. Di Địch, Trung Quốc thịnh suy bất đồng, các nước Thái Tây quy mô ngày càng thịnh và việc người Pháp với ta vốn vẫn hòa hiếu, việc trả lại sáu tỉnh sớm muộn thế nào?
_______________________________________
1. Phan Văn Các: Phó Giáo sư, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện KHXH Việt Nam.
2. Chỉ việc quân Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất, năm 1873.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #83 vào lúc: 16 Tháng Chín, 2008, 11:04:52 pm »


Phan đã lần lượt trình bày kiến giải của mình về 8 vấn đề mà chế sách đã nêu ra:

1. “Thời đại cổ xưa thành thục, thế tục chất phác, nhân dân thuần hậu mà đã có các trận giao tranh ở Bản Tuyền, Trác Lộc để đánh Du Vọng, bắt Suy Vưu 1. Như thế thì những chuyện đánh dẹp đã có từ các đời Đế, chứ không phải đến các triều Thang Vũ mới mở đầu. Nhưng đạo đời đang thịnh, phong tục thuần hậu chưa biến đổi, cho nên kế tiếp sau là Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, Thuấn nhường ngôi cho Vũ, thành ra lại có chuyện coi thiên hạ là của công mà nhường ngôi cho người hiền.

Đời nhà Hạ còn gần thời cổ, nên việc trị nước chuộng trung thực. Đời Ân chưa xa rời đức trung thực nên chuộng tính chất phác. Đời Chu phong tục đã mở, văn hóa rực rỡ nên chuộng văn vẻ. Nhưng trung thực có mặt dở là quê kệch, chất phác có mặt dở là ngu xuẩn, văn vẻ có mặt dở là xảo trá, các sự ưa chuộng khác nhau đều có mặt dở. Từ đó về sau, nhà Hán giơ gậy diệt Tần, nhà Đường cầm búa diệt Tùy, Tông nhận ngôi nhường của nhà Chu
2, Nguyên đánh chiếm nhà Tống, Minh nối tiếp nhà Nguyên.

Đến chuyện nước Việt ta thì Đinh Tiên Hoàng dẹp mười hai sứ quân, Lí Công Uẩn trị bình một cõi. Trần nhận sự nhường ngôi của Chiêu Hoàng, Lê đánh tan quân giặc phương Bắc
”.

Sau mấy câu lược thuật lịch sử, Phan đã bình luận và giải thích:

Hán Đường được nước là chính đáng, Tống thì dùng mưu, Nguyên là rợ ngoài làm loạn Trung Quốc là trái lẽ, nhưng nhà Minh thì được coi là chính thống.
Nước Việt ta, Đinh Tiên Hoàng mở đầu đặt kỉ cương là chính đáng, nhưng nhà Lí thì có thiếu sót. Lê Thái Tổ lập công muôn đời là chính đáng [...] Vận nước dài ngắn khác nhau, là phải xem được nước có chính đáng hay không
”.

2. [Đế Vương Bá khác nhau thế nào?]

Lấy đức để giáo hóa dân là Đế, dân do đó mà biến đổi, nhà nhà đều có người hiền, thế chẳng phải là hiệu quả của đức sao?

Lấy công lao để khuyến khích dân là Vương, như việc đưa muôn dân tin theo toàn dân có đức, thế chẳng phải là hiệu quả của việc lấy công lao để khuyến khích sao?

Lấy sức mạnh để đứng đầu mọi người là Bá, đấy là bọn chuyên mượn danh nghĩa nên hiệu quả của sự vui vẻ cũng không còn mãi được.

Sự bất đồng giữa các đạo Đế, Vương, Bá là như thế, do đó hiệu quả của các đạo ấy cũng khác nhau. Xem đấy thì người bàn việc bình trị phải quý Vương đạo mà khinh Bá thuật.

Nhân hậu mà đi đến suy đồi là vì không làm cho kỉ cương đẩy lên được, nhưng nhân hậu vào sâu lòng người, không thể mạnh, nhưng có thể lâu nên nhà Chu mới có tám trăm năm lâu dài.

Giàu mạnh mà đi đến thôn tính là vì chuyên dùng pháp chế để nắm giữ chính quyền, nhưng giàu mạnh là hại dân quá lắm, lòng người oán giận, thế nước như đất lở, nhà Tần rút lại chỉ có hai đời ngắn ngủi
”.

3. “Lạm dụng phản điếm, tắc môn, Quản Trọng khí độ nhỏ nhen, phò Hoàn Công mà khuôn được thiên hạ về chính thống là chuyện đi đường cong gặp may, nhưng vốn người khí độ nhỏ nhen, nên ba mươi năm tập hợp chư hầu mà sự nghiệp thấp như thế, cuối cùng không hoàn thành được sự nghiệp đánh Sở tôn Chu.

Sánh ngang tầm Y Lã
3, Khổng Minh có tài vương tá 4 phò tiên chủ 5 mà không nhất thống được, là vì thời vận suy thì không thể khôi phục được nữa, nhưng vốn người có tài vương tá nên chi hai mươi năm ruổi rong vó ngựa mà tiếng lớn lưu truyền vũ trụ làm nên công trạng giữ Ngô chống Ngụy.

[…] Khuôn được thiên hạ, nhưng vì khí độ nhỏ nhen nên cuối cùng lại rơi vào Bá thuật; Không thống nhất được, nhưng có tài vương tá nên càng thể hiện rõ tính cách “chân Nho”.

4. Thuyết “chúng định” có thể tin chắc được, việc phân biệt giữa “lí” và “thế” có thể tin cậy, chính là như thế.

5. “Quân Nhung Địch vào Trung Quốc bắt đầu từ Hiểm Doãn đời nhà Chu, sau cùng là Khiết Đan đời Tống. Khi nhà Tấn đưa rợ Khương đến dưới quan ải thì thế rợ còn nhỏ, đến khi quân Nguyên đánh đổ triều Tống mà có thiên hạ thì đấy là thời cực thịnh”.

6. “Các nước Thái Tây như Pháp, Ý, Mĩ, Hà Lan lập nước đã lâu, từ khi sinh ra người thì họ đều đã có cả rồi, không bàn đền việc đời Minh mới thấy họ. Xem trong sách Kinh Thư viết chuyện người Tây Lũ đem cống chó ngao, hay trong chương Vương chế sách Kinh Lễ kể chuyện Tây Nhung và việc ở nhà Minh đường có đặt vị trí cho bốn Di, như thế thì các đời trước không phải hoàn toàn không biết họ.

Quy mô của họ thịnh vượng nhanh chóng, vì các nước Thái Tây ở vào hướng “Càn tuất”, được ngôi chính của khí “Kim” nên người nước họ khôn ngoan khéo léo, còn về trị nước thì họ càng giỏi mưu toan sự nghiệp phú cường, như có thuyền máy, xe lửa, điện đi, thành đi đã rất tinh xảo kì diệu, lại có thể khuất phục được người, do đó họ ngày càng thịnh”.

Ở đây cần lưu ý rằng, đối với ưu thế kĩ thuật của các nước Phương Tây, Phan không những không tỏ ý sùng bái thán phục mà còn vạch rõ những nhược điểm và hạn chế của họ. Ông viết: “Nói cho cùng chưa chắc họ đã giành được mọi thắng lợi, ví như súng có lợi thế bắn được xa, nhưng mà tường cát, bông ướt có thể chế ngự được; không có gió mà trong nháy mắt đi được ngàn dặm là cái lợi hại của tàu thủy, nhưng mà cỏ mục, bè lớn có thể chế ngự được. Hơn nữa, họ giỏi về tàu thủy về súng ống nhưng không biết võ nghệ, thì chẳng phải là cái rất kém của họ sao Vì thế cũng chưa chắc là không có cách gì chế ngự họ.

Có câu rằng: sửa sang việc nội trị là Vương, đi chinh phục nước ngoài là Bá việc của chúng làm thuộc loại Bá thuật.

Sửa việc nội trị thì nhàn, đi chinh phục thì vất vả, thế là họ ở vào chỗ vất vả, thuyết đó có thể tin được
”.

7. “Những nhà bình luận ở các nước Phương Đông hiện nay đều muốn bỏ cái học cũ của mình, bắt chước người mưu toan cái mới, để đạt đến hiệu quả trước mắt là sự giàu mạnh, đấy là vì họ trông thấy nước Nhật Bản đã bắt chước người mà được cường thịnh nhất thời, nên mới có những bình luận ấy.

Nhưng làm sao lại có thể bỗng nhiên vút bỏ phép độ hàng trăm năm để mưu làm cái mới. Vội tìm cái lợi trước mắt, nhưng cái lợi trước mắt chưa chắc đã được, dù có được chăng nữa, cũng không tránh được tiếng chê cười là biên thành rợ mọi!


8. “Người Pháp đối với ta vốn có tình hòa hiếu cũ, vẫn còn đi lại không hề có hiềm khích, gần đây vì đất nước xa xôi, biên cương cách trở mà phải thưa việc thăm hỏi. Họ muốn nối lại tình hòa hiếu cũ, nên đã không ngại xa ngàn vạn dặm, vượt biển mà đến, chẳng có ý gì khác, chỉ vì ngôn ngữ không thông, khó đặt quan hệ bang giao mà sinh chuyện can qua, mở đầu từ Trà Sơn, tiếp đến Cửa Cấm. Họ vốn không phải khoe võ lực, mà chỉ muốn lập lại tình cũ, thật tình có chỗ rất bất đắc dĩ.

Hoàng thượng vì lấy non sông làm trọng, và lo cho sinh mạng của nhân dân. Người không muốn để con dân nơi biên cương lại mắc chuyện binh đao, nên đã cắt đất
sáu tỉnh để tạm giảng hòa với chúng, cốt làm sao để hoãn binh nhất thời cho binh nghỉ dân yên.

Bản thân người Pháp thực không muốn chiếm nước người, vì lấy tình nghĩa làm trọng, coi thường sự thiệt hơn, nên họ đã không cho phép An Nghiệp làm càn. Hoắc Đạo Sinh 6 vừa đến cùng với sứ thần của ta là lập tức đem cả đất đai, nhân dân bốn tỉnh trả lại cho ta, một lời hứa giá ngàn vàng, không tơ hào nuối tiếc”.

Quốc quân, Đại thần, Nguyên soái nước họ vốn vẫn có ý tốt ấy. Hơn nữa gần đây sứ thần đi lại, tặng biếu pháo thuyền, hòa hảo thân thiết, giúp đỡ lẫn nhau, vui lợi cùng hưởng, bỏ hết chuyện sai trái cũ. Nếu họ sớm trả sáu tỉnh thì được tiếng hay, được lợi về thông thương, vận chuyển, chắc họ đã tính kĩ rồi.

Nhưng nay họ còn hoãn lại ít lâu, chắc cũng có lí do.

Một là để củng cố hòa ước, vì người Pháp tuy có tình hóa hiếu cũ đối với ta, nhưng họ từ nghìn dặm xa mà tới, vị tất không có sự lo lắng. “Tôi không lừa anh, anh không hại tôi”, nên họ phải lấy đất ấy làm chỗ yên, để làm mạnh cái thế của họ và làm vững cái hòa của ta.

Hai là để thu địa lợi, vì đất đai sáu tỉnh Gia Định màu mỡ, sản xuất lúa gạo nhiều hơn các hạt khác, nên vị tất họ không có ý lần lữa trông chờ.

Hơn nữa, sự thế sáu tỉnh Nam Kỳ và bốn tỉnh Bắc Kỳ thật không giống nhau, sáu tỉnh Nam Kỳ bị lấy từ ngày Hoà ước mới bắt đầu quy định, còn bốn tỉnh Bắc Kỳ thì ở vào thời gian Hoà ước đã quyết định rồi. An Nghiệp làm càn, lí của họ trái, nên không thể không trả sớm, còn sáu tỉnh hoãn ít lâu cũng có nguyên nhân vậy.

Xin Hoàng thượng hết lòng thành thực, đối xử với họ, dùng nghi thức văn chương trang trọng để tiếp đãi họ. Đối nội đã không bỏ chính sách tự trị, đối ngoại lại mở rộng chữ tín đối với người, khiến họ vui vẻ thấy được ý tốt của Triều đình mà thôi không bụng ngờ vực nữa.

Xưa đức Khổng Tử làm tể tướng nước Lỗ, nước Tề trả lại đất đã xâm chiếm chỉ vì người hết lòng thành thực nên đã cảm động được họ.

Vả lại đã mưu việc lớn thì không tiếc tốn nhỏ, do đó mà người xưa đã chẳng giải quyết xong việc.

Xin Hoàng thượng cho xem xét kĩ sự thế, nếu họ hám lợi thì lấy thuế quan, thuế bến mà đổi cho họ, hoặc giao ước tăng tiền bồi thường đợi sau thanh toán lại kéo dài điều ước hoà hiếu khiến họ nhận thấy lẽ phải trái trong tình lí và sự lợi hại trong sự thế, ắt họ phải đem sáu tỉnh sớm trả lại cho Triều đình, đâu đến nỗi phiền Hoàng thượng phải lo lắng vất vả.

Vả lại bậc trí giả không mê hoặc, không làm người mất vui, bậc nhân giả không tàn nhẫn, không làm người mất nơi nương tựa. Họ đã cảm động về sự hậu đãi và sự ân cần trân trọng của Triều đình thì tất nhiên chẳng chịu ở vào vị trí của kẻ bất trí, bất nhân do đó, họ chẳng đợi ta yêu cầu mới đáp ứng
”.

Trên đây là kiến giải mà Đình nguyên Phan Đình Phùng đưa ra để giải đáp các vấn đề do chế sách nêu lên.

Hãy nhìn lại bối cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ: 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và gọi đó là “nam Kỳ thuộc Pháp” và đặt cả miền này dưới chế độ thuộc địa, 1875 (hai năm trước khoa thi Đinh Sửu) chúng chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính. Cũng năm đó (ngày 19-5) chúng xử tử Thủ khoa Huân, lãnh tụ khởi nghĩa chống Pháp ở Tân An, Mĩ Tho.

Sau khi chiếm được Lục tỉnh, thực dân Pháp gấp rút thực hiện ý đồ chiếm miền Bắc và miền Trung. Cuộc tấn công ra đất Bắc lần thứ nhất (1873) của giặc Pháp vấp phải sức kháng chiến kiên cường, anh dũng của nhân dân ta. Thắng lợi giải phóng đất Bắc đã ở trong tầm tay, nhưng triều đình Huế đã đầu hàng phản bội. Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874) chính thức công nhận chủ quyền của Pháp ở cả Lục tỉnh.

Bảy năm sau khoa thi Đinh Sửu, các bản hiệp ước đầu hàng 1883, 1884 của triều đình Huế đã dâng toàn đất nước cho thực dân Pháp xâm lược.

Lịch sử đã diễn ra hoàn toàn trái ngược với những nhận định ngây thơ mơ hồ của vua Tự Đức về “thiện chí” và “tình giao hảo” của người Pháp, trình bày trong chế sách của khoa thi Đinh Sửu như chúng ta đã thấy.

Đối sách của Đình nguyên Phan Đình Phùng (năm đó 30 tuổi) cũng không vượt được ra khỏi nhận định và quan điểm chính trị của vua Tự Đức. Hơn thế, những giáo điều của đạo Nho và cả ý thức hệ phong kiến đã ràng buộc mọi suy nghĩ của sĩ tử.

Phải đợi đến 8 năm sau đó, khi đã từng trải trong quan trường và nhất là khi xuất hiện ông vua nhà Nguyễn yêu nước kháng Pháp đầu tiên là vua Hàm Nghi đã xuất bôn và ban Chiếu Cần vương ngày 13-7-1885 thì Đình nguyên Phan Đình Phùng mới danh chính ngôn thuận đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê trực diện kháng Pháp suốt 11 năm trời (1885-1896) cực kì anh dũng kiên cường, nêu cao và tô đẹp thêm truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc.

Hà Nội, tháng 2 năm 2007

______________________________________
1. Bản Tuyền là tên một con suối, nay gọi là suối Hoàng Đế, thuộc huyện Bản An, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Tương truyền đó là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế khoảng năm 2700- 2640 tr.CN; còn Trác Lộc là tên một ngọn núi, ở Đông Nam huyện Trác Lộc tỉnh Sát Cáp Nhĩ Trung Quốc ngày nay, tương truyền là nơi Hoàng Đế chém Suy Vưu khoảng năm 1660-2600 tr.CN.
2. Nhà Hậu Chu thời Ngũ Đại, chỉ có 8 năm 952-959 trải 3 đời vua.
3. Y Doãn phò Thành Thang, Lã Thượng phò Văn vương Vũ vương nhà Chu, đều lập công khai sáng triều đại mới.
4. Tài giúp vua làm nên sự nghiệp lớn.
5. Lưu Bị
6. Tức Philastre thống soái của thực dân Pháp cùng với Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ để bàn về việc trả lại bốn tỉnh miền Bắc do Francis Garnier đánh chiếm trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #84 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2008, 10:23:19 pm »


VŨ NGỌC KHÁNH1.

PHAN ĐÌNH PHÙNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM2

Văn học Việt Nam thời cận đại rất dồi dào những bài văn tế, thơ ca ca ngợi anh hùng nghĩa sĩ. Gương chiến đấu, tinh thần hi sinh vì nước của các vị được nhân dân, nhất là lớp nho sĩ nhiệt liệt đề cao. Khắp Bắc - Trung - Nam, từ những người có tầm ảnh hưởng lớn lao trong cả nước như Nguyễn Trung Trực, Hoàng Diệu, Tống Duy Tân, Nguyễn Cao... cho đến những thủ lĩnh địa phương như Phan Cát Xu, Vũ Hữu Lợi v.v... (còn nhiều nữa) đều được tôn vinh, trân trọng. Tùy theo hoàn cảnh thời gian, tình hình cụ thể, sự biểu dương sùng bái có mức độ khác nhau, riêng đối với Phan Đình Phùng thì lòng ngưỡng mộ trước sau có lẽ là tuyệt đối. Trong phạm vi văn học sử, cảm hứng nghệ thuật về người anh hùng Vụ Quang luôn luôn được gợi mở, không chỉ nhất thời mà phát triển với thời gian, không chỉ trong phạm vi văn chương bác học, mà cả trong dân gian, cũng đậm đà phong phú.

Ca ngợi Phan Đình Phùng, người ta luôn luôn nhắc đến vị trí đứng đầu của ông, cả trong chiến đấu, trong học thuật. “Đối sách đại đình quân đoạt giáp, Cần vương sát tặc quân vi khôi” (Thi đình ông đỗ đầu, giết giặc vì vua, ông là số một), câu thơ ấy hoàn toàn nói đúng về vị trí của Phan Đình Phùng. Tinh thần kiên nghị, quả cảm bất chấp quyền uy của ông cũng luôn luôn được nhắc đến. Ông là một “trực gián đài” như lời Phan Trọng Mưu (trong Bài ngoại liệt truyện), là một “chân Ngự sử” như lời Nguyễn Thượng Hiền (trong Nam chi tập). Ông là người bạn chiến đấu của nhiều thế hệ. Đồng thời với ông, Bạch Xỉ Đoàn Chí Tuân đã tự giác xin làm người phò tá cho ông (mặc dù không được ông chấp nhận).

                                            Tướng quân nghĩa liệt văn hoàn vũ
                                            Nguyện hướng viên môn tác chấp tiêu.


                                            (Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi
                                            Xin theo bên ngựa đỡ dây cương).

Và những lớp trẻ sau ông ít lâu, cũng thừa nhận ông là bạn của thế hệ những người cha, và cũng là người bày đường chỉ lối cho thế hệ những người con, đúng như ý kiến của Ngô Quang Đoan (con trai của Nguyễn Quang Bích):

                                            Báo quốc đan tâm trung quán nhật
                                            Diệt cừu bảo kiếm khí lăng vân.
                                            Gia nghiêm tích nhật tằng chiêu nghĩa
                                            Hậu bối đương nhiên nguyện vấn tân.

(Tượng Phong thi tập)



Tạm dịch:

                                            Cứu nước lòng son soi nhật nguyệt
                                            Diệt thù gươm báu khí tung trời,
                                            Cha xưa khởi nghĩa cùng người
                                            Con nay cũng đến xin lời bảo ban.

Song có lẽ chưa có một vị tiên liệt nào được tôn vinh bằng đôi câu đối trường thiên, mỗi vế có đến 80 chữ, như đôi câu đối được biết là của Văn thân Nghệ Tĩnh điếu Phan Đình Phùng. Đã có nhiều giả thuyết về tác giả của đôi câu đối này. Có người nói là của Tổng đốc Đào Tấn, có người cho là của Nguyễn Thúc Tự (thầy học của Phan Bội Châu) mới là đúng hơn. Câu đối quả là tuyệt bút, cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật đều đạt đến mức tuyệt vời. Điều cơ bản mà mọi người nhận ra trong con người và sự nghiệp của Phan Đình Phùng là không phải ở chỗ ông thành công hay thất bại trong cuộc khởi nghĩa, mà chính là ở tấm lòng cô trung, ở tinh thần đại nghĩa của ông. Lá cờ ông giương lên là lá cờ dân tộc, chứ không phải chỉ là lá cờ Cần vương như hầu hết các nhà Văn thân khác. Những bài thơ đương thời hay về sau viết về Phan Đình Phùng, thường nhắc đến bổn phận, nghĩa vụ của người trung thần đối với nhà vua, đôi câu đối này không hề đề cập gì đến khía cạnh đó. Và đây chính là cái nét mới trong sự phát triển của phong trào Cần vương mà ít người chú ý đến. Lòng thủy chung, sự kiên trì chiến đấu vì Tổ quốc của Phan Đình Phùng cho thấy ông là người biết trọng nước hơn vua, điều mà hầu hết các lãnh tụ khởi nghĩa hưởng ứng Chiếu Cần vương đã không thể hiện được. Câu đối viếng ông đã cho thấy được sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà Văn thân. Tổ quốc, giang sơn, dân tộc… đã nổi lên cho lý tưởng Phan Đình Phùng thêm sáng chói. Thấm nhuần lý tưởng đó là cái mới của thế hệ Cần vương. Công lao và vinh dự của Phan Đình Phùng là ở đó.

Chính do cái khuynh hướng lý tưởng đó, mà cách tôn vinh Phan Đình Phùng trong đôi câu đối đã có nét riêng trong kho tàng câu đối Việt Nam. Chưa bao giờ có những câu đối mà hình ảnh đất trời, non nước, thiên nhiên vũ trụ được huy động đến mức dồn dập như thế, để đề cao cái lớn lao của nhà lãnh tụ Hương Khê. Trên 24 chữ toàn chỉ vào thiên địa, giang sơn, vân tuyết, bách tùng; trên 10 chữ nhắc đến dân tộc, giống nòi, văn hiến, truyền thống; trên 10 chữ khác là nhắc đến tinh thần nghĩa vụ. Những hình tượng như cột đá giữa dòng, cây to giữa bão, nổi bật lên để khắc họa sức mạnh hào hùng, và Phan Đình Phùng trở nên một “đại trượng phu vũ trụ”. Và còn đây nữa, cái hào khí quê hương: những tinh thần La Việt, Tùng Mai v.v... Chỉ riêng vùng Nghệ Tĩnh này mới có. Được một câu đối như vậy, người anh hùng chắc cũng thỏa chí trong cõi xa xăm.


***


Văn chương bác học chung quanh đề tài Phan Đình Phùng đáng là một hiện tượng văn chương, và ta cũng không quên là ở lãnh vực này, Phan Đình Phùng cũng rất đáng cho các nhà văn học sử chú ý. Hình như hình tượng Phan Đình Phùng anh hùng cứu nước vĩ đại quá, lớn lao quá, nên có khi ta cũng quên hoặc lướt qua tư cách nhà văn của Phan Đình Phùng. Chúng ta thường không để ý đến một hiện tượng đặc biệt trong văn học sử Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX. Ta chỉ chú ý đến những bài thơ Đường, những đôi câu đối hoặc văn tế, mà quên rằng chính giai đoạn này văn chương chính luận, có tính cách bút chiến đã nổi bật lên, hùng hồn và đanh thép hơn bao giờ. Ta có những bài biểu đưa lên nhà vua, có bài báo bỏ những lập luận nhu nhược, sợ địch của Tự Đức (như bài trả lời của Văn thân Nghệ Tĩnh). Có bài trả lời thẳng cho các viên tướng xâm lược Pháp, viết từ những địa phương lớn đến những căn cứ nhỏ v.v... Loại tác phẩm này còn phát triển mãi về sau như những lá thư của Nguyễn Thái Học gửi cho chính phủ Pháp những năm cuối thập kỷ 20. Nếu có công tập hợp lại những bài này thì chắc chắn ta có thể bổ sung thêm một số nhận định cho lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học. Trong số những bài này phải kể đến lá thư của Phan Đình Phùng trả lời Hoàng Cao Khải. Sự lập luận chặt chẽ, lập trường dứt khoát phân minh, trong cách diễn đạt tình lý đầy đủ như ở lá thư này, thật là hiếm có.

Còn một số điểm nữa tuy có thể là bất ngờ với nhiều người, song là một sự thực. Không làm nhiều thơ, không chuyên sáng tác, nhưng Phan Đình Phùng vẫn có một tâm hồn thi sĩ. Ông có duyên nợ với thơ. Ta nhớ lại, ngày Phan Đình Phùng sắp sửa từ giã cõi đời, ông đã gặp vợ con, tả hữu, tướng lĩnh thân thích, rồi bảo mang bút giấy đến cho ông. Có thể là ông muốn viết lời di chúc? Có lẽ ông muốn ghi mấy dòng chữ cho bạn bè, họ hàng để ký thác vợ con? Hay ông muốn nói thêm những lời cuối cùng với kẻ địch. Không? ông không làm như thế. Ông làm thơ. Bài thơ là tiếng nói cuối cùng của ông trong đời. Ông cần có thơ, ông nhớ đến thơ, và làm thơ trong phút giây trọng đại ấy - phút giây mà trong thực  tế rất ít người nghĩ ra và làm được. Có một cử chỉ, một duyên nợ với thơ như thế, ông xứng đáng là một thi sĩ hoàn toàn. Và bài Lâm chung thời tác của ông cũng đáng là một bài thơ trang trọng với tấm lòng nhân đạo bao la, với tinh thần chiến đấu quyết liệt của ông.

Nàng thơ cũng đến với Phan Đình Phùng trong một số trường hợp khác, đáng kể là trường hợp ông còn phiêu lưu trên đất Bắc, ăn tết xa quê hương, vì đang lo lắng vận động phong trào. Hồn thơ trong bài bát cú này thật là lai láng, chất thơ đậm đà, tâm hồn tha thiết... có thể xem là một tác phẩm xuất sắc so với nhiều bài của các vị Văn thân khác. Đào Trinh Nhất đã dịch bài này ra thể lục bát và tôi nghĩ là có phần đạt hơn tất cả các bài dịch chúng ta có trong tay:

Tiếng oanh non nỉ sân ngoài
Tìm Xuân về đó mà người ở đâu
Ngàn thu một tấm cô sầu
Non Hồng núi Ngự mây đầu xa xa
Hiếu trung là nếp nhà ta
Biệt ly đất khách, oán mà làm chi
Tiết Xuân ai cũng vui vầy
Mà ta riêng nỗi sầu bi một mình.

Cuối cùng, còn phải ghi nhận rằng, chung quanh Phan Đình Phùng còn có cả một kho văn học dân gian phong phú. Khá nhiều lãnh tụ Cần vương hoặc anh hùng, chiến sĩ ở các phong trào khác đều được văn học dân gian ghi nhận, song ít phần phong phú hơn Phan Đình Phùng. Bài Vè Quan Đình thuộc loại tác phẩm xuất sắc nhất trong kho tàng văn vè Việt Nam. Bài vè nêu khá đầy đủ tiểu sử Phan Đình Phùng, từ một nhà trí thức tiến lên thành một anh hùng cứu nước, vạch rõ bản chất trọng trách của ông, so sánh với bọn Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân. Bài vè nêu rõ đất Hương Sơn, Hương Khê lúc đó đã thành “Giang sơn riêng hẳn một tòa cõi Nam”, dưới sự lãnh đạo của con người “tâm viên chí cường”:

Hồng Lam tỏ mặt anh hào
Văn thân bốn cõi trông vào một ta!

Và bài vè cũng đề cập đến cái bất tử của Phan Đình Phùng; rất dân gian:

Quan Đình giữ tiết cương thường
Hãy còn hương hỏa từ đường dài lâu
Bình Tây ai dựng cờ đầu
Hồng Lam danh tiếng về sau còn nhiều.

Cái đặc sắc của tác giả vè là đưa ra một lời khuyên nhủ:

Dặn con dặn cháu một điều
Vè này phải thuộc cho nhiều mới hay!

Phải thuộc cho nhiều! Điều ấy có nghĩa là tấm gương của Phan Đình Phùng phải luôn luôn được học tập, truyền bá. Lời khuyên nhủ này ít gặp trong nhiều bài vè khác, chứng tỏ lòng sùng bái của nhân dân đối với Phan là thường trực, sự tôn vinh là lâu dài.

Sau bài Vè Quan Đình, vùng Nghệ Tĩnh còn lưu truyền những bài vè khác, gần như muốn minh họa cho đầy đủ cuộc khởi nghĩa Hương Khê, đặc biệt là việc đúc khí giới. Xưởng võ khí trên núi Vụ Quang là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử khởi nghĩa Việt Nam. Nghĩa quân nơi đâu chẳng rèn gươm giáo, vót cung tên, chỉ có quân khởi nghĩa của Phan Đình Phùng mới dám đúc súng theo kỹ thuật tối tân của Pháp lúc đó. Việc đúc súng đối với những người dân thợ rèn Nghệ Tĩnh thời kỳ ấy là một niềm hào hứng vừa của phát minh, vừa của hi sinh chiến đấu. Thợ rèn các làng, nhất là Trung Lương, Vân Chàng đã được mời về Sơn trại, bí mật nhưng vẫn ào ạt:

                                  Nay vâng lệnh quan Phan
                                  Lên rừng ta đúc súng
                                  Những bệ rèn, ống dóng
                                  Những mâm thau nồi đồng
                                  Cày cuốc cũng tập trung
                                  Than rừng thì có đó!

Cả một không khí tấp nập, rừng rực khí thế đua tranh. “Xưởng trong cho chí trại ngoài, thợ rèn các tỉnh đều mời hội công”... Cuối cùng kết quả hào hứng đã diễn ra: việc đúc súng đã thành công mỹ mãn:

                                  Súng ta chế được vừa xong
                                  Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay
                                  Bắn cho tiệt giống quân Tây
                                  Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe.

Tiếp theo vè, có lẽ phong phú nhất là những giai thoại, những chuyện đồn đại chung quanh cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Người dân Nghệ Tĩnh luôn luôn kể cho nhau nghe những “mẩu chuyện quan Đình”. Nào là tinh thần dũng cảm của ông chống Tôn Thất Thuyết trong vụ phế lập, nhưng sau đó hai ông lại thống nhất với nhau trong nhiệm vụ cứu nước, mà những lời “tướng huấn” của Tôn Thất Thuyết được Phan Đình Phùng treo ngay nơi làm việc của mình (câu đối: Liêm bình khâm tướng huấn). Nào là mưu trí của ông trong việc bắt sống tuần phủ Đinh Nho Quang, việc ông học tập cái kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín để giành thắng lợi trong một trận đánh Pháp. Giai thoại về những tướng lĩnh dưới trướng Phan Đình Phùng cũng rất nhiều, thường tập trung vào hai nhân vật Cao Thắng và Đội Quyên, hai người có công sáng tạo, thực hành trong việc đúc súng. Chuyện về các ông Lĩnh (như Lĩnh Chanh), các ông Đội (như Đội Văn) tung hoành trên các trận địa, biến hóa, thay hình đổi dạng trên các căn cứ hoặc các làng mạc v.v... luôn luôn được kể lại một cách hào hứng, không loại trừ nhiều trường hợp hư cấu, thêm bớt theo sự tưởng tượng của người kể. Lại cũng không nên quên các mẩu chuyện về những quân thứ của Phan Đình Phùng. Chuyện của những người xướng nghĩa đầu tiên ở Nghệ Tĩnh như Lê Ninh, người cầm đầu Lễ thứ (làng Trung Lễ, Đức Thọ); của người tiếp tục hoạt động sau khi Phan Đình Phùng đã mất như Ngô Quảng (ở Nghi thứ, Nghi Xuân)v.v.. Dân gian còn truyền tụng những chuyện về nhiều chị em trong cuộc khởi nghĩa này cũng đều là kiện tướng có tài năng, mưu lược nhưng đến nay tiểu sử vẫn còn chưa được giới thiệu cho đầy đủ. Người ta chỉ nhắc với nhau về một cô Tời, bà vợ lẽ Đội Quyên, có cái biệt hiệu là Ngưu Y Nữ, nhiều phen làm cho bọn Tây táng đởm kinh hồn. Người ta cũng nhắc với nhau về một cô Tám, cô hàng than ở bến chợ Tràng, phải chăng là tác giả của những câu hò tuyệt diệu:

Đi đâu lật đật hỡi ai
Mũi tên hòn đạn cho người này theo
Mênh mông một nước một chèo
Giang san gánh nặng vẫn đeo bên mình.


***


Những điều ghi nhận trên đây cho phép chúng ta đi tới một khẳng định: Phan Đình Phùng là một tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng có một vị trí nhất định trong văn học. Cả văn chương bác học và văn chương bình dân đều tôn vinh ông, và về phía bản thân mình, ông cũng đóng góp cho văn học. Có một sự hài hòa ở con người này, sự nhất trí giữa tình cảm và lý trí. Nét đẹp của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn, của thơ văn yêu nước cuối thế kỷ XIX, và cả của Phan Đình Phùng là ở đó.
___________________________________
1. Vũ Ngọc Khánh. Phó Giáo sư, Viện Văn hoá dân gian, Viện KHXH Việt Nam.
2. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #85 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2008, 10:29:30 pm »


HÀ QUẢNG1

PHAN ĐÌNH PHÙNG: MỘT TẤM LÒNG THƠ BỤI CHẲNG MỜ…

Phan Đình Phùng là một lãnh tụ tiêu biểu của phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Cụ sinh năm 1847, ở làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh), trong một gia đình nho học truyền thống. Thân sinh là cụ Phó bảng Phan Đình Tuyển, hai anh Phan Đình Thông và Phan Đình Thuật cùng em là Phan Đình Vận đều là những nhà khoa bảng có tiếng trong vùng.

Ông đậu Tiến sĩ Đình nguyên, làm quan đến chức Ngự sử; năm 1883 khi xảy ra việc Tôn Thất Thuyết phế vua Dục Đức, ông can gián, bị bắt giam 12 ngày trong ngục rồi bãi chức về làng.

Năm 1885, khi vua Hàm Nghi ra Sơn phòng Hà Tĩnh ban Chiếu Cần vương, ông đến yết kiến và được vua phong chức Tán lý quân vụ trông coi nghĩa quân chống Pháp ở Nghệ Tĩnh. Năm 1888 vì nội phản, vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào sút kém dần, một mình Phan Đình Phùng theo đuổi cuộc kháng chiến, ông đặt bản doanh ở Vụ Quang để chỉ huy phong trào. Năm 1893 ông chém đầu tên phản bội Trương Quang Ngọc (kẻ chỉ điểm Pháp bắt vua Hàm Nghi), nghĩa quân thanh thế tăng lên, đánh nhau với Pháp nhiều trận oanh liệt. Suốt mười năm trời (1885- 1895), bất chấp mọi khó khăn gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Thực dân Pháp thấy không thể dùng sức mạnh quân sự dẹp tắt được nghĩa quân, quay sang thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc. Tổng đốc Hoàng Cao Khải nhiều lần ngon ngọt dụ hàng nhưng ông cự tuyệt, quyết kháng chiến đến cùng. Năm 1895, triều đình vâng lệnh Pháp sai Nguyễn Thân đi đàn áp, khủng bố dã man. Tháng 11-1895 ông bị bệnh mất, phong trào từ đó tan rã.

Phan Đình Phùng mất đi, cuộc kháng chiến cũng kết thúc. Song, cuộc khởi nghĩa Hương Khê xứng đáng là đỉnh cao của phong trào Cần vương. Đây cũng là thời điểm kết thúc sứ mạng lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam chống Pháp. Trước đó là các cuộc kháng chiến của Hồ Huân Nghiệp (1829-1864), Nguyễn Thông (1827-1884), Nguyễn Cao (1828-1887), Nguyễn Quang Bích (1832- 1890)... cũng đều thất bại!

Phan Đình Phùng không chỉ là người lãnh đạo tài năng mà còn là nhà thơ. Cụ đã sáng tác một số câu đối (Điếu Lê Ninh, Khốc Cao Thắng) và nhiều áng thơ văn không chỉ có ảnh hưởng lớn lúc bấy giờ mà còn được truyền tụng mãi về sau (Đáp hữu nhân ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Kiến ngụy binh thi cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải, Thư tuyệt mệnh...).


***


Phan Đình Phùng cũng như nhiều sĩ phu khác, không mong lập thân bằng văn chương, chỉ lấy thơ văn dốc bầu tâm sự những khi tức cảnh, hoặc bày tỏ tình cảm với người thân. Thơ các vị chính là tấm lòng, là chí khí, bởi vậy, nó vô cùng chân thật và mang đậm tính cách con người tác giả. Thơ cụ Phan để lại không nhiều, trong 10 năm chiến đấu, sau những lần vượt nguy, hoặc những kỷ niệm đầy cảm khái với chiến sĩ, với bạn bè, Cụ tức cảnh một đôi vần mà thôi; tuy nhiên, nó cũng thể hiện rõ tấm lòng của Cụ đối với thế sự bao thăng trầm, biến động. Có khi một ngày đáng nhớ bằng cả cuộc đời? Thơ là tiếng lòng cá nhân của Cụ nhưng đọc kỹ ta thấy nó mang tâm tình, chí khí của cả một thế hệ sĩ phu thời bấy giờ.

Trước hết là tấm lòng lo lắng với thời cuộc, thấy rõ trách nhiệm với dân với nước. Đầu năm 1887, khi trên đường ra Bắc tìm bạn “ứng nghĩa văn thân” dừng chân ở Nghệ An, tâm trạng có lo lắng nhưng hưng phấn thể hiện trong bài thơ từ biệt Tô Bá Ngọc:

    … Ba canh không ngủ lòng lo giận,
     Muôn dặm xa nhà chôn nghỉ ngơi.
     Máu giặc hẹn ngày hoà với rượu,
     Khúc ca chiến thắng tấu vua hay.


(Lê Thước dịch)2

Về sau trên chặng đường chiến đấu đầy cam go, biến thiên khôn lường, cạm bẫy giăng đầy khắp nơi khắp chốn, tấm lòng trung nghĩa thì bất biến nhưng con mắt nhìn thời cuộc có khác, nhất là khi có sự biến. Âu lo, bùi ngùi vì quốc sự, giữa ngày xuân mà lòng tác giả “Tết đến người người vui vẻ cả / Riêng ta gặp tết vẫn bùi ngùi” hoặc “Ngoài xuân oanh nói với hoa cười/ Hoa báo xuân về vẫn vắng người”.

Trong bài thơ tác giả không nói rõ nguyên nhân sự bùi ngùi của mình nhưng người đọc thầm hiểu. Đó là vì lúc này vua Hàm Nghi đã bị bắt (1888), cuộc kháng chiến càng nguy khó, tác giả vì mệnh vua và lòng dân, vì truyền thống gia đình mà lãnh trách cuộc kháng chiến nhưng luôn cảm thấy thời vận thật khó khăn, tương quan quá chênh lệch.

      ... Núi Ngự trăm năm vầng nhật chiếu.
      Non Hồng muôn dặm bóng mây trời.
      Nhà ta vốn dạy niềm trung hiếu
      Đất khách không lòng oán ngược xuôi


(Mậu Tý nguyên nhật, 1888, Chu Thiên dịch)


Hoặc về sau trong bài thơ Tuyệt mệnh (1885), tâm sự này bộc lộ càng sâu sắc:

      Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh,
      Tướng môn riêng thẹn mặt anh hùng.


(Trần Huy Liệu dịch)


Đó cũng là tâm sự mà sau này ta gặp ở Phan Bội Châu và nhiều nhà Nho khác “Vẫn biết thời cơ đã lỡ rồi. Đến nơi sự thế phải làm thôi”.

Trong một vài trận chiến thắng lợi, Cụ có một vài vần thơ cảm khái tức cảnh vui cùng các chiến sĩ, nhưng nhìn chung tâm sự của Cụ là buồn lo bùi ngùi. Cũng như bao sĩ phu khác trước đó, họ chiến đấu chữ DŨNG LƯỢC có thừa nhưng chữ LẠC QUAN thì thiếu vắng! Nguyễn Quang Bích, một lãnh tụ nghĩa quân khác ở xứ Bắc sinh thời chẳng đã từng chua xót ngâm ngợi mấy câu thơ người xưa: Chung rượu cười vui khì còn sống/ Mai đây thác xuống biết có ai rưới chén say lên mồ mình!

Tự hào truyền thống gia đình... Hiếu trung là nếp nhà ta /... Ba đời khanh tướng nhà ta... Truyền thống hiếu trung, ơn vua lộc nước buộc họ hành động hơn là vì một niềm tin vào sự nghiệp lớn! Các nhân tố để khôi phục cơ nghiệp mà một thời Nguyễn Trãi từng nói đến thời, thế, lực3 đều vắng thiếu: thời đã lỡ, thế đơn côi, lực mong manh!


***


Một nội dung lớn đầy tính nhân văn trong thơ cụ Phan mà ta không thể không nhắc đến, đó là tình cảm nồng đượm với bè bạn, với người thân. Cụ thật chân tình, khi thể hiện tình cảm của mình với họ Tô và các bạn hữu đất Yên Thành, gia đình mà Cụ sống những ngày trên đường ra Bắc:

Tháng Hai xuân Đinh Hợi
Nhân ghé Đông Yên thôn
Nghe có nhà Tô Thị
Trung hậu nổi tiếng đồn.


Buổi đầu mới gặp gỡ
Nói năng vé ôn tồn
Nếp nhà trọng hiếu hữu.
Anh em vẹn luân thường


Chủ nhân quý “Thi khách”
Quanh chiếu những bạn hiền.
Cùng luận bàn kim cổ
Xướng hoạ dán đầy phên


Quý thay ông Bá Ngọc
Nhờ phúc trạch gia tiên
Hãy gắng lên! Gắng lên!
Làm thiện hưởng phúc bền4.


Cái tình người chân chất nồng thắm giúp ta hiểu vì sao cuộc kháng chiến đơn lẻ thiếu thốn trăm bề có thể tồn tại hơn thập kỷ trước nanh vuốt quân thù.

Trong “Thư trả lời Hoàng Cao Khải” điều này còn thể hiện rõ:

… Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc bị trách phạt hoặc bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng lấy thế làm chán nản bao giờ, trái lại họ vẫn ra tài đua súc giúp đỡ tôi, vả lại số người mạnh bạo ra giúp đỡ tôi ngày càng đông mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ làm sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi lượng xét chí tôi, cho nên hăm hở vậy đó. Ấy lòng người như thế, nếu như cố nhân đặt vào địa vị tôi, liệu cố nhân có bỏ đi cho đành hay không?

Ngay đối với những kẻ lầm đường lạc lối vì miếng cơm manh áo hoặc vì mù quáng đi làm bia súng cho giặc Pháp Cụ cũng có cái nhìn thật độ lượng... tấm lòng nhân ái của Cụ đã cảm hoá biết bao người, tác giả Đào Trinh Nhất đã nói rõ điều này trong tập sách viết về Cụ:

… Phan Đình Phùng rất chú ý đến công tác ngụy vận. Cụ thường bảo với nghĩa quân: “Hễ khi giao chiến vạn bất đắc dĩ hãy bắn giết lính tập, bởi họ là anh em đồng bào với mình...” (Phan Đình Phùng - Nhà lãnh đạo 10 năm chống Pháp ở Nghệ Tĩnh (1886-1895)).

Và cũng chính với tấm lòng nhân nghĩa đó, Phan Đình Phùng đã cảm hoá được các tướng lĩnh giỏi như Cao Thắng, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Phan Đình Cam, Cầm Bá Thước, Nguyễn Mục v.v... vượt qua bao gian truân khó khăn, hết lòng trung thành với sự nghiệp chống Pháp.
___________________________________
1. Hà Quảng: Nhà giáo ưu tú.
2. Trong bài viết của tác giả Hà Quảng sử dụng một bản dịch khác, nhưng chúng tôi thấy có một số chi tiết không chính xác nên xin thay bằng bản dịch của cụ Lê Thước vốn đã phổ biến. BT.
3. Nguyễn Trãi. Thư lại dụ Vương Thông.
4. Theo Nguyễn Trung Hiền, tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 12-2005.
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Chín, 2008, 11:18:14 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #86 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2008, 11:30:06 pm »


***


Như trên đã nói, trong 10 năm nằm gai nếm mật tiến hành cuộc kháng chiến không cân sức với giặc Pháp, cái gương xả thân thành nhân của Cụ và các chiến hữu thật ngời sáng. Phẩm chất dũng cảm kiên trinh vì lí tưởng của Cụ sáng chói cùng sử sách.

Trong bài thơ “Trả lời tuần phủ Võ Khoa” khi viên quan đồng học này gửi Cụ bài thơ xa ngái khuyên bãi binh, Cụ đã khẳng định: Bách niên tồn xã dư hoài nhiệt / Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn! (Trăm năm đất nước sục sôi. Một tấm lòng cô trung làm giặc khiếp hồn!).

Câu thơ như một lời thề khắc vào đá núi!

Mười năm đồng sinh đồng tử với nghĩa quân, những lúc vượt qua nguy nan, nhiều trận đánh thu được thắng lợi, Cụ không giấu niềm vui sung sướng, những bài thơ mừng chiến thắng của Cụ không chỉ hoà được lòng mình cùng chiến sĩ mà còn ngầm bày tỏ sự tin yêu ở chiến hữu. Một lần phái quân đi các nơi, đại đồn chỉ còn ít lính cảnh vệ, giặc Pháp đến cụ Phan định rút nhưng tuỳ tướng Nguyễn Mục xin đánh. Nhờ thế núi hiểm trở, các chiến sĩ dùng nghi binh quyết chiến đánh lui quân giặc. Cụ cho mở tiệc mừng và làm bài thơ Mừng chiến thắng:

                      Vừa phái quân đi giặc đến nơi
                      Lòng ta lui tới luống bồi hồi
                      Người xin quyết đánh là ai đó
                      Chớp mắt mà ra đã thắng rồi.
                      Chót vót non cao nước một màu
                      Quỷ thần âu cũng giúp ngầm nhàu
                      Không dưng bên ít bên nhiều thế
                      Mà đến đầu khe đã chạy sao?


Tuy trong thẳm sâu lòng Cụ thông cảm cho những người vì miếng cơm manh áo hoặc vì bị cưỡng bức phải đi lính tập vào vòng binh lửa, nhưng đối với những kẻ hám danh lợi mà làm tay sai cho giặc, cụ vẫn không giấu sự khinh bỉ và có dịp là cảnh tỉnh cho chúng:... Chẳng qua danh lợi buộc thân mày / Đến nỗi bên khe chết bỏ thây / Trông đó ai ơi nên sớm liệu / Chết rồi có hối cũng ra chày.

Đối với những người con, những chiến sĩ hy sinh vì nghĩa lớn, cụ vô cùng thương tiếc. Trường hợp Cao Thắng hy sinh là một cái tang lớn không chỉ cho Cụ mà cho cả phong trào kháng chiến. Cụ đã khóc than đau đớn và bỏ ăn nhiều ngày khi nghe tin viên chỉ huy trẻ, cánh tay phải của mình hy sinh. Mấy câu liễn viếng Cao Thắng đã nói rõ tấm lòng cụ:

                      Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ hĩ;
                      Vi tiệp tiên tử, thiên ý vị hà

                                            *

                      Công cầu tất thành, kích tiếp thệ ngôn thanh quốc tặc;
                      Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân.


Dịch:

                      Có chí không thành, anh hùng đã khuất;
                      Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao?

                                             *

                      Công muốn lập nên, gõ mái nặng thề trừ giặc nước;
                      Việc khôn tính trước, lên yên nay thấy vắng người này1.

Thơ tuyệt mệnh là bài thơ sau cùng cũng là bài thơ hay nhất của Cụ, để lại nhiều dư âm nhất trong lòng người đời. Bài thơ là một lời tự bạch về tâm trạng của một người tướng, một lãnh tụ nghĩa quân trước khi chết cảm thấy hổ thẹn vì chưa làm tròn sứ mệnh nhà vua giao phó “Vũ lược còn chưa báo được công”, xót xa vì chưa làm tròn phận sự giải phóng nhân dân, dân tộc “Bốn bể nhân dân nước lửa nồng”! Cảnh tang tóc bấn loạn đang trùm lên tất cả “Dân đói kêu trời tan tác nhạn, Quân gian chật đất rộn ràng ong”. Người anh hùng đã phải ra đi khi sự nghiệp còn dang dở “Trách nhiệm càng cao càng nặng gánh, Tướng môn riêng thẹn với anh hùng”.

Một bài thơ thật cảm động, đã vẽ lên khá đầy đủ vẻ đẹp tinh thần cũng như sự bế tắc của tầng lớp sĩ phu đương thời trong sự nghiệp cứu dân, cứu nước mà đến hơn nửa thế kỷ sau những người anh hùng mới - những người Cộng sản, sẽ thay thế làm trọn được trách nhiệm mà lịch sử giao phó.


***


Bằng thể thơ Đường cổ điển với các phép đối quen thuộc, cách sử dụng ngôn từ còn có những ước lệ, nhưng cái tình thật và cái nỗi đau nhân thế bao trùm đã làm xúc động người đọc qua nhiều năm tháng, vượt khỏi sự phân cách không gian, thời gian cùng ý thức hệ.

Trong những năm tiến hành cuộc kháng chiến anh hùng và gian khổ, nhiều nhân vật thân cũng như sơ, phía này hay phía kia có nói đến cụ Phan và bằng văn thơ thể hiện mối quan tâm với những động cơ khác nhau. Đó là trường hợp đối thoại giữa cụ Phan với Tuần phủ Võ Khoa..., với ông Bạch Xỉ, với Quận công Đại thần Hoàng Cao Khải, với Cử nhân Tô Bá Ngọc... Mục đích và hoàn cảnh có khác nhau nhưng các vị này đều thể hiện một lòng khâm phục nhân cách cụ Phan.

Hoặc để dụ dỗ:

… Từ lúc ngài khởi nghĩa đến nay nghĩa khí trung can đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quan Pháp nói chuyện về ngài, ông nào cũng tỏ vẻ thở than khen ngợi và quý trọng ngài lắm”. (Hoàng Cao Khải)

Hoặc để làm thân:

                 Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi
                 Xin theo bên ngựa đỡ dây cương.

(Bạch Xỉ)2


Hoặc là sự khâm phục thật lòng:

                 … Can tràng sáng chói mặt trời
                 Mười năm tâm sự gửi nơi tro tàn.
                 Khí thiêng trở lại hà san
                 Khóc dâng chén rượu rửa hồn Châu Phong

(Tô Bá Ngọc)


Phạm Văn Ngôn, nhà chí sĩ đời sau, khi nhắc đến chiến công của Cụ đã không ngớt tự hào về trận phục binh “Sa nang úng thủy” ở Vụ Quang:

                 Gió lạnh sương mù buổi rạng đông
                 Ba quân phục sẵn ở bên sông
                 Chiêng khua một tiếng quân reo dậy
                 Đê phá trên nguồn nước chảy tung...


Phan Đình Phùng là một minh chứng cho vẻ đẹp “xả thân thành nhân” của người xưa. Cụ mất nhưng để lại tiếng thơm cho đời. Lời Võ Phát trước đấy khi thay mặt Phan Đình Phùng khóc thương Cao Thắng, phải chăng cũng có thể nói thay được tấm lòng người dân quê hương Hồng Lam tiếc thương Cụ:

                Non Thiên Nhẫn phất phơ hơi gió thổi,
                                                     thương người tiết nghĩa ngậm ngùi thay,
                Nước Tam Soa thấp thoáng bóng trăng soi,
                                                     nhớ kẻ trung trinh ngao ngán nhẽ!


Cùng với các sĩ phu nổi tiếng một thời chống Pháp, các vị là một dãy sao sáng trong bầu trời Việt thời kỳ cận đại, Phan Đình Phùng vì sao rực rỡ bay lên từ mảnh đất Hồng Lam giàu truyền thống.

Tháng 11 năm 2006

(Theo Tạp chí Hồng Lĩnh,
số 37, tháng 4-2007)

____________________________________
1. Trong bài viết của tác giả Hà Quảng sử dụng một bản dịch khác, nhưng chúng tôi thấy có một số chi tiết không chính xác nên xin thay bằng bản dịch trong Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XX. BT.
2. Bạch Xỉ cùng khởi nghĩa chống Pháp đồng thời với Phan Đình Phùng, căn cứ hai bên cũng ở gần nhau. Bạch Xỉ không theo cụ Phan nhưng rất trân trọng, quý mến tài đức Cụ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #87 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2008, 09:59:56 pm »


NINH VIẾT GIAO1.

“CÔ TRUNG MỘT MẢNH GIẶC KINH HỒN”2
(VÀI NÉT VỀ THƠ VĂN PHAN ĐÌNH PHÙNG)

Phan Đình Phùng làm thơ làm văn không nhiều, hay nói cho chính xác hơn, thơ văn Phan Đình Phùng còn truyền lại đến bây giờ không nhiều. Song điều đáng quý, tất cả thơ văn Phan Đình Phùng đều có giá trị nghệ thuật và đều mang nội dung yêu nước.

Thơ văn Phan Đình Phùng cũng như con người Phan Đình Phùng: yêu nước nhiệt thành, khảng khái, mang tư tưởng “tiên thiên”, chiến đấu kiên cường, đạo đức gương mẫu, có sức cảm hóa sâu sắc.

Phan Đình Phùng hưởng ứng Chiếu Cần vương, “xướng nghĩa tiên thanh phù xã tắc” vào lúc thực dân Pháp, về căn bản, đã chiếm xong nước ta. Dưới áp lực quân sự của giặc, triều đình Huế đã ký hai Hàng ước nhục nhã vào ngày 25-8-1883 và ngày 6-6-1884 công nhận toàn quyền đô hộ của chúng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Thời kỳ chiến đấu giữ nước kéo dài từ 1858 đến đây chấm dứt. Bây giờ là thời kỳ kháng chiến giành lại Tổ quốc đã nằm trong tay giặc. Tại Nghệ Tĩnh, “các quan đã mãi trứng gà, đem xuống cửa Hội để mà đón Tây”. Nước mất. Triều đình nhà Nguyễn đầu hàng. Tiếng súng chống Pháp thưa dần. Một tâm lý bi quan, hoang mang, thất vọng trong toàn thể xã hội ta, nhất là trong tầng lớp sĩ phu và quan lại yêu nước. Mấy trăm năm qua, kể từ ngày quân Minh bị đuổi ra khỏi nước (quân Thanh chưa kịp thực hiện ý đồ xâm lược), ách thống trị của nước ngoài khá xa lạ đối với nhân dân ta. Bây giờ một kẻ thù từ phương Tây, mịt mù cách trở về địa lý, về sinh hoạt, về ăn mặc, ngôn ngữ,... đến đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta, đó là một biến cố phi thường, nên tâm lý bi quan, thất vọng trên có gì như sững sờ, thảng thốt. Phan Đình Phùng đã ghi tâm trạng đó trong một bài thơ đề là Cảm tác làm năm Hàm Nghi Nguyên niên (1885).

              Mắt ngó kinh thành ruột rối bời,
              Đau lòng việc nước lệ tuôn rơi...
              Trung thần nghĩa sĩ giờ đâu tá?
              Đắm đắm non Bình nghĩ chẳng nguôi.

(Nguyên văn chữ Hán)


Phan Đình Phùng quặn lòng đau xót trước cảnh non sông đã thay thầy đổi chủ: “Thảo mộc sơn hà phi cựu chủ, vương hầu đệ trạch dĩ tân nhan”. Song “gia bần tri tử hiếu, quốc loạn thức tôi trung”. Tôi trung ở đây không phải là trung với vua đã hàng giặc, mà là trung với nước, trung với nền độc lập dân tộc, với nguyện vọng cứu nước, giữ nước của nhân dân ta. Thơ văn Phan Đình Phùng, không chỉ thể hiện nội dung yêu nước sâu sắc, chống đế quốc xâm lược mà còn chống bọn phong kiến đầu hàng. “Thư trả lời Hoàng Cao Khải” vừa là bút chiến với tên Việt gian bán nước, vừa là bộc lộ quan điểm, lập trường khởi nghĩa chống giặc của cụ. Mang tư tưởng tích cực đó, lãnh trách nhiệm trước sứ mệnh lịch sử, Phan Đình Phùng khẳng định ý chí đánh giặc:

                   Cứu quốc lòng ta sốt sắng luôn,
                   Cô trung một mảnh giặc kinh hồn.

Lê Thước dịch

Trước kẻ thù hùng mạnh có tàu to súng lớn, Cụ không hề sợ hãi. Coi thường kẻ thù, đứng trên kẻ thù, cũng trong bài thơ trên Cụ viết hai câu cuối:

                   Nhắn lời các bạn hay chăng tá,
                   Sở vương nhổ được núi nào đâu!


Đánh giá tương quan giữa ta và địch lúc bấy giờ như vậy là biểu thị một tinh thần kiên cường bất khuất, một khí phách hào hùng của sĩ phu Hoan Diễn. Huống chi Phan còn coi lòng trung nghĩa là một sức mạnh to lớn. Nó làm kẻ thù phải run sợ:

                   Nhất phiến cô trung tặc đởm hàn.

Thái độ ấy quả là hiếm trong nội dung thơ văn yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX.

Điều hiếm hơn nữa là thơ văn của Phan thắm đượm một niềm tin vào sự nghiệp chiến đấu của mình:

                   Máu giặc hẹn ngày hòa với rượu,
                   Khúc ca chiến thắng tấu vua hay.

Tái bộ nguyên vận chủ nhân Tô


Niềm tin này tỏa sáng trong bài Thắng trận hậu cảm tác:

                   Vừa phái quân đi, giặc kéo vào,
                   Lòng ta chưa biết tính nên sao.
                   Quyết xin ra đánh là ai đó
                   Thắng trận tin về quả chẳng lâu.

Khương Hữu Dụng dịch

Bài thơ tràn trề một niềm phấn khởi tự hào của một vị tướng cầm quân thắng trận, biết tin vào chính nghĩa, vào nghĩa binh, thể hiện được hùng khí của dân tộc trong những giờ phút chống ngoại xâm.

Quyết tâm đánh giặc, tin vào sự nghiệp chính nghĩa của mình, suy nghĩ kỹ về vai trò của kẻ trượng phu “Đương kim chi thế xả ngã kỳ thùy” nhưng “ Cần vương lại bị nhà vương gia hình”. Mười năm đã trôi qua, thắng có bại có, lúc ra Bắc, lúc mong người đồng chí, lúc lo cơ mưu trong trướng, lúc trực tiếp cầm quân đánh giặc,... “cô thần mưu quốc phong sương lão”, Phan Đình Phùng những muốn đem toàn tâm toàn sức ra cứu vớt giang sơn. Nhưng rồi các tướng giỏi như Cao Thắng, Nguyễn Chanh đều tử trận, thế lực nghĩa quân yếu dần, đã có lúc Phan tự kiểm điểm: “Chém rắn giữa đường gươm tuốt chậm, đuổi hươu đồng nội giáo khua sai”. Giặc Pháp dốc toàn lực tấn công vào căn cứ, chúng chặn các đường giao thông, càn quét dài ngày, biết thời thế khó xoay, Phan bộc lộ nỗi niềm:

                     Việc quân vâng mệnh trải mười đông,
                     Chiến sự nay còn tính chửa xong.
                     Dân đói kêu trời tan ổ nhạn,
                     Quân thù chật đất dậy đàn ong.
                     Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ,
                     Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng.
                     Trách vọng càng cao, lo lại nặng,
                     Tướng môn những thẹn với anh hùng.

Lê Thước dịch

Một tâm sự u uất của một kẻ cô trung bao trùm khắp bài thơ. Một tư tưởng ưu ái trước cảnh non sông bị chìm đắm, nhân dân cùng đường đói khổ chỉ biết kêu trời như đàn nhạn tan tác, còn quân thù lộng hành hung hãn, vua bị đày đi xứ lạ, cứ theo trách nhiệm của một sĩ phu yêu nước mà dâng lên dào dạt man mác trong bài thơ. Một mảnh lòng son của tầng lớp nhà Nho Nghệ Tĩnh đứng lên xoay vần cuộc thế, nhưng nay cảm thấy bất lực, chỉ còn biết nặng trĩu đau buồn và thẹn với anh hùng trong lịch sử. Chúng ta trân trọng mảnh lòng son, tâm trạng cô trung ấy. Đến đây ta rõ thêm rằng, thì ra cái gốc của lòng yêu nước, của hào khí can trường trong thơ văn Phan Đình Phùng đã được hun đúc từ cái nền đạo lý truyền thống của nhân dân. Bài thơ có 8 câu, 4 câu tác giả trách mình, 4 câu nói đến dân đến vua. Nhưng hình ảnh vua cũng không lấy gì làm đậm đà cho lắm, dù đó là ông vua yêu nước. Còn hình ảnh nhân dân đau khổ thì rất da diết đậm đà.

Tâm sự ấy của Phan Đình Phùng, phải chăng chỉ trong bài thơ trên? Trong Thư trả lời Hoàng Cao Khải, khi nói đến nỗi đau buồn của nhân dân, Phan Đình Phùng như không cầm được nước mắt: “... Đến nay người Tây với mình, cánh xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể lại đây, đi tới đâu như gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị chìm đắm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà nào phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu...”

Có lòng thương yêu nhân dân nồng nàn bao la đó, Phan Đình Phùng thương xót cả những người nông dân lầm đường đi theo giặc. Qua bài Kiến ngụy binh thi cảm tác, tác giả tỏ lòng độ lượng đối với họ, cảm thông với nỗi nhục nhã của họ đồng thời thành tâm mong muốn những ai trót đi lính cho giặc hãy sớm tỉnh ngộ quay về với Tổ quốc:

                      Mày chỉ vì danh lợi đó thôi,
                      Bên khe đến nỗi để thây phơi.
                      Dấu xe trước mắt ai trông đó,
                      Kẻo chết ăn năn cũng muộn rồi.


Ngời sáng tấm lòng yêu nước thương dân nên Phan Đình Phùng được nhân dân tin yêu. Nhân dân phấn khởi hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Cụ, coi công đức của Cụ như công đức mẹ cha. Dầu rằng vất vả và bị bóc lột tàn tệ, song trước nạn nước, người tự nguyện tham gia nghĩa binh, người đem của cải đóng góp cho cuộc khởi nghĩa:

                      Trăm họ hớn hở đêm ngày,
                      Tụng công đức ấy coi tày mẹ cha.
                      Bảo nhau đem của cải ra,
                      Gửi lên sơn trại gọi là quân lương.

(Vè Quan Đình)


Cuộc khởi nghĩa không thành. Sau những ngày trực tiếp chỉ huy chiến đấu dũng cảm, Phan Đình Phùng đã hi sinh oanh liệt ngày 28-12-1895. Tỏ lòng ái mộ một sĩ phu yêu nước yêu dân, cương quyết kháng chiến, Văn thân Nghệ Tĩnh đã có một câu đối viếng khá thống thiết. Nghĩ đến nhân cách và công lao của Phan Đình Phùng, một sĩ phu đã điếu bài thơ:

                     Giật giải thi Đình ông bậc nhất,
                     Dựng cờ khởi nghĩa ông đầu đàn.
                     Trung trinh chẳng thẹn nhà gia thế,
                     Chính trực còn truyền tiếng gián quan.
                     Một tấm can trường vầng nhật tỏ,
                     Mười năm tâm sự bụi tro tàn.
                     Than ôi chính khí về sông núi,
                     Khóc bác Châu Phong chén rượu tràn.

(Bài ngoại liệt truyện)

Rõ ràng một chế độ xã hội đã chết đi, kéo theo cả nền tảng tinh thần, trật tự, đạo đức ,... thường gọi là chính khí, là cương thường mà các Cụ đứng lên vãn hồi không được. Nhưng những người vì nghĩa vì dân mà đánh giặc cứu nước vẫn được các thế hệ mai sau mãi mãi ngợi ca. Các Cụ đã để lại cho chúng ta một truyền thống: biết làm người, biết giữ gìn nhân phẩm, biết tự lập tự cường, yêu nước, xả thân vì nước, cam chết vinh không cam sống nhục,... Phan Đình Phùng là như vậy “tinh thần còn mãi vẻ xanh tươi”3 ...

Tháng 11 năm 2003
________________________________________
1. Ninh Viết Giao: Phó Giáo sư, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An.
2. Đầu đề này là một câu thơ trong một bài thơ của Phan Đình Phùng.
3. Những tư liệu dẫn trong bài viết này đều lấy trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 4 và Thơ văn nhà Nho xứ Nghệ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #88 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2008, 10:25:22 pm »


CHƯƠNG THÂU

LÒNG NGƯỠNG MỘ CỦA PHAN BỘI CHÂU
ĐỐI VỚI CỤ PHAN ĐÌNH PHÙNG

Phan Bội Châu (1867- 1940) nhà yêu nước chân chính, nhân vật trung tâm của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX, là người nối tiếp “phong trào Cần vương chống Pháp”, từng giương cao ngọn cờ dân tộc - dân chủ trong sự nghiệp cứu nước của mình và cũng đã đạt được một số công tích lịch sử đã ghi nhận.

Trong quá trình hình thành và phát triển chủ trương đường lối cách mạng của mình Phan Bội Châu cũng từng tiếp thu “tư tưởng và thủ đoạn bạo động” cũng như tấm gương đấu tranh kiên cường bất khuất của phong trào chống Pháp ngay quê hương Nghệ Tĩnh do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo trước đó.

- Từ tấm bé, Phan Bội Châu đã từng nghe biết về phong trào đánh Pháp của Phan Đình Phùng và tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Trong tập tự truyện Phan Bội Châu niên biểu đã ghi lại sự kiện Phan Bội Châu năm 19 tuổi (1885) vì đại nghĩa kích thích và vì tâm phục mà nóng lòng muốn hưởng ứng phong trào Cần vương của thân hào Nghệ Tĩnh do cụ Phan Đình Phùng đứng đầu, đã cùng bạn là Trần Văn Lương lập ra “Đội thí sinh quân” gồm 60 thanh niên để phối hợp tác chiến với nghĩa quân của cụ Đình, tấn công đồn binh Pháp ở tỉnh thành Nghệ An. Việc không thành và đã kịp thời rút bài học kinh nghiệm, rằng: “Hễ muốn làm anh hùng tất phải tiềm dưỡng cho thật lâu, muốn gánh việc lớn, tất phải chứa mưu cho thật nhiều”1, ý Phan Bội Châu muốn nói là phải học tập theo gương cụ Phan Đình Phùng lúc đó.

- Phan Bội Châu tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện tâm chí, náu mình trong công việc thường nhật “vừa dậy học kiếm sống, nuôi cha và các em, vừa tìm kiếm kết liên với các bạn đồng tâm đồng chí”. Trong khi dạy học, “mỗi khi giảng sách dạy bài, thường nhắc đi nhắc lại những việc nhân nhân chí sĩ đời xưa. Tựu trung lịch sử của Hoàng Phan Thái tiên sinh, của Phan Đình Phùng tiên sinh, càng vui miệng nói luôn, mong có người cảm động...”2 và:

“Các đầu mục, dư đảng của cụ La Sơn (Phan Đình Phùng), tôi thường âm thầm kết nạp. Nghĩa tán tương là Nguyễn Quýnh, người Hương Sơn, nghĩa đốc biện là Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân cho đến nghĩa phó lĩnh là Ngô Quảng, nghĩa quản cơ là Lê Hạ với những ông như Đội Quyên, Quan Phấn, thảy là bạn bí mật của tôi...”3

- Phan Bội Châu đã thừa kế được những thành tựu (kể cả các dư đảng) của phong trào Phan Đình Phùng để tiến lên “tiếp nối sự nghiệp cứu nước dở dang của Cụ”. Phan đã ghi lại tâm trạng của mình trước bước ngoặt lịch sử đó, như sau:

“Đến năm tôi ngoài 30 tuổi, đang Cần vương khắp trong nước nối nhau vỡ lở tan thành, chỉ còn sót lại một mình cụ Phan Đình Phùng ở La Sơn, cố sức cầm cự được lâu. Nhưng tới năm Giáp Ngọ (1896) niên hiệu Thành Thái thứ 6, Cụ mất. Từ đó trở đi, non sông hiu quạnh, việc gánh vác không còn ai. Trải 10 năm, tôi ôm lòng phẫn, nuôi chí to, vẫn rấp ranh ở ngay giữa khoảng núi Hồng sông Lam, dựng nên một cây cờ độc lập. Tới đây, tôi không thể nào nín mà không làm được”4

- Bước quyết định cuộc đời dấn thân cứu nước cứu dân của Phan Bội Châu, bắt đầu từ đây, và như chúng ta đều biết, từ sau năm 1900, khi đã đỗ Giải nguyên “đã có được một cái mặt nạ để mượn đó mà che lấp mắt đời”, Phan Bội Châu đã “vào Nam ra Bắc” nhằm “kết liên đồng chí” để rồi thành lập ra Duy Tân hội (1904) với “mục đích cốt khôi phục Việt Nam, lập nên một chính phủ độc lập5. Rồi trực tiếp lãnh đạo phong trào Đông Du từ năm 1905-1909... Sau nữa, đến năm 1912, lại lập ra Việt Nam Quang phục hội... và tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam cho đến năm 1925 khi Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt đưa về nước và chấm dứt vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của “bực anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân cho độc lập được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” như Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá.

Như trên đã đề cập, để trở thành một Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trong một phần tư đầu thế kỷ XX, trong đó có yếu tố học tập tiếp thu truyền thống chủ trương bạo động cách mạng của các bậc anh hùng chống Pháp thế hệ trước, tức là thế hệ Cần vương, mà gần gũi và cụ thể nhất là tấm gương Phan Đình Phùng.

Trong các tác phẩm thơ văn tuyên truyền yêu nước có khá nhiều đoạn văn, nhiều truyện ký, Phan Bội Châu tỏ ra hết lòng ngưỡng mộ Phan Đình Phùng.

- Trong tác phẩm Việt Nam vong quốc sử, một cuốn “lịch sử cách mạng” đầu tiên do Phan Bội Châu viết tại Nhật Bản, nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp, trong đó Chương II: Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước, tác giả đã dành số trang nhiều nhất (so với các chí sĩ khác) cho Phan Đình Phùng. Đây cũng là một “tiểu truyện” xuất hiện sớm nhất viết tương đối kỹ về “hành trạng” của La Sơn tiên sinh. Xin trích dịch nguyên văn như sau để các bạn cùng tham khảo và cũng để thấy tấm lòng trân trọng biết chừng nào của Phan Bội Châu đối với cụ Phan Đình Phùng.

“Năm Ất Dậu (1885), đương lúc xảy ra nạn nước, xa giá nhà vua dời ra ngoài, lấy huyện Hương Khê làm nơi hành tại - ở hạt Hà Tĩnh. Hà Tĩnh thuộc tỉnh Nghệ An. Toàn bộ An-Tĩnh theo nghĩa rất nhiều, chống với quân Pháp rất lâu, và cũng bị tai vạ rất tàn khốc hơn các tỉnh khác. Trong khoảng mười một năm, những bọn buôn thúng bán mẹt, tá điền, đồ tể, trộm cướp đều tụ tập nổi dậy ở nơi thảo dã, liều mạng đánh nhau với Pháp, vất vả trăm trận đánh, trở thành danh tướng một thời. Trong bọn ấy, nổi bật có chưởng doanh nghĩa binh là Cao Thắng. Đề lĩnh nghĩa binh là Nguyễn Chanh cùng với Cao Thắng quả cảm thiện chiến, thấy một cái súng Tây mà có thể y theo kiểu chế tạo ra tinh xảo không kém gì của Pháp. Đánh nhau với Pháp, ông đã chém được đầu những quan một, quan hai của Pháp. Quân Pháp đã phải khuyên nhau hễ gặp Thắng là phải tránh đi. Giá mà trong nước có được mấy trăm ông Thắng, thì người Pháp chả phải thua liểng xiểng mà rút về Tây ư? Từ khi ông Thắng vào quân ngũ, gặp địch là đánh, thực là kẻ kình địch đối thủ của giặc Pháp. Thắng chết, người Pháp đốt chỗ làng ở, quật phần mộ ông lên, Nguyễn Chanh quả cảm không bằng Thắng, nhưng mưu lược lại hơn, khi người Pháp mới đến, Chanh lập tức đi lính cho Pháp làm gian tế, dẫn quân Pháp đi nã phỉ, bàn âm mưu khuyên đồ đảng lấy rượu nhử quân Pháp, nhân lúc quân Pháp say, giết sạch, cướp hết súng về theo nghĩa đảng, vâng chiếu của Xuất đế làm lãnh binh. Tới chiến trận, Chanh biết tránh mũi nhọn nhằm đánh vào chỗ trễ nải, lấy thư thái đối địch với bọn đang mệt nhọc, lâm cơ thung dung, ứng biến nhanh như thần, có phong thái của danh tướng đời xưa. Luôn luôn đọ súng giao chiến với Pháp, đều không thưa. Thật là “Trời còn đương phù hộ cho nước Sở, chưa thể tranh lại được”. Tiếc thay! Chanh, Thắng chết rồi, Hà Tĩnh không có danh tướng nữa, hai người đều là bộ thuộc của Phan Đình Phùng. Ông Phùng lúc thư sinh đã vượt ra ngoài khuôn sáo, thi Đình đỗ đầu liền được bổ Ngự sử, gặp lúc quyền gian trị nước, tự tiện làm việc phế lập, đao búa vây cánh sẵn như rừng, chúng họp triều thần lại để nghe mệnh lệnh. Cả triều đều nín thở, riêng mình ông Phùng kháng đối rất nghiêm khắc, nghĩa khí ông lẫm liệt, thường chết cũng không sợ, đại loại như thế.

Chiếu Cần vương đưa xuống, Phùng đang ở nhà cư tang mẹ, cứ mặc áo tang đi phụng chiếu, đốc suất mọi đạo nghĩa quân đắp đồi núi, cướp ụ của Pháp. Dân hai hạt phần lớn quy phục người Pháp, hiệu lệnh không thể thi hành được. Tên trùm nô lệ của Pháp là Hoàng Cao Khải, người cùng làng với Phùng, đem lời ngọt lễ hậu đến dụ ra hàng không được. Vua mới6 bị Pháp hiếp, cũng ôn tồn dụ ra làm quan, cuối cùng đều không được cả. Người Pháp bắt giam quyến thuộc, đào mả ông cha. Con em Phùng khóc đem tin đến, Phùng nói: “Nhà ta đời đời chịu ơn nước, phải cùng nước cùng chịu tai họa, ông bà ta cũng bằng lòng như thế, ta phải làm theo chí của người trước thề chết không thôi”. Bèn cứ hiểm nuôi quân, tích lương, sắm khí giới, chuẩn bị cách tiến thủ, thanh thế vang lừng hai kỳ. Gặp phải tên giặc Nguyễn Thân, Quảng Ngãi, là chó săn của quân Pháp đem mấy nghìn lính tập cùng với mấy nghìn lính Pháp chia đường tiến công, quân chưa vào tới nơi, gặp ngay lúc Phùng bị bệnh nặng chết, quân Pháp liền phá được sào huyệt. Lúc bấy giờ dưới cờ không còn có tướng giỏi bằng Chanh, Thắng, quân đội liền tan rã. Than ôi! “Ra quân, chưa thắng đã chết, khiến kẻ anh hùng lệ đẫm khăn”7. Phùng sắp chết có đôi câu đối tuyệt bút rằng:

                      Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại
                      Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung.


Tạm dịch:

                      Bốn bề nhân dân trong lửa nước,
                      Chín lần xa giá cách quan sơn.

Phùng chết rồi, người Pháp treo thưởng rất hậu để mua xác, nhưng bộ thuộc ông không ai chịu chỉ dẫn. Người Pháp cho tìm khắp miền rừng núi bắt được một người Mọi chỉ rõ nơi chôn ông Phùng. Người Pháp đào xác lên xét nghiệm thì thấy có ngón tay thừa và trên mặt áo quan có cái ấn “Lưỡng kỳ kinh lược đại sứ”, “Bình Tây đại súy” của vua Hàm Nghi sắc cho, bèn lấy xác ra phun dầu hỏa vào mà đốt, lại sợ có người lượm cái gì ấy đem chôn, nên chúng đem rắc gio xuống sông. Từ xưa đến nay chưa nghe thấy nói có một hình phạt thảm khốc như thế bao giờ, mà nay lại thấy ở một nước văn minh châu Âu! Trị tội những kẻ trộm cướp chính cống còn không có cái luật ấy phương chi đối với một nghĩa sĩ làm việc Cần vương ư? Cái nước văn minh kia sẽ làm gì để mà giải thích được mối ngờ ấy cho thiên hạ?

Cuối năm Ất Mùi tháng bẩy. Phùng chết. Tháng bảy năm sau nghĩa đảng tan; tháng mười một, người Pháp bắt dân bốn hạt phải bồi thường 20 vạn đồng vàng binh khí, nước bàn bình định.

Như thế nghĩa là đất cát 36 tỉnh, hơn 120 phủ huyện gồm gần 50 triệu nhân dân nam phụ lão ấu, cho đến kẻ cùng đinh ở động Mường, phía Nam đến hết Hà Tiên, phía Bắc đến tận Lạng Sơn, Tây giáp Xiêm La, Đông giáp biển lớn, không một nơi nào là không thuộc về người Pháp quản hạt. Đấy là kết cục việc người Pháp cướp lấy Việt Nam.

Từ đấy về sau, người Pháp bèn dùng đủ mọi thủ đoạn độc ác để kinh lý Việt Nam, cứ thong thả từ đó đưa gót chân tàn nhẫn giầy xéo toàn cõi Việt Nam”8.

Cùng với tấm lòng ngưỡng mộ đó, trong tác phẩm Sùng bái giai nhân xuất bản tại Nhật Bản năm 1907, khi viết về những tấm gương của các Trang sử hào kiệt: Truyện Mẹ Lân hay Truyện tráng sĩ Cao Thắng. Phan Bội Châu đã viết nhiều trang, nhiều đoạn, nhiều câu nói về công tích của vị thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) rất cảm động như: “Không bao lâu sau, nghĩa binh đã thu phục được thành Hà Tĩnh. Tiếng tăm lừng lẫy. Giặc đem hết các đạo quân hùng mạnh trong nước, tập trung về đất Châu Hoan để chống cự với nghĩa binh”... 9

- Đặc biệt, trong số thơ văn ca ngợi Phan Đình Phùng, phải kể đến đôi câu đối Điếu Phan Đình Phùng dài đến 162 từ (một đôi câu đối có lẽ dài nhất trong thể câu đối) của các thân sĩ Nghệ Tĩnh. Trước đây, người ta chưa biết rõ tác giả (người chấp bút) là ai. Nhưng gần đây, qua sự tìm hiểu của nhiều người và đã thống nhất: tác giả đôi câu đối đó là Nguyễn Thức Tự và hai người học trò “đầu bảng” của Cụ tức Phan Bội Châu và Đặng Thái Thân.

Phan Bội Châu được công nhận là “đồng tác giả” với thầy học của mình lúc đó là cụ Đông Khê Nguyễn Thức Tự, tức cụ Sơn ở Nghi Lộc, Nghệ An.

Đôi câu đối được các bậc túc nho Xứ Nghệ coi là một áng văn tuyệt bút (về thể câu đối), nội dung của nó đã tóm lược một cách đầy đủ công lao, đức độ của cụ Phan Đình Phùng. Xin chép ra đây (bản dịch) toàn văn để mọi người cùng thưởng thức văn tài và tư tưởng của tác giả và tác phẩm độc đáo này:

“Thành bại anh hùng chí sá quản; trung côi kia, nghĩa lớn nọ, thì mãi cùng đồng chí thủy chung; Son Mực anh linh, đọc sử sách cương thường vẫn trọng; Khá hận nỗi nhà to nghiêng đổ, một cột khó đương, để khói lạnh phòng hoang, ai chẳng nhớ rừng sâu ngâm oán khúc, huống đang buổi rồng bay mây nhạt, chung sầu việc thế tủi thay, khá thương La, Việt non sông, văn hiến ngàn năm binh lửa ngút”;

“Cổ kim trời đất mãi không cùng, nước chảy đó, núi cao đây, đều khắp cõi giang sơn tuấn kiệt; Lam Hồng sương tuyết, trải giá băng tùng bách coi khinh; Cớ sao xin sóng lớn cuồng dâng, giữa dòng lo chống, khiến sao dời vật đổi, ai không nhìn vườn cũ động thương tình, đúng giữa thời nhạn lạc gió đồn, đành hận ý trời chẳng giúp, riêng tỏ Tùng, Mai khí tiết, tinh thần một chết đẩu ngưu nhòa”10
_____________________________________
1. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 6. Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2000, tr.53.
2, 3, 5. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 6. Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2000, tr.57, 58, 60.
4. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 3, sđd, tr.58, 60.
6. Tức Đồng Khánh.
7. Nguyên văn chữ Hán bài thơ của Triệu Đỉnh thời Nam Tống:
            “Xuất sư vị tiệp thân tiên tử
            Trường sử anh hùng lệ mãn khâm”

8, 9. Phan Bội Châu Toàn tập, tập 2, sđd, tr.121-124; tr.296.
10. Trong hai vế đối này có mấy địa danh ở quê hương Phan Đình Phùng:
            Hòa Son, Hòn Mực (núi)
            La Sơn (huyện) , Việt Yên (tổng)
            Lam Giang (sông), Hồng Lĩnh (núi).
            Tùng Ảnh, Mai Hồ (các làng)
Theo bản dịch (vô danh) đăng trên báo Tổ quốc, số 11-1983.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #89 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2008, 03:43:37 pm »


BÙI ĐÌNH PHONG1.
PHAN ĐÌNH PHÙNG SỐNG MÃI VỚI QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC

                     Trời mô xanh bằng trời Can Lộc
                     Nước mô xanh bằng giòng nước La!
2

Nói đến sông La, lại nhớ về Phan Đình Phùng, con người mà:
                     Thi đình ông đỗ Đình nguyên,
                     Cần vương giết giặc ông trên mọi người.
                     Trung trinh xứng đáng con nòi,
                     Triều đình nổi tiếng gián đài thẳng ngay.
                     Can tràng sáng chói mặt trời,
                     Mười năm tâm sự gửi nơi tro tàn.
                     Khí thiêng trở lại hà san
3.

Suốt cả cuộc đời mình, lúc làm quan hay bị cách chức đuổi về quê, rồi trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Cần vương, Phan Đình Phùng luôn luôn là một tấm gương sáng chói về tình yêu nước và ý chí độc lập của dân tộc. Nêu cao tấm gương yêu nước của các bậc tiền bối, ông coi việc người Tây muốn chiếm đất ta thì cảnh lầm than là cả nước phải gánh chịu. Ông quan niệm cứu quốc là việc nghĩa. Vì vậy, dù phải chịu trách phạt, chém giết cũng dấn thân, gắng sức mà làm. Ông sớm có ý thức phân biệt giữa ý thức dân tộc với những lực lượng chia rẽ dân tộc. Những hành động yêu nước đầu tiên của người thanh niên họ Phan là trừng trị bọn phản động đội lốt tôn giáo hoạt động chia rẽ, phá hoại kháng chiến.

Nhất quán tư tưởng quan hệ vua tôi là cái gốc và chỗ dựa để dựng nước: nước với vua là một, trong hành động của Phan tuy có lúc quá tử, nhưng cái lõi cốt - hạt nhân hợp lý là chí căm thù giặc Pháp và lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn. Đó chính là sức mạnh, ý thức thường trực quán xuyến toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cứu nước của ông, cả lúc cuộc đời éo le, cay nghiệt. Sức mạnh đó đã vượt lên trên, chiến thắng thành kiến và ham muốn cá nhân. Đó cũng chính là sợi dây bền chặt, điểm hội tụ, sự gặp gỡ giữa Tôn Thất Thuyết, nhà lãnh đạo tài ba của phái chủ chiến với Phan Đình Phùng, con người khảng khái, cương trực, yêu nước và trung quân theo đạo vua tôi truyền thống. Hơn mười năm trời, Phan Đình Phùng - với cương vị thủ lĩnh tối cao lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Sơn - Hương Khê - là minh chứng hùng hồn của một tấm gương đánh giặc cứu nước.

Trong suy nghĩ và hành động của Phan Đình Phùng, yêu nước gắn liền với thương dân và ông đã tìm thấy sức mạnh ở nhân dân để đánh giặc. Phan Đình Phùng là một ông quan tốt trên cả hai phương diện: Giữ trọn đạo vua tôi và biết chăm lo đến đời sống nhân dân. Một tiến sĩ giữ chức tri huyện rồi Ngự sử trong triều mà thanh liêm, mực thước là hiện tượng không có nhiều dưới thời phong kiến. Ở tuổi tam thập, sau khi đậu tiến sĩ, Phan được giữ chức tri huyện Yên Khánh, Ninh Bình. Làm quan ở “đất khách quê người”, nhưng ông vẫn chăm lo đến đời sống nhân dân. Ông ghét cay, ghét đắng bọn người tham nhũng. Với quyền hạn của mình, ông sẵn sàng trừng trị bất cứ kẻ nào đục khoét của dân, nhũng nhiễu dân, chia rẽ gây thù hận dân tộc. Toàn bộ sự nghiệp chiến đấu ngoan cường của Phan Đình Phùng là biểu hiện cao đẹp của tấm lòng vì dân, vì nước. Những lúc xa quê hay khi viết thư trả lời một tên Việt gian cùng sinh ra ở một làng, ông đều bộc bạch tư tưởng và tình cảm sâu nặng của mình với dân, với nước. Tết đến, xuân về, ngồi dạy học ở đất khách - mà thực chất là để liên kết lực lượng chống Pháp - nhớ người, nhớ quê, ông viết:

                        Ngoài xuân cảnh nói với hoa cười
                        Hoa báo xuân về vẫn vắng người

                        …
                       
                        Tết đến người người vui vẻ cả
                        Riêng ta gặp tết vẫn bùi ngùi.


Điều tâm niệm sâu sắc của ông là không bao giờ được phụ lòng dân, bởi nhân tâm đất Việt cao cả, quý giá vô ngần. Trả lời thư dụ hàng của Hoàng Cao Khải, ông viết: “... Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm mộ vậy đó thôi. Nay lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào mà đi cho đành hay không?”. Thương dân đồng thời ông tìm thấy sức mạnh ở dân. Đặt quan hệ với phong trào ngoài Bắc, thống nhất lực lượng chống Pháp của nhân dân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Đó chính là sức mạnh to lớn của phong trào và tạo điều kiện cho cuộc chiến đấu kéo dài hơn mười năm trời. Chính là xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân cao cả của Phan mà nhân dân cũng rất mực tin yêu, kính phục người thủ lĩnh gan dạ, tài ba. Nhân dân trở thành tai mắt của nghĩa quân, tham gia chiến đấu, đóng góp và tiếp tế lực lượng.

Phan Đình Phùng còn là một tấm gương sáng của một nhà Nho cương trực, một vị quan thanh liêm, mực thước. Ông không màng danh lợi, không sợ võ lực, sẵn sàng gác tình nhà lo việc nước, dù phải hi sinh tính mạng cũng cam lòng. Bản chất của một người trí thức chân chính hòa quyện với tính cương trực, khảng khái của con người xứ Nghệ đã đưa tên tuổi của Phan Đình Phùng sống mãi với quê hương, đất nước. Quan lại có lỗi Phan lên tiếng phản đối mà không sợ liên lụy. Việc “chướng tai gai mắt” ông không chịu tha. Việc làm của ông tuy có lúc chưa được suy nghĩ kỹ, nhưng cái sâu thẳm và bền vững trong ông là đánh Pháp, cứu nước. Suy nghĩ thường trực của ông luôn luôn hướng về “mấy triệu đồng bào của nước Việt Nam lâm nguy”. Ông đã từng khẳng định: “Nay tôi chỉ có một ngôi mộ rất to nên giữ là nước Việt Nam, tôi chỉ có một ông anh rất to đang bị lâm nguy là cả mấy triệu đồng bào, nếu về mà sửa sang lại phần mộ của mình, ngôi mộ cả nước kia ai giữ; về để cứu sống ông anh của mình thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?” Ông sẵn sàng từ bỏ chốn an nhàn sung sướng, chấp nhận cái chết “thịt nát ra bột, xương tàn thành tro” nhưng “khi chết thì xương thơm muôn đời, còn hơn ra hàng, sống sướng mà lưu mãi mùi thối trên đời”. Đúng như Văn thân Nghệ Tĩnh viếng Phan Đình Phùng:

                           Anh hùng thành bại kể chi,
                           Tấc dạ cô trung, tấm gương nghĩa cả,
                           Thề cùng các bạn chu tuyền,
                           Son mực thánh thần, đọc sách lấy cương thường làm trọng.
                           Giận vì lẽ nhà to sắp đổ, một cây chắn chống được nào
                           Cung lạnh khói tàn, cảnh non thẳm ai không xót nỗi.
                           Gặp vận rồng bay mây tối,
                           Ngậm ngùi cuộc thế đổi thay
                           Thương ôi La Việt non sông,
                           Văn hiến trăm năm binh mã loạn;

                           *

                           Trời đất cổ kim còn mãi,
                           Một dòng nước chảy, muôn trượng núi xa,
                           Ấy chốn nam nhi ngang dọc,
                           Lam Hồng gió tuyết, ngạo đông cho tùng bách cũng gầy.
                           Tính sao đây sóng cả đang dâng, cột đá giữa dòng khó vững,
                           Sao dời vật đổi, tình cố hương ai chẳng chạnh lòng.
                           Nguồn cơn nhạn lạc gió gầm,
                           Ngao ngán lòng trời cay nghiệt.
                           Thấy chửa Tùng Mai khí tiết?
                           Tinh thần một thác đẩu ngưu cao!4

Phan Đình Phùng, người chiến sĩ Cần vương tiêu biểu đã ngã xuống trên trường tranh đấu ở tuổi bốn tám đầy sức sống. Sự thất bại của Phan Đình Phùng cũng như toàn bộ phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX gắn liền với những hạn chế giai cấp và thời đại. Nhưng điều đó hoàn toàn không làm mờ đi tính chất hào hùng của sự kiện tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương chống Pháp. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc phạm trù tư sản mà Phan Bội Châu là ngọn cờ đầu cũng như phong trào cách mạng vô sản mà người lãnh đạo tiêu biểu nhất Hồ Chí Minh đều khởi nguồn và phát triển trên mảnh đất yêu nước màu mỡ của dân tộc Việt Nam đã được đắp bồi qua nhiều thế hệ, trong đó có đóng góp xứng đáng của nhà trí thức chân chính Phan Đình Phùng. Nói đến lịch sử nước ta thời Cần vương, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc đến Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Hoàng Hoa Thám... với tấm lòng trân trọng. Người ghi nhận “Phan Đình Phùng là một học giả nổi tiếng và một vị quan to. Ở Trung Bộ, Cụ là người chí sĩ yêu nước đầu tiên đứng lên chống bọn đế quốc Pháp xâm lược, trải qua chín, mười năm. Tuy Cụ đã mất, nhưng tên Cụ trở thành tượng trưng cho lòng yêu nước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự khâm phục, tôn kính tất cả những Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Hoàng Hoa Thám. Bởi vì theo Người, “cái chết của họ làm cho Tổ quốc sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”.

Khai thác triệt để, chắt lọc tinh hoa và trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà hàng đầu là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc với bản lĩnh tự cường, tự chủ, rồi nâng lên một trình độ mới, chất mới, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới để phục vụ cho mục tiêu cách mạng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời cách mạng trong sáng, cao đẹp của mình, đó là trách nhiệm to lớn, khó khăn nhưng vô cùng vinh quang của chúng ta hôm nay.

Hà Nội, tháng 3 năm 2007

_______________________________________
1. Bùi Đình Phong: Phó Giáo sư, Tiến sĩ Học viện Chính trị Hồ Chí Minh.
2. Trích lời thơ từ một bài thơ của tác giả Phương Thuý, đã được nhạc sĩ Doãn Nho phổ nhạc trong một ca khúc thường được phát sóng trên đài TNVN.
3. Thơ văn yêu nước nửa sau thếkỷ XIX (1858-1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr. 503.
4. Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr.504.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM