Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:32:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phan Đình Phùng - Cuộc đời và sự nghiệp  (Đọc 109316 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2008, 12:55:14 pm »


Tuy có sự bất đồng nội bộ, Tôn Thất Thuyết đã phát hiện ra bản chất thẳng thắn, cương trực và lòng trung quân ái quốc của Phan Đình Phùng. Trong lúc Tôn Thất Thuyết đang cần một cộng sự có tầm chiến lược trong chủ trương đánh Pháp của mình thì Tôn Thất Thuyết đã nghĩ đến Phan Đình Phùng. Chẳng thế mà giữa năm 1889, khi còn sống ở Quảng Tây được tin vua Hàm Nghi đã bị bắt, Tôn Thất Thuyết buồn vì chưa tìm được cơ hội về nước. Nhưng khi nghe tin nghĩa quân Phan Đình Phùng ngày càng lớn mạnh thì ông mừng lắm. Tôn Thất Thuyết sai gia nhân trung tín là Trần Thế mang thư về cho cụ Phan, trong thư Tôn Thất Thuyết khen tài chí của Phan Đình Phùng và vẫn tự coi mình là tể tướng triều đình phong cho Phan Đình Phùng giữ chức “Binh trung tướng quân”. Trong thư có đoạn viết: “Hiện nay trong nước như không có triều đình, không có vua chúa. Vậy thì nơi tướng quân dựng cờ khởi nghĩa coi như nơi trung khu của Nhà nước. Tướng quân cứ tuỳ tiện làm việc, chọn người mà dùng, cốt giữ vững lấy đức liêm, chính, công, bình mà lo việc nước...”.

Nhân có bức thư và những lời ân cần của Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng đã viết câu liễn treo giữa Nghĩa Sỹ Đường của Đại đồn:

Liêm bình khâm tướng huấn
Ưu nhục lẫm thần tâm
”.

Câu trên tỏ ý của mình vâng lời quan tướng Tôn Thất Thuyết giữ liêm, bình, công, chính. Câu dưới xác định người làm tôi thì vua lo, tôi nhục; vua nhục, tôi chết. Nay vua Hàm Nghi đã bị bắt, nước nhà bị ngoại xâm chiếm đóng, mệnh nước uỷ thác cho mình, sắt đá một lòng, quyết tâm hành động cho đến thành công, dù thất bại hy sinh không sờn gan, thối chí.

Giai đoạn 1885-1886, nghĩa quân Hương Khê vừa mới thành lập đã phải đương đầu với cuộc chiến có cả quân đội triều đình và thực dân Pháp. Căn cứ đầu tiên ở làng Đông Thái bị tàn phá, nghĩa quân phải vừa chiến đấu vừa xây dựng căn cứ mới để phát triển lực lượng.

Năm 1887, Phan Đình Phùng ra Bắc tìm cách hợp sức với sĩ phu văn thân Bắc Hà để hỗ trợ lẫn nhau. Trước khi đi, ông dặn dò các tướng sĩ ở lại kiên trì chờ đợi, tiếp tục xây dựng lực lượng, đợi thời cơ ông trở về. Công việc nghĩa quân ông giao cho Cao Thắng toàn quyền lãnh đạo.

Cao Thắng cùng các tướng Cao Đạt, Cao Nữu, Nguyễn Niên thống nhất rút về làng Lệ Động tổ chức lại lực lượng.

Vấn đề cốt tử của nghĩa quân lúc này là vũ khí. Qua những năm đánh nhau với Pháp, Cao Thắng nhận ra rằng gươm giáo khó mà chống nổi súng đồng, chiến hạm. Cao Thắng tổ chức quân xưởng chế súng đạn theo kiểu Tây Phương. Ban đầu ông đúc được 200 khẩu súng kíp thường gọi là súng hoả mai. Binh sĩ có thêm 400 người. Vì là loại súng nạp hậu, bắn chậm, Cao Thắng phân chia từng thê đội: Khi thê đội này bắn thì thê đội kia nạp đạn và cứ thay nhau theo thao tác đó. Nhờ vậy mà khi tác chiến nghĩa quân vẫn nổ súng liên tục làm cho quân địch không phát hiện số lượng vũ khí của quân ta.

Trong một trận phục kích tại làng Phố Châu, huyện lỵ Hương Sơn, một toán lính tập gồm 15 tên và hai viên sĩ quan chỉ huy là người Pháp bị tiêu diệt, Cao Thắng thu được 17 khẩu súng bắn nhanh của Pháp.

Lập tức, Cao Thắng cho thợ rèn ở hai làng Vân Chàng và Trung Lương huyện Can Lộc tháo rời ra một khẩu để nghiên cứu các bộ phận rồi rèn đúc thử. Qua nhiều lần thao tác khó khăn, cuối cùng xưởng thợ Cao Thắng đúc được 350 khẩu súng giống hệt kiểu súng 1874 của quân đội Pháp.

Đại uý Ch.Gosselin nhận xét loại súng của nghĩa quân Hương Sơn như sau: “Khi tôi mang khẩu súng đó về Pháp, ai cũng nhận thấy nó giống hoàn toàn súng của Pháp chế tạo, khiến cho các sĩ quan pháo binh vô cùng ngạc nhiên. Nó chỉ kém ở chỗ lò xo yếu và không có đường xoi trong nòng (đường khương tuyến) nên bắn kém xa...”.

Lúc này Phan Đình Phùng đang đóng giả một ông tú ngồi dạy học tại một gia đình văn thân ở Sơn Tây để nghe ngóng tình hình chính trị và thân sĩ ở Bắc Hà. Phan Đình Phùng bắt liên lạc với các lãnh tụ Cần vương Hải Dương, Yên Thế... nhưng ông đã phát hiện ra các phong trào ngoài Bắc cũng yếu ớt lẻ tẻ, thiếu thống nhất, khó hy vọng một sự hợp tác đủ lực lượng chống xâm lăng. Phan Đình Phùng đang có ý định trở lại Hương Sơn thì Cao Thắng cho người ra đón. Khi Phan Đình Phùng trở lại căn cứ Vụ Quang, trai tráng các nơi được tin nô nức tòng quân. Cơ sở nghĩa quân lúc này đã khá vững chắc, quân số đã tăng hơn 1.000 người, vũ khí có 500 khẩu súng kiểu mới, các tướng lĩnh có Đề Niên, Đề Ninh, Đề Vinh, Đề Đạt, Hiệp Tuấn, Nguyễn Chanh, Lê Văn Tạc, Phan Đình Phong, Phan Đình Cần, Cao Nữu...

Khi biết rõ vua Hàm Nghi bị tên Trương Quang Ngọc phản bội bắt giao cho Pháp đêm 2-11-1888 để lĩnh thưởng, Phan Đình Phùng đích thân đem quân tới đất Mọi Ta Bao bắt tên Ngọc chém đầu, khám xét nhà y thu được cây bảo kiếm của nhà vua bị y chiếm giữ. Văn thân, nhân dân trong vùng hả lòng hả dạ vì đã diệt được tên phản bội. Hào kiệt ở Hà Tĩnh như Ngô Quảng, Nguyễn Cấp, Vũ Phát; ở Thanh Hóa thì Cầm Bá Thước, Cao Đạt đều đem quân về theo cuộc khởi nghĩa Hương Khê.


PHAN ĐÌNH PHÙNG CÙNG CAO THẮNG
TỔ CHỨC BIÊN CHẾ LẠI LỰC LƯỢNG

I. Về tổ chức

Nghĩa quân chia ra làm 15 quân thứ tức là 15 quân khu. Quân khu đóng ở đâu thì lấy tên ở địa phương ấy.

1. Quân thứ huyện Hương Khê: Khê thứ, do Nguyễn Thoại chỉ huy.

2. Quân thứ huyện Can Lộc: Can thứ, do Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh chỉ huy.

3. Quân thứ huyện Lai Thạch: Lai thứ, do Phan Đình Nghinh chỉ huy.

4. Quân thứ tỉnh Quảng Bình: Bình thứ, do Nguyễn Thụ chỉ huy.

5. Quân thứ huyện Hương Sơn: Hương thứ, do Nguyễn Huy Giao chỉ huy.

6. Quân thứ phủ Diễn Châu: Diễn thứ, do Lê Trọng Vinh chỉ huy.

7. Quân thứ phủ Anh Sơn: Anh thứ, do Nguyễn Mậu chỉ huy.

8. Quân thứ huyện Nghi Xuân: Nghi thứ, do Ngô Quảng chỉ huy.

9. Quân thứ làng Trung Lễ phủ Đức Thọ: Lễ thứ, do Nguyễn Cấp chỉ huy.

10. Quân thứ huyện Cẩm Xuyên: Cẩm thứ, do Huỳnh Bá Xuyên

11. Quân thứ huyện Thạch Hà: Thạch thứ, do Nguyễn Huy Thuận chỉ huy.

12. Quân thứ huyện Kỳ Anh: Kỳ thứ, do Võ Phát chỉ huy.

13. Quân thứ huyện Lệ Thủy: Lệ thứ, do Nguyễn Bí chỉ huy.

14. Quân thứ tỉnh Thanh Hóa: Thanh thứ, do Cầm Bá Thước chỉ huy.

15. Quân thứ làng Tình Diệm núi Đại Hàm: Diệm thứ, do Cao Đạt chỉ huy.


II. Quân số

Các quân thứ lớn hay nhỏ là do tầm quan trọng từng vùng, trung bình mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 nghĩa quân, giữa các quân thứ thường xuyên liên lạc với “tổng hành dinh” để nhận tin tức và mệnh lệnh chiến đấu. Mỗi quân thứ phải tuyển chọn từ 20 đến 30 kiện nhi cung cấp cho “tổng hành dinh” tổ chức thành các đơn vị cơ động hỗ trợ cho các quân thứ khi khẩn cấp và bảo vệ “tổng hành dinh”. Đơn vị “tổng hành dinh” Nguyễn Mục chỉ huy. Việc bố trí lực lượng từ Quảng Bình ra Thanh Hóa có tính chất vừa cơ động yểm trợ cho nhau vừa làm cho thực dân phải phân tán lực lượng chống đỡ. Ngoài lực lượng cơ động của tổng hành dinh, các quân thứ đều có những đơn vị cơ động nhỏ chia đi nhiều nơi chặn đánh các cuộc hành quân, quấy rối bức rút đồn địch, khi địch hành quân càn quét vào căn cứ các quân thứ thì lực lượng cơ động luồn về hậu phương địch đánh phá các điểm hiểm yếu làm các quân địch hoang mang phải rút lui về giữ các đồn bốt và căn cứ.


III. Về trang bị

Toàn thể nghĩa quân 15 quân thứ trang bị y phục giống nhau, vũ khí dùng súng của xưởng quân khí nghĩa quân chế tạo và vũ khí tước được của địch ở các trận đánh.


IV. Về Lương thực

Lương thực là vấn đề cốt lõi của nghĩa quân. Nhờ sự giúp đỡ của nhân dân, vấn đề lương thực của nghĩa quân được giải quyết hết sức chu đáo. Nhân dân ở địa phương nào có bổn phận cung ứng lương thực cho quân thứ ở nơi ấy. Hàng năm ngoài việc nộp thuế nghĩa vụ cho Nhà nước, nhân dân tự nguyện nạp thêm mỗi mẫu ruộng một đồng bạc cho nghĩa quân để có ngân quỹ hoạt động lâu dài.


V. Về kho tàng chứa lương thực

Từ Vụ Quang đi Trùng Khê, Trí Khê, cứ vài dặm lại có một cái hố chu vi khoảng 30 trượng, đào sâu xuống đất rồi chất củi đốt cho các thành và đáy hố khô cứng như sành sứ nung có độ dày hàng tấc, coi như những cái chum khổng lồ, thóc đổ đầy được đậy kín bằng những tấm ván loại gỗ tốt theo kiểu mui rùa, bảo đảm khi mưa nước không tràn vào. Trên mặt các hố lương thực được ngụy trang hết sức cẩn thận, chỉ có những người trực tiếp xây dựng hố đó mới biết được. Rải rác chung quanh có dụng cụ xay giã. Ngoài số lương thực chứa dự trữ trong các kho đặc biệt này, dân chúng còn trực tiếp cung cấp đầy đủ cho đại đồn “tổng hành dinh” Vụ Quang.

Sang năm 1889 là giai đoạn quyết liệt nhất của 10 năm kháng chiến. Đến đây nghĩa quân Hương Khê đã được tổ chức chu đáo về tinh thần cũng như vật chất. Nhân dân bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình tin tưởng ủng hộ. Thực dân Pháp tỏ ra lo ngại, hoang mang, chúng lập ra nhiều đồn bốt để canh phòng, ngăn chặn hoạt động của nghĩa quân. Chung quanh vùng Hương Khê chúng lập 20 đồn, mỗi đồn có 30 tên lính tập và một viên chỉ huy người Pháp. Địch dùng thủ đoạn ác độc “dùng người Việt giết người Việt” do Nghị định ngày 11-2-1886 của tướng Warnet và Nghị định ngày 6-8-1886 của Toàn quyền Paul Bert. Sau khi hai Nghị định này ban hành, các đơn vị ngụy binh (lính khố xanh) được thành lập ở các miền chúng chiếm đóng nhằm đàn áp phong trào văn thân ở các nơi và Trung Kỳ. Tháng 11-1889, Thượng Hội đồng Đông Dương trao hẳn việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa cho lính khố xanh. Paul Bert, tên toàn quyền Pháp sau này đã thừa nhận rằng: đánh chiếm nước Nam là công lao quân đội viễn chinh Pháp nhưng dẹp yên các cuộc khởi nghĩa văn thân là nhờ lính tập kể cả khố đỏ, khố xanh và khố vàng”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2008, 12:59:35 pm »



NHỮNG TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN CỦA NGHĨA QUÂN HƯƠNG KHÊ


Sau khi củng cố lực lượng, ổn định tổ chức, được sự cổ vũ của toàn dân, nghĩa quân bắt đầu tác chiến.


Năm 1889

Ngày 1-9-1889, Đề Niên lập hai đồn tại Mỹ Hoà đánh thắng trận càn của đơn vị lính tập do tên Thiếu úy De Ninort chỉ huy. Nghĩa quân diệt được 16 tên lính khố xanh và một tên Lãnh binh ngụy. Tuần phủ Hà Tĩnh và tên Giám binh Jacquet phải mang nhiều binh lính đến cứu nguy.

Ngày 15 và 16-12-1889, nghĩa quân đột kích đồn Dương Liễu gây cho địch nhiều thiệt hại.

Cuối tháng 12-1889, nghĩa quân đánh đồn Hương Sơn do tên Thiếu úy Lambert và Roty chỉ huy đóng giữ.


Năm 1890

Tháng 3-1890, đồn Hương Sơn bị tấn công một lần nữa, địch hoang mang lo sợ xin viện binh ứng cứu. Quân địch tăng cường càn qua huyện La Sơn và Hương Sơn. Đề Thắng và Phan Trọng Mưu anh dũng chống cự. Ở Hương Khê các ông Bang Trúc và Hiệp Quản Diệp tăng cường hoạt động, quân địch buộc phải rút lui.

Ngày 13-4-1890, Đốc Chanh và Đốc Trạch phục kích giặc ở làng Hốt, nhiều lính khố xanh và lính dõng bị tiêu diệt.

Đêm 26 và 27-5-1890, Cai khố xanh tên là Hép ở đồn Trường Lưu ra hàng nghĩa quân, chỉ đường cho quân ta đánh đồn này. Đêm 28-5 nghĩa quân công đồn ráo riết, hai tên Thiếu úy Devogh và Trouve bỏ đồn chạy, quân ta rút về căn cứ. Ngày 29-5 chúng tăng viện chiếm lại đồn.

Đêm 31-5, đồn Trường Lưu lại bị ta tấn công, địch đóng cửa đồn không dám chống cự, nghĩa quân chuyển sang đánh đồn Hương Sơn.

Đêm 12-6-1890, một toán lính khố xanh do Cai Lưu chỉ huy từ Napé về Hà Trai bị Đề Đạt phục kích, tiêu diệt.

Đêm 3-6-1890, nghĩa quân đánh đồn Hương Sơn và bao vây đồn Linh Cảm.

Ngày 4-6-1890, Giám binh Lambert bị đánh bại khi đi càn quét ở phía trên Hương Sơn vội vàng rút chạy.

Ngày 26-6-1890, hai Thiếu úy khố xanh và Lambert bị chặn đánh tại Gia Định, Đông Tài và làng Hót. Địch rút chạy, nghĩa quân đánh đồn Trường Lưu lần thứ tư.

Đêm 28 rạng ngày 29-6-1890, nghĩa quân đánh địch ở hai làng Trung Lễ và Thượng Ích, giặc thiệt hại nặng nề và rút chạy. Sau đó địch cho quân về đốt phá hai làng này.

Ngày 20-7-1890, đồn Linh Cảm bị nghĩa quân tấn công, tên Thượng tá ngụy đến tiếp cứu bị nghĩa quân phục kích chặn đánh tiêu diệt. Phía nghĩa quân Đội Trạc và Cai Hẹp bị thương.

Đêm 21-7, nghĩa quân đánh đồn Quỳ Châu, do điều tra không kỹ, nghĩa quân thất bại. Lãnh Thiệt hy sinh. Giặc do thám biết tình hình nghĩa quân do Đề Mậu chỉ huy ở vùng Cây Chanh, Đồn Cốc. Công sứ Nghệ An là Luce tổ chức bao vây đánh Đề Mậu. Quân địch bao vây bốn mặt, Đề Mậu chỉ huy nghĩa quân vừa đánh, vừa theo đường bí mật rút lui.

Ngày 2-9-1890, quân địch từ Hà Tĩnh về Kỳ Anh dồn lực lượng đi càn quét bị Đốc Chanh phục kích ở Cẩm Xuyên.

Ngày 14-9-1890, nghĩa quân chặn đánh quân Lambert tại làng Xuân Liễu cách thị xã Hà Tĩnh 14 km.

Tháng 10-1890, nghĩa quân hai huyện Hương Khê và Hương Sơn hợp với quân của Đốc Chanh đánh đồn Nam Huân. Cuộc chiến đấu kéo dài năm ngày từ 20 đến 25-10 tại các làng Gia Hanh và làng Hốt cùng các vùng phụ cận.

Tháng 12-1890, địch điều thêm quân đánh vùng Trại Tháp cách Nam Huân 6 km. Nghĩa quân của Mai Văn Vinh đánh đồn Linh Cảm và chống trả quyết liệt cuộc càn quét của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại buộc chúng phải rút về căn cứ. Đây là giai đoạn nghĩa quân hoàn toàn chủ động chiến trường tại các huyện Thanh Chương, Hương Sơn, La Sơn, Hương Khê.


Năm 1891

Ngày 2-2-1891 Bang biện ở Vinh đánh úp đơn vị lính tập di chuyển từ Nam Huân về Nghệ An. Địch bị thiệt hại nặng nề.

Từ ngày 2 đến ngày 9-3-1891, Giám binh Boudon chỉ huy càn quét từ Tri Bản đến Quỳ Hợp và kéo vào Hương Sơn. Nghĩa quân bí mật phục kích ở Thiều Thôn đánh địch giải thoát được đoàn tù binh của ta do Thiếu úy Hugnit áp giải từ Nam Huân về Linh Cảm.

Trận đánh kéo dài bốn giờ đồng hồ. Hugnit thoát chết, còn Boudon từ Truông Vắt, Trại Tháp về đến Linh Cảm thì bị tấn công.

Trong khi đó, ngày 2 đến 5-3, Đốc Đốp và Bá hộ Thuận tấn công quân của Lambert ngay gần tỉnh lị Hà Tĩnh.

Ngày 28-3-1890, Đề Thanh đánh quân của Thiếu úy Robert tại Thượng Bổn.

Đầu và cuối tháng 4 nghĩa quân tiêu diệt được một toán lính khố xanh khi chúng kéo đến càn quét và nghĩa quân bao vây đồn Đức Thọ.

Tháng 6-1891, Boudon bị nghĩa quân đánh úp phải bỏ đơn vị chạy tháo thân.

Ngày 15-7-1891, Lãnh binh Dương Lê đánh nhau với quân Thiếu úy Duravisean. Trước các hoạt động lẻ tẻ nhưng liên tiếp của nghĩa quân, địch đã cho Giám binh Boudon, Hugnit, Bourgeois, Focher, Magistris, Margnet và Robert là những sĩ quan trấn đóng các vùng Linh Cảm, Chợ Bộng, Tri Bản (Hà Tĩnh) mở cuộc càn quét rộng lớn từ 1-9-1891 ở khắp nơi nhưng nghĩa quân vẫn đủ sức cơ động chống trả làm tiêu hao nhiều sinh lực của địch.

Ngày 19-11, Duravissean, Magistris và Montignean đem quân đến Tràng Sim bị nghĩa quân đánh kịch liệt hàng giờ đồng hồ, gây cho địch nhiều thiệt hại rồi nghĩa quân chủ động rút an toàn về Vụ Quang.

Ngày 19-12, Đề Thắng đem quân đi đánh địch ở Lương Điền.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2008, 07:54:11 pm »


Năm 1892

Ngày 7-3-1892, nghĩa quân do Bá hộ Thuận chỉ huy đánh đồn Trung Lễ bắt được hai tên Bá hộ phản động giam tại Lạc Hà, đánh úp đồn huyện Thạch Hà bắt sống viên tri huyện.

Cũng trong thời gian này Cao Thắng cho quân đóng giả lính khố xanh bắt tuần phủ Đinh Nho Quang lúc này giữ chức Tiễu phủ Quân vụ huyện Hương Sơn tại nhà riêng vì Đinh Nho Quang đã viết thư tố cáo và nói xấu Phan Đình Phùng với Pháp. Nhưng Phan Đình Phùng không sát hại mà bắt nộp cho nghĩa quân sáu ngàn đồng bạc rồi giữ lại bản Đồn. Việc bắt Đinh Nho Quang đã làm cho bọn việt gian hoảng sợ, hoang mang.

Mấy tháng đầu năm 1892, tên Công sứ Damade được lệnh mở cuộc càn quét lớn vào khu Tràng Sim là căn cứ nghĩa quân Đề Thắng. Lính khố xanh Hà Tĩnh được huy động tối đa kéo vào vùng giữa Ngàn Phố và Sông Cả rồi tiến vào rừng Tràng Sim.

Nghĩa quân chia lực lượng làm hai phần: một phần ở lại chống càn quét, một phần luồn về hoạt động gần tỉnh lị Hà Tĩnh và các phủ huyện lân cận.

Ngày 2-3-1892, địch đánh vào Tràng Sim, Đinh Nho Quang và Cử Nhan được giải thoát, nghĩa quân lập kế cho người báo với viên chỉ huy Hugnit chỗ ở của Bá hộ Thuận tại Kỳ Anh và Nam Huân. Hugnit lập tức đem quân đến vây bắt. Khi đến nơi thì chỉ thấy đồn không nhà trống. Tràng Sim được an toàn. Hugnit lọt vào vòng vây của nghĩa quân. Tên Thiếu úy Briscout vội đem quân từ Kỳ Anh đến cứu cũng bị nghĩa quân phục kích đánh chặn. Sau hai giờ kịch chiến, địch thiệt hại nặng nề, Briscout chạy tháo thân về đồn Kỳ Anh. Còn Hugnit mãi sau mở được vòng vây chạy về đồn Voi lại bị chặn đánh, sau nhờ viện binh cứu thoát.

Như vậy là chiến dịch càn quét của đạo quân Damade sau hai tháng tưởng sẽ nhấn chìm được nghĩa quân nhưng chúng đã bị nhiều tổn thất, đến cuối tháng 4-1892 phải kéo quân về căn cứ.

Ngày 8-6, lính khố xanh và lính dõng đến chợ Hương Sơn cách đồn Ngụy Giang chừng 1km thì bị phục kích.

Nghĩa quân lại bí mật về làng Trung Lễ, Đông Khê và Văn Lâm trừng trị một số việt gian ác ôn, giết tên Hiệp quản ngụy tại đồn Đông Khê. Trưởng đồn Linh Cảm đem quân đến cứu bị phục kích ở Văn Lâm. Quân địch ở Nam Huân và Tri Bản đến tăng viện cho Linh Cảm cũng bị nghĩa quân chặn đánh cho tan tác dọc đường.

Tối 18-6, toán quân vận lương của nghĩa quân ở Hà Tĩnh đánh nhau với địch, trưởng đồn Robert đưa quân đến trợ chiến tại Truông Vắt thì nghĩa quân lại tiến đến bao vây đồn Nam Huân làm cho tên chỉ huy De Soulages, Robert và Hugnit mất thế chủ động phải xin gấp viện binh.

Như vậy, trong các năm 1889, 1890, 1891, 1892 nghĩa quân liên tiếp chủ động tấn công địch trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Địch tổ chức nhiều cuộc càn quét nhưng vẫn không ngăn nổi hoạt động của nghĩa quân. Chúng cho bọn việt gian, thám báo thường xuyên đi sâu vào các vùng nghĩa quân đóng giữ. Có nguồn tin cung cấp cho địch là Phan Đình Phùng với nhiều tướng lĩnh và quân sĩ đang đóng tại căn cứ Hội Trung, Cao Đạt đóng tại La Sơn, Bá hộ Thuận đóng ở Trại Chè, Đốc Chanh đóng ở Thiều Thôn.

Ngay lập tức chúng lập kế hoạch tiến đánh Trại Chè của Bá hộ Thuận để đánh lạc hướng nghĩa quân rồi bất ngờ mang đại quân đánh thẳng vào Hội Trung tiêu diệt nghĩa quân ở Hữu ngạn Ngân Sơn nhằm bắt sống Phan Đình Phùng.

Từ 5 đến 9-8-1892, các tên chỉ huy Hugnit, Bourgeois, Le Pare và Lãnh binh Trọng chỉ huy quân càn quét từ Hà Tĩnh đến Trại Chè theo ba mũi:

- Thiếu úy Hugnit và Focher đưa 80 lính khố xanh đến Hương Khê.

- Robert và Bourgeois đưa 60 lính tập đến Trạc Cuội Hương Sơn.

- Lambert cùng Thiếu úy Crénon và Antariani đem 50 lính theo đường vòng đến Hương Khê.

Cả ba mũi quan tạo thành một gọng kìm, lấy giờ G là 21 giờ đêm 12-8-1892 đồng loạt tấn công. Nhưng do địa bàn hiểm trở và sự cảnh giác cơ động của nghĩa quân, công tác điều tra, trinh sát của địch không chính xác, lực lượng huy động cho cuộc hành quân ít, đội hình bị kéo dài tạo điều kiện cho nghĩa quân phục kích đánh chặn. Thực ra, lực lượng nghĩa quân lúc này đã có mặt tại các phủ huyện, liên lạc giữa các đơn vị với nhau hết sức chặt chẽ. Ngoài việc chống càn quét nghĩa quân còn có thể chuyển nhanh từ thế thủ ra thế công. Chủ tướng Phan Đình Phùng thường xuyên theo dõi, nghiên cứu nắm được mọi tính toán của kẻ địch.

Đúng giờ G, 21 giờ đêm 12-8 Robert đánh vào tiền đồn của nghĩa quân, đến sáng 13-8 thì tiến sâu vào rừng để lùng sục nhưng không gặp lực lượng nào. Bất ngờ, 20 giờ đêm 13-8 nghĩa quân phản công mãnh liệt, tiêu diệt 16 lính địch, đánh bị thương 15 tên, một số tên sa vào hố chông và bẫy chặt. Bọn địch phải vội vàng rút quân về căn cứ.

Đặc biệt là trong lúc địch đang dàn quân càn quét căn cứ nghĩa quân Khê Thượng, Hương Khê, Hương Sơn thì đêm 23-8-1892, Bá hộ Thuận được lệnh của Phan Đình Phùng bí mật đem quân đến sát thị xã Hà Tĩnh, một toán quân nghi binh đánh vào phố xá gây náo động, thu hút sự chú ý của địch, để cho hai cánh quân lớn tấn công ráo riết vào trại khố xanh và nhà lao Hà Tĩnh gây cho địch nhiều tổn thất và giải phóng được 70 nghĩa quân đang bị chúng giam giữ.

Bọn địch nghe tin nghĩa quân tấn công thị xã Hà Tĩnh vội vàng thu quân đang càn quét các nơi rút nhanh về giữ các căn cứ ở đồng bằng. Nghĩa quân ung dung vận tải lương thực, chiến lợi phẩm về khu căn cứ an toàn.

Từ đó, đến ngày 15-12-1892 mới có cuộc đánh nhau giữa nghĩa quân với bọn Robert và Bourgeois ở núi Quạt.


Năm 1893

Tháng 2-1893, quân Pháp lại mang lính khố xanh và linh dõng đi càn quét dãy núi Ngàn Trươi (Vụ Quang) và Truông Vắt. Chỉ huy các đạo quân là bọn Lambert, Maricini, Hugnit. Theo kế hoạch của chúng, ngày 7-1-1898 De Soulages đã đem quân về phía Bắc, xuất phát từ Khiêm Ích nhưng ở đây chúng chỉ toàn gặp lều trại trống vắng. Hugnit từ Tràng Sim đi về phía Nam đến Khê Thượng bị quân ta chặn đánh, không làm sao ra khỏi địa điểm này đành phải mở vòng vây quay về Hoà Duyệt. Ngày 23, Lambert tiến vào Khe Ngọt bị nghĩa quân phục kích chặn đánh bị thương phải ngưng lại. Còn tên chỉ huy Bourgeois mãi đến ngày 21 vẫn không tiến nổi, vội liên lạc với Hugnit và ngày 6-2-1893 chúng bị nghĩa quân tấn công tiêu diệt 20 tên và nhiều tên khác bị thương. Chúng phải rút lui.

Ngày 29-3-1893, Đề Thắng đánh thiệt hại quân của Bourgcois ở Mỹ Đức rồi rút an toàn về Trại Chè.

Đầu tháng 4, Đề Thắng đem quân đánh nhau với Robert và Bourgeois ở Mỹ Duệ một lần nữa.

Cuối tháng 4, tên Hugnit được thăng Giám binh giữ chức chỉ huy trưởng vùng Hương Khê, Hương Sơn bèn xuất quân đánh vào Trại Chè thì Phan Đình Phùng cho nghĩa quân luồn về đồng bằng tấn công các đồn Trung Lương, Kim Chúc ở Can Lộc, đồn Hương Khê và nhiều căn cứ trong huyện Nghi Xuân - Hugnit vối rút quân về bảo vệ các căn cứ đang bị uy hiếp.

Từ tháng 5 đến tháng 7, Đề Nam, Đốc Trạch quấy phá địch dữ dội theo chiến thuật “địch đi ta đến, địch đến ta đi”, tức là tránh gặp địch để đánh địch những lúc sơ hở và bất ngờ làm cho địch hoang mang, bối rối.

Như vậy cuộc khởi nghĩa Hương Khê khởi đầu từ cuối năm 1885 đến 1893 đã 8 năm. Trải qua bao gian nan, vất vả, vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng, khi thuận lợi, khi khó khăn, nghĩa quân đã trưởng thành nhiều mặt. Liên tiếp những năm 1889-1890-1891-1892-1893, các tướng sĩ đã nắm vững yếu tố nhân hòa, địa lợi để chống các cuộc càn quét lớn của địch và lợi dụng tình thế nghĩa quân đã chuyển nhanh từ thế thủ sang thế công, chủ động tấn công địch hàng trăm trận, có trận thắng lợi rất vẻ vang. Nhưng lúc này do triều đình phong kiến đầu hàng, thỏa hiệp, thực dân Pháp đã đặt được bộ máy thống trị khắp cả nước, một hệ thống đồn bốt áp sát vào các căn cứ nghĩa quân. Còn nghĩa quân thì vẫn cơ động đánh địch, chống trả quyết liệt các cuộc càn quét nhưng địa bàn càng ngày càng bị thu hẹp và lùi sâu vào trong rừng. Việc tiếp tế lương thực ngày càng gặp khó khăn. Các quân thứ ở Quảng Bình, Thanh Hóa mất dần liên lạc, việc ứng cứu nhau kém dần hiệu quả.

Cao Thắng nghĩ đến tương lai của cuộc khởi nghĩa, đề xuất với Phan Đình Phùng phải có những trận đánh lớn về đồng bằng, mở rộng địa bàn đất đai và dân cư, nếu không nghĩa quân ngày càng hao mòn thu hẹp, lương thực khó khăn sẽ và tự bị tiêu diệt. Phan Đình Phùng từ lâu cũng đã nhận thấy cứ quanh quẩn trong rừng núi của bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình mà không ra được đồng bằng cũng là tự thất bại rồi, nếu tồn tại thì lâu dài cũng trở thành đội quân “lục lâm thảo khấu” mà không đạt được mục đích sự nghiệp. Sau khi phân tích, nhận rõ tình thế, Phan Đình Phùng chấp nhận kế hoạch cho Cao Thắng đem quân chủ lực đánh vào thành Nghệ An. Quân thứ các tỉnh nhất tề hoạt động để phân tán lực lượng địch. Thu giữ được thành Nghệ An thì các quân thứ khác cũng có điều kiện thu giữ các sở lỵ nơi mình đang hoạt động. Có thể coi đây là cuộc tổng phản công địch của nghĩa quân Hương Khê. Trận đánh quyết định sống hay là chết, để mở ra một tương lai xán lạn hay là để tự diệt một cách vẻ vang.

Cao Thắng từ căn cứ Vụ Quang (Ngàn Trươi) đem 1.000 binh chia làm hai đạo tiến ra Nghệ An. Cao Thắng và Nguyễn Niên chỉ huy một đạo 500 quân làm nhiệm vụ tiên phong. Cao Nữu chỉ huy một đạo 500 quân làm nhiệm vụ hậu tập. Trên đường hành quân Cao Thắng đã đánh thắng và thu hồi được mấy đồn. Một số đồn nghe tin Cao Thắng chỉ huy tấn công đã tự động rút chạy. Đến đồn Nu Thanh Chương, Cao Thắng chia lực lượng tấn công. Trong trận đánh này Cao Thắng bị quân của Thiếu úy Phiến bắn bị thương. Và cuối cùng do vết thương quá nặng Cao Thắng hy sinh tại trận tuyến. Thế là kế hoạch tiến về đồng bằng tan vỡ. Tin Cao Thắng hy sinh đã làm cho Phan Đình Phùng chết lặng người hồi lâu và từ đó ông tiên lượng sự khó khăn của cuộc khởi nghĩa trong những năm tiếp theo.

Sau khi Cao Thắng hy sinh, lực lượng nghĩa quân ngày càng hao mòn, lương thực ngày càng thiếu thốn, địa bàn hoạt động ngày càng bị thu hẹp. Việc thông tin liên lạc và ứng cứu cho nhau giữa các quân thứ khó khăn dần, có quân thứ đã bị mất liên lạc hoàn toàn. Địch dùng chính sách chiêu hàng, phái Khâm sai đại thần Hoàng Cao Khải vốn là bạn học cùng quê hương với Phan Đình Phùng thực hiện chính sách này.

Hoàng Cao Khải dùng đủ mọi lý lẽ tình cảm viết thư khuyên Phan Đình Phùng hạ khí giới trở về với triều đình sẽ được giữ nguyên quan tước bổng lộc. Nhưng Phan Đình Phùng đã kiên quyết thà chết không hàng địch, từ chối thẳng bức thư Hoàng Cao Khải. Kế hoạch dụ hàng thất bại, bọn Pháp lại dùng chính sách quân sự tập trung lực lượng đánh mạnh vào lực lượng nghĩa quân. Nhưng nghĩa quân vẫn chủ động tấn công quân địch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2008, 07:56:43 pm »


Năm 1894

Ngày 1-3-1894, nghĩa quân đánh vào đồn chợ Phố và hai hôm sau nhử địch đến một làng ở gần đó để phân tán lực lượng tạo điều kiện cho đơn vị bạn tấn công.

Ngày 4-3-1894, nghĩa quân lại tấn công địch, cùng ngày tên chỉ huy Bricout bị nghĩa quân chặn đánh trên đường hành quân.

Ngày 29-3-1894, Đốc Bình và Nguyễn Bảo tấn công đồn Nu giết được Thiếu úy Phiến, tên việt gian đã chỉ huy quân ngụy bắn chết Cao Thắng.

Ngày 31-3-1894, Bá hộ Thuận mở cuộc tập kích vào thị xã Hà Tĩnh, một lần nữa nhằm thực hiện lại kế hoạch cũ của Cao Thắng nhưng kết quả thu được không nhiều.

Luôn ba tháng 4, 5, 6-1894, nhiều cuộc giao chiến diễn ra giữa các tướng lĩnh nghĩa quân là Phan Duy Cầm, Đốc Cơ, Đốc Trạch với toán quân De Soulages, Philippe của Pháp.

Ngày 25-6 và đêm 12-7-1894 đồn Pháp ở Quỳ Hợp bị nghĩa quân tập kích.

Ngày 14-7-1894, tên chỉ huy Pháp Rallier du Paty tấn công Bá hộ Thuận. Nghĩa quân chống trả quyết liệt, nhiều lính địch rơi vào hầm chông, trúng đạn, bị chết và bị thương cuối cùng phải rút lui.

Cùng ngày tên Samaran mang quân đi càn quét ở phủ Diễn Châu và huyện Anh Sơn. Khi về gần tỉnh lị Vinh chúng đã bị nghĩa quân chặn đánh.

Ngày 27-7-1894, tên chỉ huy Soulages bị đánh tại Đại Hàm. Y bị thương tháo chạy.

Tháng 8-1894 có nhiều trận đánh tại Ngàn Cỏ và núi Mò Ho giữa quân bảo hộ do các tên Pháp Samaran, de Souclages, Gruault, Pallier du Paty, Focher cùng các tướng lĩnh nghĩa quân.

Cuối năm 1894, nghĩa quân phải di chuyển tổng hành dinh sang Đại Hàm. Lực lượng nghĩa quân bây giờ đã yếu, giặc đánh thẳng vào Đại đồn. Hai bên giằng co nhau rất kịch liệt. Phan Đình Phùng đóng quân trên núi. Địch bao vây dưới chân. Núi này thuộc làng Tình Diệm là quân Diệm thứ ở vùng núi Đại Hàm do tướng Cao Đạt chỉ huy. Nghĩa quân có hơn 400 người, vũ khí có trên 200 khẩu súng, lương thực đang bị thiếu thốn.

Quân địch có hàng ngàn vừa lính vừa dân phu phục dịch chiến trường. Địch vây chặt, tấn công ráo riết. Các đường tiến thoái của nghĩa quân bị bịt kín, Phan Đình Phùng trưng cầu ý kiến tướng sĩ. Cao Đạt và Nguyễn Mục cùng các nghĩa sĩ kiên quyết xin đánh. Phan Đình Phùng ra lệnh nổ súng vào đám quân đầu tiên của địch. Hai bên đánh nhau luôn 15 ngày liền. Nghĩa quân ở trên núi có thế đánh rất lợi. Địch tiến lên bao nhiêu bị ngã gục bấy nhiêu. Quân địch bị tổn thất nặng nề phải gọi viện binh, Phan Đình Phùng cho quân nghi binh rút khỏi Đại Hàm trở lại núi Quạt an toàn.


Năm 1895

Tháng 1-1895, nghĩa quân lại từ núi Quạt rút về Vụ Quang định lập căn cứ tại một đỉnh núi hiểm trở. Nhưng đỉnh núi này đã bị địch chiếm đóng. Phan Đình Phùng chọn một địa điểm tương đối hiểm trở ở thung lũng Vụ Quang đóng quân. Trước trại nghĩa quân có con sông Vụ Quang nước chảy rất xiết. Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh dự kiến thế nào địch cũng dò la và tấn công nên đã có phương án chủ động đề phòng trước.

Phan Đình Phùng cùng các tướng lĩnh bàn phương án tác chiến, dùng kế “Sa nang úng thủy” của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa bên Tàu. Nghĩa quân bí mật vào rừng chặt cây, xẻ ván, ngăn sông làm thác, cưa cây từng khúc vót nhọn hai đầu chất đống trong lòng sông. Một thời gian nước phần trên sông ứ đầy thành vực mà đoạn sông trước trại nghĩa quân nước cạn thấp dần.

Như đã dự tính, quân lính Bảo hộ phát hiện ra đồn trại nghĩa quân liền tấn công ráo riết. Nhưng Phan Đình Phùng nắm được âm mưu của địch nên đã dời quân sang một thung lũng khác. Địch tấn công vào đồn trại nghĩa binh, khi tới nơi thấy toàn đồn vắng chúng cho rằng nghĩa binh đã sợ hãi bỏ chạy. Địch chủ quan lùng sục. Sáng ra trời còn sương mù, thấy dưới thung lũng có toán quân đang đánh trống phất cờ, bắn súng như muốn tấn công địch, quân Pháp lập tức dẫn quân tiến công nhằm bắt sống gọn toán quân ít ỏi này. Nghĩa quân vừa đánh, vừa rút. Quân Pháp đuổi riết. Ra bờ sông Vụ Quang, đến chỗ nước cạn, quân ta vứt hết cờ trống bỏ chạy sang sông. Quân Pháp cũng cho quân truy kích qua sông. Khi quân Pháp dồn hết ra giữa dòng sông thì bất ngờ nghe một tiếng pháo lệnh. Bộ phận canh gác đầu nguồn của nghĩa quân chặt dây, phá kè. Nước trên thác đổ xuống ào ào, nghĩa quân phục kích hai bên bờ sông bắn xuống quyết liệt. Nước sông chảy xiết, các khúc gỗ vót nhọn lao theo dòng nước tông thẳng vào quân Pháp. Quân Pháp bị ghìm chặt xuống lòng sông, vừa bị chết đuối, vừa bị trúng đạn và bị các khúc gỗ vót nhọn tông ngã. Một trận thảm bại chưa từng có của quân lính Bảo hộ.

Ta thu được rất nhiều chiến lợi phẩm và vũ khí đạn dược. Đây là trận thắng oanh liệt giữa lúc nghĩa quân đang lâm vào cảnh vô cùng khó khăn.

Ngày 17-1-1885, quân địch chuẩn bị cuộc phục thù ở núi Đại Hàm. Samaran đem quân càn quét dãy núi Truông Vắt.

Chiều ngày 4-2-1885, Đốc Trạch bố trí phục binh quanh đồn Cao Khê. Viên tướng Samaran vô mưu xông thẳng vào trận địa của nghĩa quân một cách chủ quan, hai cánh quân của Đốc Trạch đánh ập lại. Samaran bị trúng đạn ngã gục tại trận địa. Ngụy quân lập tức tháo chạy, quân ta truy kích gây cho địch tổn thất nặng nề.

Ngày 5-2-1895, Đề Đạt đánh tan một đơn vị khố xanh đang trên đường càn quét.

Nghĩa quân Hương Khê thắng luôn mấy trận liền nhưng vẫn không cải thiện được tình thế, không làm chủ được chiến trường, vẫn bị quân địch bao vây kiềm toả.

Ngày 20-1-1895, Haguet cho ngụy Phó quản Di đem một đội khố xanh đến đánh nghĩa quân ở làng Trại thuộc huyện Nghi Xuân. Từ đấy đến tháng 5-1895 nghĩa quân vẫn phải cơ động để bảo toàn lực lượng, cuộc sống của nghĩa quân ngày càng khó khăn.

Ngày 10-5-1895, Marquet tấn công nghĩa quân của Phan Đình Nghinh ở Truông Vắt bị nghĩa quân đánh trả quyết liệt.

Ngày 12-5-1895, Lý Võ cho quân tập kích đơn vị của Thiếu úy Daufès. Tháng 6-1895, có nhiều trận đánh giữa nghĩa quân Phan Đình Nghinh và Đề Đạt với quân của bọn chỉ huy Pháp Huguet, Fonre, Do Soulagces, Franit, Hugnit tại Truông Vắt và Công Khê. Tuy có tổ chức được các cuộc giao chiến chống càn quét và tấn công trực tiếp vào các đồn địch nhưng nghĩa quân mỗi ngày lại bị lún sâu vào thế bị động. Ngược lại, bọn Pháp lúc này đã đặt được ách bảo hộ khắp toàn quốc do triều đình Huế đã đầu hàng thỏa hiệp hoàn toàn nên có điều kiện tăng cường lực lượng bao vây, ép chặt nghĩa quân vào rừng sâu, núi hiểm.

Tháng 7-1895, tên Nguyễn Thân lãnh chức Khâm mạng Đại thần đại diện cho bọn phong kiến Nam triều ra đánh dẹp nghĩa quân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Duvillier, Công sứ Nghệ An, làm tư lệnh ngụy quân bốn tỉnh, đốc suất 15 tên giám binh và 3.000 lính khố xanh mở cuộc tổng tấn công vào Hương Khê nhằm mục đích xoá sổ cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo.

Trong lúc này quân chủ lực Hương Khê cũng như các quân thứ bị chia cắt, rời rạc, các phương tiện giao thông, liên lạc bị gián đoạn, lương thực, vũ khí và quân số bị thiếu hụt không bù đắp được. Các đường tiếp tế bị phong toả, các địa phương trước đây thường xuyên cung cấp lương thực cho nghĩa quân bị vây ráp, khủng bố, có làng bị triệt hạ. Nhân dân hết đường tiếp tế lương thực cho nghĩa quân.

Mỗi lần bị địch tấn công, nghĩa quân chỉ cơ động để bảo toàn lực lượng trong rừng núi từ dãy Giăng Màn sang núi Quạt rồi về lại Vụ Quang. Trong hoàn cảnh cấp bách này, Phan Đình Phùng do quá gian khổ, vất vả, thiếu ăn, mất ngủ, lo đại sự không thành đã lâm bệnh kiết lỵ nặng.

Ngày 12-7-1895, một toán quân dân mang cá khô và muối gạo cho nghĩa quân bị tên De Soulages phục kích đánh cướp.

Ngày 19-7-1895, Phó lãnh binh Hồ Lai bị bắt.

Đề Mậu, Đề Vinh đóng quân ở Quỳ Châu, Diễn Châu và Anh Sơn định luồn về đồng bằng nhưng không nổi, họ bị vây đánh gắt gao. Stenger, Allier tập trung quân đội tại Thổ Hoàng để bắt Phan Đình Phùng vì giặc cho rằng lúc đó Phan Đình Phùng đang ở Vụ Quang. Khi chúng tràn đến thì nghĩa quân đã rút hết.

Ngày 28-12-1895 Đình nguyên Phan Đình Phùng do bệnh quá nặng đã trút hơi thở cuối cùng tại căn cứ núi Quạt, thọ 49 tuổi.

Trong hoàn cảnh giặc bao vây bốn phía, quân sĩ của Phan Đình Phùng vẫn bình tĩnh tổ chức tang lễ người chủ tướng long trọng, cẩn thận. Một cây gỗ vàng tâm được đục rỗng làm quan tài, đặt thi hài người chủ tướng vào, gắn kín, hạ xuống lòng đất núi Quạt.

Sau đó một số tướng lĩnh của nghĩa quân đã ra hàng như Đốc Phương, Đốc Trạch, Nguyễn Duyệt, Đề Mậu, Phan Đình Nghinh, Phan Đình Phong, Phan Đình Cẩn, Phan Đình Trinh.

Riêng Tôn Thất Hoàng, Hiệp Tuân, Phan Đình Thoại, Tôn Thất Định chiến đấu cho đến khi bị bắt.

Đề Đạt, Nguyễn Mậu và một số khác rút sang Xiêm.

Cuộc khởi nghĩa Hương Khê 10 năm đã gây cho giặc Pháp và quân triều đình nhiều tổn thất nặng nề đến đây cáo chung để đi vào lịch sử dân tộc

Ngày 10 tháng 6 năm 2006
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2008, 08:02:14 pm »



PHẠM NHƯ THƠM1

BÀN VỀ CĂN CỨ ĐỊA CUỘC KHỞI NGHĨA
HƯƠNG KHÊ DO PHAN ĐÌNH PHÙNG LÃNH ĐẠO

Trong phong trào Cần vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX, có một cuộc khởi nghĩa được nhiều người biết đến và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, quân sự quan tâm, đó là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Theo chúng tôi sự quan tâm đặc biệt ấy không phải chỉ vì cuộc khởi nghĩa do một sĩ phu có tên tuổi lãnh đạo hay là cuộc khởi nghĩa kéo dài nhất (10 năm từ 1885 đến 1895), mà còn là bởi nó để lại một bài học vô giá. Đó là vấn đề chọn và xây dựng căn cứ kháng chiến.

Như chúng ta đều biết, sau các hiệp định 1883, 1884 đất nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp, một phong trào kháng Pháp bùng nổ và ngày càng lan rộng khắp Trung - Nam - Bắc. Phong trào ấy lại càng sôi nổi, mạnh mẽ khi Tôn Thất Thuyết đưa xa giá Hàm Nghi đến Sơn phòng Quảng Trị ra Chiếu Cần vương (13-7-1885) kêu gọi nhân dân đứng lên phò vua cứu nước, một trong những địa phương có phong trào Cần vương mạnh mẽ, sôi nổi là Hà Tĩnh với các cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Thọ); Phan Đình Phùng ở Đông Thái (La Sơn); Đinh Văn Chất ở Kim Khê (Hương Khê); Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh ở Gia Hanh (Can Lộc); Ngô Quảng, Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân; Nguyễn Thoại ở Hương Khê, Nguyễn Thuận (Bá hộ Thuận) ở Truông Xoi (Thạch Hà); Huỳnh Bá Xuyên (Cẩm Xuyên). Nhưng nhìn chung các cuộc khởi nghĩa trên đều mang tính chất tự phát, cô lập, thiếu sự liên kết và không có sự chỉ đạo thống nhất. Phan Đình Phùng là người sớm nhận ra điều đó. Ngay từ cuối năm 1885 ông đã đưa nghĩa quân của mình về hội với nghĩa quân của Lê Ninh tại vùng núi Bạnh Sơn (Hương Sơn) dùng lối đánh du kích để chống lại các cuộc tấn công của địch, bảo toàn lực lượng. Biết rằng cuộc chiến đấu của mình là cô độc, lực lượng lại quá nhỏ không thể thắng được mà còn có thể bị tiêu diệt, năm 1887 ông quyết định giao quyền lãnh đạo nghĩa quân cho Cao Thắng, người trợ thủ đắc lực của mình để ra Bắc tìm cách bắt liên lạc với các cuộc khởi nghĩa nhằm tạo thế hỗ trợ nhau trong cuộc chiến tranh cứu nước. Trước khi đi ông căn dặn các tướng lĩnh của mình không nên ham đánh mà manh động, hãy tích cực xây dựng và phát triển lực lượng vững chắc để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Theo lời dặn của ông, Cao Thắng đã đưa nghĩa quân về làng Lê Động quê hương mình (nay là xã Sơn Lễ - Hương Sơn), hô hào vận động nhân dân tham gia ủng hộ nghĩa quân, rèn sắm vũ khí, tổ chức những cuộc đánh úp địch lấy vũ khí. Và cũng chính trong thời gian này “dưới sự chỉ đạo tài giỏi của Cao Thắng, nghĩa quân đã chế được súng trường kiểu 1874, kiểu súng mới nhất của Pháp lúc bấy giờ”2 để trang bị cho nghĩa quân. Qua hai năm xây dựng “đến năm 1889 trong doanh trại của Cao Thắng đã có 1.000 quân và trên 500 khẩu súng”3. Như vậy là lực lượng và trang bị của nghĩa quân đã khá mạnh, trong khi đó thì phần lớn các cuộc khởi nghĩa khác không chỉ ở địa bàn Hà Tĩnh mà cả ở các địa phương lại đang tan rã vì thất bại. Chính lúc đó Phan Đình Phùng sau việc liên lạc không mấy thành công đã trở về tiếp tục lãnh đạo phong trào. Với uy tín lớn và lòng yêu nước thiết tha của mình Phan Đình Phùng đã nhanh chóng quy tụ được hầu hết các cuộc khởi nghĩa, không chỉ riêng ở Hà Tĩnh mà cả ở Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình, đông đảo nhân dân khắp nơi kéo về gia nhập, ủng hộ nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân lớn mạnh nhanh chóng. Lúc này một vấn đề đặt ra là: xác định chỗ đứng cho nghĩa quân (Theo chúng tôi, lúc này vấn đề chỗ đứng mới được đặt ra vì lực lượng nghĩa quân đã lớn mạnh cần có căn cứ địa để đóng quân từ đó phát động chiến tranh). Phan Đình Phùng cùng bộ tham mưu của mình đã quyết định, chọn vùng thượng du hai huyện Hương Sơn và Hương Khê làm căn cứ kháng chiến và vùng thượng du Nghệ An - Hà Tĩnh làm địa bàn hoạt động chính bao quanh khu căn cứ. Đây là khu vực núi non hiểm trở, phía Bắc là vùng rừng núi Thanh Hóa, Nghệ An; phía Đông là dãy Thiên Nhẫn án ngữ đường từ đồng bằng lên; phía Nam là dãy Truông Vắt chạy dài đến tận Hoành Sơn; phía Tây là dãy núi Trường Sơn trùng điệp (dân ở đây thường gọi là dãy Giăng Màn). Chính vùng núi này khi xưa các vua Trần đã đóng để chống quân Nguyên, Lê Lợi đã thủ hiểm hơn sáu năm ròng để rồi tiến đánh giặc Minh thắng lợi. Với địa bàn rừng núi lại trải dài như vậy nghĩa quân không những hạn chế được khả năng cơ động, tập trung, chỗ mạnh của địch về trang bị kỹ thuật nếu chúng tấn công, lại phát huy cao độ được sở trường của mình là đánh du kích, phục kích, vận động tiêu hao sinh lực địch. Và khi lực lượng mạnh có thể nhanh chóng phát triển xuống đồng bằng Nghệ Tĩnh hoặc tiến ra Thanh Hóa, Hòa Bình phía Bắc; Quảng Bình, Quảng Trị phía Nam. Thực tế những trận tập kích của nghĩa quân xuống vùng đồng bằng từ 1891 đến 1893, đặc biệt là trận tập kích vào tỉnh lị Hà Tĩnh (8-1892) và cuộc tiến quân về thành Nghệ An cuối năm 1893 đã chứng minh điều đó.

Căn cứ chính của nghĩa quân được xây dựng tại vùng thượng lưu sông Lam với hai chi lưu là Ngàn Phố (huyện Hương Sơn) và Ngàn Sâu (huyện Hương Khê). Khu Ngàn Trươi nơi có dãy núi Vụ Quang (vùng giáp ranh giữa hai huyện Hương Sơn và Hương Khê) là khu trung tâm của nghĩa quân. Đó là một vùng rừng núi cực kỳ quanh co hiểm trở. Từ Ngàn Trươi có ba con đường độc đạo ra thị xã Hà Tĩnh, sang Lào, Xiêm và đến dãy Đại Hàm. Nhưng những con đường này cũng rất quanh co khúc khuỷu khi thì vượt núi cao, khi lại men theo những khu rừng lầy lội. Người ta nói rằng nếu không biết đường sẽ bị lạc vào những vùng lầy bùn sâu tới bụng4. Khu này xung quanh có núi cao bao bọc, trước mặt là các phụ lưu của sông Ngàn Phố và Vụ Quang như những chiếc hào tự nhiên bao bọc, che trở. Tại khu trung tâm Ngàn Trươi là xưởng chế tạo vũ khí, khu huấn luyện nghĩa quân và khu hậu cần lương thảo. Đại đồn của nghĩa quân được xây dựng trên dãy núi Vụ Quang. Để bảo vệ cho Đại đồn và Đại bản doanh Ngàn Trươi nghĩa quân đã cho xây dựng hàng loạt đồn trại với công sự kiên cố ở xung quanh và được bố trí thành từng phòng tuyến một. Nhìn chung đồn trại nghĩa quân đều dựa theo thế núi, sông, suối để vừa tiện chiến đấu, sinh hoạt, vận chuyển. Không những thế dọc theo vùng ven núi rừng từ Vụ Quang đến dãy Quỳnh Khê, Trí Khê dài gần một trăm dặm cũng được xây dựng liên tiếp các đồn trại kiên cố nhằm đánh chặn địch ngay từ bên ngoài nếu chúng tấn công căn cứ. Cùng với việc xây dựng khu Đại bản doanh, Phan Đình Phùng còn xây dựng các căn cứ Tràng Sim, Ngàn Phố, Sông Cả, Hội Trung và Ngàn Sâu để hỗ trợ cho căn cứ trung tâm. Đồng thời ông cũng ra lệnh cho các thứ quân xây dựng căn cứ kháng chiến ở địa phương để cùng phối hợp tác chiến thực hiện mục tiêu chiến lược là phân tán, tiêu hao sinh lực địch (thí dụ: Thanh thứ của Bá hộ Thuận lập căn cứ ở Trại Trê, Diệm thứ của Cao Đạt lập căn cứ ở Đại Hàm...). Mỗi quân thứ đều phải cử vài chục nghĩa quân đến Đại đồn Vụ Quang làm giao thông liên lạc, nhận những mệnh lệnh để chỉ huy, hành động cho thống nhất với kế hoạch chung. Ngoài các thứ quân, Phan Đình Phùng và Cao Thắng còn cho đặt những đồn trại rải rác khắp vùng thượng du Nghệ An, Hà Tĩnh để nắm tình hình địch và tiếp nhận đồ tiếp tế của nhân dân các nơi gửi đến ủng hộ nghĩa quân, phần lớn lương thực, trang bị, tiền của mua sắm vũ khí đạn dược, vật liệu chế tạo vũ khí đều do nhân dân đóng góp. Đông đảo nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đã chính thức nộp thuế cho nghĩa quân nhất là nhân dân xung quanh vùng căn cứ. Nghĩa quân quy định thóc gạo nhân dân đóng góp ủng hộ ở quân thứ địa phương nào thì để ở quân thứ một phần đủ dùng còn đưa lên Đại bản doanh làm kho dự trữ. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài vấn đề dự trữ lương thực được nghĩa quân đặc biệt quan tâm. Tại vùng căn cứ từ Đại đồn Vụ Quang đến Trùng Khê, Trí Khê cứ cách độ ba dặm nghĩa quân lại cho đặt một hố chứa lương. Mỗi hố chu vi tới 30 trượng đào sâu dưới đất, dùng củi đốt cho khô đất, đổ thóc xuống rồi ngụy trang lại. Đồng thời bên cạnh mỗi hố cũng được chôn theo một số dụng cụ xay giã cho tiện khi dùng.
_______________________________________
1. Phạm Như Thơm: Nghiên cứu viên, Viện Sử học.
2. Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1989, tr.75.
3. Tài liệu tham khảo cách mạng cận đại Việt Nam. BNC Sử Địa Văn Hà Nội, 1955, tập 1, tr.70.
4. Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại, sđd, tr.64.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2008, 08:12:17 pm »


Vũ khí, đạn dược một phần do nghĩa quân tự chế tạo ra từ những vật liệu nhân dân quyên góp, một phần phải cử người qua Lào sang Xiêm mua về1. Xưởng chế tạo vũ khí Ngàn Trươi với hàng trăm thợ rèn đã góp phần quan trọng trong việc trang bị khí giới cho nghĩa quân.

Trên đây là một vài nét phác họa về căn cứ kháng chiến của nghĩa quân Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, từ đó chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:

1. Việc hình thành vùng căn cứ địa miền Tây Hà Tĩnh là bước phát triển tất yếu của cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo nổ ra năm 1885 không phải tại Hương Khê mà tại làng Đông Thái huyện La Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ). Lúc đầu chỉ có vài trăm nghĩa quân đứng chân tại làng. Đầu năm 1886, mặc dù hội thêm nghĩa quân của Lê Ninh tại Bạch Sơn (thuộc dãy Đại Hàm), nhưng lực lượng nghĩa quân vẫn chưa được là bao, nên khi cụ Phan ra Bắc, Cao Thắng đã đưa nghĩa quân về làng để dựa vào dân phát triển lực lượng. Như vậy thời gian đầu do lực lượng quá nhỏ, địch chưa để ý đến, nghĩa quân còn có thể dựa vào dân làng để được phát triển lực lượng, xây dựng thực lực. Nhưng sau hai năm xây dựng và phát triển, lực lượng nghĩa quân đã khá mạnh, thanh thế nghĩa quân đã khá lớn và lại càng lớn mạnh khi cụ Phan từ Bắc trở về quy tụ được các cuộc khởi nghĩa trong vùng. Một mặt thì kẻ thù đã để mắt và tìm cách đàn áp, một mặt nghĩa quân cần có chỗ đứng để tiến hành cuộc chiến tranh lâu dài nếu không sớm muộn cũng bị địch tiêu diệt. Vì vậy sự ra đời của căn cứ địa là đòi hỏi khách quan và tất yếu của cuộc khởi nghĩa.

2. Chúng ta đều biết trong khởi nghĩa vũ trang nói riêng và trong chiến tranh giải phóng nói chung căn cứ địa có tầm quan trọng mang tính chiến lược. Nó trở thành điều kiện sống còn khi cuộc khởi nghĩa mới nổ ra và cả khi tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch còn quá chênh lệch nghiêng hẳn về phía địch. Bởi trước hết căn cứ địa là chỗ đứng chân của nghĩa quân để tập hợp, phát triển lực lượng tiến hành chiến tranh, về mặt này nó còn là nơi dự trữ cung cấp hậu cần cho nghĩa quân, đồng thời căn cứ địa cũng là nơi bảo toàn lực lượng là bàn đạp để tấn công kẻ thù. Không có căn cứ địa vững chắc thì không thể tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài để cuối cùng giành thắng lợi. Lênin đã từng nói: “Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn thì người đó thu được thắng lợi”2.

Một căn cứ địa vững chắc theo chúng tôi ít nhất phải đạt được hai yêu cầu cơ bản là địa lợi và nhân hòa. Địa lợi tức là nơi có vị trí, địa hình có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Nhân hòa tức là nơi mà đại đa số nhân dân được giác ngộ, không sợ hy sinh hết lòng ủng hộ và tham gia kháng chiến. Trong khởi nghĩa vũ trang thông thường ở giai đoạn đầu bao giờ lực lượng của nghĩa quân cũng yếu hơn địch rất nhiều. Trong điều kiện hoàn cảnh như vậy, kinh nghiệm của ông cha ta là chọn những nơi hiểm yếu, nơi rừng núi hiểm trở làm căn cứ địa như: động Khuất Liêu của Lý Bôn, đầm Dạ Trạch của Triệu Quang Phục, rừng Lam Sơn của Lê Lợi... Thực tế các cuộc chiến tranh giải phóng và khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam đã chứng minh rằng rừng núi bao giờ cũng là căn cứ địa tốt nhất. Khi tổng kết nghệ thuật quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã từng viết: “Nông thôn rừng núi là căn cứ địa, hậu phương vững chắc nhất của cách mạng và chiến tranh cách mạng nước ta”3.

Là một nhà khoa bảng yêu nước như Phan Đình Phùng, một nhà quân sự tài giỏi như Cao Thắng, các ông hiểu rõ dân tộc ta, cha ông ta đã lợi dụng rừng núi như thế nào để đánh giặc. Hơn nữa những kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa như Ba Đình, Hùng Lãnh, Bãi Sậy và đặc biệt là những cuộc khởi nghĩa ngay chính trên quê hương đã giúp các ông nhận ra rằng với một kẻ thù mạnh, vũ khí tối tân như thực dân Pháp thì tốt hơn hết là áp dụng chiến thuật thủ hiểm ở rừng núi để bảo toàn, phát triển lực lượng, thực hiện chiến tranh du kích, phòng ngự kết hợp với tấn công tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch. Và các ông cũng nhanh chóng nhận ra rằng: vùng rừng núi Hương Sơn, Hương Khê với địa hình hiểm trở như đã trình bày ở trên sẽ là chỗ đứng chân có lợi cho nghĩa quân, hạn chế thế mạnh của địch, hơn nữa nhân dân ở đây vốn giàu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, chính họ đã từng hưởng ứng ủng hộ cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Đình Văn Chất, Nguyễn Thoại và của chính nghĩa quân. Hiện thời vùng này đang là trung tâm sôi động nhất của phong trào kháng Pháp. Nếu làm chủ được nó nghĩa quân sẽ dễ dàng phát triển lực lượng không những xuống vùng đồng bằng Nghệ Tĩnh, liên kết phong trào khởi nghĩa trong vùng mà còn có thể phát triển ra địa bàn Thanh Hóa, Ninh Bình, vào Quảng Bình, Quảng Trị... Và trong trường hợp nguy cấp có thể rút qua Lào bảo toàn lực lượng. Có lẽ từ sự nhìn xa trông rộng ấy mà các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã quyết định chọn vùng này làm căn cứ của nghĩa quân. Từ nhận xét ấy chúng ta có thể tạm đi đến kết luận: Việc xây dựng căn cứ địa ở vùng rừng núi Hương Khê, Hương Sơn là sự kết hợp giữa nghệ thuật quân sự dân tộc với tầm nhìn chiến lược của các nhà lãnh đạo khởi nghĩa Hương Khê. Thực tế đã chứng minh rằng: căn cứ địa đã trở thành tấm lá chắn che chở bảo vệ nghĩa quân, ngăn bước tiến của giặc Pháp trong suốt gần 10 năm kháng chiến.

3. Xây dựng căn cứ địa hiểu theo nghĩa thông thường là dựa vào thế hiểm yếu để phòng thủ mà còn phải xây dựng cho mình một hệ thống công sự vững chắc khoa học để việc phòng thủ có hiệu quả hơn. Trong khu căn cứ của mình nghĩa quân Hương Khê đã được một hệ thống đồn trại, công sự khá vững chắc và kiên cố theo kiểu phòng tuyến nhưng lại triệt để lợi dụng địa vật như rừng, núi, sông, suối để vừa tiện sinh hoạt vừa phù hợp với cách đánh phục kích, khi vận động chiến linh hoạt của mình. Trong thực tế chiến đấu và ngay cả những trận chống càn ở khu căn cứ chúng ta rất ít thấy nghĩa quân cố thủ trong công sự để chống trả mà thường lợi dụng địa hình địa vật để cơ động tiêu diệt địch. Chính vì vậy mà qua nhiều đợt càn quét mặc dù thiệt hại nặng nề giặc Pháp vẫn không thể tiêu diệt được nghĩa quân. Trong căn cứ từ khu Đại bản doanh Ngàn Trươi - Vụ Quang lực lượng nghĩa quân được bố trí trên một diện rộng khiến địch không thể tập trung lực lượng để tiêu diệt, mà trái lại khi cần có thể hỗ trợ cho nhau. Trái lại khu Đại bản doanh lại được xây dựng như một cụm cứ điểm liên hoàn mạnh để bảo vệ cơ quan đầu não cuộc khởi nghĩa, bảo vệ khu hậu cần. Tại khu này ngoài những đồn trại ở các phòng tuyến xung quanh, riêng đại đồn Vụ Quang lúc nào cũng có từ 500 quân trở lên luôn sẵn sàng chiến đấu. Đây vừa là lực lượng mạnh để bảo vệ trung tâm, vừa là lực lượng cơ động chiến đấu. Những điều trên có thể cho phép chúng ta khẳng định việc xây dựng căn cứ địa và bố trí ở căn cứ thể hiện rõ tư tưởng chủ động tiến công của nghĩa quân Hương Khê, nếu ở một khía cạnh nào đó mang tính chất phòng ngự thì cũng không phải là phòng ngự bị động đơn thuần, tiêu cực mà là phòng ngự trên thế tiến công. Đây là sự thể hiện sinh động của đường lối, nghệ thuật quân sự chủ động, tấn công của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

4. Cuộc chiến tranh giải phóng là cuộc chiến tranh trường kỳ, đòi hỏi phải có căn cứ địa vững chắc nghĩa là ngoài địa hình thuận lợi, mà còn phải có sự tiếp tế thường xuyên về nhân tài vật lực. Muốn vậy phải có nhân dân nhiệt tình ủng hộ và phải có đường tiếp tế thuận lợi. Căn cứ của nghĩa quân Hương Khê không những được nhân dân Hương Khê, Hương Sơn mà cả nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh hết lòng ủng hộ. Họ tự nguyện đóng thuế cho nghĩa quân (1 đồng bạc một mẫu), trong lúc đang khốn khổ vì phải chịu chế độ sưu thuế nặng nề của thực dân Pháp. Họ đem cả mâm thau, nồi đồng để giúp nghĩa quân chế đạn, đúc súng. Ngày ấy nhân dân Nghệ Tĩnh thường truyền nhau câu vè:

Bảo nhau đem của cải ra
Gửi Lên sơn trại gọi là nuôi quân
4

Những người không có của cải thì lên sơn trại giúp nghĩa quân xay giã thóc gạo. Hàng trăm thợ rèn từ khắp nơi kéo về giúp nghĩa quân chế tạo vũ khí. Ngay cả những lúc giặc Pháp đàn áp, khủng bố dã man những người ủng hộ hoặc bị chúng nghi là ủng hộ nghĩa quân họ vẫn không nản lòng, nhiều gia đình vẫn dám cho nghĩa quân trú tại nhà mình, che chở cho nghĩa quân mỗi khi bị càn quét. Vừa được nhân dân hết lòng ủng hộ, vừa trải dài trên diện rộng thuận tiện cho việc tiếp tế, chính vì vậy mà trại căn cứ nghĩa quân không những có đầy đủ lương ăn, áo mặc, vũ khí mà còn dự trữ để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài mặc dầu trong căn cứ có lúc nghĩa quân lên đến hàng ngàn người, trong khi thực dân Pháp đã dựng hàng chục đồn bốt để ngăn chặn. Một điểm đáng lưu ý là không những thuận lợi cho việc tiếp tế mà căn cứ nghĩa quân còn có đường thông sang Lào từ đó qua Xiêm, điều này đã giúp nghĩa quân rất nhiều trong việc mua sắm vũ khí. Công điện ngày 16-10-1895 của khâm sứ Trung Kỳ gửi Toàn quyền đã khẳng định điều đó. “Những chuyến đi lại của Cao Đạt giữa Trung Kỳ và Lào cũng như các mối quan hệ của hắn với các quan lại ở Xiêm đã có từ lâu. Những chuyến đi đó đã được mật báo nhiều lần trong những năm 1891 và 1894. Mục đích của những chuyến đi đó thường là mua sắm vũ khí đạn dược ở Nông Khay, La Khôn, và của người Xiêm”5. Chính nhờ vào sự giúp đỡ của nhân dân, vào căn cứ địa mà nghĩa quân mới có thể duy trì cuộc chiến đấu kéo dài suốt hơn mười năm trời. Vì vậy căn cứ địa của nghĩa quân Hương Khê không những là sự thể hiện tư tưởng dựa vào dân để chiến đấu của các lãnh tụ nghĩa quân, mà còn là sự thể hiện cao độ của tinh thần yêu nước, của truyền thông anh hùng, bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân Hương Sơn, Hương Khê nói riêng và Thanh - Nghệ - Tĩnh nói chung.

5. Điều khác biệt với nhiều cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX là nghĩa quân Hương Khê không chỉ xây dựng cho mình một căn cứ địa duy nhất (như vậy rất dễ rơi vào thế cô lập) mà đồng thời với việc xây dựng căn cứ chính ở núi rừng Hương Sơn, Hương Khê nghĩa quân còn xây dựng nhiều căn cứ địa tại chỗ, mỗi quân thứ có một căn cứ của mình. Những căn cứ này được liên lạc thường xuyên với căn cứ chính qua những nghĩa quân làm nhiệm vụ liên lạc tại Đại bản doanh. Nhờ vậy mà hoạt động của toàn bộ nghĩa quân luôn có sự thống nhất hỗ trợ cho nhau, phân tán lực lượng của địch, khiến cho nhiều trận càn lớn của địch phải bỏ dở. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của nghĩa quân trong nghệ thuật xây dựng căn cứ địa.

Tuy vậy việc xây dựng căn cứ địa của nghĩa quân Hương Khê vẫn còn có những hạn chế nhất định bởi tầm nhìn chiến lược của các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Như chúng tôi đã trình bày căn cứ địa của nghĩa quân được xây dựng ở vùng rừng núi Hương Khê và Hương Sơn đây là một vùng núi non hiểm trở, dân cư thưa thớt có thể nói hầu như không có, việc tiếp tế tại chỗ không có mà hầu như từ bên ngoài vào. Nói là dựa vào dân nhưng thực tế là dân ngoài căn cứ vì vậy khi địch thực hiện âm mưu bao vây cắt đường tiếp tế thì lập tức nghĩa quân gặp khó khăn khó tránh khỏi bị tiêu diệt. Trong trường hợp ấy nghĩa quân phải tổ chức sản xuất tại chỗ nhưng nghĩa quân lại không làm được việc đó. Thực tế đã chứng minh khi thực dân Pháp tách được dân ra khỏi nghĩa quân thì nghĩa quân dễ dàng tan rã.

Việc bố trí lực lượng nghĩa quân trong căn cứ lỏng, bị dàn trải tuy phân tán được lực lượng địch nhưng nếu địch tập trung lực lượng lại dễ bị tiêu diệt và nhất là không có điều kiện mở những cuộc tấn công có quy mô lớn. Thực tế trận đánh của nghĩa quân chỉ là những trận đánh nhỏ ở quy mô chiến thuật, chưa có trận nào mang ý nghĩa chiến lược.

Khi cuộc khởi nghĩa đang trên đà phát triển, nghĩa quân chỉ ham đánh để tiêu hao, tiêu diệt địch mà không chú trọng đến việc mở rộng căn cứ địa xuống vùng có dân, nhất là xuống vùng đồng bằng nơi đông người nhiều của, phát động quần chúng biến khởi nghĩa vũ trang thành chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi. Bởi “cách mạng không phải là cuộc đảo chính, không phải là kết quả của những âm mưu, cách mạng phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân”6. Vì lẽ ấy cuộc khởi nghĩa không thể tạo cho mình một hậu phương vững chắc. Và nhất là từ cuối năm 1893 khi cuộc khởi nghĩa có chiều hướng đi xuống thì lẽ ra phải tập trung lực lượng phá vây để củng cố căn cứ địa thì các nhà lãnh đạo nghĩa quân lại quyết định đem quân tấn công thành Nghệ An làm đẩy nhanh quá trình tan rã của nghĩa quân.

Những hạn chế trên đây theo chúng tôi là không thể tránh khỏi bởi những nhà lãnh đạo khởi nghĩa Hương Khê cũng như các cuộc khởi nghĩa khác của phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX đều là các sĩ phu, văn thân yêu nước không phải là những nhà quân sự. Hơn nữa do những hạn chế về tư tưởng giai cấp, về thời đại họ không thể giải quyết được đúng đắn yêu cầu giải phóng dân tộc và dân chủ của lịch sử Việt Nam hồi đó. Cho nên các cuộc khởi nghĩa Cần vương nói chung, Hương Khê nói riêng chỉ rầm rộ buổi đầu do nhiệt tình tham gia ủng hộ của nhân dân rồi dần dần tan rã mà không trở thành một phong trào dân tộc thực sự, không thể đi đến thắng lợi được. Mặc dù thất bại nhưng những kinh nghiệm về xây dựng căn cứ địa và những hạn chế của cuộc khởi nghĩa Hương Khê không những đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu mà còn góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam. Những bài học ấy đã được Đảng và nhân dân ta phát huy triệt để trong Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau này.

Hà Nội, tháng 12 năm 1995

__________________________________________
1. Theo cuốn Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, tập 1, thì cô Tám con gái ông Hoàng Phúc một lãnh tụ nghĩa quân là người có công nhất trong việc mua sắm vũ khí từ Xiêm về.
2. Lênin toàn tập, tập 80, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971. tr.84.
3. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.215.
4. Vè quan Đình, theo Đặng Huy Vận - Hoàng Đình Bình: Những năm đầu của phong trào chống Pháp ở Nghệ Tĩnh và quá trình hình thành cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng - Nghiên cứu lịch sử số 133.
5. Hồ sơ: Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Renseignement sur les opérations de la colonne de police à NgheAn ét HaTinh). Cục lưu trữ số 55, tr.286.
6. Lênin: Chủ nghĩa Mác về khởi nghĩa vũ trang. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1966, tr.7.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2008, 11:15:28 pm »


NGÔ VĂN HOÀ1

XƯỞNG VŨ KHÍ CỦA NGHĨA QUÂN HƯƠNG KHÊ2

Đến giữa thế kỷ XIX, một tai họa đè lên vận mạng của dân tộc ta, đó là họa xâm lăng của đế quốc Pháp. Khác với những thế lực xâm lăng trước trong lịch sử các tập đoàn phong kiến Trung Quốc mà trình độ khoa học kỹ thuật cũng tương đương như dân tộc ta, lần này tư bản thực dân Pháp có một nền khoa học kỹ thuật hiện đại cao hơn hẳn nền khoa học kỹ thuật cổ truyền của dân tộc Việt Nam.

Để bước đầu giải quyết mối mâu thuẫn trên đây, Phan Đình Phùng và các tướng lĩnh nhận thấy rằng muốn đương đầu và chiến thắng quân thù không những cần lòng hy sinh dũng cảm giết giặc mà còn phải có những lực lượng vật chất khả quan, có lương thực và nhất là vũ khí. Trong việc trang bị kỹ thuật cho nghĩa quân của các phong trào kháng Pháp hồi cuối thế kỷ XIX thì cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã có những đóng góp lớn lao. Đó là việc chế tạo được súng trường kiểu 1874 của Pháp. Để tiếp cận vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu nguồn tài liệu ở trong nước và sau đó là nguồn tài liệu do thực dân Pháp viết để các bạn có điều kiện so sánh đối chiếu hòng dựng lại sự thực lịch sử này.


I. GIỚI THIỆU NGUỒN TÀI LIỆU LỊCH SỬ TRONG NƯỚC

Đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa được đặt ở Vụ Quang và bao gồm nhiều khu căn cứ. Khu căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi gồm nhiều đồn luỹ, trong đó có căn cứ đóng quân Làng trong cách thành 5km về phía Đông Bắc với bãi tập, xưởng rèn, kho lương. Khu đồn Cồn Bội cách thành 18km về phía Đông Bắc với các lò rèn vũ khí, hầm chứa vũ khí, lương thực. Khu căn cứ Thượng Bồng, Hạ Bồng gồm một hệ thống đồn luỹ, trong đó có rú Cồi (Khôi Sơn), rú Cọng (Điếm Sơn). Tại đây có một số lò rèn vũ khí do ông Phó Bích làm hiệp quản chỉ huy. Các lò rèn đều bố trí gần các khe suối để bảo đảm bí mật, như ở các khe Nhà Trận, rú Sui, rú Công, rú Cồi v.v... quân số làm việc rèn này lên đến hàng trăm người. Lò rèn Xá Lễ là một khu lò rèn lớn cung cấp vũ khí cho nghĩa quân. Theo các cụ phụ lão địa phương cho biết thì hồi nghĩa quân dựng lò rèn tại đây, khu vực này còn rất rậm rạp, tại chỗ có lúc tập trung từ 200 đến 300 thợ, có đến 30 gian lán trại dựng dọc theo các khe suối quanh vùng và các hiệp thợ thay phiên nhau làm việc từ tờ mờ sáng cho đến tối. Khu căn cứ Trùng Khê - Trí Khê cũng có cả một hệ thống đồn trại, bãi tập, xưởng vũ khí.

Đồng thời với việc xây dựng và phát triển các khu căn cứ, nghĩa quân thấy trước hết là phải làm thế nào có súng mẫu để theo đó chế súng mới, mua thì không đời nào Pháp bán cho nên phải tổ chức cướp súng. Được tin có một toán lính đi từ Nghệ An lên đồn Phố Châu gồm hai sĩ quan Pháp và 15 lính tập mang theo tiền lương và có súng, con đường này lại xuyên qua nhiều khu rừng rậm rất thuận tiện cho việc phục kích. Cao Thắng đã trực tiếp chỉ huy một toán nghĩa quân phục kích cướp được 17 khẩu súng, hai hòm đạn và tiền bạc. Đây là loại súng mới với cỡ nòng 11mm, bắn bằng thuốc đạn không khói. Cao Thắng lên vùng Thượng Bồng, mời Lê Phác tức Kiểm Phất, người xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ) và Lê Quyên (tức Đội Quyên, người làng Yên Hồ, huyện Đức Thọ) và một số thợ rèn giỏi của vùng Nghệ Tĩnh cùng nghiên cứu khẩu súng của giặc để chế tạo. Những người thợ thủ công đã phát huy hết trí sáng tạo của mình lấy phương tiện thô sơ để làm ra vũ khí hiện đại. Để chế tạo bộ máy cò phức tạp đòi hỏi kỹ thuật cao, người ta tháo một khẩu súng Pháp ra từng bộ phận và rèn theo mẫu đó, xong lắp vào súng bắn thử, nếu được thì cứ theo mẫu mà làm, chưa được thì phải nghiên cứu sửa chữa lại bằng được mới thôi. Nòng súng là một bộ phận yêu cầu hợp kim cao, người ta có sáng kiến là uốn bằng sắt và củng cố thêm bằng nhiều vòng sắt ở bầu nòng cho chắc thêm và để khi bắn khỏi bị vỡ. Lò xo kim hoả cần thép cứng và dẻo đã được nghĩa quân thay bằng loại gọng ô. Mọi bộ phận nghiên cứu xong, Cao Thắng đưa lên vùng Lệ Động hơn 300 thợ rèn của hai làng Trung Lương và Vân Chàng, 30 thợ gỗ và mộc ở làng Xa Lang để làm báng súng và một số thợ bạc để làm vỏ đạn, một số thợ đúc đồng để đúc đạn. Cao Thắng tổ chức sản xuất theo lối dây chuyền và chuyên môn hoá. Về nguyên liệu, ông cho người đi khắp các làng quê, mua hoặc quyên tất cả những thứ như nồi đồng, mâm đồng, sắt cũ, sắt vụn, cầy cuốc hư hỏng của nhân dân đem về căn cứ đúc súng. Đồng bào lương và giáo đã nhiệt liệt hưởng ứng, có người bớt cả đồ đồng đang dùng. Có bài viết cho biết Cao Thắng đã mời Cổ Khai, cha xứ ở Thọ Ninh, Thọ Tường (Đức Thọ) vào Cồn Chùa để thương lượng việc này3. Dân làng Thượng Bồng đốt than lim là một loại than có nhiệt độ cao để cho lò rèn rèn súng. Ngoài việc sản xuất súng, ông còn nghĩ cách chế thuốc súng theo kiểu thủ công, gồm than xoan tán nhỏ và diêm tiêu để nhồi vào đạn hoặc vượt rừng núi qua đường Lào sang tận Xiêm La (tức Thái Lan ngày nay) mua thuốc súng. Sau nhiều tháng trời lao động quên mình vì nghĩa lớn, Cao Thắng và những người thợ rèn ở vùng Nghệ Tĩnh đã tự chế được gần 350 khẩu súng kiểu 1874, kỹ thuật không khác gì nhiều so với của địch. Thành công này đã làm cho nghĩa quân phấn khởi và tin tưởng ở thắng lợi của mình:

Súng ta, chế được vừa xong
Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay
Bắn cho tiệt giống quân Tây
Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe
4.


Khi Cao Thắng mất, ông mới 29 tuổi. Trong bài văn tế chữ nôm do Phan Đình Phùng đọc trong ngày chung thất, Cụ cũng đã nhắc đến tài năng sáng tạo của con người anh hùng trẻ tuổi đối với nghĩa quân: “Thiên tài toán học chước Võ Hầu, chế súng đạn biết bao chừng cơ trí”.
_______________________________________
1. Ngô Văn Hòa: Phó Giáo sư Viện Sử học.
2. Tham luận Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm ngày mất Phan Đình Phùng, ngày 28-12-1995.
3. Đinh Xuân Lâm và Phan Trọng Báu. Cao Thắng với Phong trào yêu nước chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Nghiên cứu lịch sử số 9, 10-1975, tr.53.
4. Vè yêu nước chống đế quốc Pháp xâm lược. Nxb Văn học, Hà Nội, 1970.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 08 Tháng Tám, 2008, 11:20:45 pm »


II. GIỚI THIỆU NGUỒN TÀI LIỆU CỦA THỰC DÂN PHÁP

Thực dân Pháp cũng rất quan tâm chú ý đến trang thiết bị quân sự của nghĩa quân Hương Khê, nên ngay từ đầu thế kỷ XX, đại uý Ch. Gosselin trong quyển sánh L’Empire d’Annam (Đế quốc An Nam) đã viết về thành tựu này như sau:

“Ông (tức Phan Đình Phùng. N.V.H chú thích) đã biết đào tạo các chiến binh của mình theo cung cách kỷ luật và hành binh theo kiểu châu Âu, đó là điều mà chúng ta chưa bao giờ nhận thấy từ trước cho đến lúc đó, trang phục cho quân lính bằng những bộ quần áo tương tự như những binh lính người bản xứ và cuối cùng là trang bị cho các chiến binh bằng các khẩu súng kiểu 1874, những khẩu súng này được sản xuất bí mật tại những địa điểm mà chúng ta không phát hiện ra được và với một khối lượng rất nhiều. Tôi đã mang về Pháp vài khẩu súng này, những khẩu súng này giống về tất cả mọi phương diện với những khẩu súng do các công binh xưởng của chúng ta sản xuất và đã làm cho các sĩ quan pháo binh mà tôi đưa cho họ xem phải hết sức ngạc nhiên, những khẩu súng này chỉ khác với những khẩu súng của chúng ta về hai điểm mà thôi: lò xo xoáy ốc tôi chưa đủ và lòng súng không có xẻ rãnh; hậu quả của điều này là đạn đi không xa; tuy nhiên những khẩu súng này đã bắn chết rất nhiều binh lính và sĩ quan người Âu và binh lính người bản xứ” (Nxb Perrin et Cie, Paris, 1904, tr.313).

Gần đây trong luận án Tiến sĩ quốc gia nhan đề “Les contacts Franco Vietnamiens en Annam et au Tonkin de 1885 à 1896” (Những sự tiếp xúc Pháp Việt ở Trung và Bắc Kỳ từ 1885 tới 1896); Ch. Fourniau đã cho công bố nhiều bản báo cáo đương thời của bọn thực dân Pháp đã tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Thực dân Pháp có mô tả một số doanh trại của nghĩa quân mà chúng chiếm được: “doanh trại của Phan Đình Phùng bao gồm nhiều dãy nhà bằng gỗ được xây dựng rất tốt (những chỗ ở cho các tướng lãnh và trại lính chứa đến 300 người) và một xưởng vũ khí khá rộng có thể chứa đến 30 công nhân”. Cũng toán lính này phát hiện ở một chỗ không xa một doanh trại khác, gồm 12 căn nhà, chứa được từ 150 đến 200 người. Người ta tìm thấy nhiều lò rèn và những dụng cụ để làm vỏ đạn và 4.000 khẩu phần gạo mà nghĩa quân bỏ lại khi rút lui.

Báo cáo của Le Normand ngày 11-5-18951 cho biết lúc ban đầu, cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng giống như các cuộc khởi nghĩa khác trong nước về mặt trang bị kỹ thuật, vũ khí của nghĩa quân là bạch khí, nghĩa là chỉ gồm gươm giáo mác, mã tấu v.v... chưa có vũ khí hiện đại. Từ 1890, nghĩa quân đã tổ chức được một cuộc phục kích thành công, thu được một tá súng trường. Phấn khởi trước thành tích, sau đó nghĩa quân đã liên tiếp tổ chức nhiều cuộc phục kích nữa để cướp súng, những trận sau đó Đề Mậu và Đề Niên chỉ huy. Theo báo cáo của Công sứ Nghệ Tĩnh Duvillier, ngày 17-12-18952, những người thợ làm những công đoạn khó khăn trong việc chế tạo súng đã được nghĩa quân trả công cao hơn rất nhiều so với mức bình thường ở ngoài xã hội.

Về những người thợ thủ công này, báo cáo của Le Normand viết tiếp: “Phan Đình Phùng đã sử dụng những người quê ở La Sơn đã từng là người làm vũ khí ở trên các pháo hạm hoặc trong các xưởng của hải quân, hoặc là thợ máy tại các hãng Daniel Chatmont... Những người này lại tuyển mộ ở Hà Nội những người làm vũ khí khác người bản xứ. Sau đó Phan Đình Phùng mới trưng dụng những người thợ rèn, thợ bạc, thợ mộc và thợ gỗ để làm ra súng. Việc sản xuất này được thúc đẩy nhanh chóng và chẳng bao lâu các toán quân đều được trang bị những vũ khí lợi hại. Những xưởng sản xuất được thiết lập trong những kho tại dãy núi Ngàn Trươi và Ngàn Phố, những người làm vũ khí và thợ bạc đã chế ra những quy lát từ chất thép được nấu theo phương pháp Catalane (một phương pháp nấu thép từ quặng sắt mà không phải trải qua giai đoạn gang. N.V.H chú thích). Họ cũng sản xuất các bộ phận bằng đồng, và những vỏ đạn bằng đồng do họ trưng dụng được từ các mâm và nồi đồng ở các làng quê. Nòng súng được đúc trong núi, hoặc tại các làng thợ rèn, chẳng hạn như ở Vân Chàng. Báng súng được chuẩn bị ở mỗi nơi một ít và ở khắp mọi nơi”.

Hơn thế nữa người ta còn ra chợ Vinh để mua sắt, thép, chì, công việc này do em gái Phan Đình Phùng mà tài liệu của Pháp viết là Bà Thị Giang đảm nhiệm (Báo cáo của Brière ngày 14-2-1896. Phụ lục số 3. Biên bản hỏi cung Lê Vang ngày 1-10-1894). Một phần nhỏ lò xo xoắn ốc là do từ nguồn Hà Nội mang vào. (Tôi không biết do ai gửi vào Tôi cũng không rõ những nguồn cung cấp khác về lò xo xoắn ốc. Lê Vang khai như vậy).

Ngoài việc chế tạo súng trường tại chỗ, cụ Phan còn tìm cách mua được một ít vũ khí đạn dược ở Xiêm. Từ 1891, Cao Đạt đã nhiều lần sang Xiêm để làm công việc này. Luce cho biết kết quả cụ thể đạt được như sau: 94 Li-vơ-rơ (500 gr) Xan pết (Kali nitrat, N.V.H chú thích), 53 túi hạt nổ to, 100 túi hạt nổ nhỏ, 110 túi thuốc súng, và một lần khác mua được 21.000 hạt nổ nhỏ, 30 túi hạt nổ to, 1 khẩu Lefaucheux và 66 viên đạn, 1 súng lục và 100 viên đạn, hai súng ngắn và 72 viên đạn3. Báo cáo của Le Normand đưa ra những con số khác, một lần 15 súng lục và một lần khác 50 súng lục. Thực dân Pháp thừa nhận đại bộ phận vũ khí là do nghĩa quân sản xuất ở trong nước. Le Normand ước lượng là tổng số vũ khí do nghĩa quân sản xuất và sử dụng cho đến 1895 là từ 1200 đến 1300 khẩu. Nếu tính cả số thiệt hại và phá huỷ do quân Pháp gây ra nhiều lần khi tấn công vào các căn cứ địa của nghĩa quân, thì tổng số vũ khí do nghĩa quân chế tạo được lên đến hàng ngàn khẩu. Sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa, tháng 1-1897 thực dân Pháp đã mang ra bán làm sắt vụn những vũ khí của nghĩa quân mà chúng thu được, trọng lượng của đống hàng này lên đến hơn hai tấn rưỡi sắt, bao gồm: 403 khẩu súng, 328 nòng súng, 103 súng có pít tông (fusil à piston), 436 dao (biên bản việc bán ngày 26-11-1897 và báo cáo của tổng sứ 10-10-18964.


***


Qua những nguồn tài liệu vừa trình bày bên trên, chúng ta thấy nổi bật thành tựu mà nghĩa quân Hương Khê đã đạt được là chế tạo thành công được súng trường kiểu 1874, về mặt chất lượng gần đạt tiêu chuẩn quốc tế và về mặt số lượng lên đến hàng ngàn khẩu, một số lượng lớn lao mà không một cuộc khởi nghĩa nào khác hồi thế kỷ XIX cũng như sau này đạt được. Điều này cho phép nghĩa quân Hương Khê không ngừng lớn mạnh và đủ sức đánh giặc lâu dài. Người ta cũng thấy mặc dù chưa có chính quyền trong tay, phương tiện vật chất thiếu thốn nghèo nàn hầu như không có gì, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật hiện đại lại thấp nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn xả thân vì nghĩa lớn, nghĩa quân Hương Khê đã dám lao vào tấn công một trận tuyến mới, đó là lãnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến và đã thu được một số thành tựu rất đáng tự hào và khâm phục. Tất nhiên lúc đó chưa thể có được những thành tựu ngang với kẻ địch về mặt này vì bối cảnh lịch sử chưa cho phép. Nhưng dù sao điều này cũng đã nói lên tài trí thông minh sáng tạo, vượt khó khăn của nghĩa quân Hương Khê cũng như của dân tộc Việt Nam chúng ta, đặt cơ sở cho những bước phát triển ngày càng cao hơn của các thế hệ sau trong việc nối bước truyền thống của các bậc tiền bối, vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại. Trong thời kỳ cận hiện đại của lịch sử Việt Nam, Cao Thắng đã nêu một tấm gương về tinh thần sáng tạo kỹ thuật, biết dùng và đối xử đúng đắn với thợ giỏi, khắc phục khó khăn, tổ chức dây chuyền sản xuất theo kiểu hiện đại, thật xứng đáng là người có công đầu trong việc sản xuất vũ khí hiện đại cũng như vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới.
_____________________________________________
1. A.O.M 22318.
2. A.O.M 22312
3, 4. A.O.M 22314.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 10 Tháng Tám, 2008, 09:39:47 pm »


THÁI KIM ĐỈNH1

CHIẾN KHU VỤ QUANG THỜI CẦN VƯƠNG

Phong trào Cần vương chống thực dân Pháp xâm lược ở bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình cuối thế kỷ XIX do Phan Đình Phùng, Cao Thắng lãnh đạo và chỉ huy, là cuộc kháng chiến oanh liệt kéo dài mười năm (1885-1895) không chỉ có tiếng vang lớn trong nước mà cả ở nước Pháp.

Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1847 - “Đăng khoa lục” chép năm Giáp Thìn, 1844), quê làng Đông Thái, xã Việt Yên Hạ, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, trong một gia đình khoa bảng. Đỗ Cử nhân trường nghệ khoa Bính Tý (1876) rồi đỗ Tiến sĩ Đình nguyên khoa Đinh Sửu (1877), ông được bổ ra làm Tri phủ Yên Khánh (Ninh Bình), rồi về Huế, giữ chức Ngự sử ở Viện Đô sát. Vì chưa hiểu thấu đáo tình hình, ông kịch liệt phản đối việc Tôn Thất Thuyết phế bỏ vua Dục Đức, ngay giữa triều đình, liền bị tống vào ngục Cẩm Y, rồi cách chức đuổi về làng. Nhưng một năm sau (1884), ông được cử làm Tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh. Tháng 9-1885, kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn, ra Sơn phòng Phú Gia (Hương Khê), hạ Chiếu Cần vương lần thứ hai. Phan Đình Phùng dẫn một số sĩ phu lên bái mạng. Ông được phong làm Tán lý Quân vụ Đại thần, thống lĩnh các đạo nghĩa quân Cần vương. Ông về làng quê, dựng cờ khởi nghĩa. Nhưng sau trận đánh bọn phản động trong Thiên chúa giáo ở Định Tường, quân Pháp ồ ạt tất công Đại đồn Đông Thái, nghĩa quân thua to, phải rút lên vùng núi Hương Sơn, đóng tại xã Phụng Công để củng cố lực lượng. Tại đây, năm 1886, Cao Thắng đưa đội nghĩa quân do ông chỉ huy đến gia nhập.

Cao Thắng là con Cao Quỳ, quê gốc xã Phúc Dương (Sơn Phúc bây giờ) sau dời sang ở xóm Nhà Nàng thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, nay là xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn. Ông sinh năm Giáp Tý (1863), lúc nhỏ, có được học ít nhiều, rồi đi theo làm liên lạc cho Đội Lựu (Trần Quang Cán, người Phúc Dương) trong cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874). Cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng bị dập tắt, Đội Lựu bị bắt, Cao Thắng được Giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) che chở đưa về nuôi, đến năm 1885, ông Thuật mất, mới về quê. Lúc này, cha mới mất, ông bị Quản Loan vu cho giết vợ hắn để chiếm ruộng đất nhà họ Cao. Ông bị bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh đến tháng 11-1885 mới được nghĩa quân Lê Ninh vào hạ thành, cứu thoát. Ông trở về Tuần Lễ, cùng em là Cao Nữu và bạn là Nguyễn Đình Kiểu chiêu mộ dân nghèo khởi nghĩa, rồi gia nhập quân Cần vương Phan Đình Phùng.

Ngay từ đầu, Phan Đình Phùng đã nhận ra Cao Thắng là người tài trí, phong chức Quản cơ, phụ trách việc tổ chức nghĩa quân. Năm 1887, Phan Đình Phùng trao quyền chỉ huy cho ông để ra Bắc liên kết các lực lượng chống Pháp.

Lúc này quân Cần vương ở các tỉnh Bắc Trung Kỳ mòn mỏi dần, chỉ còn những nhóm nhỏ hoạt động lẻ tẻ trong từng địa bàn hẹp. Cao Thắng bỏ Phụng Công (vùng Đức Hoà, Đức Thọ bây giờ) rút về xây dựng căn cứ ở Cồn Chùa (nay thuộc các xã Sơn Lâm, Sơn Giang, Hương Sơn) dựa vào thế rừng núi để bảo toàn và phát triển lực lượng. Ông lập một hệ thống đồn luỹ ở Cửa Vua, cồn Trại Đồn, Hố Đập, Bằng Cửa Cổng (nay thuộc xã Sơn Lễ), chốt giữ con đường Truông Mèn, bảo vệ khu trung tâm Cồn Chùa. Ngày nay, ở vùng này còn lưu lại khá rõ dấu vết bãi tập Trại Đày, Đồn Rèn khe Cáy, đồn Khe Su, đồn rú Roọc Bạch Sơn, nay thuộc xã Sơn Ninh) trên đường Truông Trảy...

Căn cứ Cồn Chùa là vùng đất hẹp, ở sâu trong núi, cách ly với dân, tạm thời có thể bảo toàn lực lượng, không có cơ mở rộng, phát triển lâu dài. Hai năm sau, 1898, Cao Thắng chuyển sang xây dựng căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, bao gồm các xã Thượng Bồng, Hạ Bồng, Lê Động, Phương Duệ, Yên Duệ, thuộc tổng Thượng Bồng, huyện Hương Sơn, và cả các thôn Lâm Thao, Hoà Duyệt thuộc tổng Hương Khê, huyện Hương Khê (nay là các xã Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Hương, Đức Liên và một phần là xã Đức Giang, huyện Vũ Quang).

Căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng nằm bên tả ngạn sông Ngàn Sâu, lưng tựa vào đại ngàn Trường Sơn, phía Bắc thông sang núi Đại Hàm, núi Thiên Nhẫn, ra Nghệ An, Thanh Hóa. Phía Nam qua bên kia sông Ngàn Trươi là rừng núi Vụ Quang mênh mông, có đường xuyên sơn vào Quảng Bình và sang Lào. Phía Đông nối liền với La Sơn (Đức Thọ), Can Lộc, Nghi Xuân, vào Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh...

Căn cứ Thượng - Hạ Bồng được xây dựng khá hoàn chỉnh với một hệ thống đồn trại, lò rèn, kho tàng liên hoàn, thuận lợi cho việc phòng thủ và là nơi xuất phát để tấn công xuống đồng bằng.

Lúc này lực lượng nghĩa quân đã khá đông đảo. Phía Bắc, có đội quân của Hiệp Cự đóng ở Hạ Bồng trấn giữ con đường từ Linh Cảm lên. Phía Đông Nam có đội quân của Trần Hữu Châu đóng ở Phương Duệ. Bên kia sông Ngàn Trươi có đội quân của Nguyễn Quýnh đóng giữ mặt Nam. Qua sông Ngàn Sâu, Động Đòi sang Trại Cốc, đến đồn Cơn Khế của anh em Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh trên dãy Trà Sơn... Hệ thống đồn trại từ Bắc chí Nam khu căn cứ đến nay vẫn còn nhiều dấu tích. Đồn Đại Long trên núi Đại Long (nay thuộc xóm Quang Thành xã Đức Lĩnh) còn dấu vết nền đồn, và hai đồn Mẫu Sĩ ở phía Nam, Khe Kẽm ở phía Đông cùng nằm trong sơn hệ Đại Hàm. Đồn Cháy (nay còn nhận ra chỗ đóng quân, bãi tập, kho lương) và Đồn Mũi Son (nay còn tên gọi Mũi Son), cách đồn Cháy 20km về phía Đông Nam, cùng Đại Long tạo thành một dãy liên hoàn thẳng từ Bắc xuống Nam, hỗ trợ cho nhau. Theo đồng bào địa phương thì ở xóm Hương Phố, xã Đức Hương có nghĩa quân cụ Phan đóng ở nhà cố Quyến, (sau cách mạng, nhà cố Trương còn giữ được một khẩu súng nạp tiền thời ấy) và ở xóm Liên Trung (Trại Trửa) xã Đức Liên xưa có tên gọi Đồn Thượng. Ở Chọ Nhợn (?) xóm Cao Phong (Đức Lĩnh) và ở Nhà Nho sau động Lành, động Màu (Đức Liên) đều còn tên gọi và dấu tích bãi tập của nghĩa quân.

Cùng với hệ thống đồn trại là những cụm lò rèn vũ khí. Cụm lò rèn ở rú Cồi (Khôi Sơn), rú Cọng (Điếm Sơn), rú Sui, khe Nhà Trận... có đến hàng trăm thợ do ông Phó Bích làm Hiệp quản, chỉ huy. Cụm lò rèn ở Mò O làng Lê Động, cách rú Cồi, rú Cọng một ngày đường nằm sâu trong rừng rậm là khu lò rèn lớn có đến 30 gian lán trại, thường xuyên có 200-300 thợ thay nhau làm việc suốt ngày đêm. Theo tài liệu của địa phương thì ở vùng núi Đồ Hố làng Hòa Duyệt (Đức Liên) bên kia sông Ngàn Sâu và ở Khe Tủ, Mũi Đồn cũng là nơi đặt các lò rèn. Những lò rèn ở đây đã cung cấp đầy đủ vũ khí cho nghĩa quân trong vùng. Với sự cộng tác của Đội Quyên (tức Lê Quyên ở Yên Hồ), Lê Phác, Cao Thắng đã chế tạo thành công kiểu súng trường 1874 của Pháp. Các cụ già ở Minh Lang (nay là Trung Lương) còn kể chuyện thầy trò cố Đương gồng gánh lò bể, búa đe lên đại ngàn tham gia nghĩa quân, chuyện ông Thiện rình hàng chục ngày ở bến Linh Cảm trộm được một khẩu súng Tây nộp cho nghĩa quân làm mẫu, chuyện cố Đĩ Thuần có công giúp ông Đề Thắng đúc súng... ở Uy Viễn (Nghi Xuân) người ta nhắc lại chuyện người thợ đúc đồng nổi tiếng Đặng Duy Truy đã dẫn năm anh em, con cháu lên căn cứ tham gia chế súng... Một bài vè lưu truyền ở Trung Lương có đoạn nhắc đến một người thợ rèn trong xã là “bác Năm Đen” tham gia đúc súng ở đồn Lục (chưa rõ đồn nào): “... Nghe ở bên đồn Lục - Lò của bác Năm Đen - Cử chộ (thấy) đập phèng phèng - Đã đúc xong chưa hả? - …Thôi ra đe, ra búa - Chú em mô đi làm hạt nổ - Sắp sẵn cái bao liều - Chú nữa mau tay mau - Gọt lanh cái bẹng (báng) súng - Mai mốt tha hồ chất đống - Súng của ông Cao Thắng chế ra - Súng bắn gần bắn xa - Cùng có công ta - Ngày đêm rèn đập...”.

Ngoài các kho lương thực đặt gần các đồn lính, đồn rèn Cao Thắng còn thiết lập các kho thóc, kho muối dự trữ ở phía Nam sông Ngàn Trươi, trong vùng rừng núi Vụ Quang, phòng khi cần đến. Người ta kể rằng: ông cho đào những hố lớn trên ngọn đồi trong rừng, chặt gỗ chất xuống đốt, làm cho lòng hố cứng như gạch nung, quét dọn sạch sẽ lát ván, đổ thóc, muối xuống, lợp mái che kín. Như vậy, thóc không bị chuột phá và để lâu không hỏng.

Lúc này (1889), dưới quyền chỉ huy của Cao Thắng, đã có tới 1.000 người, trang bị khá đầy đủ bằng gươm giáo, súng nạp tiền và súng kiểu Tây 1874, được huấn luyện khá tinh và có kỷ luật nghiêm, nhưng chỉ mới có ảnh hưởng trong ba huyện Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ mà thôi. Một số đội quân khác còn khá mạnh thì lại hoạt động trong từng địa bàn hẹp, thiếu sự phối hợp với nhau: Ngô Quảng ở Nghi Xuân; Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc; Nguyễn Huy Thuận ở Thạch Hà; Hoàng Bá Xuyên ở Cẩm Xuyên; Võ Phát ở Kỳ Anh... Ở Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị đánh tan, Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước còn cố gắng duy trì lực lượng. Ở Nghệ An, sau khi Nguyễn Xuân Ôn bị bắt, phong trào lắng xuống, các đội quân nhỏ vẫn ngấm ngầm hoạt động, chờ thời cơ. Còn ở Quảng Bình, phong trào đã hồi phục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thụ, Nguyễn Bí.

Tình hình trên đòi hỏi phải có một người đủ uy tín quy tụ nghĩa quân Cần vương về một mối, tạo cục diện mới cho cuộc kháng chiến. Cao Thắng cử người ra Bắc trình với cụ Phan và mời Cụ về. Được tin, nghĩa quân bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình đều phấn chấn, chấn chỉnh lại đội ngũ, tiếp tục hoạt động.
______________________________________
1. Thái Kim Đỉnh: Nhà nghiên cứu Lịch sử - Văn hóa, tỉnh Hà Tĩnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 10 Tháng Tám, 2008, 09:46:04 pm »


Cụ Phan về đến căn cứ Thượng Bồng tháng 9-1889. Theo tài liệu điền dã, Cụ được bố trí ở nhà ông Lê Hữu Chỉ tại xóm Công; ông Chỉ vừa là thư ký, vừa hầu hạ cơm nước cho Cụ. Hiện ở Rú Nhà còn có dấu tích “Đường hào cụ Phan”. Với danh nghĩa Tán lý Quân vụ Đại thần, Phan Đình Phùng hội các tướng trong căn cứ bàn bạc và quyết định chia lực lượng nghĩa quân bốn tỉnh làm 15 quân thứ (Thanh Hóa: 1; Nghệ An: 2; Quảng Bình: 2; Hà Tĩnh: 10).

Mỗi quân thứ, tùy theo số quân nhiều ít mà đặt một Đề đốc hoặc một Lãnh binh chỉ huy. Cao Thắng được phong chức Chưởng vệ, chỉ huy lực lượng nghĩa quân bốn tỉnh, dưới quyền lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Đại bản doanh đóng tại Thượng Bồng. Mỗi quân thứ cử về đây một đội nghĩa binh khỏe mạnh, thông thạo đường sá để khi cần, chuyển mệnh lệnh kịp thời. Tại khu trung tâm căn cứ ở rú Cồi, rú Cọng có đội chủ lực gồm 300 quân tinh nhuệ do Cao Thắng trực tiếp chỉ huy. Nghĩa quân đều được trang bị gươm giáo, súng hỏa mai, súng Tây kiểu 1874 tự chế tạo, ăn mặc quần áo màu đen hoặc nâu, thắt lưng xanh, đội nón bằng nhỏ; từ Hiệp quản trở lên thì quần áo cẩm bào đỏ. Các đội quân đều được luyện tập kỹ càng, kỷ luật nghiêm minh. Bên cạnh cụ Phan có 20 vệ binh túc trực do tướng Nguyễn Mục chỉ huy.

Về sau, Đại úy Pháp Gosselin viết: “Té ra từ trước tới nay, chúng ta không hay Phan Đình Phùng biệt sắp đặt, tập rèn quân lính theo như kỷ luật và binh pháp Châu Âu, cho quân lính mặc y phục giống hệt một thứ lính tập bản xứ của ta, lại mang súng là kiểu 1874 do ông bí mật chế tạo lấy rất nhiều, nhưng chế tạo ở chỗ nào thì không ai biết...” (“Vương quốc An Nam” (L’ Empire d’Annam), trang 313).

Có sự chỉ huy thống nhất, trong hơn hai năm từ 1889 đến 1891, phong trào Cần vương phát triển nhanh, mạnh. Mở màn, nghĩa quân tấn công các đồn địch ở Tràng Lưu (Can Lộc), Nầm (Hương Sơn), Linh Cảm (La Sơn) vào đầu 6-1890... Tiếp đó là trận phục kích diệt viện ở Trung Lễ, đánh đồn và phục kích địch ở Nam Huân (Can Lộc), bẻ gãy trận càn lớn vào Truông Vắt (Hương Khê) vào cuối năm 1890 đầu 1891. Ở Nghệ An cũng có các trận đánh địch ở Nghĩa Đàn, Cơn Chanh (Anh Sơn) ...

Nhưng lúc này khu căn cứ bị địch bao vây, o ép rất dữ. Năm 1891, nghĩa quân phải dời căn cứ lên vùng Hói Trùng, Hói Trí.

Căn cứ Hói Trùng, Hói Trí nằm về phía Nam căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, bên kia cửa Rào và sông Ngàn Trươi. Hói Trùng (Trùng Khê) , Hói Trí (Trí Khê) là hai con khe lớn trong vùng rừng núi phía Đông ngàn Vụ Quang, với hàng trăm khe suối nhỏ, đổ xuống sông Ngàn Trươi, trải trên một lưu vực từ Khê Thượng xuống Kẻ Cồ, Kẻ Vạn, Kẻ Mọn, Kẻ Quánh, nay là đất ba xã Hương Đại, Hương Minh, Hương Thứ, một đoạn vè nhật trình nhắc đến một số địa danh vùng này:

Nhân khi thong thả cắm trào (sào),
Nhật trình ta kể Cửa Rào mà lên.
Nào ai buôn bán tương liên,
Cúi đầu Phục Vọng bình yên trong lòng.
Nào ai lỡ bên chênh dòng,
Kẻ Mân, Kẻ Quánh ngàn trùng xiết bao.
Nom lên Kẻ Dụn, Kẻ Lào,
Nào ai không biết nơi nao Trí, Trùng.
Kẻ Cồ, Kẻ Nắng đã từng,
Đan Trai, Khê Thượng tới Tuần Lèn xây...

Trong khi xây dựng căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng, Cao Thắng đã chuẩn bị sẵn kho tàng, địa điểm đóng quân, nên lúc dời đại bản doanh đến thì bắt tay ngay vào việc. Ở đây cũng có một hệ thống đồn trại, bãi tập, cơ sở hậu cần... Đồn Cơn Trổ, đồn Động Cao, kho Tạm Hói... Nay vẫn còn tên gọi một số nơi: Lò Rèn, Cồn Văn thư, Vườn cụ Phan... Một đoạn hồi ký về “An toàn khu II” thời kháng chiến chống Pháp viết: “Ban Giám đốc cho tổ chức một phân xưởng vào sâu hơn nữa trong rừng, đên gần Hói Trí. Tại đây anh em còn thấy một số vết tích cũ: nền nhà, vườn chè, bãi tập..., anh em còn nhặt được tiền đồng, súng kíp hỏng, mảnh bát vỡ... của nghĩa quân xưa” (“Một thời không quên”, tập 1, tr.27).

Thời gian này, lực lượng nghĩa quân vẫn khá mạnh, nhất là ở Hà Tĩnh, đủ sức đánh địch dài ngày bảo vệ căn cứ, đồng thời đánh vào nơi sơ hở của chúng. Đầu tháng 9-1891, quân Pháp tập trung lực lượng càn lên Truông Vắt (giữa Thạch Hà và Hương Khê) suốt 15 ngày liền, không thu kết quả gì, đành phải rút. Đầu tháng 3 đến cuối tháng 4-1892, chúng lại càn lên Hương Sơn, đánh thọc vào Tràng Sim (xã Sơn Thọ bây giờ). Một mặt nghĩa quân tích cực chống càn, một mặt chặn đánh địch ở đồng bằng Thạch Hà, Can Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và tấn công đồn địch ở Voi...

Giữa tháng 8-1892, Giám binh Hà Tĩnh Lambert cùng các sĩ quan dưới quyền Haguet, Faucher, Robert, Bourgeois, Crénont, Maricini đưa khoảng 200 lính chia làm ba cánh, mở trận càn vào căn cứ Hói Trùng - Hói Trí. Từ ngày 5 đến ngày 9-8, địch đánh lên Trại Chè (Hương Bộc, Thạch Hà) để nghi binh, cầm chân đội quân Thạch thứ, đồng thời đánh vào vùng Khê Thượng (Hương Đại); đêm 12 rạng 13-8, chúng đánh vào Hói Trùng nhưng chỉ có đội quân của Robert tới được đồn tiền tiêu, bị diệt 18 tên và bị thương 15 tên, phải bỏ chạy. Khi nghĩa quân Hương Sơn, Hương Khê đang chống càn, thì ngày 23-8, lợi dụng khi địch sơ hở, đội quân Thạch thứ đánh vào tỉnh lị Hà Tĩnh, tấn công trại lính khố xanh, phá nhà tù giải thoát cho 70 người, rồi rút lui an toàn ... Lambert được tin, vội vã rút quân về.

Lúc này, lực lượng nghĩa quân ở Hà Tĩnh đã khá mạnh, đủ sức phá các trận càn lớn, dài ngày và chủ động đánh địch ở nhiều nơi, nhưng vẫn bị hãm trong rừng núi. Cuối năm 1893, Cao Thắng xin với cụ Phan cho đánh tỉnh thành Nghệ An để gây tiếng vang, khuấy động phong trào Cần vương bên Nghệ hầu như đã tắt từ 1891, mở rộng địa bàn hoạt động.

Cao Thắng chỉ huy 1.000 quân tinh nhuệ, xuất phát giữa tháng 11-1893. “... Trống đánh cờ mở - Trăm thầy nghìn tớ - Xuôi Vinh đánh Tây - Đánh năm bảy trận rày - Hữu thắng hữu bại - Nhất tâm trung ái – Hết nghĩa theo thầy” (Vè). Nhưng trong trận tấn công đồn Nu (nay ở xã Thanh Xuân, Thanh Chương), Cao Thắng bị thương nặng. Nghĩa quân đưa về đến Khê Thượng thì ông mất. Đó là ngày 11 tháng Mười âm lịch (21-11-1893). Lúc này, ông chưa đến 30 tuổi

Các tướng sĩ đều thương xót vị tướng tài ba, cụ Phan đau đớn, làm câu đối khóc ông:

- “Hữu chí phất thành, anh hùng dĩ hĩ!
Vị tiệp tiên tử, thiên ý vị hà?


(Có chí không thành, anh hùng đã khuất;
Chưa thắng đã chết, ý trời ra sao?)


- “Công cầu tất thành, kích tiếp thệ tảo thanh quốc tặc
Sự nan dự liệu, cứ yên kim dĩ thiểu tư nhân


(Công muốn lập nên, gõ mái (chèo) nặng thề trừ giặc nước
Việc khôn tính trước, lên yên (ngựa) nay thấy vắng người này).

Cụ lại sai ông Võ Phát làm bài văn tế ông.

Mộ Cao Thắng được mai táng tại động Cơn Mít, làng Khê Thượng, nhân dân thường gọi là “Mộ quan Chưởng”. Tương truyền, quan tài được làm bằng một cây gỗ lớn khoét rỗng ruột, sau khi chôn cất nghĩa quân san bằng đất để địch không phát hiện được. Hiện nay, vùng mộ này vẫn còn, ở xóm 2, thị trấn Hương Đại, bên mé đường Hồ Chí Minh.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM