.... cuộc điện thoại từ Quảng Ngãi.....:Liệt sỹ Đỗ Văn Đơn (Đôn) - quê quán Thái Thọ - Thái Thụy - Thái Bình
Chức vụ: Hạ sỹ - nhập ngũ tháng 3.1966 - đơn vị E2 KN - hy sinh 29/9/1968
Thông tin từ đồng đội: D1 E2 F3/ tiểu đoàn 1 trung đoàn 2 sư đoàn 3 Sao Vàng - hy sinh tại Quảng Ngãi....
1. Thông tin về đơn vị Liệt sỹ:
1.1. vài nét về E2 F3/ trung đoàn 2 sư đoàn 3 Sao Vàng:
...Trước ngày tập hợp trong đội hình chiến đấu của sư đoàn, các trung đoàn 2, 12 đã có những trang sử chiến đấu hết sức oanh liệt.
Trung đoàn 2 là trung đoàn chủ lực đầu tiên của quân khu, thành lập tháng 5 năm 1962, hoạt động chủ yếu ở Quảng Ngãi và Công Tum. Trung đoàn gồm 4 tiểu đoàn bộ binh: 90, 95, 20, 80, một tiểu đoàn pháo, cối, một đại đội đặc công. Ba tháng sau khi thành lập, trung đoàn đã đánh bại cuộc càn lớn bằng trực thăng của quân nguỵ tại Hà Niêu, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. Trong trận này, tiểu đoàn 90 đã bắn rơi 12 máy bay lên thẳng , diệt gần 100 tên địch và là ngọn cờ đầu đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” trong phong trào thi đua do quân khu phát động. Tháng 3 năm 1963, giữa lúc trung đoàn đang hoạt động ở Mò O, Trường An, Suối Loa (Quảng Ngãi) thì được lệnh quay về Long Lếch, nơi địch đang tập trung 3 sư đoàn mở một cuộc hành quân quy mô lớn nhằm tìm diệt cơ quan đầu não của Quân khu. Vừa hành quân đến vị trí tập kết, trung đoàn bước ngay vào vị trí chiến đấu, diệt một ban chỉ huy tiểu đoàn, một đại đội bộ binh, thu hai pháo 105mm, 6 xe quân sự, bẻ gãy một cánh quân càn quét của địch. Sau đó, trung đoàn được lệnh toả ra các hướng diệt kẹp, dành dân, hỗ trợ cho lực lượng nổi dậy của quần chúng. Tháng 12 năm 1964, quân khu quyết định mở đợt hoạt động An Lão do trung đoàn 2 và tiểu đoàn 409 đặc công đảm nhiệm. Đây là đợt hoạt động đầu tiên của chủ lực quân khu 5, nhằm tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực địch, giải phóng một khu vực hoàn chỉnh đông dân và trù phú ở vùng giáp ranh tỉnh Bình định, tạo điều kiện tiến xuống đồng bằng và đường số 1. Trong đợt hoạt động này, trung đoàn 2 sau 2 giờ chiến đấu đã tiêu diệt 11 vị trí địch. Sau đó chuyển sang phục kích đánh quân giải toả, trung đoàn đã bao vây tiêu diệt gần 600 tên địch, bắn cháy 5 xe M113, lần đầu tiên diệt được xe M113 của địch trên chiến trường này. Quận lỵ An Lão được hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng An Lão đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bật của chủ lực quân khu. Lần đầu tiên, trên chiến trường Khu 5 xuất hiện phương thức tác chiến mới của bộ đội chủ lực, kết hợp bộ đội địa phương, dân quân du kích dưới hình thức đợt hoạt động với quy mô trung đoàn.
Trong đợt hoạt động Xuân 1965, sau khi tiến công đồn Dương Liễu (bắc Phù Mỹ), diệt và bắt 195 tên địch, trung đoàn 2 lại bố trí trận địa phục kích ở đèo Nhông. Có kinh nghiệm chỉ huy đánh phục kích trong thung lũng An Lão, trung đoàn cho các đơn vị giãn thưa đội hình, nhử địch vào thế bố trí sẵn nên đã tiêu diệt gần hết chiến đoàn nguỵ, bắn cháy 10 xe M113, bắt sống 1 xe, bắn rơi 2 máy bay. Trận phục kích vận động ở đèo Nhông đã nêu một kỷ lục mới về tiêu diệt địch ngoài công sự, Mỹ đầu cho thời kỳ đánh tiêu diệt lớn quân nguỵ trên chiến trường khu 5. Tiếp đó, trung đoàn 2 lại phục kích đánh thiệt hại nặng một chiến đàon dù nguỵ ở đường 7bis, cùng đơn vị bạn bao vây, bức rút quận lỵ Thuần Mẫn, giải phóng một vùng rộng lớn ở nam Tây Nguyên.
Lịch sử trung đoàn 2 là lich sử bám dân, bám đất, từ những trận đánh du kích trưởng thành lên và không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng thắng và đã trở thành nòng cốt của sư đoàn 3 Sao vàng sau này....
1.2 Phiên hiệu, mã hiệu, mật danh đơn vị:
- Về phiên chế chính thức Trung đoàn 2 có các tiểu đoàn 1, 2, 3 và các đại đội trực thuộc.
- Ngoài ra, trong từng thời điểm, chiến dịch, đợt hoạt động mà trung đoàn cùng các đơn vị trực thuộc có các phiên hiệu, mã hiệu, mật danh được quy ước riêng. Ví dụ dưới đây cho thấy, tại thời điểm LS hy sinh, tiểu đoàn 1 trung đoàn 2/D1 E2 F3 được mang phiên hiệu/ mã hiệu tiểu đoàn 93/D93.
2. Thời điểm LS hy sinh, đơn vị đang hoạt động ở đâu:
.... Sư đoàn Sao Vàng, ngay sau khi đánh quỵ chiến thuật thiết xa vận của lữ đoàn 173 Mỹ vào tháng 6 năm 1968 được lệnh hành quân cấp tốc ra Quảng Ngãi, tham gia chiến dịch X.2 của quân khu, có nhiệm vụ đánh thiệt hại sư đoàn 2 ngụy ở vùng Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, kìm chân sư đoàn 11 sư đoàn A-me-ri-cơn ở vùng Mộ Đức, Đức Phổ và giải phóng quận lỵ Sơn Hà, một quận lỵ miền núi tương tự như quận lỵ Minh Long. Riêng trung đoàn 12 vẫn được lệnh ở lại phía nam tỉnh Bình Định.
Mở một chiến dịch lớn trên địa bàn toàn quân khu mùa thu năm 1968, Bộ từ lệnh Quân khu chủ trương đánh vào biện pháp chiến lược “quét và giữ” của Mỹ. Sau những thất bại thảm hại trong đợt Tổng tiến công mùa xuân của quân dân miền Nam, tướng Oét-mo-len đã bị Giôn-xơn cách chức và chiến lược “tìm diệt” của y đã được thay thế bằng “quét và giữ” cùng với một viên tướng chỉ huy mới là A-bram. Thời gian này, sư đoàn Sao Vàng đã được bổ sung vũ khí, trang bị và hơn một ngàn chiến sĩ mới từ miền Bắc vào. Đây là đợt bổ sung quân số, vũ khí lớn đầu tiên kể từ ngày sư đoàn được thành lập. Điều đó chỉ rõ ngoài sự nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân miền Nam, nếu không có sự chi viện lớn lao của miền Bắc, các sư đoàn chủ lực Quân giải phóng rất khó có thể lớn mạnh được. Một đơn vị chủ lực chỉ có thể tồn tại, trưởng thành và chiến đấu thắng lợi khi có được hai yếu tố cơ bản có tính chất quyết định là dựa vào nhân dân địa phương và sự chi viện của hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa. Trước đợt bổ sung quân số, trang bị kể trên, chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân khu, sư đoàn đã thành lập xong tiểu đoàn đặc công 40, lấy đại đội 1 tiểu đoàn đặc công 300 của quân khu làm nòng cốt. Các trung đoàn cũng thành lập các đại đội đặc công và đã tranh thủ cho bộ đội tập luyện chiến thuật mới. Sự ra đời của các đơn vị đặc công đánh dấu một bước phát triển đáng kể của sư đoàn trong giai đoạn đó.
Bộ chỉ huy Mặt trận Quảng Ngãi được thành lập, do đồng chí Lư Giang, sư đoàn trưởng sư đoàn Sao Vàng làm chỉ huy trưởng, đồng chí Phạm Viết Thuật (tức Biền) bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi làm chính ủy. Chiến dịch mở màn vào ngày 22 tháng 8 và kết thúc vào ngày 5 tháng 10. Trong chiến dịch này, tuy không giải phóng được quận lỵ Sơn Hà, nhưng sư đoàn đã tiêu diệt được 2.546 tên Mỹ, ngụy, diệt gọn một tiểu đoàn và 10 đại đội, san bằng bốn cứ điểm, góp phần cùng Mặt trận Quảng Ngãi tiêu diệt 8.921 tên địch, bắn cháy 49 xe quân sự, có 25 xe thiết giáp, bắn rơi 17 máy bay, hỗ trợ cho 47 cuộc đấu tranh quy mô của 39.870 lượt đồng bào thị xã Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Bình Sơn, Sơn Tịnh nổi dậy đấu tranh giành quyền làm chủ. Thắng lợi của chiến dịch đã được Đảng ủy mặt trận Quảng Ngãi đánh giá là “to lớn, toàn diện, có chất lượng cao... Đặc biệt đã đẩy phong trào chiến tranh nhân dân địa phương trên chiến trường Quảng Ngãi lên một bước phát triển mới”. Bước sang năm 1969 sư đoàn vẫn được lệnh hoạt động ở hai khu vực chính: trung đoàn 2, 22 ở Quảng Ngãi, trung đoàn 12 ở Bình Định. ....
Nếu đối chiếu với thống kê của phía đối phương từ nhiều nguồn về E2/ trung đoàn 2 thời điểm này thì thấy chuẩn xác: