Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:55:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Về người phi công Anh hùng Vũ Xuân Thiều  (Đọc 21930 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2012, 10:08:35 pm »

 Tôi là "phi công tiêm kích" và cũng là tác giả cuốn sách "Vũ Xuân Thiều - phi công cảm tử" do Nhà xuất bản Lao động ấn hành, in xong và nộp lưu chiểu  quý 1 năm 2012. Xin được mạnh dạn chuyển tải lên đây để các bác, các đồng đội có cơ hội hiểu thêm về người Anh hùng phi công từng tiêu diệt B-52 vào tháng 12 năm 1972 này.
 Lời giới thiệu.
 Trải mấy ngàn năm trong suốt chặng đường lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã có biết bao trận đánh - những trận quyết chiến chiến lược, đều giành được những thắng lợi vẻ vang.
 Các trận chiến đấu trên đất liền, trên sông, trên biển với những chiến công vang dội còn lưu truyền mãi cho ngàn đời sau như trận đánh bại quân Nam Hán do Hoàng Thao cầm đầu ( năm 938 ) của Ngô Quyền, trận đánh bại quân Tống trên sông Như Nguyệt ( 1077 ) của Lý Thường Kiệt, đánh tan quân Nguyên Mông ( 1288 ) do Ô-Mã-Nhi cầm đầu của nhà Trần trên sông Bạch Đằng, trận Chi Lăng - Xương Giang ( 1428 ) đại phá quân Minh do Liễu Thăng -Mộc Thạch chỉ huy của Lê Lợi - Nguyễn Trãi, trận đại phá quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi, đánh thẳng vào Tổng hành dinh của Tôn Sĩ Nghị ở Tây Long Cung ( 1789 ) của Quang Trung, trận quyết chiến chiến lược đánh bại thực dân Pháp, bắt sống tướng Đơ Cát Tơ Ri ở Điện Biên Phủ ( 1954 ) của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ...
 Và, lần đầu tiên trong lịch sử, mặt trận trên không đã được mở. Bộ đội Phòng không - Không quân - một lực lượng non trẻ của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình. Họ đã biết kế thừa và phát triển đến trình độ cao những tinh hoa quân sự truyền thống của cha ông, được sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam, sự yêu thương đùm bọc và giúp đỡ của nhân dân, đã lập nên những chiến tích phi thường.
 Đỉnh cao của những chiến tích ấy là đánh bại cuộc tập kích đường không chủ yếu bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 - loại "siêu pháo đài bay bất khả xâm phạm" của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác vào cuối tháng 12 năm 1972, làm nên chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" huyền thoại trong vòng 12 ngày đêm.
 Tác giả cuốn "Vũ Xuân Thiều - phi công cảm tử" coi những dòng viết của mình như nén tâm nhang và như sự tri ân tưởng nhớ Anh hùng liệt sĩ Vũ Xuân Thiều cùng các liệt sĩ phi công khác - những người đã xếp lại những đôi cánh bay của mình trong các trận không chiến, góp phần giành lại cho bầu trời Tổ quốc sự yên bình.
 Tác giả cũng muốn được chia sẻ và biết ơn đến tất cả các lớp phi công đã từng bỏ bao sức lực, trí tuệ của mình cho các chuyến bay, cho các trận chiến vì sự thắng lợi, vì sqwj nghiệp chung, dù bất kỳ ở cương vị nào cũng chỉ coi mình như những người lính canh trời, quyết không để bầu trời bị kẻ thù xâm lấn.
 Trong những trận chiến giành quyền làm chủ bầu trời, có biết bao tấm gương hi sinh quên mình chưa được nhắc đến, đặc biệt là với đội ngũ phi công bay đêm. Tác giả muốn góp một phần nhỏ để bạn đọc hiểu thêm về đội ngũ phi công bay đêm với những chiến công, với sự gian lao, vất vả và sự hy sinh thầm lặng của họ trong cuộc chiến tranh khốc liệt, khi kẻ thù muốn đưa đất nước ta trở về "thời kỳ đồ đá" ...
 Trong chiến dịch "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", lực lượng đánh đêm chỉ có hơn chục phi công, trong khi các sân bay lại bị địch đánh phá ác liệt, đường băng, đường lăn vỡ nát, xung quanh còn đầy rẫy bom thù, nhưng đội ngũ phi công bay đêm vẫn chấp nhận khó khăn, đối mặt với hiểm nguy, cất cánh chia lửa với các lực lượng phòng không khác để đánh địch, góp phần giành thắng lợi vẻ vang.
 Viết về người Anh hùng liệt sĩ - phi công Vũ Xuân Thiều không thể không viết đến các đồng đội, đồng chí của anh - những phi công bay đêm, đánh đêm khác đã từng sống, từng chiến đấu cùng với người Anh hùng suốt cả trong giai đoạn dài kể từ ngày đi học bay đến ngày thành phi công chiến đấu của Trung đoàn không quân chiến đấu. "Một cây làm chẳng nên non". Người Anh hùng liệt sĩ là mối dây liên lạc mật thiết để bạn đọc hiểu thêm các đồng đội của anh.
 Với nhiệm vụ đánh B-52, trận đánh đêm 20 tháng 11 năm 1971 của Vũ Đình Rạng - người đầu tiên giáp mặt và bắn trọng thương "siêu pháo đài bay B-52" đã khẳng định : phi công bay đêm có thể hạ gục được B-52.
 Trận đánh đêm 27 tháng 12 năm 1972 của Phạm Tuân như đã "trả được món nợ" của không quân khi bắn rơi tại chỗ B-52 và trận đánh đêm 28 tháng 12 năm 1972 của Vũ Xuân Thiều đã lập nên kỳ tích sáng ngời tấm gương Chủ nghĩa Anh hùng Cách mạng...
 Để có được một chuyến bay, nhất lại là một chuyến bay chiến đầu cất cánh được lên trời, phải có biết bao nhiêu thành phần phục vụ, đảm bảo cho chuyến bay ấy mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.
 Trong khuôn khổ cuốn sách này, tác giả xin chỉ được nói đến đội ngũ phi công, chủ yếu là phi công bay đêm, đánh đêm bay trên loại máy bay MiG-21.
 Trong quá trình tìm hiểu, khai thác các tư liệu có liên quan đến nội dung cuốn sách này, tác giả đã nhận được sự cổ vũ, động viên và sự nhiệt tình giúp đỡ của nhiều thành phần. Xin được bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình anh Vũ Xuân Thiều và các anh phi công tiêm kích chiến đấu - những đồng đội, đồng chí và bạn hữu của anh Vũ Xuân Thiều.
 Cuốn sách có thể còn có nhiều khiếm khuyết. Rất mong bạn đọc góp ý. Xin chân thành cảm ơn !
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Ba, 2021, 12:48:25 pm gửi bởi ptlinh » Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #1 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2012, 11:07:19 pm »

 Lời mở.
 
 Tháng 4 năm 1965 ở trường Đại học Bách khoa đã xảy ra một sự kiện đặc biệt. Đó là 10 chàng trai - 10 sinh viên của trường có lệnh gọi nhập ngũ vào Quân chủng Phòng không - Không quân để được đi đào tạo thành những người lái máy bay - những phi công tiêm kích chiến đấu.
 10 chàng trai sinh viên đó là :
 Vũ Xuân Thiều - sinh viên năm thứ ba
 Trần Ngọc Nhuận - sinh viên năm thứ ba
 Nguyễn Phú Đức - sinh viên năm thứ hai
 Đặng Xây - sinh viên năm thứ hai
 Trần Thông Hào - sinh viên năm thứ nhất
 Hoàng Quốc Dũng - sinh viên năm thứ nhất
 Doãn Thắng - sinh viên năm thứ nhất
 Phạm Văn Vịnh - sinh viên năm thứ nhất
 Nguyễn Văn Phúc - sinh viên năm thứ hai
 Nguyễn Tiến Sâm - sinh viên năm thứ nhất

 Trong số 10 sinh viên này, có Vũ Xuân Thiều và Nguyễn Phú Đức là cùng học lớp Vô tuyến điện thuộc khoa Điện. Tất cả các anh đều học xong năm thứ nhất, thứ hai, còn anh Thiều, anh Nhuận thì đã học hết năm thứ ba rồi.
 Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa thời bấy giờ là thày Hoàng Xuân Tùy, Bí thư Đảng ủy là thày Bùi Nguyên Cát đã tổ chức chiêu đãi bữa cơm trưa thân mật, gặp mặt 10 sinh viên của mình để động viên và chia tay các trò trước khi sang Liên-xô học tập. Số lượng các sinh viên của trường Đại học Bách khoa nhập ngũ không phải là ít, nhưng số "xếp bút nghiên theo việc đao cung" hơn nữa lại là những người sẽ trở thành các phi công - những người lính canh trời thì chỉ có đợt này là đợt đầu tiên ( của trường, của cả đất nước ) và là đợt rầm rộ nhất.
 Và, 7 năm sau, một trong số 10 chàng trai sinh viên ấy đã lập nên kỳ tích : bắn rơi máy bay ném bom chiến lược B-52 "siêu pháo đài bay" của lực lượng Không quân Mỹ và đã anh dũng hi sinh. Chàng trai sinh viên ấy là Vũ Xuân Thiều - sinh viên lớp Vô tuyến điện.
 Năm 1994, Vũ Xuân Thiều đã được truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
 Các sinh viên khác trong nhóm 10 người cùng nhập ngũ ngày ấy đã chiến đấu ngoan cường trong chiến tranh, đã bắn hạ máy bay của lực lượng Không quân Mỹ, góp phần giữ yên bầu trời. Khi rời khỏi đội ngũ phi công - đội ngũ của những người lính canh trời, họ đã tiếp tục học tập và đảm nhận những cương vị trọng trách của các tổ chức ngoài quân đội. Ví dụ : anh Nguyễn Phú Đức từng giữ cương vị Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam, anh Nguyễn Tiến Sâm ( Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ) từng giữ chức Thứ trưởng Bộ giao thông vận tải, Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, anh Đặng Xây từng đảm nhận cương vị Giám đốc Công ty bao bì xuất nhập khẩu, anh Trần Ngọc Nhuận về công tác ở Viện Chiến lược Bộ giao thông vận tải, anh Doãn Thắng từng giữ chức Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Nga và chức Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền tại Cộng hòa Séc. Anh Trần Thông Hào từng giữ chức vụ Hiệu trưởng trường Không quân Nha Trang, Hiệu trưởng trường Trung Cao Không quân, rồi về Cục Khoa học Công nghệ Môi trường Bộ quốc phòng, anh Hoàng Quốc Dũng là Trưởng khoa Phòng không Không quân ở Học viện quân sự cấp cao ...
 Vũ Xuân Thiều đã để lại những kỷ niệm, những dấu ấn khó phai mờ trong ký ức của mọi người. Và đồng chí, đồng đội, bạn hữu ... nói về Vũ Xuân Thiều như sau :
 Nguyễn Phú Đức - người cùng nhập ngũ, cùng bay năm đầu tiên của đời học viên bay với Vũ Xuân Thiều :
 "Thiều bị cái hay nôn mửa. Chuyến bay trên chiếc máy bay vận tải Li-2 bay từ Cras-nô-đa về Akh-ta-ri, Thiều nôn ghê lắm. Hôm sau khi bay xem địa hình, Thiều còn nôn kinh khủng hơn. Hôm bay trở lại Cras-nô-đa để khám sức khỏe, ngồi lên máy bay là Thiều đã nôn rồi. Khi khám sức khỏe xong, đi ăn trưa, sau bữa ăn trưa vừa ra khỏi nhà ăn, nhác thấy bóng chiếc Li-2 đậu ở ngoài sân đỗ là ngay lập tức, Thiều ngồi thụp xuống, nôn thốc nôn tháo !..."
 Đặng Xây - cựu phi công bay đêm cùng Đại đội bay đêm với Vũ Xuân Thiều :
 "Thiều vóc dáng mảnh khảnh, sức khỏe không được tốt lắm, hay nôn mửa, nhưng được cái dù rằng đã học đến hết năm thứ ba Đại học rồi mà sống vẫn rất chan hòa cùng anh em, không hề khoe khoang, hợm hĩnh."
 Nguyễn Xuân Phong - người cùng đoàn bay năm đầu tiên trên loại máy bay Iak-18a với Vũ Xuân Thiều :
 "Đấy là một gã đầu to. ( Mà quả thực đầu Thiều to thật, cỡ mũ phải lớn thì mới đội vừa đầu ). Tóc hung vàng. Rất hay nhận được thư với phong bì màu xanh, trên đó ghi dòng chữ :
          "Em gửi cho anh
           Chiếc phong bì màu xanh
           Màu ước mơ hi vọng ..."
 Tính tình thẳng thắn, ít nói nhưng nói rất chắc chắn. Học giỏi nhưng tính trầm nên không nổi trội.
 Mà không biết có phải là "điềm gở" không, trong những ngày của "12 ngày đêm", Thiều lại gửi tôi một hộp gồm có thư từ và ảnh nhờ mang về Hà Nội chuyển cho gia đình. Tôi đã chuyển và mấy ngày sau thì Thiều hi sinh !"
 Hà Quang Hưng - đồng đội cùng đoàn bay MiG-21 khóa 3 với Vũ Xuân Thiều :
 "Đấy là một con người trí thức, dáng dấp rất "trai Hà Nội", sống hòa đồng, hiền hậu, thông minh. Một con người sống bằng nội tâm. Tư cách thì vừa như thanh niên thành phố, lại như thanh niên huyện hoặc người Bí thư Đoàn,"
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #2 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2012, 07:03:36 pm »

 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Cốc ( người từng bắn rơi 9 máy bay Mỹ ) :
 "Lực lượng bay đêm là lực lượng đặc biệt, được chuẩn bị đặc biệt và đã lập chiến công đặc biệt trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không". Thiều là người rất hiền, tận tình giúp đỡ mọi người, chân tình như một người chị cả vậy !"

 Vũ Đình Rạng - phi công cùng đoàn bay MiG-21 khóa 3, cùng Đại đội bay đêm với Vũ Xuân Thiều và là người đầu tiên giáp mặt và bắn trọng thương "siêu pháo đài bay B-52" đêm 20 tháng 11 năm 1971 :
 "Đấy là một con người điềm tĩnh, sống chan hòa, giúp đỡ anh em đến nơi đến chốn trong học tập, nhưng không có sự nổi trội trong hoạt động bề nổi "

 Nguyễn Công Huy - phi công từng ở cùng Trung đội bay đêm với Vũ Xuân Thiều :
 "Ấn tượng của tôi khi gặp Thiều là Xuân Thiều có đầu to quá khổ, mái tóc "rễ tre" mọc ngang bướng đâm tủa ra với màu hung vàng như dây đồng. Khi cắt tóc cho Thiều, tôi vẫn đù : "Không cẩn thận, để tóc vụn của Thiều bắn vào mắt thì chỉ có mù !". Và có lẽ, Thiều có biệt danh Thiều "dây đồng" từ đấy. Trong đội ngũ bay đêm thì anh Trần Thông Hào lại có bộ tóc đen như mun , nên có biệt danh Hào "dây chì".
 Vai Xuân Thiều rộng, hông lại nhỏ, tôi ví như "chiếc đàn ghi-ta dựng ngược". Mà Thiều chơi ghi-ta thì cũng buồn cười lắm, cứ phập phừng...phập phừng...Chẳng vậy mà khi viết "Phác thảo về các phi công đoàn bay MiG-21 khóa 3", tôi đã phác thảo chân dung Thiều như sau :
                       Chàng hiệp sĩ dây đồng
                       Chơi đàn tựa bật bông
                       Trời Sơn La xanh thẳm
                       Mãi mãi ghi chiến công !

 Nguyễn Hữu Khoán - nguyên Trưởng tiểu ban Quân lực Trung đoàn KQ 921 :
 "Chúng ta phải cảm ơn Vũ Xuân Thiều, cảm ơn những người như Vũ Xuân Thiều. Các anh đã hi sinh để giành lại sự yên bình. Sự hi sinh của các anh có ý nghĩa lớn lao lắm chứ !".

 Trần Anh Mỹ - phi công bay đêm của Trung đoàn KQ 927 :
 "Khi biên chế về Trung đoàn 927, anh Thiều là Trung đội trưởng của tôi.
 Tôi chưa thấy ai cẩn thận như anh Thiều bao giờ. Mỗi lần nhận được thư người yêu, anh không bóc thư như những người khác mà lấy kéo cắt theo mép phong bì, đọc xong lại xếp cẩn thận vào trong một chiếc hộp. Trước ngày anh hi sinh, mấy anh em ngồi chơi tú-lơ-khơ với nhau. Cứ ván nào anh Thiều về bét là anh ấy lại nói : "Vậy là tao lại cầm chắc cái bằng liệt sĩ rồi !". Chẳng rõ đấy có phải là "điềm gở" không ?. Ngày hôm sau, anh ấy bay đến sân bay cơ động và rồi từ sân bay cơ động ấy, anh xuất kích, hi sinh trong trận đánh trên bầu trời Sơn La".

 Trần Ngọc Nhuận - người cùng học Đại học Bách khoa, cùng nhập ngũ và cùng bay với Vũ Xuân Thiều trong nhiều năm kể từ ngày bay năm đầu tiên của đời bay :
 "Thiều là một trong số ít phi công chiến đấu có dáng dấp thư sinh nhất. Thày I-va-nôp - giáo viên bay trên loại máy bay MiG-17 là người khá cục cằn, hay chửi mắng học viên, nhưng lại luôn ưu ái, quý mến anh chàng học viên trắng trẻo, ăn nói nhỏ nhẹ, dễ chịu này. Về ý thức kỷ luật, tinh thần học tập, rèn luyện thì Thiều luôn là người gương mẫu.
 Ngược lại với vẻ bề ngoài ấy thì tính cách của Thiều lại là người rất có bản lĩnh, khá lì.
 Trong khi thực hành các bài bay huấn luyện xạ kích, Thiều thường xử lí khá táo bạo, quyết liệt, kết quả luôn luôn đạt điểm tối ưu".

 Trần Thông Hào - người cùng Đại học Bách khoa, cùng nhập ngũ, cùng bay với Vũ Xuân Thiều trong nhiều năm, cùng Đại đội bay đêm :
 "Thiều là người rất tốt bụng, trung thực, thẳng thắn, bảo vệ cái đúng đến cùng.
 Là người sống rất có văn hóa, không thích kiểu "đao to búa lớn" mà góp ý với ai thường tế nhị hoặc trao đổi, góp ý, nhận xét riêng chỉ khi có hai người với nhau."

 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Lan - người phi công đầu tiên bắn hạ máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng - Thanh Hóa ngày 3 tháng 4 năm 1965 :
 "Lực lượng phi công bay đêm của ta tuy ít, nhưng bọn Mỹ luôn phải suy nghĩ và tìm cách đối phó. Các phi công bay đêm đã làm nên điều rất đáng tự hào !.
 Xuân Thiều là một phi công rất có kỷ luật, sống có văn hóa, đối xử với nhau rất có tình".

 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đăng Kính - một trong những cán bộ Đại đội đầu tiên khi thành lập Đại đội bay đêm :
 "Thiều là phi công dũng cảm, kiên nghị, rất hăng hái, muốn đánh trận."

 Hoàng Biểu - cựu cán bộ, cựu phi công bay đêm của Đại đội bay đêm :
 "Thiều là một con người sống tình cảm, nghiêm túc trong cả chuyện chung lẫn chuyện riêng. Chấp hành nghiêm mọi nghị quyết, đặc biệt nghị quyết đánh B-52 và đã thực hiện đúng những gì đã ghi trong nghị quyết."

 Bùi Doãn Độ - phi công bay đêm của Đại đội 5 :
 "Anh Thiều là người hiền lành, chân thật, nhưng rất có quyết tâm tiêu diệt địch."

 Nguyễn Khánh Duy - phi công bay đêm của Đại đội 5 :
 "Anh Xuân Thiều là con người tuyệt vời, là người rất cẩn thận, tôn trọng, nâng niu tình cảm. Khi nhận được thư, không bao giờ bóc mà lấy kéo cắt mép phong bì. Có những bức thư anh còn cẩn thận sao chép ra một quyển sổ riêng nữa kia."

 Trần Cung - cựu phi công bay đêm của Đại đội 5 :
 "Thiều tiếp thu nhanh, là người trầm tính, có tính kiên trì, sẵn lòng giúp đỡ đồng đội.
 Trung thành và dũng cảm !"

 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, phi công vũ trụ Phạm Tuân - người bắn hạ B-52 trong trận đánh đêm 27 tháng 12 năm 1972 :
 "Lực lượng đánh đêm của ta mỏng, nhiều lúc không được sử dụng một cách mạnh dạn. Xuân Thiều là một phi công dũng cảm !".

 Nguyễn Văn Quang - cựu phi công bay đêm của Đại đội 5 :
 "Bay đêm là một hoạt động thầm lặng. Khi vào bay đêm thì mới hiểu hết tính chất phức tạp của nó. Bản thân phi công bay đêm phải vượt qua được chính mình để rèn bản lĩnh, chờ thời cơ.
 Xuân Thiều là người có chất nhân văn cao. Một người có tri thức, sống có văn hóa ."

 Vũ Thị Kim Bình - em gái của Vũ Xuân Thiều :
 "Tháng 12 năm 1972, lúc đó tôi đang học ở trường Bưu điện Matx-cơ-va, nhận được tin anh hi sinh, tôi không thể nào tin được. Trước đó tôi đã đến thăm các anh Vũ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Văn Cốc ...ở Mô-nhi-nô. Tôi mơ ước anh được cử sang đó học thì vui biết mấy ... Nhưng tất cả vẫn chỉ là ước mơ và vì không thể tin được rằng anh không còn nữa, nên nhiều tháng sau, khi đang ngồi trên giảng đường, tôi vẫn tưởng tượng rằng anh sẽ đột ngột xuất hiện ở cửa lớp, mỉm cười vẫy tay và ra hiệu đợi tôi ngoài hành lang, giống như bốn năm về trước anh đã đột ngột đến đón tôi ở Đan Phượng ... Và mãi mãi điều đó chỉ là giấc mơ ...
 Dù sao tôi nghĩ, anh Thiều đã sống một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa. Anh đã thực hiện được ước mơ từ bé của mình : lái máy bay tiêm kích. Anh đã sống hết mình với tình yêu của mình : tình yêu đất nước, gia đình, bạn gái, và rất yêu bầu trời !"...

Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #3 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2012, 09:24:27 pm »


 Trở thành học viên bay.
------------------------

 Vũ Xuân Thiều là người con thứ 7 trong gia đình. Trên Thiều có các chị, các anh : Vũ Thị Kim Thịnh, Vũ Xuân Thăng, Vũ Thị Kim Quy, Vũ Xuân Quang, Vũ Thị Kim Ngân và Vũ Thị Kim Nhu. Sau Thiều còn có 3 người em nữa là Vũ Thị Kim Ánh, Vũ Thị Kim Bình và Vũ Hữu Nghị.
 Ông bố của Thiều - ông Vũ Xuân Sắc là người ở An Trạch, Hải An, Hải Hậu, Nam Định. Thời trẻ, ông rời quê lên thành phố Nam Định trọ học. Quý mến chàng trai quê An Trạch với tính tình hiền hậu, khôi ngô, thông minh ... ông bà chủ nhà đã gả con gái của mình là Vũ Thị Vượng cho chàng trai trọ học ấy. Vậy là chàng trai trọ học và cô con gái chủ nhà đã nên duyên vợ chồng.Ông Sắc và bà Vượng tổ chức lễ cưới khi bà Vượng vừa tròn 17 tuổi. Một năm sau, cô con gái đầu lòng Vũ Thị Kim Thịnh ra đời.
 Rồi ông Sắc rời Nam Định lên Hà Nội học ở trường Bưởi. Công việc gia đình một mình bà Vượng chăm lo, xoay sở. Bà lẳng lặng thu xếp mọi việc : chăm con, lo miếng cơm, manh áo cho chồng yên tâm đèn sách. Rồi các con cứ lần lượt thi nhau ra đời, thi nhau ăn, thi nhau lớn ... Bà như hình bóng "con cò lặn lội bờ sông", tần tảo tháng ngày không hề hé răng kêu ca nửa lời, hết mực yêu chồng, thương con.
 Thời gian học ở trường Bưởi, ông Sắc đã sớm được giác ngộ lí tưởng cách mạng, nên dù đang đi học ông đã là một thành viên tích cực tham gia rải truyền đơn tuyên truyền cho cách mạng. Vì vậy, khi ông đang học tú tài phần hai, ông đã bị mật thám Pháp và chính quyền bảo hộ trục xuất khỏi Hà Nội. Ông buộc phải trở lại thành phố Nam Định. Về Nam Định, dù bị quản thúc nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng dưới sự dìu dắt của các cụ Nguyễn Lương Bằng, Đặng Viết Châu ...
 Một thời gian sau, phần vì lo cho ông Sắc đã bị mật thám Pháp theo dõi, có tên trong sổ đen, đang bị quản thúc nên hoạt động sẽ có nhiều khó khăn, phần vì Đảng cũng cần phải có nguồn tài chính để hoạt động nên tổ chức đã động viên ông Sắc chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực kinh doanh để lấy tiền giúp Đảng và các đồng chí hoạt động.
 Vợ chồng ông Sắc - bà Vượng chuyển sang làm kinh tế - mở cơ sở dệt vải, làm đũi.
 Cơ sở sản xuất của ông bà vừa là nguồn cung cấp kinh tế cho Đảng, vừa là nơi nuôi giấu các cán bộ của Đảng như các cụ Đặng Xuân Khu, Nguyễn Lương Bằng ...
 Từ năm 1942-1943, khi phát xít Nhật đem quân vào Đông Dương, mọi hoạt động đều bị ngừng trệ, cơ sở sản xuất vải, đũi của ông bà cũng đóng cửa. Ông bà không làm kinh tế nữa mà chuyển sang hoạt động trong "Hội truyền bá Quốc ngữ" rồi đi lên chiến khu tiếp tục hoạt động.
 Đầu năm 1945, ông Sắc được cử đi dự Đại hội Quốc dân được tổ chức ở Tân Trào để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
 Tháng 2 năm 1945, Thiều ra đời.
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #4 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2012, 09:47:03 pm »

 Lí do đặt tên là Thiều - có lẽ có phần nào gắn với tên của anh ngay trên Thiều là Vũ Xuân Quang với câu thơ trong truyện Kiều của Nguyễn Du : "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" chăng ?. Cũng chẳng ai khẳng định được ý tứ sâu xa của ông bà khi đặt tên cho Thiều, nhưng dầu sao "Thiều Quang" vẫn có nghĩa là "ánh sáng đẹp". Anh Quang là "ánh sáng" rồi thì Thiều là "đẹp". Và năm 1945, vận mệnh của Đất Nước cũng bắt đầu xoay chuyển theo hướng tốt đẹp.
 Khi chiến tranh bùng nổ, ông Sắc đi theo kháng chiến, bà Vượng đưa các con về quê. Đến cuối năm 1946 thì bà Vượng lại bồng bế, dắt díu các con lên thuyền, ngược Nho Quan đi theo kháng chiến. Cụ Nguyễn Lương Bằng đã tổ chức đưa gia đình lên chiến khu. Cả nhà được đưa lên một chiếc xe ô-tô "đít vịt" do ông Đóa lái đến Hòa Bình. Từ Hòa Bình lên Tuyên Quang là phải đi theo đường thủy. Đến cây số 7 của Tuyên Quang thì thấy có một số gia đình cùng lên chiến khu đã đợi nhau ở đấy. Họ tập trung lại cùng nhau và cùng tạm trú trong một nhà kho. Dọc hai bên đường có rất nhiều bom đạn các loại chất thành từng đống. Không khí chiến tranh bao trùm khắp các thôn làng. Bà Vượng bế Thiều trên tay, rồi dắt díu các anh các chị của Thiều. Tất cả vây quanh bà, sợ sệt, lo âu. Không sợ sệt sao được khi tất cả các anh chị tuổi đều còn nhỏ, chưa nếm mùi bom đạn bao giờ mà nay thấy cơ man nào là bom xung quanh, lạiowr một nơi lạ nước lạ cái, chẳng bóng dáng người quen thuộc nào, rừng rú thì um tùm, núi non trùng điệp, quạnh hiu ...
 Một thời gian sau thì cả nhà lại xuống mảng, trôi theo dòng sông Gâm đi Chiêm Hóa, về phố Chinh. Hồi bấy giờ, anh Thăng mới lên 8 thôi, nhưng không biết anh đã học được ở đâu và cũng không biết ai đã dạy anh nữa mà anh đã biết hát bài "Nụ cười sơn cước", rồi "Sơn nữ ca" ... Có lẽ, trong khung cảnh núi rừng xanh ngút ngàn với những dốc cao vời vợi, những con đường nhỏ quanh co ẩn mình trong lau sậy, chìm trong mù sương cùng những đêm rừng sáng bừng lên dưới ánh trăng ... đã làm anh sớm cảm nhận được chất thi vị của thiên nhiên và chất men say của những lời ca nốt nhạc chăng.
 Anh Thăng còn nhớ, khi Thiều lên 2 tuổi, hoặc lớn hơn 2 tuổi một chút gì đó, Thiều bị một mụn nhọt rất to ở đằng sau lưng hành hạ. Mụn nhọt mọc ở vị trí ấy được gọi là "hậu bối", nó khá nguy hiểm, có trường hợp còn bị thiệt mạng vì nó. Thiều sốt nóng hầm hập mấy ngày liền. May mắn làm sao rồi cũng khỏi.
 Rồi gia đình lại dắt díu nhau chuyển về Tân Phong, Hạ Hòa, Phú Thọ. Về Phú Thọ thì anh em Thiều có điều kiện được đi học chứ ở vùng Chiêm Hóa thì vô cùng khó khăn, học hành sao được. Thời đó có lẽ là mới manh nha mô hình lớp mẫu giáo. Thiều được đi học lớp của cô Sâm và cô Bình. Hai cô rất quý mến và thương đàn em nhỏ của lớp mình phụ trách. Lớp học chỉ là nhà tranh vách nứa nhưng có các giao thông hào đào xung quanh để khi có máy bay địch đến đánh phá thì các em còn được nhanh chóng chạy ra các hầm ẩn nấp, đảm bảo an toàn. Thời ấy, máy bay oanh tạc của Pháp thường xuyên bay lượn trinh sát  và đánh phá các cơ sở của ta ở chiến khu. Trên Tuyên Quang đã có những lớp học bị chúng bắn, ném bom và đã có những em học sinh bị sát hại. Những cô bé, cậu bé còn thơ ngây, non dại ... đã bị những mảnh bom, mảnh đạn ấy cắt đứt tuổi thơ. Cô Sâm, cô Bình rất lo lắng cho các em học sinh của mình, các cô cố bảo vệ, che chở các em như gà mẹ xòe cánh chở che cho đàn con của mình trước sự đe dọa của lũ cú diều.
 Cũng ở đất Phú Thọ này, có lần anh Thăng trèo lên cây hồng để trẩy hồng ném xuống. Không hiểu do Thiều vồ hụt hay vấp ngã khi đuổi theo quả hồng mà bị gãy xương đòn. Thiều khóc váng lên. Anh Thăng cũng khóc, phần vì thương em, phần vì sợ. Cũng may mắn làm sao, ở gần đấy có ông lang chuyên chữa về bệnh xương, khớp ... tên là ông Lý Mạc. Thiều được đưa đến nhà ông. Ông đã bó xương cho Thiều và chiếc xương đòn của Thiều đã lành, không để lại di chứng gì.
 Cách mạng Thàng Tám thành công. Ông Sắc tham gia Ủy ban hành chính tỉnh Nam Định, phụ trách công tác tuyên truyền và là một trong những người tham gia lãnh đạo của tỉnh Nam Định. Thời gian Toàn quốc kháng chiến, ông được giao nhiệm vụ Ủy viên Ban kinh tế của Trung ương Đảng, lên chiến khu xây dựng căn cứ và nhận trọng trách thành lập nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo. Ông liên tục được giao các nhiệm vụ Cục phó Cục tiếp tế vận tải, Cục phó Cục bách hóa, Cục trưởng Cục bông vải sợi rồi Tổng giám đốc Tổng công ty dệt may Việt Nam.
 Ông Sắc đi hoạt động cách mạng, mọi việc nhà vẫn chỉ mình bà Vượng sắp xếp, thu vén. Thời gian gia đình chuyển lên chiến khu, ngoài việc chăm lo việc nhà bà còn tham gia công tác Phụ nữ. Sau này, bà đã được Hội liên hiệp Phụ nữ tặng danh hiệu "Người Phụ nữ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc" vì những công lao, đóng góp, cống hiến của bà đối với đất nước. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, gia đình bà đã có 4 người con tham gia quân đội, trong đó có 1 người là liệt sĩ.
 Sau ngày Thủ đô được giải phóng, gia đình Xuân Thiều theo bố về sống ở Hà Nội. Bấy giờ, gia đình có đầy đủ 1 tiểu đội : 12 thành viên gồm bố,mẹ và 10 người con. Thu nhập của 2 ông bà không đáng bao nhiêu, dù lúc này ông Sắc đã giữ chức Cục phó, bà ượng thì chỉ là một nhân viên của cửa hàng giao tế, phải lo lắng, tính toán đủ mọi thứ. Mười người con, mà các con lại đang ở tuổi ăn tuổi lớn ! Ăn mặc còn có thể còn thiếu thốn, nhưng không thể để các con thiếu học được. Vậy là phải tìm đủ mọi cách để có thêm thu nhập. Gia đình sẵn có chiếc máy may, mấy chị em trong nhà tranh thủ mọi lúc để người may, người đi trả hàng. Thời gian nghỉ hè, mấy anh em trai cũng chia nhau đi tìm việc, người thì xuống cảng làm phu khuân vác, người thì đi kéo gỗ thuê ... còn mấy chị em gái thì may, trông trẻ, tính toán thuê ... Chỉ riêng cậu em út Vũ Hữu Nghị vì còn nhỏ nên được "ưu tiên" không phải làm gì thôi. Chính vì vậy mà con cái trong gia đình không ai bị gián đoạn trong việc học tập và tất cả các anh chị em đều miệt mài trong việc học, coi trọng việc học là công việc hàng đầu.
 Sau này, cả 10 anh chị em đều tốt nghiệp Đại học, trong đó có 5 người là Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học.
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #5 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2012, 03:36:49 pm »

 Nhớ lại thưở ấu thơ, nhớ lại cái thời gian khổ và những kỷ niệm về Vũ Xuân Thiều, cô em gái anh - Vũ Thị Kim Bình - người có nhiều thời gian gắn bó với anh trai mình nhất cho biết :
 "Khi gia đình ở Phú Thọ, anh Thiều hơn tôi 6 tuổi. Mẹ tôi kể lại - khi sinh tôi ra, mẹ bảo anh đến xem mặt em bé, anh đã kêu lên : "Eo ôi ! Sao em bé lại đỏ hon hỏn như thế ?". Nhà tôi tản cư, ở trên một quả đồi, hàng ngày các anh chi đi học, anh ở nhà chơi với tôi và với một con chó tên là Bốp. Các anh chị ngoài việc học còn nhận giã gạo, may quần áo quân nhu. Có một lần, anh Thiều nghịch, lấy chiếc nồi đồng úp lên đầu tôi. Vì trán tôi dô nên lúc lấy nồi ra thì không thể lấy được, mọi người lớn trong nhà lại đi vắng hết, chỉ còn có mấy chị em, lo sợ đến phát khóc, may mà có ông bạn của bố đến chơi, thấy thế liền tìm cách lấy ra hộ. Đó là một kỷ niệm thật khó quên mà các chị Thịnh, chị Quy vẫn thường hay nhắc lại.
 Về sau này, khi đã về đến Hà Nội, nhà tôi thuê hết tầng dưới của căn nhà số 15 Lê Văn Hưu. Đó là một ngôi nhà có cổng dài phía bên hông và có sân bên trong. Chị em chúng tôi thường chơi ở sân đấy. Lúc đó anh Thiều đã bắt đầu mê chơi mô hình máy bay rồi. Anh thường làm mô hình máy bay rồi thả cho bay là là trong ngõ và trên vỉa hè dưới gốc cây cơm nguội to, cao ... Anh thường có bạn đến chơi đá bóng trong cổng. Đôi lúc, để tôi khỏi lè nhè đòi chơi, anh cho tôi đứng bắt gôn cho đỡ vòi vĩnh. Nhiều hôm, sau khi mưa, anh dắt tôi sang nhà hàng xóm ( nhà số 11 Lê Văn Hưu ) ở đó, trong cổng nhà có vũng nước mưa. Anh cắt tấm bìa, gấp làm thuyền, gắn xà phòng vào đuôi thuyền, thả cho chạy lòng vòng trong vũng nước. Tôi rất thú vị khi được tham gia những trò chơi đó với anh vì anh không coi tôi là "nhóc con", mà coi tôi như một người bạn. Nhưng đôi lúc trò chơi bị gián đoạn bởi có một cậu bé bằng tuổi tôi thôi nhưng vì rất tinh nghịch nên bị nhốt ở trên gác, thành thử cậu bé có vẻ tức tối, tìm mọi cách để phá đám. ) Và cũng chẳng ai ngờ được, 18 năm sau, cậu bé tinh nghịch ấy lại trở thành "ông xã" của Bình ! )
 Các anh chi tôi chênh lệch tuổi nhau không nhiều, sàn sàn như nhau nên đối xử với nhau rất thân thiện. Hàng ngày, sau khi ăn tối xong, làm xong hết việc nhà, mọi người lại cùng chơi đùa trong sân. Tôi thường không được tham gia vì còn nhỏ quá, nhưng vì tính hay khóc nhè và đòi chơi cho bằng được nên nhiều lúc các chị thường tắt hết đèn, giả làm ma để dọa tôi. Tôi còn nhớ, hồi đó, các anh chị hay chơi trò "quân xanh, quân đỏ", rồi trốn tìm ... cùng với các anh con bà chủ nhà. Nhà tôi bấy giờ tròn 10 anh chị em, 2 anh chị lớn thoát ly, còn lại là 8 anh chị em. Tôi 6 tuổi, còn em Nghị thì vừa mới ra đời nên tôi và em Nghị không phải làm gì. Còn lại 6 anh chị thì được mẹ lập cho bảng phân công công việc dán ở giữa nhà. Mỗi người đi học một buổi, buổi còn lại phải làm việc nhà : dọn dẹp, lau chùi nhà cửa, nấu cơm, may gia công quần đùi ( vì mẹ làm ở cửa hàng giao tế nên nhận hàng về may để có thêm thu nhập ). Tối đến, tất cả ngồi vào bàn học bài. Bố mẹ vào tối thứ Bảy hay đi xem phim ở rạp Tháng Tám, đôi lúc có cho tôi đi theo. Đó thực sự là những phút giây hạnh phúc đối với tôi khi tôi được đi một tay năm bên bố, một tay nắm bên mẹ, vừa đi vừa nhìn ông Trăng đi theo mình từng bước ...
 Mùa hè, khi được nghỉ hè thì tất cả các anh chị đều đi làm thêm để kiếm tiền mua sách vở, chuẩn bị cho năm học mới. Tôi nhớ những bữa cơm ở nhà tôi : một nồi cơm to đặt trên chiếc ghế để cạnh bàn, thức ăn chủ yếu là rau, dưa ... Ghế chỉ có mấy chiếc nên để giành cho người lơn tuổi ngồi ( hồi đó, ông ngoại cùng sống chung ở nhà tôi ). Tất cả anh chị em chúng tôi đều đứng xung quanh bàn ăn, mỗi người được phát một chiếc bát to, cho cơm và rau dưa vào đó, tiêu chuẩn chỉ có vậy thôi, ăn cái "vèo" là hết. Chiếc bàn ăn lịch sử đó in đậm trong tâm khảm của chị em chúng tôi : nó có màu đen, vuông, bằng gỗ lim, cũ kỹ. Nó có thể được kéo ra thành 2 nửa rồi đặt thêm vào một tấm gỗ ở giữa, lại ghép lại để thành một chiếc bàn lớn dùng những khi lễ Tết có đông người hơn.
 Chiếc bàn đó ở với gia đình tôi suốt cho đến năm 2002 - khi mẹ tôi mất. Nó đã chứng kiến biết bao sự kiện của gia đình tôi từ năm 1956 cho đến khi mẹ tôi mất. Đó vừa là bàn ăn, vừa là bàn học của cả nhà. Vào những ngày cuối hè, tất cả anh chị em chúng tôi đều quây quần quanh chiếc bàn để bọc sách vở, dán nhãn vở ... chuẩn bị cho năm học mới thật là náo nhiệt, vui vẻ. Những đêm Trung Thu, chị Ngân khéo tay thường cắt, tỉa những quả bưởi rồi bôi phẩm xanh, phẩm đỏ lên, trông thật vui mắt. Tất cả đều được bày xen lẫn với những quả hồng ngâm, ngắm đẹp lắm. Một mâm quả đến là to cùng với những tràng hoa giấy nhiều màu sắc sặc sỡ do cả nhà cùng chung tay làm , được chăng ngang, căng dọc đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tôi cho đến tận bây giờ. Đêm không đèn nến, chỉ có ánh trăng trên bầu trời chiếu sáng mảnh sân nhỏ - ánh sáng thật dịu dàng, lung linh. Tôi ngồi trong lòng mẹ, cạnh mâm cỗ, các anh chị thì nô đùa, chạy nhảy xung quanh. Không khí mới ấm áp, xum vầy, hạnh phúc biết bao !
 Sau này, khi chuyển lên phố Đặng Dung, tôi đã học lớp 1, anh Thiều thì tham gia Câu lạc bộ mô hình máy bay, làm nhiều mô hình máy bay rất đẹp, hay thả trên hè phố. Phố Đặng Dung hồi ấy thơ mộng lắm : phố vắng vẻ, hai bên đường có những cây cơm nguội và cây sọ khỉ cao vút. Mùa hè đến, lá cây rụng đầy hai bên đường, tiếng ve kêu râm ran suốt ngày. Mấy anh em chơi thả máy bay bên lề đường. Tôi đoán, chắc là lúc đó anh Thiều đã có ước mơ trở thành phi công rồi. Anh không chơi khăng, chơi đáo như những đứa trẻ khác. Trong trí nhớ của tôi, anh chỉ chơi đá bóng và mô hình máy bay mà thôi. Tính tình anh điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ, dí dỏm và hay quan tâm đến các em. Anh có nhiều bạn thân, trong đó có các anh học sinh miền Nam tập kết thường đến nhà tôi chơi và nhiều khi cũng cùng ăn cơm với cả gia đình. Các anh cùng học, cùng chơi với nhau suốt cả ngày. Đến tận bây giờ, như anh Minh - sau khi đã trở về Nam chiến đấu, sau bao năm xa cách, anh vẫn nhớ, tìm lại gia đình, nhắc lại những kỷ niệm cũ, vẫn thân tình như xưa.
 Ở Đặng Dung, việc nấu cơm đã có bà nội giúp đỡ, nhưng anh chị em chúng tôi vẫn phân công nhau làm việc nhà. Tôi nhớ, có một buổi trong tuần, việc nấu cơm đến lượt anh Thiều và tôi đảm nhận, nhưng anh biết tính tôi vốn lười nhác nên anh chỉ yêu cầu tôi đóng mùn cưa, còn anh sẽ lo hoàn toàn mọi công việc còn lại. Anh đã nấu rất nhanh và ngon.
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #6 vào lúc: 10 Tháng Mười Hai, 2012, 07:36:06 pm »

