THƯ TRẢ LỜI HOÀNG CAO KHẢI
Nguyên tác: Phiên âm: PHÚC KÝ HOÀNG CAO KHẢI THƯ
Đồng ấp Cử nhân Hoàng quý đài điện giám:
Đệ cận dĩ binh sự, cửu xử lâm hác, kiêm chi đông thiên hàn lãnh, tịch nhược vô liêu. Thích hữu nhân báo cố nhân thư lai, nhất văn chi hạ, bất giác hàn tịch tận phá, khắc tức triển độc. Thư nội hiển thị hoạ phúc, thuyết tận lợi hại; cực tri cố nhân phi đồ vị đệ kế an toàn, thực dục vi toàn hạt mưu ninh thiếp dã. Thiên lý tuy dao, bất xí đồng đường ngộ đối, can trường phế phủ chi ngôn, quân dĩ lãnh tất.
Nhiên dĩ đệ chi tâm sự chi cảnh ngộ tắc hữu vạn nan ngôn giả, hà dã? Hiện kim thiên hạ chi sự thế như thử, nhi đệ chi tài lực như bỉ, cổ nhân vị dĩ đường tý nhi đương vạn thặng, kim tắc hựu bất chỉ thử dã!
Nhiên đệ thoái nhi tư chi, ngã quốc thiên bách niên lai, địa bất quảng, binh bất cường, tài bất phú, sở thị dĩ lập quốc giả, quân thần phụ tử ngũ luân nhi dĩ. Hán Đường Tống Nguyên Minh luỹ dục quận huyện kỳ địa, chung bất khả đắc. Phù tha chi dữ ngã, địa tắc tương liên, lực tắc vạn bội, nhi chung bất khả dĩ vi cường giả, thử vô tha, Nam quốc sơn hà, tiệt nhiên định phận, thi thư chi trạch, thành hữu khả thị dã.
Tư giả, dương nhân dữ ngã, tương cách bất tri kỳ kỷ thiên vạn lý chi dao, việt hải nhi lai, sở chí phong mị, thiên tử bôn ba, cử quốc hoàng hoàng, viêm Tống sơn hà, thành Kim thế giới. Thiên hạ chi trầm nịch hà như, khỉ đồ nhất châu nhất gia đồ thán nhi dĩ tai.
Ất dậu niên, giá để Tĩnh phòng, thử thứ đệ đinh hữu mẫu ưu, duy tri bế môn cư tang, khỉ cảm hữu tha. Vô nại dĩ thế thần chi cố, luỹ chiếu tuyên triệu, cố bất đắc bất khởi nhi ứng chi; cận hựu trạc dĩ bất thứ, uỷ dĩ trọng quyền, quân mệnh như thử, túng sử cố nhân đương thử, kỳ năng từ nhi tỵ chi hồ?
Cận lai cơ dĩ thập niên, tòng nghĩa chư nhân, hoặc bị trách phạt, hoặc bị tru lục, nhi chung vô ly tâm, vô hối chí, xuất tài xuất lực, tòng giả thật dĩ gia đa; phù khỉ nhân tình chi lạc tai tham hoạ nhi nhiên tai? Thử cái hữu dĩ tín đệ chi tâm dã. Nhân tâm như thử, thảng sử cố nhân xử thử, kỳ năng từ nhi khí chi hồ? Cố hương hoả chi thê lương, thân thích chi ly tán, bất cảm cố dã. Thân giả do bất cảm cố, nhi huống ư sơ giả hồ? Cận giả do bất cảm bảo, nhi huống ư viễn giả hồ? Phả ngã hạt chi sở dĩ thậm ư đồ thán giả, phi đồ bình chi vi tệ dã: Pháp quan nhất lai, quần tiểu phụ chi, vô tội giả chỉ vi hữu tội, kim nhật ngôn trách, minh nhật ngôn phạt, phàm khả dĩ thủ dân tài giả, vô sở bất dụng kỳ chí, tệ đoan bách xuất, Pháp quan an đắc nhi tận tri, lư diêm kỳ năng bất chí ư phiêu tán giả hồ? Cố nhân dữ đệ giai Hoan sản dã, thiên lý chi ngoại, cố nhân do dĩ châu lý vi niệm, huống đệ mục kích nhi thân thân giả hồ?
Đãn vị cảnh sở khuất, lực bất tòng tâm, tắc diệc vô như chi hà nhĩ.
Tư cố nhân lý hữu ý cập tư dân, tất dĩ đệ chi cảnh ngộ, thiết dĩ thân xử nhi tư chi, tắc đệ chi tâm sự tự liệu nhiên hĩ, hựu hà tất phiền đệ chi chuế trần tai.
Nhất dương giai hậu, dao chúc bình an.
Phan Đình Phùng phúc thư
Dịch nghĩa: THƯ TRẢ LỜI HOÀNG CAO KHẢI1
Hoàng quý đài các hạ,
Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong trốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thật buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi đến. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu buồn rầu lạnh lẽo, tan đi hết cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư, cố nhân chỉ bảo cho điều họa phúc, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.
Song le, tâm sự và cảnh ngộ của tôi có nhiều chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thể thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói: thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ tay lên muốn cản trở cỗ xe thì cản sao nổi; việc tôi làm ngày nay sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi.
Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình ngàn năm nay, đất nước chẳng rộng, quân lính không mạnh, tiền của chẳng giàu, cái chỗ dựa để dựng nước, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường mà thôi. Xưa kia nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, bao nhiêu phen lăm le muốn chiếm lấy đất ta làm quận huyện của họ mà rút cục vẫn chiếm không được. Ôi! Họ đối với nước ta, bờ cõi liền nhau, sức mạnh hơn ta vạn bội, thế mà trước sau họ không thể ỷ mạnh mà nuốt trôi nước ta được, nào có vì lẽ gì khác đâu, chẳng qua non sông nước Nam tự trời định phận riêng rõ ràng rồi, và cái ơn giáo hoá của thi thư vốn là chỗ dựa cho mình đấy. Đến nay người Tây với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể lại đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà cũng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.
Năm Ất Dậu, xa giá thiên tử ngự đến Sơn phòng Hà Tĩnh; giữa lúc đó tôi đang còn tang mẹ, chỉ biết đóng cửa chịu tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác đâu. Song vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng xuống chiếu vời ra, không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải bất đắc dĩ đứng ra vâng chiếu. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó cho việc lớn, uỷ thác cho quyền to; ấy mang ơn vua uỷ thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không?
Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn bỏ của bỏ sức ra giúp đỡ tôi, mà số người mạnh bạo ra theo tôi lại càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm mộ vậy đó thôi. Nay lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không?
Chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu giạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ; người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến nỗi điêu đứng lầm than quá không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới, có lũ tiểu nhân mình hùa theo bầy kế lập công, những người không có tội gì, chúng cũng buộc cho có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia, phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng hết không từ. Bởi thế mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quân Pháp làm sao biết thấu? Như thế mà bảo làng xóm không phải tan lìa trôi giạt đi thì có thể được ư?
Cố nhân với tôi đều là người sinh tại châu Hoan, mà cố nhân ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi, thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, chứ cần gì đến tôi phải nói dông dài nhiều nữa.
Tiết đẹp nhất dương
2, bình yên xa chúc.
Phan Đình Phùng kính đáp
Chu Thiên dịch
Chú thích: 1. Tháng 5-1884, Hoàng Cao Khải vâng lệnh toàn quyền Lanessan viết thư cho người đem đến tận nơi đưa cho Phan Đình Phùng dụ ra hàng. Đây là thư Phan Đình Phùng trả lời bức thư ấy.
2. Nhất dương: Tháng 11 âm lịch.