Phi công Nguyễn Văn Cốc đã hạ được 1 chiếc “Thần sấm” trong ngày 18-11, trong khi đó người phi công không rõ danh tính bay cùng biên đội với anh trong trận này cũng bắn rơi thêm 1 chiếc F-105 nữa. Đây là trường hợp hãn hữu khi người Mĩ đã không chỉ công nhận bị tổn thất cả 2 máy bay, mà còn chỉ rõ chúng bị hạ trong không chiến với Mig-21: 1 chiếc F-105F số đuôi 63-8295 của Phi đội 34 và chiếc còn lại của Phi đội 469 cùng thuộc Liên đội không quân chiến thuật số 388. Chiếc “Thần sấm” loại 2 người lái bị Nguyễn Văn Cốc bắn rơi kể trên cũng đồng thời là thành tích bắn rơi chiếc máy bay Mĩ thứ 5 trên bầu trời Bắc Việt đã đưa anh lên hạng phi công Át.
Phi công Át - Anh hùng Nguyễn Văn Cốc
Ngày hôm sau, biên đội Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Đăng Kính đã lập công bắn rơi 1 chiếc máy bay tác chiến điện tử EB-66, nhưng không được phía Mĩ công nhận. Thế nhưng vài ngày sau đó, các nguồn tin chính thức của Mĩ đã công bố 1 chiếc F-105D có số đuôi 61-0124 thuộc Phi đội 469 Liên đội không quân chiến thuật số 388 bị Mig-21 hạ, trong khi giới chức Không quân Bắc Việt lại không ghi nhận thành tích này.
Năm 1967 kết thúc với một loạt trận không chiến ác liệt khởi đầu từ trận ngày 12-12. Trận đó, các phi công Mig-21 đã bắn rơi 1 chiếc “Thần sấm” nhưng không được phía Mĩ công nhận. Sự trái khoáy trong báo cáo tổn thất được lặp lại sau trận không chiến ngày 16-12 khi phía Mĩ công bố họ bị tổn thất 1 chiếc máy bay cường kích F-4D có số đuôi 66-7631 thuộc Phi đội 555 Liên đội không quân chiến thuật số 8 do bị Mig-21 bắn rơi, trong khi phía đối phương của họ lại không ghi nhận phi công Bắc Việt nào lập thành tích trong ngày.
Hôm tiếp sau, 1 đội hình 32 chiếc “Thần sấm” và “Con ma” đã bị một biên đội 3 chiếc Mig-21 chặn kích. Trận này, phi công Vũ Ngọc Đỉnh đã bắn rơi liền 2 chiếc “Thần sấm”, và chúng là những chiếc máy bay Mĩ thứ tư và thứ năm trong bảng thành tích thăng hạng phi công Át của anh. Còn chiếc “Thần sấm” thứ ba thì bị trúng tên lửa từ máy bay của phi công Nguyễn Hồng Nhị. Các nguồn tin phía Mĩ chỉ công nhận mỗi một chiếc F-105D có số đuôi 60-0422 thuộc Phi đội 469 Liên đội không quân chiến thuật số 388 là do bị phi công Vũ Ngọc Đỉnh bắn rơi.
Ngày 19-12, phi công Nguyễn Văn Cốc đã bắn rơi 1 chiếc F-105 trên bầu trời Tam Đảo và còn có thêm 3 phi công khác thuộc e921 báo cáo bắn hạ 3 chiếc máy bay không rõ kiểu loại, nhưng người Mĩ không công nhận bất cứ tổn thất máy bay nào trong ngày.
Hoạt động chiến đấu của lực lượng Mig-21 trong năm 1968 đã trở nên hiệu quả hơn hẳn. Ngay ngày đầu tháng Giêng, Trung đoàn không quân tiêm kích 921 đã được bổ sung 29 phi công vừa được học chuyển loại sang lái Mig-21 ở Liên Xô về nước. Món quà đầu năm này tới vừa kịp lúc đang có những trận không chiến ác liệt diễn ra từ hồi đầu tháng.
Sáng ngày 03-01, trên bầu trời Mai Châu xuất hiện đội hình 48 chiếc máy bay Mĩ đang hướng về phía Thanh Sơn, Phú Thọ. Được lệnh xuất kích từ sân bay Kép, biên đội 2 Mig-21 của Nguyễn Đăng Kính và Bùi Đức Nhu đã tạo được thế bất ngờ khi vào công kích đội hình địch từ hướng Mặt trời và ngay cú tiếp cận đầu tiên mỗi phi công đã hạ được 1 chiếc “Thần sấm”. Niềm vui chiến thắng giảm đi phần nào khi chiếc Mig-21 của Nguyễn Đăng Kính trở về hạ cánh đã “vượt rào” xông ra ngoài đường băng làm gãy càng trước. Như các kĩ thuật viên và phi công Việt Nam từng được học từ các thầy Xô viết đều biết rằng nguyên tắc cơ bản khi xử lí các tình huống uy hiếp an toàn bay là “Chớ lấy trứng chọi đá”. Thế nhưng các kĩ thuật viên Bắc Việt dũng cảm đã vác theo xà beng lao tới chỗ máy bay để tìm cách đưa phi công Nguyễn Đăng Kính ra khỏi buồng lái của chiếc máy bay tiêm kích đã bị gãy càng trước một cách lành lặn. Vì thế mà về sau, chiếc máy bay Mig-21 này đã được đem đi sửa không chỉ ở chỗ chiếc càng trước bị gãy, mà còn ở chỗ buồng lái. Phía Mĩ chỉ công nhận mỗi chiếc “Thần sấm” bị phi công Nguyễn Đăng Kính bắn rơi là chiếc F-105D có số đuôi 58-1157 thuộc Phi đội 469 Liên đội không quân chiến thuật số 388.
Anh hùng liệt sĩ - phi công Hà Văn Chúc
Cũng trong ngày 03 tháng Giêng, một tốp Mig-21 khác của Bùi Đức Nhu và Hà Văn Chúc được lệnh xuất kích chiến đấu nhưng không gặp địch. Sau đó vào lúc 3 giờ chiều, một đội hình 36 chiếc máy bay Mĩ bị phát hiện khi chúng bay vào Hà Nội. Phi công Hà Văn Chúc lại được lệnh xuất kích vào lúc 3 giờ 16 phút và nhanh chóng chiếm độ cao 5500 mét bằng với độ cao của đám “Thần sấm”. Trước khi chiếm được thế công kích, máy bay của Hà Văn Chúc đã bị một biên đội 4 chiếc “Con ma” lao vào cản phá. Phi công Chúc lại kéo cao tới độ cao 10000 mét khiến đám “Con ma” tụt lại phía sau. Khi lao xuống đám “Thần sấm” bay thấp mãi phía dưới, do tốc độ máy bay tăng quá nhanh nên Chúc đã không kịp lấy đường ngắm và khiến đám máy bay mục tiêu bị vuột về phía sau lưng (hay nói đúng hơn là máy bay Chúc đã bay vọt qua phía trước máy bay địch). Tiếp tục phát hiện một biên đội “Thần sấm” khác bay ở phía trước, Chúc lại xông vào công kích nhưng một lần nữa bị lỡ thời cơ phóng tên lửa. Khi đồng hồ báo dầu còn khoảng 700 lít không đủ để tiếp tục chiến đấu, Chúc đành đưa máy bay quay về sân bay hạ cánh. Như để trêu ngươi viên phi công dọc theo đường về, anh ta đã gặp cả thảy tới 8 biên đội “Thần sấm” đang trên đường bay vào. Chẳng còn gì mà tiếc, Hà Văn Chúc đã phóng 1 quả “Rắn đuôi kêu” Xô viết về phía máy bay địch từ cự li 3,5 km. Phi công Bắc Việt tuyên bố đã bắn rơi 1 chiếc “Thần sấm”, trong khi phía Mĩ không công nhận tổn thất này. Trong vụ này dù người phi công Bắc Việt có bắn rơi được máy bay cường kích Mĩ hay không, thì đối với Không quân Mĩ, những động tác cơ động lạ kì của Hà Văn Chúc đã giúp đẩy lui một trận không kích vào Hà Nội.