 Anh chị em tôi cứ thế lớn dần lên. Anh Thiều vẫn học giỏi và vẫn mơ ước trở thành phi công. Từ khi anh học lớp Tám, trên mỗi cuốn vở của anh đã thấy xuất hiện những chiếc máy bay phản lực ở góc trên cùng bên phải. Hồi đó anh học ở trường cấp 3 Nguyễn Trãi ( trường buổi sáng là trường Nguyễn Trãi, buổi chiều là trường Chu Văn An ). Hàng ngày đi học trên đường Phan Đình Phùng giữa hai hàng cây sấu cao thẳng tắp, hoa sấu trắng rụng đầy đường với mùi hương thơm chua ngan ngát, chắc anh đã có những giây phút thả hồn theo những giấc mơ bay vút lên trời cao ... Đến khi anh học lớp 10, khi khám tuyển, anh bị trượt ở vòng quay thử. Sau lần đó, sáng sáng anh đều lên sân thượng tập thể dục. Anh nói với tôi rằng anh phải tập quay đầu để không bị chóng mặt trong đợt khám tuyển sau. Anh nhất định thực hiện được ước mơ của mình. Sau đó anh thi đỗ vào Đại học Bách khoa, vào khoa Vô tuyến điện. Anh đã bắt đầu có những bạn gái đến chơi nhà. Mỗi khi có chị nào đến chơi, anh thường dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị cốc chén uống nước sạch sẽ, ngăn nắp, chu đáo lắm. Hồi đó đã có mấy chị "để ý" đến anh, trong đó có cả các bạn gái của chị Ánh - người em gái liền kề với anh. Trong tâm trí của tôi, anh không đẹp trai lắm nhưng rất đàn ông : tóc cứng hơi dựng lên, lông mày hơi xếch, dáng đi khoan thai, lưng hơi gù một chút nhưng đĩnh đạc, tính tình điềm đạm, ít nói, mà nói chuyện nhẹ nhàng, dí dỏm, có duyên nhưng chưa bao giờ tôi thấy anh giới thiệu ai là người yêu cả.
 Năm 1965, chiến tranh lan ra miền Bắc, tôi sơ tán về Đan Phượng - hà Tây ở với chị dâu cả. Anh Thiều đang học năm thứ 3 trường Đại học Bách khoa và đã trúng tuyển phi công. Chủ nhật đó, anh đạp xe về Đan Phượng thăm tôi. Hai anh em đi chợ mua sắm mọi thứ cần thiết về nấu cơm. Trong căn bếp nhỏ lợp mái tranh, anh đã hướng dẫn cho tôi cách đun bếp bằng rơm và chỉ bảo tôi cách nấu tôm :
   - Em không được đậy vung khi đun !
   - Vì sao vậy anh ?
   - Vì nếu đậy vung thì sẽ có mùi khai của tôm, sẽ khó ăn !
 Hai anh em tôi nói chuyện với nhau nhiều lắm, chủ yếu là anh dặn dò tôi, dặn đủ điều. Đến chiều, anh lại đạp xe về Hà Nội và một tuần sau đó tôi cũng về. Tôi và em Nghị đến trường Đại học Bách khoa để tiễn anh lên đường nhập ngũ..."
 Xuân Thiều đã "trốn" gia đình đi khám nghĩa vụ quân sự, và chỉ khi trúng tuyển đợt đào tạo phi công do Quân chủng Phòng không - Không quân tuyển, anh mới báo tin cho gia đình biết. Khi gia đình biết tin thì cũng đã cận ngày Thiều cùng 9 anh em khác của trường Đại học Bách khoa hợp nhất cùng các đoàn khác ở các nơi trúng tuyển chuẩn bị tập trung về đơn vị. Về đơn vị một thời gian ngắn để học chính trị, học nội quy và các quy định trong Quân đội xong, tất cả sẵn sàng lên đường. Ai cũng háo hức mong chờ, thấp thỏm ... với nhiều niềm vui, nỗi lo khác nhau.
 Ngày 22 tháng 6 năm 1965, cả đoàn nhận được lệnh lên tàu Liên vận đi sang Liên Xô để học tập. Theo thông báo, tàu sẽ rời ga Hàng Cỏ ( nay là ga Hà Nội ) vào lúc 11 giờ 30 phút, nhưng có lẽ vì lí do bảo vệ an ninh và nhiều lí do khác nữa nên tận 4 giờ chiều tàu mới chuyển bánh. Cũng vì vậy mà trên sân ga vắng bóng người đưa tiễn. Các chàng sinh viên nay đã là các tân binh, mỗi người một tâm trạng khác nhau... trong khung cảnh kẻ ở, người đi ... Người ở lại phải gánh chịu những nỗi vất vả, gian truân không chỉ trong cuộc sống thường ngày với miếng cơm, manh áo mà còn phải vật lộn trong cuộc chiến tranh tàn khốc nữa. Bom rơi, đạn nổ ... biết thế nào mà lường !
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #7 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 11:12:22 am »

 Người đi chắc chắn sẽ đến nơi thanh bình, yên ổn - đến với thành trì của phe Xã hội Chủ nghĩa - một đất nước tươi đẹp như trong mơ. Chỉ cần thấy thoáng qua những thước phim trên màn ảnh hoặc qua những tấm bưu thiếp, những bài bái, qua Đài tiếng nói Việt Nam ... là đã có thể tưởng tượng ra được đất nước của người "Anh Cả" bao la, hùng vĩ ... đến nhường nào rồi.
 Đoàn tàu Liên vận rú còi, khởi hành lên phương Bắc. Tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray tạo ra âm thanh nặng nề, đều đều, đơn điệu đến khó tả. Không ai bảo ai, người nào cũng cố nhìn kỹ những hình ảnh của Quê hương Đất nước, cố lưu lại trong tâm khảm mình những hình ảnh nguyên vẹn cùng những kỷ niệm trước khi rời Tổ quốc. Nay mai đây, biết đâu lúc trở về, những hình ảnh này không còn được như bây giờ nữa. Trong chiến tranh, mọi chuyện đều có thể xảy ra lắm chứ.
 Cố ghi nhận những hình ảnh của Quê hương Đất nước chạy dọc hai bên đường. Cố ghi lại những khuôn mặt người dân Việt trên đường lên biên giới để rồi chính những hình ảnh, những hình bóng, những khuôn mặt ấy cùng với những người thân thương của mình sẽ là nguồn động viên lớn lao trong học tập, trong thời gian xa Quê hương ...
 Hầu như không ai nói với ai nhiều, nhưng chừng như ai cũng có chung luồng ý nghĩ khi xa quê.
 Tàu dừng lại ở ga Đồng Đăng hơn một tiếng đồng hồ để là thủ tục xuất cảnh. Vậy đây đã là nơi cuối cùng giáp biên giới Tổ quốc rồi ! Chẳng bao lâu nữa, Quê hương sẽ ở lại phía sau, ngày càng xa vời .... Đằng trước đã là nước bạn - đất nước Trung Quốc - "Anh Hai" của phe Xã hội Chủ nghĩa ... Điều gì đó cứ xốn xao trong lòng. Điều gì đó đang xảy ra ngay trong mình mà sao khó nói, khó tả ...
 Rồi tàu rời Đồng Đăng lúc 11 giờ đêm. Khi đến đúng biên giới, tàu dừng lại ở đó 1 phút như để chia tay với Quê hương và để lấy đà đi tiếp chặng đường xa. Tất cả mọi người trong toa tàu không ai bảo ai đều thò đầu, thò tay ra ngoài vẫy chào những người dân của mình đang sinh sống ở biên giới. Phút chốc, bỗng thấy mọi người sao mà thân thương đến lạ. Bỗng thấy sao mà yêu, mà quý mọi người đến thế. Bỗng thấy sao mà xúc động, mà nao lòng đến vậy. Quê hương ơi ! Đất nước ơi ! Vậy là phải chia tay, phải rời xa rồi ! Chúng tôi đi đây ! Đi để học tập, rèn luyện, để sớm trở về góp phần nhỏ bé của mình bảo vệ, dựng xây Đất nước này. Chúng tôi sẽ không hề tiếc sức lực, không hề tiếc cả bản thân mình, quyết giữ cho Đất nước được thanh bình, cho những người dân miền biên ải này được yên ổn làm ăn. Chúng tôi sẽ làm mọi thứ để sau này có dịp gặp lại, lại thấy những khuôn mặt từng gặp hôm nay rạng ngời trong hạnh phúc.
 Loa phóng thanh trên tàu truyền đi bản nhạc với tiếng đàn bầu réo rắt. Ôi ! Tiếng đàn bầu huyền diệu ! "Cung thanh là tiếng Mẹ, cung trầm là giọng Cha ...". Đàn chỉ có một giây thôi mà sao biểu lộ được mọi cung bậc với mọi âm vực ... Đàn như hút hồn người vào thế giới âm thanh mê hoặc ! Tiếng đàn bầu réo rắt trong đúng khung cảnh giữa biên giới lúc sắp xa quê này sao mà thao thiết, sao mà khuấy động lòng người. Lòng ai cũng rưng rưng. Lại nhớ đến những câu thơ trong bài thơ "Tống biệt hành". Nhưng không ! Chúng tôi đi để rồi "đủ lông, đủ cánh" bay lượn trở về bảo vệ cho bầu trời thanh bình, cho bầu trời mãi mãi xanh trong, không vẩn đục bóng thù, cho tiếng đàn bầu ngân vang mãi trong thinh không, cho tâm hồn lắng lại, thư thái ... giao hòa cùng đất trời !.
 Chào nhé ! Chào Đất Mẹ thân yêu ! Chúng con lên đường đi tiếp đây ! Chúng con đi với sự sôi nổi, hăng say đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ để tiếp thu khoa học kỹ thuật mới, để rồi khi chúng con trở về sẽ như những cánh đại bàng giữ yên Đất Mẹ !. Đất Mẹ luôn là nơi tiếp sức cho chúng con và là nơi đón nhận chúng con với sự yêu thương. Chúng con hứa sẽ học thành tài, sẽ trở thành những dũng sĩ canh trời !.
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #8 vào lúc: 11 Tháng Mười Hai, 2012, 11:24:03 pm »

 Nhớ lại, cũng chỉ cách đây 20 năm thôi, khi quân đội ta mới ra đời với số lượng ít ỏi và trạng bị vũ khí còn thô sơ mà đã "đánh Đông dẹp Bắc" thật oai hùng. Anh Vũ Như Ngữ - phi công của Đại đội 5 bay đêm có viết bài báo tường với những dòng như sau :
   "Quân đội ta ngày ấy
   Toàn là dân cày cấy
   Ba tư người cả thẩy
   Vũ khí chỉ bằng gậy
   Mà đánh đâu được đấy
   Pháp run như cầy sấy ..."
 Đương nhiên, vũ khí không phải "chỉ bằng gậy" mà súng ống không được hiện đại như bây giờ, chỉ súng pạc-hoọc, mút-cơ-tông, tiểu liên ... mà liên tiếp giành thắng lợi ở Nà Ngần, Phay Khắt ... Và hơn 20 năm sau - các chàng tân binh của Quân đội nhân dân Việt Nam đang trên tàu liên vận đây đã là những người được đi học, đi đào tạo để nắm vững khoa học kỹ thuật hiện đại - lái máy bay tiêm kích chiến đấu !
 Một sự so sánh nho nhỏ như vậy để có thể thấy được sự trưởng thành của Quân đội ta, sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhanh chóng đến nhường nào.
 Phát huy truyền thống của cha ông, của những lớp đàn anh đi trước, chắc chắn lớp đàn em đi sau sẽ giành được những thắng lợi vẻ vang, không để các lớp trước phải phiền lòng.
 Tàu tiếp tục lăn bánh. Bây giờ đã là đất bạn - đất nước Trung Quốc !. Khu vực gần biên giới thì đồng ruộng, con người của bạn không khác xa mình mấy nhưng càng đi xa lên phương Bắc, đồng ruộng thấy càng rộng lớn, cách canh tác cũng khác ta, ví dụ như nông dân nước bạn cày ruộng bằng ngựa chẳng hạn, rồi hệ thống tưới tiêu chạy nhằng nhịt khắp đồng, người người trồng cấy đông như trẩy hội vậy ...
 Càng đi càng thấy nước bạn trồng rất nhiều hoa trúc đào hai bên đường, rồi trong công viên, ở các nơi công cộng ... Hoa nở rực rỡ, sặc sỡ trên nền trời xanh và xa xa là núi cao vời vợi. Cảnh tượng chẳng khác nào bức tranh thủy mặc. Phong cảnh thật hữu tình. Qua dòng Trường Giang, dòng Dương Tử thấy thuyền buồm nhiều vô cùng, mọi hoạt động nhộn nhịp mà nên thơ lắm.
 Ngày 25 tháng 6 thì tàu đến Bắc Kinh. Cả đoàn về nghỉ ở khách sạn Bắc Vĩ và buổi tối hôm đó được đi tham quan thành phố, tận mắt thấy quảng trường Thiên An Môn rộng lớn. Ai cũng trầm trồ vì sự kỳ vĩ của nó.
 Ngày hôm sau, tàu tiếp tục chuyển bánh qua Diên An ngược lên phía biên giới Trung - Xô. Thảo nguyên, thảo nguyên bao la, chạy dài tít tắp đến tận chân trời. Đồng cỏ xanh rờn, rồi những đàn cừu, đàn ngựa số lượng đông vô kể. Phải thấy được tận mắt thì mới hiểu thế nào là dân du mục. Tàu chạy khá nhanh vì đường sắt của bạn rộng hơn của ta. 5 giờ 30 phút sáng đã đến Mãn Châu Lý. Làm thủ tục xuất cảnh ... Thay tàu ... Rồi sang đất Liên Xô .. Tất cả được ăn bữa "cơm Tây" đầu tiên với dụng cụ thìa, dĩa, với bánh mì, bơ, súp ... Phải làm quen để rồi sau này chính : bơ, pho-mát, bánh mì ... là những thức ăn chính nuôi sống mình. Nói chung, tất cả làm quen cũng khá nhanh.
 Con tàu Liên vận lao vun vút. Đường sắt của Liên Xô rộng hơn cả đường sắt của Trung Quốc nên tàu phi với tốc độ lớn lắm. Cảnh vật cứ trôi vùn vụt qua khung cửa sổ ...
   
Logged
Phicôngtiêmkích
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 674


« Trả lời #9 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2012, 10:39:24 pm »

 Những cánh rừng thông, rừng lá nhọn ... xuất hiện. Xi-bê-ri là đây. Vùng đất mênh mông đầy khoáng sản là đây. Sang đây thấy cái gì cũng to - từ con người đến cảnh vật, đâu đâu cũng vậy. Thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây sự phù trú,đất đai rộng lớn ( nếu như Sa-Hoàng không bán mất mỏm Alas-ca thì đất nước Liên-xô nằm ở cả ba châu lục ), khí hậu lại ôn hòa nên con người cũng hào phóng, nhân hậu. Rừng ... rừng mênh mang. Tàu chạy với tốc độ cả trăm cây số / giờ mà chạy mãi vẫn chẳng hết rừng. Ven những vạt rừng là đủ mọi loài hoa dại đua nhau khoe sắc, khoe hương hệt như trong cảnh thần tiên.
 Tàu lao về hướng hồ Bai-can - hồ nước ngọt lớn và sâu nhất thế giới đã hiện ra. Tàu chạy sát mép nước tưởng chừng như thò tay ra là có thể vớt được làn nước trong xanh như ngọc bích của nó. Các chàng thủy thủ trên tàu đánh cá hát vang những bài ca của ngư dân. Cảnh tượng thanh bình quá, yên vui quá. Xa xa thấy có chiếc thuyền câu đứng lặng lẽ như trong câu thơ của bài thơ "Thu điếu" vậy :
   "Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
 Đúng, chẳng cứ chiếc thuyền câu, mà kể cả một con tàu chạy ở hồ Bai-can thì cũng vẫn thấy bé tẻo tèo teo như thường vì hồ quá rộng lớn. Tàu chạy nhanh như vậy mà đi vòng quanh có một phần hồ mất cả ngày trời !.
 Ngày 2 tháng 7, tàu đến Matx-cơ-va. Thủ đô của quê hương đất nước Xô-viết đây rồi. Tất cả xuống tàu nhưng vì lí do giữ bí mật nên cả đoàn không ai được tiếp xúc với người lạ, kể cả người Việt Nam đang sinh sống ở bên ấy. Vì vậy mọi người đều dè dặt, né tránh việc chào hỏi, làm quen, mặc dù ở chốn "đất khách quê người" rất muốn có người quen.
 Đoàn được đi dạo trên Quảng Trường Đỏ ( còn được gọi là Hồng Trường ). Quảng trường được lát đá. Những viên đá đã gắn với bao sự kiện lịch sử của đất nước vĩ đại này. Còn như thấy đâu đây âm vang những bước chân của những đoàn quân duyệt binh và tiến thẳng ra mặt trận thời chiến tranh Vệ Quốc Vĩ Đại. Ngôi sao bằng đá ru-bi đỏ trên đỉnh tháp Crem-li đang sáng lóng lánh, kỳ ảo, oai hùng - ngôi sao từng được đưa vào lời hát "...Đẹp thay rực rỡ ngôi sao đỉnh tháp Crem-li tỏa ánh huy hoàng. Ngôi sao rực chiếu bao niềm tin. Bạn ơi Mạc-tư-khoa thành phố hòa bình ...". Quả đúng là một thành phố hòa bình với khung cảnh thật yên bình !
 Hai ngày sau, tất cả đoàn về đến trường Cras-nô-đar. Ở đó đã có những phi công lớp đàn anh đợi đón. Tay bắt mặt mừng ... Người ở nhà vừa sang, người đang bay ở đất bạn ... ai cũng hoan hỉ, chào hỏi nhau tíu tít. Thôi thì đủ thứ : nào tình hình ở quê hương ra làm sao, nào đi đường có mệt không, nào là quen với cách sinh hoạt ở đất nước bạn chưa, nào bay bò có khó không, tiếng tăm học có dễ không, học thế nào, thày dạy ra làm sao, nào những lời khuyên nhủ, động viên ... Thật huyên náo !
 Khi xa quê hương đất nước, thấy được người dân tộc mình đã quý rồi, đằng này lại gặp những người đồng chí, đồng đội, những người anh trong cùng một nghề bay nữa thì quý mến biết nhường nào !.
Logged
Trang: 1 2 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM