Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:12:05 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ngày tàn Ngụy chúa  (Đọc 53180 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #70 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:22:54 pm »

Chương 21
CHỜ XÉT XỬ

Đúng 7 giờ sáng ngày hôm sau, D. Marnin xuất hiện trước khu cư xá và mang theo những bức điện chuyển hồi đêm trước như thường lệ. Ông Corning cũng chỉ đang leo lên trên bờ sau khi đã bơi vài vòng quanh hồ. Đầu tiên ông ta quấn chiếc khăn tắm lên người rồi rút tẩu thuốc ra cho thuốc lá vào, châm lửa rồi rít một hơi thật dài. Bữa sáng do lão Lý đầu bếp làm được dọn lên trên chiếc bàn bằng thép không gỉ có mặt bằng kính. Ông Đại sứ bỏ quên chiếc bút mực nên đã sai thằng nhỏ giúp việc chạy vào nhà lấy. Sau đó, ông ấy đọc hết toàn bộ các bức điện được gửi đến. Sau khi đọc xong, ông ta mới quay lại xem nốt số điện được gửi đi và ghi những chỗ cần phải sửa lên trên lề. Khi ông ta vừa đọc xong, D. Marnin liền xếp tất cả các bức công điện đó vào trong từng kẹp hồ sơ riêng và bắt đầu ra về. Ông Corning gọi anh lại và bảo:

- David, có việc này tôi phải nói với cậu.

- Vâng, thưa ngài.

- Tôi nghĩ là cậu biết nó là cái gì rồi. Nó liên quan đến bản báo cáo của Mecklin về đám phóng viên người Mỹ ở Sài Gòn mà cậu đã kể với tôi sáng hôm thứ 7 vừa rồi. Chắc là cậu cũng biết là đang có một cuộc kiểm tra an ninh ở đây. Bất cứ ai phạm phải tội này cũng sẽ được tìm ra và bị trừng phạt đích đáng.

- Vâng, thưa ngài.

- Giờ đây tôi không nghĩ cậu là thủ phạm. Chúng tôi vẫn coi cậu như con trong gia đình. Pattie Lou vẫn luôn tự hào về cậu và tôi cũng thế.
Ông nheo nheo đôi mắt nhìn anh qua chiếc kính lão.

- Hơn thế nữa, trong suối hơn năm tháng vừa rồi, cậu đã cố gắng rất nhiều để chứng tỏ cho tôi thấy cậu là một thanh niên tốt cả về năng lực lẫn tính chính trực. Nó sẽ khiến cho tôi bị tổn thương gấp nhiều lần những gì cậu có thể tưởng tượng ra nếu như sự chính trực bị tổn thương. Chưa có một phút nào tôi lại nghĩ là chính cậu đã đưa báo cáo tuyệt mật ấy cho Mandelbrot hay đưa cho bất cứ một ai.

- Tôi không bao giờ làm như thế cả - D. Marnin nói - Không bao giờ.

- Và cậu cũng đã rất thông minh khi thường xuyên thông báo cho tôi những mối quan tâm của cậu chống lại Mandelbrot cũng như tay Mudd nữa. Tôi thậm chí còn khuyến khích cậu duy trì những mối quan hệ ấy. Tôi biết điều đó hơn ai hết. Thế nhưng câu hỏi mà chúng ta phải trả lời là từ đây, chúng ta phải đi đâu đây?

- Đi ư ?

- Như cậu thấy đấy, Bilder và tôi đã hội ý vói bên RSO về vấn đề này tối hôm qua. Franco đã tập hợp được khá nhiều tư liệu chống lại cậu. Nó tường tận đến từng chi tiết và không thể được chứng minh trước tòa trừ khi cậu, Mandelbrot hoặc Mudd phải thú nhận về nó. Thế nhưng nó cũng mới chỉ là những suy diễn hợp lý và cần phải được điều tra.

- Trường hợp nào cơ ạ? Không có trường hợp nào hết. Tôi không làm điều gì sai hết.

- Tôi tin là như thế. Và tôi cũng tin là cậu sẽ được chứng mình là cậu hoàn toàn vô tội. Thế nhưng tôi cũng không thể cho dừng công việc điều tra mà Franco đang tiến hành. Và không may mắn là tay Mudd đang đi săn ở mãi tận Alaska nên không thể gặp được hắn trong 3 tuần tới và cũng chẳng có chỗ nào để hắn ta có thể giải quyết vụ báo cáo tuyệt mật này trong vòng ít nhất một tháng nữa. Mọi thứ sẽ được đình lại cho đến lúc ấy. Trong lúc đó, lại không may nữa là thằng cha Franco tin rằng đây là một vụ trọng án có bằng chứng cụ thể, còn Bilder cũng cho là ít nhất cũng cần phải có các nỗ lực điều tra tương xứng.

- Bằng chứng nào cơ?

- Franco cáo buộc là bên ngoài cậu có động cơ và một cơ hội hoàn hảo và rằng có thể cậu bị lôi kéo vào vụ việc này một cách không có chủ ý.

- Tôi không hiểu.

- Giả thiết của Franco là - và cậu nhất định không được tiết lộ với ai là tôi kể cho cậu nghe đâu nhé - tất cả là cậu đã đưa cho Mudd bản báo cáo đó. Chúng tôi đều biết là cậu rất ngưỡng mộ Mudd vì lòng dũng cảm và vì cuộc đời binh nghiệp của anh ta. Chính cậu cũng đã nói với tôi như vậy. Và vì cậu và Mudd không đồng tình vói những phẩm chất của cánh nhà báo ở Sài Gòn cho nên cậu quyết định - theo giả thiết của Franco - chuyển bản báo cáo của Mecklin cho Mudd, nhằm cố gắng thuyết phục anh ta rằng cậu đã đúng. Bây giờ lại nảy sinh một vấn đề khác còn tồi tệ chẳng kém gì việc chuyển cho Mandelbrot bản báo cáo ấy bởi vì Mudd là một sỹ quan cao cấp, một ngưòi có những hiểu biết cần thiết về công tác bảo mật vì thế anh ta sẽ phải biết là ai có quyền hợp pháp đọc những tài liệu như vậy.

- Tôi vẫn không hiểu.

- Nghe ta đi con trai! Sai lầm là ở chỗ cậu đã không tính đến tình huống thế này - vẫn là theo cách nghĩ của Franco thôi nhé - bởi vì cậu không biết tý gì về nó, về cái việc là Mudd có mối quan hệ hết sức mật thiết với Mandelbrot. Chúng tôi biết là, không cần đắn đo và cũng chẳng còn nghi ngờ gì nữa bởi vì anh chàng Mudd đã có ít nhất 5 lần tiết lộ các thông tin phải nói là tuyệt mật cho Mandelbrot. Không may là, bằng chứng - và tôi cũng không thể tìm ra được bằng chứng - mà đã không có bằng chứng thì không thể được chấp nhận trước tòa. Mà thậm chí nó còn không được ghi vào hồ sơ của Mandelbrot nữa. Franco giả định rằng, giống như mọi lần, anh chàng Mudd lại đưa bản báo cáo đó cho Mandelbrot mà không báo cho cậu biết, và chính cậu lại bị biến thành nạn nhân của tình huống mà cậu không hề lường tới. Như vậy thì nghe có vẻ hợp lý đấy.

- Thế thì tài thật - D. Marnin nói - chỉ có một điều không thể đúng đó không phải là sự thật. Tôi chưa hề đưa cho bất cứ ai một cái gì.

- Tôi tin cậu, con trai. Vậy thì cậu cũng phải tin tôi đi chứ. Dù sao, chúng tôi cũng phải quyết định cho cậu làm gì vào đợt nghỉ này.

- Ông muốn tôi làm gì đây?

- Trong khi mọi công việc điều tra đang được tiến hành, và chúng tôi đang tính là khoảng 4 tuần, hay 6 tuần không làm việc tại đây. Tôi muốn gửi cậu lên Huế trên danh nghĩa là tạm thời thay thế Steve Brando, Phó Lãnh sự của chúng ta ở đó. Anh này vừa phải đưa về nước do bị bệnh viêm gan và chắc chắn là sẽ không thể quay trở lại Việt Nam trong vòng 6 tuần nữa. Nó cũng sẽ rất tốt với cậu. Cậu sẽ học hỏi được nhiều về Việt Nam và văn hóa Việt Nam những điều mà cậu sẽ không bao giờ học được ở Sài Gòn. Nhưng cậu cũng phải hiểu rằng trong khi tất cả những cáo buộc về cậu đang được điều tra, chúng tôi không muốn cậu được phép có mặt ở Đại sứ quán bởi vì đây là địa điểm nhậy cảm nhất.

- Tôi có sự lựa chọn nào khác không?

- Có, sự lựa chọn của cậu vào lúc này là chấp nhận thuyên chuyển công tác. Nếu cậu muốn làm như thế, tôi cũng sẽ cố gắng hết sức để nó sẽ không tạo ra bất cứ thành kiến nào cho sự nghiệp của cậu về sau này. Cậu có thể tin vào điều đó.

- Tôi chỉ không muốn rời khỏi Sài Gòn thôi - D. Marnin nói vơi tâm trạng buồn thật sự.

Thực ra đến nước này, anh cũng chỉ muốn đi luôn khỏi đây cho rồi, nhưng còn một điều nữa đang níu kéo anh phải ở lại đó chính là anh không muốn phải chia tay với Lily. Đành thôi vậy, anh sẽ chẳng còn giải pháp nào tốt đẹp cho cả hai đâu nên tạm thời thuyên chuyển đến thành phố Huế cũng được rồi. Suy cho cùng thì anh cũng chưa từng đến Huế lần nào, đó là thủ đô văn hóa của Việt Nam - cố đô của các Vương triều nhà Nguyễn của Việt Nam.Nhưng nó cũng chỉ mang tính an ủi mà thôi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #71 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:23:52 pm »

*
*   *

Tối hôm đó, khi cả hai đang ăn tối, D. Marnin đã kể lại cho Lily toàn bộ sự việc không may mắn xảy đến với mình. Cô lắng nghe anh một cách rất chăm chú.

- Em không hiểu - cô nói, khi anh vừa kịp dừng lại ở đoạn cuối cùng - Rõ ràng là anh không muốn chúng mình phải xa cách nhau. Em cũng không muốn như thế. Thế nhưng anh lo lắng về cái gì mới được chứ?

- Anh lo lắng về sự nghiệp của mình, về cuộc đời của mình về việc anh sẽ phải làm gì nếu như anh phải từ chức và rời khỏi Đại sứ quán này.

- Nhưng tại sao chứ?

- Bởi vì sự chính trực của anh đã được đưa vào diện nghi vấn, mà đấy lại chính là điều quan trọng nhất mà một nhà ngoại giao phải có được.

- Nhưng mà sự chính trực là cái gì đấy mà anh có được nhờ cả quá trình anh được dạy bảo hoặc là anh chẳng bao giờ có được nó. Cho dù những người khác có nghĩ là anh có nó hay không, hay bất cứ cái gì mà họ nghĩ về anh đi nữa, thì điều đó cũng chẳng thể là một vấn đề phức tạp đối với anh. Đó mới chính là ý nghĩ thật sự của lòng chính trực chứ.

- Những thứ ấy chỉ là để nói thế thôi. Nhưng trong sự nghiệp của mình, anh sẽ không thể nào tiến lên phía trước được với những lời dị nghị về thanh danh của mình. Nếu mà đến nước ấy, anh sẽ chẳng thể nào nhận được một cương vị cho ra hồn. Và nếu như anh không được giao việc, anh sẽ không bao giờ nhận được sự đề bạt. Và trong cái nghề ngoại giao này, tất cả những thứ như công việc anh được phân công và hơn nữa là cái cách mọi người nghĩ về mình đều phụ thuộc vào sự đề bạt đấy.

- Nếu mà anh bắt đầu nghĩ về những thứ như thế - cô trả lời - anh sẽ trở thành một thư ký bình thường thôi. Đó chính là cái cách mà những tay Trung úy mới ra trường cảm thấy hấp dẫn đấy. Các ông Tướng luôn có nhiều thứ khác quan trọng hơn để chiếm đoạt chúng. Chồng em thường bảo rằng những thằng Trung úy giỏi sẽ chỉ trở thành được những những ông Tướng mạt hạng. Những thằng Trung úy giỏi nhất theo cách nói của anh ấy luôn là những thằng ngu si và luôn tràn đầy nghị lực còn những ông Tướng tài năng nhất sẽ luôn là những người rất thông minh nhưng cực kỳ lười nhác. Cái công việc mà anh vừa mô tả chỉ là công việc của đám thư ký bình thường thôi. Nếu em là anh thì em sẽ quên phéng nó đi cho rồi.

- Được thế thì tốt. Nhưng anh sẽ không thể làm được gì trong cái chế độ quan liêu này mà không để tâm đến những gì đang diễn ra một cách thầm kín ở trong nó.

- Anh sẽ chưa bước sang tuổi 29 trong vòng vài tháng nữa. Sẽ còn nhiều thứ quan trọng hơn mà anh phải làm ở cái độ tuổi này mà những thứ đo sẽ tác động rất lớn đến tương lai của anh. Thế nhưng tất cả những quyết định ấy lại rất dễ thực hiện và rất đơn giản chẳng hạn như anh leo lên giường vói người con gái mà anh yêu rồi sau đó hai người sẽ có vói nhau nhũng đứa con. Những thứ đó chẳng liên quan gì đến sự nghiệp của anh hết. Sẽ chẳng có gì mà anh có thể làm được ở cái tuổi 28 để khiến cho tất cả mọi ngưòi trên thế giới này, ngoại trừ những người có quan hệ huyết thống vói anh sẽ nhớ đến anh khi anh 50 tuổi. Thậm chí là người ta có viết về anh tồi tệ thế nào đi nữa vào những tập hồ sơ mang tên anh thì tới khi ấy nó cũng chẳng còn nghĩa lý gì hết. Làm gì còn ai nhớ nổi là mười năm về trước ngưòi ta đã nói về ai đó cái gì đâu chứ. Chỉ mười năm nữa thôi ông Corning của anh, ngài Bilder của anh và cả thằng cha Franco ấy nữa sẽ chỉ còn là những bóng ma, tới lúc đó đến khuôn mặt của họ anh cũng chẳng còn nhớ nổi ấy nữa là...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #72 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:25:40 pm »

*
*   *

Ba ngày sau, D. Marnin bay đến Huế trên chuyến bay của hãng hàng không AVN của Việt Nam để làm việc cho Tổng lãnh sự. Sếp mới của anh chính là Freddie Loftus, hiện đang làm lãnh sự tại đây. Anh ta là một người khá thông minh, hơi lập dị với giọng nói the thé và lúc nào cũng như ở trong tình trạng mất hết kiên nhẫn. Tính tình cắn cảu của người đàn ông này luôn trái ngược hẳn với sếp trước của D. Marnin là ông Corning lịch lãm. Ông ấy luôn hòa đồng, sẵn sàng nói chuyện với tất cả mọi người trong đó có cả những nhân viên quèn bằng một giọng nói nhẹ nhàng lịch lãm của người dân miền Nam nước Mỹ.

Khi phải miễn cưỡng đi sâu vào tìm hiểu cái “thế giới” Việt Nam đầy bí ẩn, Loftus đã nói cho anh biết rằng, khoảng hai tháng trước khi D. Marnin đặt chân đến đây, anh ta đã phải hết sức vất vả mới lập lại được trật tự ở cái nơi bẩn thỉu còn rớt lại sau khi người tiền nhiệm của D. Marnin là anh chàng Paul Marks có số phận hẩm hiu kia bị phát hiện là một người đồng tính và đang cố gắng dụ dỗ một chú bé mười tuổi chuyên bán thuốc lá dong người Việt. Vì có công trong việc khám phá ra vụ trọng án này, thằng cha Franco đã được tặng thưởng Huân chương danh dự MHA của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Như thế là chẳng còn nghi ngờ gì nữa rằng hắn ta đang hy vọng sẽ kiếm được một cái huân chương thứ hai trong vụ của Marnin.

Franco có thể có những đức tính tốt, nhưng sự suy xét chín chắn lại không nằm trong số đó. Nhờ có những lần la cà, say sưa túy lúy ở quầy rượu trong khách sạn Rex, anh ta mới vô tình nắm được những chuyện xảy ra ở lãnh sự quán Mỹ tại Huế. Lần đó, anh ta phát hiện và đem nộp cho Đại sứ quán một bức ảnh gọi là “nữ hoàng phương Bắc” trong đó có hình anh chàng Marks đang cầm một cái bàn chải tóc và một chú bé tội nghiệp người Việt đang trần truồng đứng trước anh ta. Sự cố kinh tởm này cũng đã khiến cho các viên chức người Việt đang làm việc trong lãnh sự quán cảm thấy nhục nhã và xấu hổ. Đối với họ, thì việc một anh chàng Marks luôn ăn nói nhỏ nhẹ và khá rụt rè đã đối xử với những đứa trẻ người Việt như vậy không chỉ làm ô nhục cho thanh danh của chính anh ta mà nó còn gây cho tất cả những người Việt làm việc tại đây bị bẽ mặt. Cho tới khi D. Marnin đến đây, một nỗi buồn hiển hiện vẫn còn tràn ngập khắp mọi góc gách của tòa nhà văn phòng Tổng lãnh sự quán.

Đề nghị trục xuất và cho nghỉ hưu sớm anh chàng Marks được Phó trưởng đại diện (DPO), Steve Brandon, một nhân viên ngoại giao mới vào nghề vừa tốt nghiệp Đại học Yale đem đi nộp lên trên. Trời xui đất khiến thế nào mà đúng lúc Marks phải chịu thi hành kỷ luật thì cũng là lúc Freddie Loftus, một người rất giỏi tiếng Pháp bỗng nhiên rơi vào danh sách được bổ nhiệm tới Hồng Kông. Việc giữ chức Trưởng đại diện ở một nơi có nhiều tiềm năng như ở Huế cũng đã đạt đến những tiêu chuẩn nhất định trong các quyết định bổ nhiệm của Bộ Ngoại giao rồi - thế nhưng trên thực tế, việc được tái bổ nhiệm như trường hợp của F. Loftus đối với một nhân viên ngoại giao cũng có thể coi là một cơ hội lớn hơn gấp nhiều lần. Vậy nhưng đúng lúc Freddie chưa kịp tiếp nhận cương vị mới thì anh chàng Brandon mắc phải bệnh viên gan và phải đưa về nước trong một chuyến chuyên cơ đặc biệt.

Đến lúc này, trong Tổng lãnh sự quán chỉ còn lại mỗi mình Freddie nên anh ta cũng không còn lựa chọn nào khác là đành chấp nhận cống hiến cuộc đời mình cho các sự vụ của lãnh sự. Theo quy định của Chính phủ Hoa Kỳ, các lãnh sự phải làm việc công ích tới 40 giờ mỗi tuần. (Theo cách lý giải của Freddie thì yêu cầu phải ở lại trong Lãnh sự quán cho đủ số thời gian quy định từ lâu nay đã trở thành trò cười cho giới ngoại giao ở Sài Gòn bởi vì ở đó ai cũng biết là thời gian ở trong phòng làm việc của Tổng lãnh sự quán Pháp chỉ có từ 11 giờ đến 1 giờ chiều trong các ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu; còn Tổng lãnh sự quán Thái Lan chỉ có buổi chiều ngày thứ năm hàng tuần)

Trong khi đó, Freddie cũng quyết định rằng tất cả các công việc liên quan đến kinh tế và chính trị ở khu vực lãnh thổ phía Bắc Việt Nam Cộng hòa phải đợi đến khi Brandon ra viện hoặc là đợi cho đến khi có người khác đến thay thế. Trong hàng loạt các công văn gởi cho Đại sứ quán, anh ta luôn cáu kỉnh cầu khẩn điều người tới tạm quyền. Thế nhưng cũng chẳng có ai để thế chỗ vào đấy cho đến khi tai họa vớ vẩn đổ sập xuống đầu Marnin. Trong lúc tạm thời, một mặt vừa quá nóng giận, mặt khác lại không được cấp trên hỗ trợ kịp thời và điều cơ bản là do Freddie theo cách nói văn hoa của cánh ngoại giao là một người lười nhất trong tất cả những nhân viên lười có cỡ, anh ta đã gần như không viết một báo cáo nào về tình hình chính trị cũng như kinh tế phải quan tâm. Dĩ nhiên là hành động này của anh ta cũng đã được để ý đến. Phòng chính trị trong các cơ quan ngoại giao luôn là cơ quan hoạt động mang tính hàn lâm nhất - là một nơi vừa để cho mọi người biết đến nhưng có thể là nơi làm tàn lụi cả một sự nghiệp. Các quan chức phụ trách mảng chính trị luôn phải cô gắng tự làm cho mình trở nên xuất chúng hơn những đồng nghiệp khác thông qua số lượng các báo cáo mà họ viết cũng như chất lượng của nó hoặc đôi khi là cả hai nhân tố trên. Để trở thành một cố vấn chính trị cấp cao như ngài Sam Sabo thì tất cả các báo cáo chính trị phải đạt mức tuyệt đối hoàn hảo.

Thực ra trước khi phát giác ra tội lỗi của Paul Mark, ông Sam đã rất muốn nâng cao chất lượng của các báo cáo do Tổng lãnh sự quán gửi tới. Chính vì thế, ông đã rất lạc quan trước quyết định bổ nhiệm này của Marnin. “Quá nhiều công việc văn phòng sẽ làm hỏng sự nghiệp của một nhà ngoại giao trẻ”, đó chính là câu cách ngôn mà ông ấy đã luôn trích dẫn cho D. Marnin trong những lúc vui vẻ. Và vào những lúc đen tối nhất vừa qua, không giống như phần lớn các quan chức cao cấp khác trong Đại sứ quán, ông ấy vẫn luôn đối xử rất tốt với anh - một người duy nhất ngoài Helen Eng và ông Corning trong cơ quan đã dám bất chấp tất cả sự dị nghị và rất tốt bụng khi động viên anh cố gắng. Những người còn lại và tất cả các thành viên khác trong nhóm phối hợp chung đều đối xử với anh như thể là anh đã thật sự là một thằng phản bội. (Tổng thống Harry Truman đã từng nói một câu rất nổi tiếng là: “Nếu như anh cần có một người bạn trung thành trong khi anh còn ở trong biên chế của Chính phủ thì hãy kiếm cho mình một con chó). Vậy nhưng, chính ông Sabo đã mời anh đi uống rượu trên danh nghĩa là thảo luận về những điều cần thiết cho các báo cáo về tình hình chính trị tại Tổng lãnh sự quán cấp khu vực, nhưng thực tế là ông đã cố gắng động viên anh không nên mất hết can đảm.

- Đừng lo nghĩ nhiều quá anh bạn ạ. - ông Sabo nói, sau khi họ ngồi xuống bên chiếc bàn được kê ở ngoài hành lang ngôi nhà của ông ấy và bắt đầu uống nước khoáng có gas và rượu nhẹ - hãy tiến thẳng về phía trước, D. Marnin ạ. Hãy làm việc cật lực vào rồi cậu sẽ thấy mọi thứ khác sẽ phải kết thúc. Trong giai đoạn tới đây, sẽ chẳng còn ai nhớ là cậu đã làm gì ở cương vị trước đó. Cậu vẫn còn có niềm tin của ông Đại sứ mà điều đó rất có ý nghĩa đấy và cậu lúc nào cũng có tôi nữa. Chính vì thế hãy coi đây như là một kỳ nghỉ đáng được đợi chờ đi. Cậu là một nhân viên ngoại giao chuyên trách về mảng chính trị và việc bổ nhiệm cậu đến Huế sẽ tạo cho cậu một cơ hội để bắt đầu với việc học lại cái nghề thật của mình.

- Vậy có điều gì đặc biệt mà ông muốn biết từ Huế mà cho đến nay ông vẫn chưa có - một cái gì đó mà chưa được nhắc tới trong các báo cáo của Tổng lãnh sự quán ở đấy ấy?

- Câu trả lời cho nó là - ông Sabo nói - chẳng có gì hết, trong suốt ba tháng qua Tổng lãnh sự quán ở đó không báo cáo về bất cứ cái gì hết, tất cả đều im lặng như tờ. Marks vốn không phải là một người báo tin có trình độ. Ngay cả khi anh ta không có cái sở thích kỳ quái ấy thi chúng tôi cũng đã muốn thay anh ta từ lâu rồi. Nhưng những báo cáo duy nhất mà chúng tôi nhận được của Loftus cũng chỉ là than phiền rằng anh ta không được hỗ trợ thích đángế Nếu như anh ta cho chúng tôi biết những gì đang diễn ra ở địa phương đó một cách cụ thể hơn thay vì cứ kêu gào là anh ta đang phải làm việc quá sức thì chúng tôi đã có thể cải thiện công việc ở đó nhiều hơn mà đặc biệt là cho bản thân anh ta nữa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #73 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:26:44 pm »

*
*   *

Loftus, một chuyên gia về khu vực Châu Á với khả năng đặc biệt là rất giỏi cả tiếng Trung và tiếng Nhật, có một thân hình to béo và làn da rất trắng lại càng nổi bật hơn với mái tóc đen xoăn tự nhiên. Do luôn sợ bị mắc bệnh chàm bội nhiễm kinh niên (bệnh eczema) nên anh ta không bao giờ dám phơi da ra ngoài ánh nắng mặt trời vùng nhiệt đới. Anh ta nhìn như thể là nếu có ai đó dùng đầu ngón tay búng nhẹ vào da thịt của anh ta nó sẽ để lại một vết mẻ không thể hàn lại được. Anh ta rất sành về nghệ thuật thời nhà Minh của Trung Quốc và nhà Muromachi của Nhật Bản. Anh ta có bốn bức tranh cổ của họa sĩ Shang Xi, hai bức của họa sĩ Shen Zhou và hai bức khác của họa sĩ Sesshu Toyo. Ngày nay mỗi bức tranh này có thể đem về cho anh ta khoảng hơn 500.000 đô-la nếu bán ở thị trường Tokyo. Chỉ bằng một vài nỗ lực nho nhỏ khi tới Huế, anh ta đã kiếm được vài chục cái đầu tượng của người Chàm rất đẹp - một trong những mục tiêu đắt giá của những tay săn lùng đồ cổ người địa phương.

D. Marnin được chuyển tới ở tại căn hộ của Brandon ở trên đường Lê Lợi, cách cầu Tràng Tiền không xa lắm và cũng ngay gần đài phát thanh ở phía bên này bờ sông, còn phía bên kia là trụ sở của Bộ Tư lệnh MACV ở trên đường Hùng Vương. Là một nhân viên ngoại giao cấp thấp chưa có gia đình nhưng được ở trong căn hộ này đúng là luôn nằm ngoài sức tưởng tượng. Đó là một căn hộ có ba buồng ngủ, có chỗ ở cho người phục vụ, một phòng khách rất đẹp, một phòng ăn riêng biệt, hai hành lang trước và sau đều nhìn ra những khung cảnh rất nên thơ bên bờ sông Hương thơ mộng. Vào buổi tối, ngồi trên hành lang và nhâm nhi ly rượu Gin với nước khoáng, D. Marnin có thể vừa hút thuốc lá vừa ngắm nhìn những con thuyền tam bản có “đuôi dài” do những người phụ nữ duyên dáng đứng khua mái chèo đẩy con thuyền nhẹ nhàng lướt đi trên mặt sông. Nhiều lần anh còn được nghe giọng hát thánh thót của họ với những bài ca ai oán về những người anh hùng thủa xưa hay về một ai đó đã anh dũng đứng lên chống lại cuộc xâm lăng của người Trung Quốc và người Pháp.

Do căn nhà này thuộc về Lãnh sự quán nên D. Marnin không phải trả thêm một đồng tiền thuê, tiền mượn các đồ dùng trong nhà ngoại trừ tiền hỗ trợ nhà ở thôi. Do Brandon vắng mặt nên anh nhận luôn người đầu bếp, người giúp việc, người làm vườn và cả người lái xe - tất cả lương bổng cho những người này được trả chọn gói với khoảng gần 50 đô-la một tháng. Không giống như ở Sài Gòn, hầu hết những người nước ngoài ở Huế đều không cạnh tranh với nhau và không đẩy giá thuê người giúp việc lên. Trên thực tế ở đây anh còn không phải mất cả tiền ăn.

Theo tất cả những gì mà anh đã được đọc, được nghe và được biết qua những câu chuyện của Lily khi cô còn học ở trường Nữ sinh Đồng Khánh, bản chất thành phố Huế là luôn sống theo sự khát khao, sự mong chờ. Không có ngành công nghiệp, lại bị bao bọc bởi núi đá cho nên lương thực, thực phẩm được làm ra ở đây cũng chỉ đủ để cung cấp cho các cư dân trong vùng. Thế nhưng với hệ thống giáo dục bậc cao được hoàn thiện, nó đã trở thành trung tâm văn hóa cho cả nước. Là kinh đô của Vương triều nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, Huế đã thực sự trở thành một trung tâm trí thức của cả đất nước, nơi mà rất nhiều các nhà lãnh đạo đất nước trong quá khứ cũng như trong tương lai đã theo học - trong đó có cả ông Ngô Đình Diệm và ông Hồ Chí Minh.

Huế là một thành phố của các nhà học giả, các quan lại, các thành quách, các lăng tẩm, các cung điện, các đền chùa. Những bóng ma của các vị vua trong quá khứ vẫn cứ lẩn quất ở đâu đó trên mảnh đất này. Ngay như vua Tự Đức, một vị vua nổi tiếng nhất trong Vương triều nhà Nguyễn cũng đã cho xây một lãng cho mình trên khu đất rộng tới 30 héc-ta cùng với 50 đài kỷ niệm tôn vinh ông ta trong tương lai. Trong cái thủy đình bằng gỗ sơn mài của mình, Tự Đức đã ngồi làm thơ, uống trà ướp hương sen pha bằng những giọt sương đêm, ăn những bữa ăn có tới 40 món các loại, ngắm nhìn cả một đoàn ca kỹ riêng của ông ta nhảy múa và “tập thể thao” với cả 104 vị cung tần mỹ nữ của ông ta mà không ai trong số họ có thể sinh cho ông ta một người kế vị.

*
*   *

Nhờ có D. Marnin cặm cụi viết hết toàn bộ các bản ghi nhớ của tất cả các cuộc tiếp xúc, cuối cùng Loftus cũng thấy hài lòng với những gì mà Đại sứ quán đã hỗ trợ anh ta và anh ta lại có thể hoàn thành được công việc mà vẫn tiếp tục giữ được danh hiệu người đàn ông lười nhác nhất thành phố. Trên danh nghĩa là giới thiệu người Phó lãnh sự mới của mình, anh ta đã sắp xếp để hai người có thể gặp mặt những nhân vật quan trọng nhất ở đây. Đứng đầu danh sách này là hai nhà lãnh đạo chính trị quan trọng nhất ở khu vực này - Ngô Đình Cẩn, “lãnh chúa” người kiểm soát toàn bộ khu vực phía Bắc của Nam Việt Nam và Ngô Đình Thục, Tổng giám mục - cả hai người này đều là anh em ruột với Ngô Đình Diệm.

Thế nhưng ngay khi đó họ đều không thể gặp được cả hai anh em nhà Ngô Đình. Trên thực tế, Freddie cũng được ông Bửu, Trưởng ban quản lý các nhân viên người Việt làm việc trong Lãnh sự quán cho biết là ông Cẩn có thể không gặp được họ. Ông Bửu vốn là một người rất mộ đạo nên sau đó đã sung sướng thông báo rằng ngài Tổng giám mục rất vui mừng muốn gặp hai người và sẽ bố trí thời gian cho cuộc gặp này ngay sau khi ông ta kết thúc chuyến viếng thăm tới nhà thờ Đức mẹ ở La Vang gần thành phố Quảng Trị nơi ông ta đã tới để chuyển lời cám ơn vì đã tổ chức lễ tấn phong lần thứ 25 cho ông ta trên cương vị là Giám mục tỉnh Vĩnh Long.

Vì vậy, Freddie và D. Marnin bắt đầu thăm viếng một vòng hết lượt các nhân vật chủ chốt trong khu lãnh sự này. Thành phố Huế là một nơi khá bình yên và dường như không hề bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh trên đất nước này. Người dân nơi đây cũng ít cởi mở, thoải mái và dễ dàng kêu ca phàn nàn về Chính phủ hơn những người mà D. Marnin quen biết ở Sài Gòn. Ở đó, người ta sẽ không thể tìm được lấy một phòng thay quần áo ở Sân thể thao Cercle Sportif hay không thể tìm được một chỗ ngồi uống ly cà phê ở khách sạn Continental mà không bị biến thành mục tiêu để những người Việt quen thân kể lể về sự xúc phạm của Ngô Đình Nhu và vợ ông ta.

Dường như không có gì yên ả hơn hay nằm yên lặng trong tầm kiểm soát chặt trê như tình hình chính trị ở thành phố Huế. Họ đã không thể tìm được một quan chức chính quyền nào tỏ ra có một chút lo ngại dù là mỏng manh nhất, rằng cái kết cấu xã hội của cái thành phố êm đềm và ôn hòa này có thể sẽ đột nhiên bùng nổ và vỡ tan ra làm nhiều mảnh. Chính vì thế Tổng lãnh sự quán Mỹ cũng hoàn toàn sửng sốt giống như các quan chức cao cấp của Việt Nam khi mà chỉ vài ngày sau đó, cả thành phố bị vỡ ra từng mảnh và hòa vào cái tiến trình thay đổi lịch sử không chỉ của khu vực Đông Nam Á mà còn thay đổi cả lịch sử của nước Mỹ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #74 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:30:52 pm »

Chương 22
VỤ THẢM SÁT TRONG LỄ PHẬT ĐẢN


Điều bất an duy nhất trong tình hình chính trị mơ mơ màng màng mà Trưởng lãnh sự Mỹ và cấp phó của anh ta nhận được tại Huế lại xuất phát từ Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Ngay ở ngoài cổng chùa Từ Đàm, trụ sở chính của tổ chức này, hai vị khách người Mỹ đã được một nhà sư trẻ khoảng 18 tuổi, mặc bộ quần áo tu hành màu vàng nghệ quen thuộc đón tiếp vói một thái độ lanh lùng khó hiểu. Khi cả hai cùng di theo lên mấy bậc thang và đang cố giữ nhịp thở cho thật đều thì nhà sư trẻ quay lại và cúi đầu rất thấp nói vói họ bằng một giọng tiếng Pháp rất chuẩn là Hòa thượng Thích Tịnh Kiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam đang đợi họ. Sau đó anh ta đưa cả hai người tới một gian phòng nhỏ ở dưới tầng trệt rồi đi ngay qua cánh cửa bên phải ra ngoài.

Hòa thượng Khiết là một vị sư già khoảng gần 80 tuổi với dáng người gầy gò yếu đuối. Ông có cách nói rất ngắn gọn và nhẹ nhàng như thể gồm toàn những tiếng thì thầm khàn khàn. Mỗi âm phát ra dường như phải rất cố gắng mới thoát khỏi cái nơi sâu thẳm trong lồng ngực của vị sư già. Ông ta mời hai vị khách người Mỹ ngồi xuống chiếc ghế bằng song mây màu trắng đã cũ được kê ngay dưới đài sen và bắt đầu bập bập rít mấy hơi thuốc Gauloise. Ngay bên cạnh ông ta trên chiếc ghế đôi là Hòa thượng Thích Chí Bình với hai chân vắt chéo theo kiểu quen thuộc của người phương Tây. Sau này, Loftus đã xác định rằng thông qua hàng loạt những bài thuyết giáo chống Chính phủ mà vị Hòa thượng thứ hai này đã thu phục được hàng trăm tín đồ ở Huế bằng uy tín của mình.

Hòa thượng Bình cũng là một người nghiện thuốc lá Gauloises rất nặng cho nên cả hai vị Hòa thượng cùng nhau đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác trong suốt buổi nói chuyện. Mỗi khi ông Khiết hút hết một điếu thuốc thì ông ta lại đưa phần còn lại cho Bình và ông này dùng luôn mẩu thuốc đang chấy dở ấy châm tiếp một điếu khác. Rồi sau đó ông ta lại đưa cái tóp thuốc của mình cho ông Khiết để ông này châm thêm một điếu mới. Cuộc nói chuyện giữa họ kéo dài hơn một tiếng đồng hồ và lúc nào cũng vậy luôn có một trong hai người này hút thuốc lá phì phèo. Và dĩ nhiên chẳng ai trong cả hai người phải mất công dùng một que diêm để châm lửa. Căn phòng vốn đã ngột ngạt nay lại càng nghi ngút hơn với mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ.

Cuộc đối thoại cũng không thể ngắn hơn được bởi vị Hòa thượng Khiết không nói được một thứ ngôn ngữ nào hơn ngoài tiếng Việt và vì thế những gì ông ta nói ra đều phải được ông Bình dịch bằng một thứ tiếng Pháp khá trôi chảy nhung mang đậm những đặc tính cá nhân. Và mặc dù ông Khiết chẳng khi nào nói quá hai câu - mà có thể là ông ta không thể làm được điều đó, nhưng những gì mà ông Bình dịch sang tiếng Pháp rõ ràng là đã được chính ông ta thêu dệt thêm rất nhiều. Cái gì đó mà ông Khiết nói ra chỉ mất có hai giây thì ông Bình sẽ dịch nó thành hơn hai phút. D. Marnin bắt đầu nghi ngờ rằng liệu ông Khiết có nắm được đúng những gì mà Loftus đã nói với ông ta hay chỉ là những thứ mà chính ông Bình nói ra theo ý của riêng ông ấy.

Freddie bắt đầu buổi tiếp kiến bằng việc cám ơn vị Hòa thượng đã đón tiếp họ. Anh ta cũng chỉ ra rằng, tự do tôn giáo luôn là nguyên tắc cơ bản không thể xâm phạm của Mỹ và nó đã được Hiến pháp của nước Mỹ thừa nhận. Hơn thế nữa, như tất cả mọi người ở Việt Nam đều biết thì nước Mỹ cũng là một đất nước có nhiều loại tôn giáo khác nhau. Tỷ lệ những người dân Mỹ đi lễ nhà thờ bao giờ cũng cao hơn bất kỳ một nước nào khác ở Châu Âu.

Anh ta cho tay vào túi áo lấy ra một đồng 25 xen và nói tiếp:

- Các ngài hãy nhìn đây này! Trên đồng xu này của chúng tôi có câu nói bất hủ: “IN GOD WE TRUST”  (Chúng ta gửi niềm tin nơi Chúa).

Ông Khiết nhoài người lên lấy chiếc kính gọng sừng từ trong chiếc ngăn kéo tủ gần đấy nhưng ông ta lại quên không đeo nó lên. Ông Bình nhìn chằm chằm vào Freddie một lúc lâu như thể là cái anh chàng người nước ngoài này đang cố lột cái áo trên người ông ta vậy. Rồi ông ta bắt đầu dịch câu nói của Freddie một cách dài dòng khác thường -trong khi đó ông ta còn vươn người tới giật ngay đồng xu trong tay ông Khiết - người đang giữ trong tay đồng xu một cách khó chịu như thể đang cầm một con cóc còn sống vậy. Và ông Bình nói điều gì đó bằng tiếng Việt và cả hai nhà sư cùng cười rúc rích một cách khóai trá. Hai người cũng chẳng thèm trả lại đồng xu cho Loftus nữa.

Như để trả lời cho những gì đã được dịch ra, ông Khiết đã nói chỉ khoảng hơn hai mươi từ là cùng nhưng ông Bình lại dịch nó như thế này:

- Chúng tôi rất lấy làm vinh dự được đón tiếp những người đứng đầu Tổng lãnh sự quán Mỹ tại thành phố Huế ngay tại cái nôi của phong trào Phật giáo quốc gia. Và tại thành phố này cũng có những con người luôn biết phải bày tỏ lòng hiếu khách một cách ngoại lệ để cố gắng cư xử theo đúng những lời răn dạy của Đức phật Đại từ, Đại bi. Những người theo đạo Cơ-đốc chỉ quan tâm đến những gì mà những gã khôn ngoan nói về những thứ mà những gã khôn ngoan khác đã nói về điều mà Chúa Giê-su ám chỉ khi ông ấy nói về kẻ thù của mình. Các anh có thể cười vào những gì mà tôi vừa nói ra. Nhưng Chúa Giê-su vẫn luôn là hiện thân của hòa bình và chống lại sự giết tróc. Ông ấy chẳng đã nói là những kẻ giàu có chỉ có thể lên được Thiên đường nếu như một con lạc đà có thể chui qua lỗ kim khâu. Chính bản thân tôi đã đọc được điều đó. Và bây giờ nó được người ta hiểu thế nào nhỉ? Những gã khôn ngoan của các ông và cả vị Tổng thống đáng yêu, đẹp trai và giàu có của các ông nữa đã diễn giải rằng chúng tôi phải nghe theo lời răn dạy của Chúa Giê-su bằng cách làm giàu và bằng cách gây ra chiến tranh để bảo đảm hòa bình. Chúng tôi phải giết ngưòi khác để cướp lấy thức ăn của họ. Những gã thông minh theo đạo Cơ-đốc của các ông nói rằng ngài Tổng thống Kennedy sẽ đi lên thiên đường với bàn tay sạch sẽ (và cả hai nhà sư này đều có những móng tay rất dài và cáu đầy bụi bẩn) bởi vì anh ta đã gởi tới nhưng chiếc máy bay trực thăng để giết chết những ngưòi phụ nữ, những đứa trẻ và cả những con trâu nữa. Chẳng có gì để nghi ngờ là ông Kennedy vẫn đặt niềm tin vào Chúa. Với ông ta, những con chim vẫn đang hót và bầu trời vẫn là màu xanh. Không có gì cả nhưng bầu trời đâu có còn màu xanh nữa.

Freddie nhìn D. Marnin rồi nhíu đôi mày.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #75 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:33:45 pm »

- Phật giáo thì lại khác - Bình vẫn tiếp tục - Đức phật đã nói những gì mà ngài đã phải nói từ ba trăm năm về trước và chúng tôi những người theo đạo Phật vẫn sống theo những lời nói ấy cho đến tận ngày hôm nay. Chúng tôi không có những gã khôn ngoan để bảo với chúng tôi rằng màu đen là màu trắng hay là cái chết là sự sống. Đức Phật đại từ, đại bi đã lệnh cho chúng tôi không được sát sinh. Chính vì thế, chúng tôi không ăn thịt hay giết đến một con kiến nhỏ, thậm chí cả những con muỗi vừa mói hút máu và truyền bệnh sốt rét cho chúng tôi nữa. Các anh đã bao giờ nhìn thấy một con trâu bị bắn chết bởi hơn năm mươi viên đạn từ một chiếc máy bay trực thăng chưa? chính con trâu đó cũng phải chịu cái chết và bụng thì tòi hết ruột gan ra ngoài. Chính người chủ của con trâu ấy cũng phải chịu đựng. Nó đã làm cho trái tim anh ta thắt lại khi nghe những người khác kể cho anh ấy rằng con trâu của anh ấy đã lồng lên tuyệt vọng và cả cánh đồng lúa đã đỏ lên vì máu của nó. Tổng thống Kennedy nói rằng giết con trâu đi để giúp chúng tôi tống khứ được bọn Cộng Sản. Điều này có thể có nghĩa lý với tất cả các ông nhưng nó chẳng có nghĩa lý gì đối với một người nông dân Việt Nam bình thường nhất. Đức Phật đã dạy chúng tôi bốn niềm tin quý báu.

Niềm tin thứ nhất là - con người ta sinh ra để chịu những khổ ải và anh ta sẽ phải chịu đựng điều đó trong kiếp này và cả kiếp sau nữa. Thậm chí ngay cả Đức Phật cũng đã là một vị hoàng tử vĩ đại, còn vĩ đại hơn cả Kennedy, vẫn phải chịu đựng cho tới khi ngài ngộ ra được cách thoát khỏi mọi ham muốn của chính ngài.

Niềm tin thứ hai là - Cái gì đã là nguồn gốc sâu xa nhất của khổ ải? Nguyên nhân của khổ ải là ham muốn. Con người ta luôn thèm khát cái vinh danh cho mình. Những cô gái Việt Nam đẹp như những bông hoa sen đẹp nhất. Lính Mỹ nhìn thấy họ và thèm khát họ. Con người ta luôn khát khao được sở hữu - vàng bạc, người hầu hạ, nhà cửa và cả quyền lực để sai khiến những kẻ khác làm điều gì đó. Họ muốn cả những cô gái đẹp để thỏa mãn dục vọng của mình. Con người ta còn mong muốn không phải chịu đau đớn nên họ tiêm chích ma túy vào trong máu của mình, họ hít ma túy, uống rượu whiskey với Coca Cola, đi vào trong các ổ gái điếm và muốn được những cô gái Việt Nam xinh đẹp chiều chuộng theo những sở thích điên rồ của họ.

Niềm tin thứ ba là - tất cả sự thèm khát xuất phát từ những ham muốn ấy sẽ tự làm hại chính bản thân nó. Để không có những ham muốn ấy thì phải không bị lệ thuộc vào những thứ đó, đặc biệt là phải không bị lệ thuộc vào chính bản thân nó nữa. Đó chính là cái điều mà Tổng thống Kennedy nên cố thực hiện.

Niềm tin thứ tư là - để đạt được tới cảnh giới tối cao thì sẽ phải làm theo tám điều Phật dạy đó là - phải có đạo đức đúng đắn, phải có mục đích đúng đắn, phải có cách kiếm sống đúng đắn, phải có phương thuốc đúng đắn, phải có nỗ lực đúng đắn, phải có sở thích đúng đắn, phải có ngôn từ đúng đắn và phải có nhãn quan đúng đắn. Khi mà làm được tất cả những điểu này rồi thì những ham muốn sẽ tự chúng mất đi. Con người ta có thể vào được cõi niết bàn mà không phải chịu đựng thêm kiếp nạn khổ ải nào nữa. Khi những Phật tử được chứng kiến các ông thực hiện tám điều đó, chúng tôi sẽ lắng nghe các ông một cách nghiêm túc và có thể chúng tôi sẽ làm những gì các ông nói. Thế nhưng chúng tôi phải chứng kiến cái chết của con trâu, một người bạn của nhà nông, chẳng bao giờ làm hại đến ai, luôn phải làm việc hết sức cực nhọc, phải đổ máu trên cánh đồng lúa bị các ông giết hại.

Hòa thượng Khiết cầm lấy cái tóp thuốc từ trên tay ông Bình và châm một điếu thuốc khác. Rồi ông ta nhún vai, mỉm cười khó hiểu và trả lời Freddie bằng một giọng rất thều thào.

- Hòa thượng Khiết nói là - ông Bình lại dịch tiếp - con rồng và con chim ưng cũng là kẻ thù như nhau giống như con chó với con mèo vậy bởi vì bọn chúng đều ăn gan của con thỏ con tội nghiệp. Vậy nhưng con thỏ có thừa thông minh để không bị sa vào sào huyệt của những con rồng, những kẻ đang dùng lời lẽ xảo biện để sau đó ăn thịt nó thay cho bữa sáng. Điều này cũng không có nghĩa là khi con chim ưng đi tìm bữa trưa cho nó thì con thỏ thông minh không biết giấu mình sau những tảng đá. Đó là một sự thật, một sự thật luôn đúng với mọi thời đại. Và đặc biệt, nó còn đúng hơn nữa là chúng tôi đã ở đây được hai nghìn năm và sẽ còn ở lại đây thêm hai nghìn năm nữa. Những người Cộng sản biết điều đó. Thế nhưng, Chính phủ Sài Gòn - những kẻ vẫn tự xưng là Chính phủ của đất nước Việt Nam, nơi mà phần lớn người dân đều là người theo đạo Phật - họ lại ngược đãi chúng tôi, họ nhổ vào mặt chúng tôi, họ làm nhục cả Đức Phật Đại từ, Đại bi.

- Tôi không biết gì về chuyện ngược đãi đó - Freddie thú nhận

- Thế chẳng qua là không hề có khái niệm ngược đãi trong tiếng Anh. Và cũng chẳng có khái niệm ngược đãi trong tiếng Pháp. Mà chỉ có khái niệm ngược đãi trong tiếng Việt. Trong tiếng Anh, bọn họ nói rằng chúng ta đều gửi niềm tin nơi Đức Chúa và tất cả mọi người đều được đối xử bình đẳng như nhau. Trong tiếng Pháp, họ nói liberte’, egalite’, franternite (Tự do, Bình đẳng, Bác ái ), mà nực cười nhất chính là egalite’. Vậy nhưng trong tiếng Việt họ lại bảo chúng tôi không được thể hiện lòng kính trọng đối với Đức Phật trong ngày sinh nhật lần thứ 2587 của ngài.

- Ông nói vậy là có ý gì?

- Những cái cờ ấy, thì chuyện về những cái cờ ấy mà.

- Những cái cờ? Drapeaux ? 

- Nhưng nhất định các ông phải trông thấy những cái cờ ấy rồi chứ. Họ treo đầy cả thành phố này ấy mà.

- Tôi vẫn chưa hiểu là ông có ý gì. - Freddie nhắc lại.

- Ngày kia sẽ là ngày sinh nhật lần thứ 2.587 của Đức Phật. Như một phần trong lễ kỷ niệm này, chúng tôi đã treo cờ để bày tỏ lòng kính trọng và sự tôn vinh lên Đức Phật của chúng tôi. Ngày hôm nay chúng tôi được thông báo rằng tất cả những lá cờ này, một nghi lễ mà chúng tôi đã thực hiện hơn năm mươi năm nay sẽ phải hạ xuống. Đó là chỉ dụ của ông Nghĩa, tỉnh trưởng, người thừa hành mệnh lệnh từ Sài Gòn, mà mệnh lệnh đó đã được Giám mục sứ Huế đưa ra.

- Nhưng tại sao lại như vậy chứ?

- Có một điều luật quy định rằng chỉ có loại cờ duy nhất được treo ở những nơi công cộng đó là quốc kỳ của chính quyền Sài Gòn. Đó là những thứ mà họ nói. Nếu mà họ nói đúng, chúng tôi đã liên tục vi phạm luật pháp trong suốt 50 năm rồi.

- Có thể là có sự hiểu lầm nào đấy thôi.

- Chẳng có sự hiểu lầm nào hết. Bảo Đại và De Gaulle đều đi cả rồi. Bây giờ chúng tôi lại có Ngô Đình Diệm và Kennedy. Chừng nào Giáo hoàng còn ưu ái cho họ nhiều hơn nữa, hai người này không chỉ tiếp tục mạnh mẽ hơn, giàu có hơn mà còn tự nhận là người Công giáo nhiều hơn nữa. Trước đây các Phật tử phải ăn đất thì bây giờ chúng tôi phải ăn bùn. Chúng tôi vẫn phải vậy thôi, không dám mở mồm ra kêu.

- Những người Công giáo phải làm gì với điều đó đây?

- Các ông hãy nhìn mà xem! Tất cả thành phố này của chúng tôi đều tràn ngập những lá cờ để bày tỏ lòng kính trọng của người dân ở đây vói con người vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Thế còn những lá cờ màu xanh và màu trắng kia treo lên để làm gì? Lễ kỷ niệm lần thứ 25 ngày lễ tấn phong Giám mục xứ đạo Vĩnh Long, một địa điểm cách đây đến mấy trăm ki-lô-mét. Thử hỏi những ai quan tâm đến chuyện gì đã xảy ra ở Vĩnh Long 25 năm trước đây chứ? Điều khó hiểu mà chúng tôi phải giải quyết ở đây chính là tại sao những lá cờ của Đức Phật Đại từ, Đại bi lại phải hạ xuống để treo vào đấy những lá cờ của ngài Giám mục chứ? Liệu ai có thể trả lời được nếu như đó không phải là ngài Giám mục, người hàng ngày vẫn ngồi chễm trệ trên chiếc xe Buick Roadmaster màu đen xì xì lượn quanh mấy con phố để cho những ngưòi dân phải quỳ xuống hôn lên mặt đường nơi bánh xe của ông ấy vừa đi qua nếu ông ta không phải là anh trai của Tổng thống Diệm, người anh lớn trong cái gia đình độc đoán ấy. Trong suốt năm vừa qua, hết làng này đến làng khác đua nhau chuyển sang đạo Thiên Chúa. Họ rời bỏ Đức Phật để đi theo Chúa Giê-su. Khi mới có một vài ngưòi bỏ đi thôi thì đó chỉ là sự lựa chọn mang tính cá nhân. Nhưng khi cả làng cùng làm như vậy thì nó lại trở thành một hành động mang tính chính trị. Những làng đó muốn nhận được sự ưu ái từ phía Chính phủ. Họ muốn nhận được những khoản vay, những khoản tiền trợ cấp. Họ nghĩ rằng họ sẽ được chia nhiều ruộng đất hơn. Và tại sao họ lại nghĩ như vậy chứ? Bởi vì đó chính là những điều mà Giám mục bảo họ như vậy.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #76 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:35:31 pm »

*
*   *

Ngay sáng ngày hôm sau, Loftus và D. Marnin vội vã đi thông báo về sự bức xúc của Hòa thượng Thích Trí Bình. Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, trông rất giống người em trai Ngô Đình Diệm chỉ có điều ông ta có phần to béo hơn, tròn trịa hơn, lịch bịnh hơn và mạnh mẽ hơn. Cả hai người được mời vào phòng khách trên tầng hai của một khu dinh thự rất khang trang ngay gần nhà thờ Thiên Chúa giáo. Căn phòng này được xếp đầy các loại sách, phần lớn đều là những bộ sách Triết học Thiên Chúa giáo bằng tiếng Pháp được bọc da rất cẩn thận. Trên bàn làm việc của ông ta vẫn còn một cuốn sách của Jacques Maritain đang đọc dở.

Họ cùng ngồi xuống những chiếc đệm dày bọc vải màu đỏ ở trên ghế bành rất sâu làm bằng gỗ gụ và được trạm trổ cầu kỳ. Chiếc điều hòa nhiệt độ loại có cửa sổ đứng kêu phành phạch không thôi. Giống như ông Diệm và ông Nhu, ông Thục cũng là một người nghiện thuốc lá nặng mà có phần rất nặng nữa là đằng khác. Trong buổi nói chuyện này, ông Thục đã hút thuốc liên tục đến nỗi chiếc gạt tàn để trên bàn đã được nhét đầy tàn và tóp thuốc mà chỉ có mình ông ấy bỏ vào. Thế nhưng, không giống như hai người em mình, ông ta chỉ hút thuốc mới, thuốc lá Winston, chính điều này đã làm cho Trưởng lãnh sự Mỹ và người phó của anh ta cảm thấy mát mặt bởi vì có thế đó là dấu hiệu của một sự thân ái đối với đất nước họ. Ông ta cũng đã khiến cả hai người cảm thấy gần gũi hơn khi treo một bức chân dung rất lớn của Hồng y giáo chủ Spellman  , một người bạn lớn của ông ta ở ngay đằng sau bàn làm việc. Ông ta còn có khả năng nói tiếng Pháp rất lưu loát đến độ không hề bị pha tạp từ tiếng mẹ đẻ. Freddie bắt đầu buổi nói chuyện bằng lời chúc mừng sự tổ chức rất long trọng buổi lễ kỷ niệm 25 năm ngày tấn phong Giám mục cho ông ấy. Ông Thục mỉm cười rồi nhún vai phản đối.

- Những kẻ bề tôi ở khu vực này rất mộ đạo. Nhưng nó không phải là vì tôi mà họ đứng lên tổ chức lễ kỷ niệm đâu. Tôi chỉ may mắn được là một trong những người có chức vụ cao nhất trong Giáo hội của người Việt, là người thứ hai không phải là người Pháp ở Việt Nam được Giáo hội đề cử và được chấp nhận. Cho mãi đến tận cuối những năm 30, Giáo hội mới bắt đầu nhận ra rằng người Pháp đã làm được đáng kể để có thể thay đổi tôn giáo của đất nước này. Người Pháp nắm được quyền thống trị bởi vì họ có những khẩu đại bác. Thế nhưng những khẩu đại bác chỉ có thể kiểm soát được phần xác của con người ta thôi chứ không thể kiểm soát được phần hồn của họ. Và rồi khi mọi người đều biết là khi người Pháp chuẩn bị đóng gói và rút khỏi đây thì họ chuẩn bị phải hứng chịu trận tắm máu dã man nhất trong lịch sử Việt Nam. Chính vì vậy, họ tổ chức buổi lễ tấn phong cho tôi không chỉ vì họ yêu mến cá nhân tôi mà họ còn bày tỏ lòng tự hào của họ vì trên đất nước Việt Nam này sẽ không chỉ có Tổng Giám mục duy nhất đứng lên đại diện cho họ và bảo vệ họ.

- Thưa ngài Tổng Giám mục, liệu ngài có cảm thấy là ngài đang thành công trong quá trình vận động đi theo Giáo hội

- Anh có phải là người theo đạo Thiên chúa giáo La Mã không ấy nhỉ?

Cả hai người Mỹ đều thừa nhận rằng họ không phải là những người theo đạo này.

- Thế nhưng các anh đều là những người Cơ đốc và các anh đều biết rằng việc mở rộng đạo Cơ đốc ở đất nước này sẽ quan trọng như thế nào đối vói tương lai của toàn khu vực. Chúng tôi có nghĩa vụ phải tham gia vào mà tôi không nói các anh cũng biết đó là cuộc đấu tranh một mất một còn vói những kẻ thù của chúng tôi để chiếm lấy phần hồn của người dân nước này. Tôi vừa trở về từ Vương cung Thánh đường La Vang ở thành phố Quảng Trị. Trong một năm qua, đã có hơn hai mươi nghìn người đến thăm Thánh đường này. Trong khi đó, vào năm trước nữa mói chỉ có mười ngàn người tới đây. Mỗi tháng có tới hàng trăm người cải đạo tới đây để được làm thánh lễ. Hàng loạt các làng cùng nhau cải đạo. Tôi có thể bảo đảm vói các anh là cả Tòa thánh Vatican lẫn ngài Tổng thống rất hài lòng với kết quả này. Ngài Tổng thống biết rằng về mặt này ông ấy đang giành chiến thắng. Như các anh đều thấy, đây chính là khu vực đã từ lâu rất có cảm tình với Cộng sản.
- Nhưng chả lẽ điều đó không gây oán giận cho những người không phải là người Công giáo? chẳng lẽ người dân lại không cáo buộc ông là quá thiên vị hay sao? Chúng tôi cũng mới được biết là các Phật tử đang có kế hoạch tổ chức một cuộc biểu tình rầm rộ để phản đối lại lệnh cấm họ treo cờ trong mùa lễ Phật đản? - Freddie nói.

Một ánh mắt sáng quắc lên giận giữ và một nét mặt lạnh ngắt đã dập tắt ngay nụ cười thỏa mãn vừa biến mất trên khuôn mặt ông Thục.

- Các anh phải nhớ là - ông ta nói gằn từng tiếng - đạo Phật ở Việt Nam không còn là đạo Phật thật sự nữa. Nó xuất phát từ Trung Quốc. Nó bị pha trộn với Nho giáo, Đạo giáo và ai mà biết được còn bao nhiêu thứ tín ngưỡng điên rồ nào khác giống như đạo Cao Đài, thứ tôn giáo mà đã tôn vinh cả Victo Hugo   làm thánh của chúng nó chứ. Hãy tưởng tượng xem! Victor Hugo ấy!

- Thế nghĩa là ông không lo ngại đến cuộc biểu tình? Ông không sợ là nó sẽ có thể dẫn đến sự xích mích hay sao?

Sắc mặt của ông Thục càng trở nên giận dữ hơn khi nào hết.

- Tôi rất lo ngại đến điều đó. Trước khi các anh vào đến đây, tôi đã phải gọi điện cho thằng Nghĩa, tỉnh trưởng và bảo nó là nó phải ra lệnh cấm biểu tình. Khi nó bảo là nó không thể làm thế thì tôi đã bảo thẳng với nó rằng cá nhân tôi sẽ đem chuyện này nói thẳng với ngài Tổng thống. Mà tôi sẽ nói đấy. Đây không phải là các Phật tử biểu tình. Đây chính là một cuộc biểu tình của bọn Việt Cộng. Trong suốt 50 năm qua, chúng ta đã không có các biện pháp chính trị cứng rắn để quét sạch cái đám Phật tử này. Lúc đó, bọn chúng nó làm gì có tổ chức, làm gì có hệ thống lãnh đạo và làm gì có các phát ngôn viên. Vậy mà bỗng nhiên mọi thứ đều thay đổi. Đó không thể gọi là tình cờ được.

- Họ nói rằng việc xé cờ của họ chẳng khác nào việc báng bổ thánh thần và điều đó là nhục mạ Đức Phật. Họ cũng nói là theo điều luật ấy, họ thậm chí không còn được coi là một dòng tôn giáo nữa mà chỉ được mô tả như là một tổ chức xã hội bình thường mà thôi.

- Đó là điều luật mà người Pháp đã để lại cho chúng tôi. Nếu họ muốn sửa đổi điều luật đó, họ phải gửi đề nghị đó lên Quốc hội chứ. Đó mới là cái cách mà cơ chế dân chủ đang vận hành chứ. Không có hỏi han gì hết. Luật là rõ ràng như thế rồi. Ngoài Quốc kỳ ra sẽ không có một loại cờ nào được treo ở nơi công cộng hết.

- Họ nói là những cờ của họ bị tháo xuống và bị xé nát còn cờ của các ông lại vẫn được treo.

- Cả những người theo Phật giáo và chúng tôi đều được thằng Nghĩa Tỉnh trưởng bảo hạ cờ xuống. Đám Phật tử thì cương quyết từ chối. Trong khi đó, dĩ nhiên là chúng tôi phải chấp hành. Chính vì vậy, Tỉnh trưởng đã ra lệnh cho lực lượng cảnh sát kéo hết những cờ Phật giáo xuống. Anh ta còn bảo đảm rằng những người của chúng tôi sẽ tháo tất cả những thứ mà người ta vinh danh cá nhân tôi nữa, ngoại trừ khu vực bên trong nhà thờ nơi được treo cờ một cách hoàn toàn hợp pháp.

- Các ông đã hạ cờ xuống khi nào?

- Chúng tôi không có ngân sách để trả cho những người làm việc đó nhưng tìm người treo chúng lên bao giờ cũng dễ hơn là tìm người hạ chúng xuống. Nhưng tôi bảo đảm với các ông là chúng tôi sẽ làm được điều đó. Vào lúc này, tôi cũng đã yêu cầu cậu Cẩn và thằng Nghĩa Tỉnh trưởng phải điều tra xem làm cách nào mà bọn Việt Cộng đã nắm được quyền kiểm soát những đám Phật tử ấy.

- Các ông đã có được bằng chứng chưa? - Freddie lại hỏi tiếp.

- Các anh thử nghĩ mà xem - ông Thục trả lời - Trong vòng 50 năm qua chẳng có cái gì hết, chẳng có tổ chức nào hết. Mấy ông sư ấy chẳng bao giờ ra khỏi cái cổng chùa. Bây giờ bỗng nhiên có cả Hiệp hội các nữ Phật giáo, Hiệp hội thanh niên Phật giáo, Hiệp hội nông dân Phật giáo và tất cả đám chúng nó đều lên tiếng chỉ chích Chính phủ Cộng hòa, nói thật chứ bọn nó không chỉ là 98% mà phải là 100% là Việt Cộng chứ còn gì nữa. Trong tiếng Anh của các ông đã chẳng có câu rất hay là nếu có một con vật trông giống như con vịt, đi lại giống như vịt, kêu quạc quạc giống như vịt vậy thì nó đúng là một con vịt còn gì nữa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #77 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:36:57 pm »

*
*   *

Ngày lễ Phật đản mùng 8 tháng năm năm 1963, khoảng 500 thành viên thuộc Tổ chức Thanh niên Phật giáo cùng một vài nhà sư mặc những bộ cà sa màu vàng nghệ mang theo biểu ngữ, khẩu hiệu phản đối Chính phủ và hô vang các khẩu hiệu chống Diệm đã tụ tập trên đường Đống Đa nơi chỉ cách Tổng lãnh sự quán Mỹ một tòa nhà, sau đó họ diễn đi diễn lại cuộc tuần hành này đúng ba lần. Loftus không nhận được báo trước và lúc đầu anh ta cũng không biết là cái gì đang diễn ra cho nên đã cho rằng những người tuần hành nổi giận muốn nhằm thẳng vào phòng làm việc của anh ta. Anh ta yêu cầu tất cả các nhân viên phải dùng những tấm gỗ nẹp chặt các cánh của Tổng lãnh sự; đóng chặt, che kín từ phía trong tất cả các cửa sổ nhằm chống lại việc ném đá và những mảnh kính bị vỡ. Khi ông Bửu được triệu tập tới thì cánh cổng chính đã được đóng chặt hoảng sợ tất cả mọi người đều đang cố thủ ở phía trong.

- Cái gì đang xảy ra ở ngoài kia thế hả ông Bửu? Những thanh niên này là những ai vậy? Tại sao họ lại biểu tình chống lại chúng ta nhỉ? Tôi phải gọi điện về Sài Gòn thôi.

- Không có gì phải lo ngại đâu thưa ngài - ông Bửu nói - những thanh niên này tham gia biểu tình phản đối sự ngược đãi của Chính phủ với Phật giáo vào dịp mùa lễ Phật đản. Họ đang trên đường trở về chùa Từ Đàm, nhưng họ cũng kéo qua đây để chắc chắn rằng người Mỹ cũng hiểu là cái gì rất quan trọng đang diễn ra.

- Thế họ đang hô hào cái gì vậy?

- Họ đang hô là: “Thật xấu hổ cho Ngô Đình Diệm!”, “Thật xấu hổ cho Ngô Đình Nhu!”; “Thật xấu hổ cho Ngô Đình Thục”; “Thật vinh quang cho Đức Phật" nhưng có điều rất hay là họ không nói gì về ông Ngô Đình Cẩn.

- Ông có chắc là họ sẽ không ném đá đập vỡ các cửa sổ đấy chứ?

- Không, không đâu. Nó sẽ không phù hợp trong ngày lễ Phật đản như thế này. Họ đang trên đường đến chùa Từ Đàm đấy mà.

- Họ cứ đi như thế kia thì phải hết hơn một tiếng đồng hồ nữa mới hết được - Freddie nói - tôi cũng được mời tham dự buổi lễ nhưng mà với thái độ kiểu khiêu khích thế này thì tôi sẽ không đi nữa. Nhưng tôi muốn ông tới đó đấy ông Bửu ạ. Hãy bảo lái xe của tôi đưa ông đi. Nhưng đừng có đỗ xe ở gần chùa đấy nhé. Hãy đi bộ trong vài trăm mét cuối cùng ấy.

Tới giờ ăn trưa thì ông Bửu quay trở lại. Freddie đã về nhà nghỉ trưa và D. Marnin là người Mỹ duy nhất còn lại trong Tổng lãnh sự quán. Anh đã phải mất cả buổi sáng để ghi lại bản ghi nhớ về buổi nói chuyện với ông Ngô Đình Thục cũng như chuốt lại bản ghi nhớ của ngày hôm trước về cuộc đối thoại với Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Trí Bình. Hai bản ghi nhớ này rất thú vị vì chúng đã thể hiện rất rõ ràng quan điểm của cả hai bên liên quan.

D. Marnin quyết định rất thông minh rằng cần phải gửi ngay một mật điện về Đại sứ quán để cảnh báo nhũng rắc rối có thể nảy sinh. Tuy vậy, ông Bửu cũng cho biết là cho tới thời điểm này thì vẫn chưa có gì quá phức tạp xảy ra. Viên tướng Tư lệnh Quân đoàn I, ông Tỉnh trưởng, Trưởng lãnh sự quán Pháp và dĩ nhiên là cả Trưởng lãnh sự quán Thái Lan cũng đã có mặt trong buổi lễ này. Trước tiên, ông Khiết nói về đức tính nhũn nhặn và lòng mộ đạo đối vói Đức Phật. Sau đó đến lượt ông Bình. Và ông Bửu mỉm cười tế nhị.

- Tay Bình là một gã nhộn lắm - ông Bửu nói và lại cười tiếp.

- Nhưng ông ta đã nói gì cơ?

- Hà hà,... gã ta nói những thứ đểu, đểu lắm. Nói về việc làm thế nào Việt Nam phải thực hiện để trở thành một nước dân chủ và trong một thể chế dân chủ thì đa số luôn nắm quyền lãnh đạo và tại Việt Nam thì Phật giáo đang chiếm đa số và vì vậy họ không chỉ nắm quyền lãnh đạo mà còn nắm cả quyền sinh đẻ nữa.

- Với tôi điều đó chẳng có gì đáng cười cả - D. Marnin nhận xét.

- Điều mà ông ta nói chẳng buồn cười chút nào hết. Trong thực tế, điều đó lại bị cho là buộc tội gây rối, gây phiến loạn đối với những người theo đạo Thiên Chúa như chúng tôi. Cái cách mà ông ta nói ấy, nó rất đểu. Tướng Tư lệnh và cả ông Tỉnh trưởng cũng phải cười phá lên. Chẳng có cách nào để dịch được ông ấy đã nói cái gì. Anh phải là một người Việt Nam thật sự thì anh mới hiểu hết được điều đó.

- Và như thế đã hết chưa?

- Chưa. Cuộc tuần hành còn tiếp tục nữa. Sau ông Bình lại đến một vị Hòa thượng có tên là Đức. Anh ta nói rằng những gì ông Bình vừa nói sẽ được ghi âm lại. Anh ta kêu gọi đám đông trở về nhà, ăn trưa và đi nghỉ. Các nhà sư sẽ ở lại trong chùa và tiếp tục tụng kinh cho Đức Phật. Sau bữa trưa họ sẽ gặp gỡ lại ở quảng trường trước cửa khách sạn Morin và tuần hành tới trước đài phát thanh, yêu cầu đài này phát lại bài phát biểu của ông Bình để cho tất ca các Phật tử đều có thể nghe được nó.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #78 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:38:23 pm »

Lúc 2 giờ 30’ chiều, Freddie quay trở lại văn phòng và gọi điện cho Tỉnh trưởng Phạm Đức Nghĩa, người cũng có mặt trong buổi lễ. Sau đấy, Freddie cho D. Marnin biết rằng, theo lời ông Nghĩa thì đám biểu tình mang tính chỉ trích nhưng vẫn giữ được trạng thái hòa bình nên chưa hề có dấu hiệu của bạo lực. Họ sẽ tiếp tục tổ chức biểu tình. Và khi đã thấm mệt họ sẽ giải tán và về nhà một cách hòa bình. Và ông ta cũng nói rằng trong bất kỳ tình huống nào thì người của ông ta sẽ luôn sẩn sàng theo dõi sát xao tình hình và nếu như có gì bất chắc thì họ sẽ biết ngay là phải làm gì.

- Và họ có cho phát sóng bài phất biểu ấy không?

- Không có chuyện đó đâu - Freddie nói - ông Nghĩa nói là nếu bài phát biểu ấy được phát sóng thì tất cả bọn họ sẽ bị mất việc.

Marmin phải mất cả buổi chiều hôm đó để soạn một báo cáo dài dằng dặc có tựa đề “Tình trạng căng thẳng giữa các tôn giáo ở Huế”. Trong đó, anh đã khái quát lại toàn bộ những bất đồng giữa những người theo đạo Phật và những người theo đạo Thiên chúa sau đó để cho Freddie sửa đại vào đấy như thường lệ trước khi gửi về Đại sứ quán. Bao giờ cũng thế nếu như D. Marnin viết “lo ngại” thì Freddie sẽ sửa thành “quan ngại”, khi D. Marnin viết “hạnh phúc” thì Freddie sẽ sửa thành “vui mừng”, khi D. Marnin viết “hào hứng” thì Freddie sẽ sửa thành “náo nhiệt”. Vậy nhưng ý nghĩa quan trọng nhất của bức điện này vẫn hoàn toàn nằm trong những gì mà D. Marnin đã phác thảo nên. Trên cơ sở đó, nó đã trở thành tài liệu duy nhất dự báo sớm được một sự kiện hết sức phức tạp đang bùng phát tại đây. Cuối cùng cũng vì lý do này mà sau này Freddie đã nhận được sự đánh giá rất cao từ Đại sứ quán và từ Bộ Ngoại giao Mỹ.

Buổi tối hôm đó, khác hẳn vói mọi lần khác, D. Marnin - vẫn mơ mộng và day dứt vì nỗi nhớ nhung Lily - anh thường uống hai ly whiskey trước ăn rồi ra ngoài hành lang, ngả mình trên chiếc ghế bành làm bằng song mây để ngắm nhìn dòng sông tĩnh lặng và những con thuyền đang nhẹ nhàng lướt đi. Vậy nhưng, sau bữa tối hôm nay, anh vừa ngả lưng xuống chiếc ghế quen thuộc được vài phút thì nhũng con muỗi khốn khổ cứ cố bâu lấy anh khiến cho anh không thể chịu được và phải bỏ vào trong nhà. Anh cởi quần áo rồi bật máy điều hòa rồi leo lên nằm trên giường. Lúc đó mói là chín giờ, anh lấy cuốn sách “Những người Trung Quốc ở Đông Nam Á”, một tập sách khổ lớn và rất dày, được bảo đảm là sẽ chữa khỏi chứng mất ngủ cho bất cứ ai. Chỉ vài phút sau, anh đã mơ màng thiếp đi vói cuốn sách còn đang để ngang trên ngực và chiếc đèn bàn thì chưa kịp tắt.

Điều tiếp theo mà D. Marnin biết đến là xung quanh thì tối om và anh đang nằm úp bụng vào bức tường, cả người anh như đang đè lên một thứ gì đó, từ đầu đến chân anh phủ đầy mảnh kính vỡ. Môi anh như đang nếm phải những hạt sàn sạn giống như những hạt vừng của món mè xửng mà người đầu bếp đã làm cho anh trong bữa tối, còn tim anh thì đập loạn lên như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Anh không biết mình đang ở đâu, đang làm gì và bản năng như đang thúc giục anh phải đứng dậy.

Anh vừa nhổm người lên cố đứng bằng hai đầu gối thì một tiếng nổ khác lại vang lên và ném anh trở lại đúng vị trí mà tiếng nổ trước đã thổi bay anh rơi từ trên giường xuống. Anh cố gắng đưa tay xuống lôi cái vật cồm cộm ở dưới mình lên và ngay lập tức nhận ra đó chính là cuốn sách của tác giả Purcell mà anh đang đọc dở nhưng giờ đây đã bị xé tan làm hai mảnh.

- Thôi rồi, hỏng mất cuốn sách rồi - anh nói rất to nhưng chẳng ai nghe tiếng cả - khỉ thật, nó có phải là sách của tôi đâu. Nó là sách của thư viện đấy chứ.

Thế nhưng, một ý nghĩ ngớ ngẩn chợt lóe lên trong đầu anh và anh bỗng giật mình khiếp sợ nếu như vừa nãy không có cuốn sách đó để trên ngực mình. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, anh cảm thấy mạng sống của mình bị đe dọa và được cứu thoát chỉ vì một thứ rất đơn giản. Anh đưa tay phải ra nắm chặt lấy cổ tay trái và ép chặt cả hai bàn tay lên ngực mình cho thật bình tĩnh. Đây là một vụ ám sát sao? Liệu anh nên rời khỏi chỗ này hay cứ nằm im ở đây? Anh bò lết trên nền nhà về phía buồng tắm, những mảnh kính vỡ cứ đâm cả lên đầu gối, lên mu bàn chân và lên cả hai bàn tay nhưng anh vẫn không cảm thấy gì. Anh cố bám lên trên bồn tắm để có thể nhìn qua cửa sổ buồng tắm xem có phát hiện được gì. Ngoài phố mọi thứ vẫn im lìm một cách đáng sợ. Liệu rằng vụ nổ này đang nhằm thẳng vào anh hay anh chỉ là nạn nhân nằm ngoài mục tiêu chính của nó? Anh đưa tay sờ khắp cơ thể mình từ trên xuống dưới. Anh đang gần như trần truồng và máu vẫn đang tiếp tục chảy ra từ rất nhiều vết sứt, ngoại trừ hai tai anh vẫn đang bị ù đi vì áp lực quá lớn của hai tiếng nổ vừa rồi còn lại xem ra không nghiêm trọng lắm.

Thế rồi, một loạt đạn súng tiểu liên và một vài tiếng súng bắn tỉa lại vang lên từ đằng xa và tiếp theo đó là cả chục tiếng nổ lớn nối tiếp nhau phá tan sự im lặng trong thành phố. Anh vội cúi rạp người xuống, áp mình sát với nền nhà tắm. Vậy nhưng những tiếng nổ này cũng không gây áp lực lớn như hai tiếng nổ lúc ban đầu, có thể do lần này khoảng cách có xa hơn hai tiếng nổ đầu tiên. Cho dù có bất cứ điều gì đang xảy ra ở ngoài kia thì rõ ràng nó không phải là nhằm trực tiếp vào anh. Anh vẫn tiếp tục nằm im trong vài phút nữa hòng kiểm tra khả năng suy đoán của mình có thật sự chính xác. Sau này, theo những gì được lưu lại trong báo cáo tình huống của Trực ban Sở chỉ huy khu vực của Bộ Tư lệnh MACV tại đó ghi lại thì từ tiếng nổ đầu tiên ném anh bay xuống đất cho tới những tiếng nổ cuối cùng kéo dài khoảng hai phút rưỡi. Vậy nhưng với tất cả những gì mà D. Marnin thật bình tĩnh ghi nhớ lại thì quãng thời gian đó phải kéo dài gần ba mươi phút. Anh cứ nghĩ rằng chẳng cần nghi ngờ gì nữa đây chắc chắn là một vụ tấn công của lực lượng Việt Cộng. Chỉ hai tuần trước đó, họ đã tấn công vào một đồn cảnh sát ở ngoại ô thành phố Huế và chiếm giữ nó trong một quãng thời gian ngắn trước khi rút đi cùng với mấy chục khẩu súng và nhiều thùng đạn các loại.

Mọi thứ bắt đầu yên tĩnh trở lại. Anh lại mò mẫm quay trở lại buồng ngủ, tìm thấy một cái quần dài, một cái áo phông chơi tennis, một đôi dày thể thao để mặc vội vào rồi lặng lẽ rời khỏi nhà. Tất cả kính cửa sổ ở phòng khách đều đã bị thổi bay. Nhưng mấy bóng đèn đường ngay dưới cổng vào tòa nhà này vẫn còn đang sáng. Khi D. Marnin đi tới cổng và bắt đầu bước ra ngoài thì anh mới xem giờ lần đầu tiên. Lúc đó đã là mười giờ ba mươi phút.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #79 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2012, 04:40:23 pm »

Người hàng xóm mà cũng là người chủ khu đất này là ông Hùng vốn sống ngay dưới tầng một của căn nhà hai tầng liền kề cũng hớt hải chạy ra vói một khẩu súng ngắn trên tay.

- Có chuyện gì thế? Có chuyện gì thế? - ông ta hỏi anh bằng tiếng Pháp.

- Tôi không biết. Tôi chẳng hiểu cái quái gì cả.

- Việt Cộng sao?

- Tôi không rõ. Nhưng có thể đấy.

- Chó chết thật! Tôi đã phải bảo vợ tôi, lũ trẻ cùng người đầu bếp phải nấp ở dưới gầm giường và đừng để những mảnh kính bắn vào người.

- Làm vậy là khôn ngoan đấy.

D. Marnin lại quay trở vào trong nhà. Điện thoại vẫn hoạt động bình thường. Anh không dám bật điện trong phòng bởi vì ở đây không còn cái cửa sổ nào hết. Anh cô gắng mò mẫm trong bóng tối để quay số gọi sang bên sở chỉ huy khu vực của Bộ Tư lệnh MACV. Anh đã tự nguyền rủa là trong cuộc đời mình sẽ không bao giờ không đem theo một chiếc bật lửa hoặc một chiếc đèn pin nữa.

- Doanh trại của của Bộ Tư lệnh Quân viện tại thành phố Huế, Hạ sỹ Carter xin nghe thưa ngài!

- Tôi D. Marnin Phó lãnh sự quán đây. Có chuyện gì xảy ra vậy hả Hạ sỹ?

- Thưa ngài, chúng tôi cũng chưa biết gì hết.

- Các anh không bị tấn công đấy chứ?

- Không thưa ngài.

D. Marnin vội vã đi xuống cầu thang và chạy hớt ha hớt hải dọc theo con đường đến căn cứ của MACV khu vực. Tuy nhiên, khi chạy đến nơi thì anh phát hiện ra rằng anh không mang theo một thứ giấy tờ tùy thân nào hết. Nếu không có thẻ ra vào cổng được cấp riêng thì những người lính gác sẽ không cho anh vào. Thật may mắn là có một viên sỹ quan được điều động tới chỉ huy đội lính gác lập một vành đai bảo vệ quanh khu dinh thự. D. Marnin đã cố gắng thuyết phục được người này tin tưởng vào thân thế và địa vị của mình.

Vào lúc đó, tất cả mọi người đều đã thực hiện đúng các quy định ứng phó vói tình trạng khẩn cấp. Huế nằm rất gần với khu vực biên giới tiếp giáp với Bắc Việt Nam và bất cứ lúc nào người ta cũng có thể tính đến một vụ đột kích từ ngoài biển vào thành phố này mà doanh trại của lực lượng Bộ Tư lệnh MACV chắc chắn sẽ không nằm ngoài mục tiêu bị tấn công. Trong tình huống đó, ai cũng có thể đoán ra lực lượng quân sự Mỹ sẽ phải làm những gì. D. Marnin đi luẩn quẩn khắp nơi trong tình trạng choáng váng và hai tai vẫn còn ù đặc. Cuối cùng, anh cũng mò tói được văn phòng của Trung tá Harrington, một người hói đầu lùn tịt, một sỹ quan pháo binh đang làm nhiệm vụ cố vấn cho Quân đoàn 1 của Ngụy tại khu vực này. Chẳng có ai ở trong phòng làm việc của anh ta nên D. Marnin cứ gõ cửa lấy lệ rồi xông thẳng vào. Lúc này, Đại tá Harrington đang nói chuyện trực tiếp qua hệ thống điện đàm nội bộ với Bộ Tư lệnh MACV ở Sài Gòn.

- ... vâng, thưa ngài. Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang giải quyết nó. - anh ta đang chăm chú trả lời - không có lý do gì khiến chúng tôi phải can dự vào chuyện này hết... không thưa ngài... không thưa ngài, tất cả chúng tôi đều đã nâng cấp sẩn sàng chiến đấu ở mức độ cao nhất và chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục duy trì tình trạng này cho đến khi chúng tôi biết được các thông tin cụ thể từ phía tướng Nghiêm và từ phía ngài thưa ngài.

Ông ta úp chiếc ống nghe lên trên chiếc máy rồi quay lại nhìn D. Marnin sửng sốt.

- Là anh sao Marnin? Tôi đã không thể nhận ra anh được đấy. Chào mừng anh đã đến với thành phố Huế.

- Không sung sướng vậy đâu. Tôi vẫn cảm thấy ổn. Có một tiếng nổ rất lớn gần nhà tôi - anh nói - chính xác phải là hai tiếng nổ lớn. Chuyện gì đang diễn ra ở đây thế?

- Anh đang chảy máu như thể một con lợn bị chọc tiết vậy. Hãy xuống bệnh xá ngay đi. Họ vừa ngồi đánh bài và vừa đợi xem có việc gì để làm không đấy. Làm thế quái nào mà anh lại đến nông nỗi ấy chứ?

- Những mảnh kính ở cửa sổ nhà tôi đâm vào. Vụ nổ này khá lớn đấy. Tôi bị thổi bay khỏi giường khi đang ngủ. Thế chuyện gì xảy ra vậy?

- Có một cuộc biểu tình do những người theo đạo Phật hoặc đạo Cao Đài gì đó tổ chức, một vụ tấn công của các nhóm tôn giáo có vũ trang này gây ra ở trong quảng trường trước cửa đài phát thanh thành phố. Ở đây không việc gì cả. Thôi, anh hãy đi xuống để xem các vết thương ra làm sao đi.

D. Marnin sử dụng luôn chiếc điện thoại của ông Harrington để kết nối liên lạc tới nhà Freddie và bảo anh ta rằng anh phải tới gặp bác sĩ. Cũng giống như Harrington, Loftus không quên động viên anh nên chú ý chăm sóc đến bản thân mình.

Tại bệnh xá có hai người bác sỹ, ba nữ y tá và ba người hộ lý cùng trực ca hôm đó nhưng chỉ có duy nhất D. Marnin là bệnh nhân nên mọi việc cũng diễn ra rất nhanh chóng. Sau khi đã khám kiểm tra các vết thương một cách tỷ mỉ và xác định rằng không có vấn đề gì gọi là nghiêm trọng xảy ra với anh, D. Marnin và nhóm y bác sỹ còn có một trận cười chảy ra nước mắt. Họ bắt anh cởi hết quần áo ra và cho đứng ở giữa phòng rồi lần lượt cứ ba người thành một nhóm thay nhau nhặt hết tất cả các mảnh kính vỡ còn găm trên người anh ra, sau đó dùng thuốc khử trùng lau tất cả các vết thương một cách sạch sẽ.

- Lấy ra này, đau lắm đấy; lấy ra này, đau lắm đấy -Bác sỹ Brandeis, trưởng ca phẫu thuật hôm đó cứ cố gắng pha trò cho mọi người trong kíp trực và động viên bệnh nhân bằng giọng rất hài hước. Anh ta là một trong hai người đàn ông duy nhất của cái kíp trực thiếu dương thừa âm ấy cho nên việc pha trò trước tình cảnh này cũng là dễ hiểu.

- Ôi cái mảnh kính tai hại này, tại sao mày lại biết đường chui đúng vào chỗ tinh hoàn của người ta thế này cơ chứ - anh ta nói - khả năng là tao phải cắt bỏ hai cái hột này vì mày mất thôi.

- Buồn cười thật đấy - D. Marnin trả lòi ngượng ngập.

Họ làm việc rất nhanh và rất hiệu quả cho nên chỉ khoảng 20 phút sau thì D. Marnin đã có thể mặc được quần áo vào. Bác sỹ Brandeis đưa cho anh một lọ thuốc aspirin trộn với codeine và nói:

- Cứ bốn tiếng một lần cậu hãy uống một viên thuốc này nhé. Và nên uống lấy một ly rượu mạnh sau khi về tới nhà nghe không.

- Tôi không sao đâu mà. Nó cũng không đau lắm đâu.

- Nó sẽ đau đấy đừng coi thường - anh ta nói.

D. Marnin chỉnh sửa lại quần áo rồi lững thững đi ra phía cổng chính, lần này thì chẳng ai còn để ý gì đến anh nữa. Đám lính gác đang tản ra xung quanh khu vực phía ngoài vừa hút thuốc vừa tán gẫu. Những bao tải đựng cát đã được xếp thành những hàng ngay ngắn áng ngữ toàn bộ lối vào khu doanh trại. Sự hào hứng và khí thế khẩn trương cũng không còn như lúc đầu. Bấy giờ đã là 11 giờ 05 phút.

D. Marnin đi theo đường Hùng Vương xuống phía bờ sông rồi rẽ trái sang đường Lê Lợi và đi đến phía quảng trường trưóc cửa Đài phát thanh đối diện vói cột ăng ten phát sóng cao ngất ngưởng của chiếc đài này. Mùi thuốc nổ không khói vẫn còn lẩn quất trong bầu không khí vốn đậm chất nhiệt đới quanh đây. Có mấy hố đạn khoét sâu xuống dưới lòng đường. Khu quảng trường bị các xe thiết giáp của lực lượng quân sự phong tỏa toàn bộ và chiếu đèn sáng như ban ngày. Binh lính Ngụy có ở khắp mọi nơi. Tiếng những người bị thương rên rỉ khắp nơi. Họ bị gom lại vào cùng một chỗ với khoảng hai mươi đến ba mươi người nằm, ngồi la liệt ở góc phải của quảng trường ngay cạnh bờ sông để đợi cho các xe cứu thương tới đưa từng người trong số họ đi bệnh viện.

Có khoảng vài trăm người đang tụ tập ở giữa quảng trường - đàn ông đều mặc quần Tây màu kaki, áo cộc tay màu trắng, phụ nữ đều mặc những bộ áo dài truyền thống với đủ loại màu sẵc sặc sỡ để tưởng niệm ngày sinh của Đức Phật mà họ hết lòng tôn kính, rất nhiều người trong số họ còn bế theo những đứa nhỏ trên tay. Tất cả bọn họ cũng như D. Marnin đang đi đi, lại lại một cách rất vô vọng trong trạng thái bị sốc trầm trọng. Không xa chỗ đó là bao, nhiều người khác đang vây quanh thành một vòng trước những thứ gì đó ở dưới mặt đất. Họ đứng sát vào nhau câm lặng một cách đoàn kết khiến cho lúc đầu D. Marnin không thể len vào để xem cái gì ở trước mặt họ.

Anh cố gắng rướn cổ lên và nhìn qua đám đông vào bên trong đó. Rồi anh cố chen vào, gạt bỏ mấy người đứng trước mặt và nhìn xuống đất. Đó là những xác chết, có tám người tất cả - có sáu đứa trẻ và hai người lớn, cơ thể họ bị xé tả tơi, chân, tay, thân mình đều bị đứt đoạn lung tung và máu me lênh láng khắp nơi. Có thi thể của một đứa trẻ khoảng tám tuổi trông còn tương đối nguyên vẹn. Cậu bé đang nằm ngửa trên mặt đất với một khuôn mặt rất thanh thản. Vậy nhưng, D. Marnin chợt nhận ra là cái đầu của nó không còn gắn liền với thân hình. Một ai đó đã cố tình đặt chiếc đầu ấy gắn vào cái cổ và xếp thẳng cả cái thân hình tội nghiệp ấy trong trạng thái rất bình an như vậy.

Nước mắt D. Marnin trào ra, anh sững sờ trong giây lát và ngồi thụp xuống phía sau. Anh phải đi khỏi đây. Anh chạy thục mạng qua quảng trường tới đường Hùng Vương và quay lại nhà mình. Ông Hùng vẫn còn ở ngoài cổng, ngồi lên mấy bậc nhà, hút thuốc lá và vung văng khẩu súng lục trên tay trái.

- Có việc gì xảy ra vậy - ông ta hỏi - tôi nghe trên đài và họ nói rằng không có chuyện gì hết, họ vẫn đang cho chơi nhạc đó thôi.

D. Marnin nhìn ông ta và định nói gì đó nhưng môi anh không thốt ra được lấy một từ. Anh chỉ có thể lắc đầu quầy quậy. Những giọt nước mắt đau đớn, xót xa cứ trào ra thành từng dòng xối xả trên khuôn mặt hốc hác của anh. Anh quay đầu lại rồi lủi thủi lê từng bước lên cầu thang và lầm lũi đi về phòng mình. Cửa phòng vẫn còn đang mở. Anh đã quên không khóa từ lúc nãy. Anh đi thẳng vào nhà tắm, vã nước lạnh lên mặt rồi xoa sà phòng lên và cạo râu. Rồi anh lại vã nước lạnh lên mặt, xoa sà phòng lên để cạo râu một lần nữa. Anh vặn vòi hoa sen và điều chỉnh cho nước thật nóng, nóng đến mức anh không thể chịu hơn được nữa rồi mặc nguyên cả quần áo, cả đôi dày ấy mà đứng lặng đi dưới vòi nước tới tận khi da trên tay anh nhăn nhúm lại. Anh nằm gục xuống nền nhà tắm mà ngủ thiếp đi - cái đầu của đứa trẻ tội nghiệp cứ như chập chờn trước mắt anh, cắn xé tâm hồn anh.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM