Có lẽ từ khi bắt tay vào giúp đỡ, đây là một trong số ít lần tôi viết về chiến trường Bắc Lào, mảnh đất nhiều duyên nợ của những người lính thuộc Đoàn Thảo Nguyên tức trung đoàn 335/ E335. Tài liệu cả của ta và phía đối phương đều thiếu vô cùng, nhất là trong những năm 1969 - 1970 ấy nên lần theo dấu chân người đi trước là vô cùng khó khăn, phức tạp. Cố gắng hết sức ngồi tập hợp tài liệu từ sáng, vậy mà cảm giác vẫn bồi hồi vẫn lắng đọng, pha lẫn sự chua chát vì phải chấp nhận.
Vài dòng hồi tưởng của người CCB tiểu đoàn 5 trung đoàn 335/ D5 E335 này, như nói lên tất cả:
...Ngưng một lát, Chu Đức Hòa chậm rãi: Anh biết không? Kể từ ngày rời quân ngũ về địa phương, cứ mỗi lần các phương tiện thông tin đại chúng nói về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, em lại nôn nao nhớ về những tình cảm nồng ấm của bộ đội Pa thét Lào và của các bộ tộc Lào đối với quân tình nguyện Việt Nam, đối với cán bộ, chiến sĩ Đại đội 5, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 335, Binh đoàn 678, mà đại đội 5 do em làm đại đội trưởng. Cho đến bây giờ, em vẫn nhớ như in những tên đất, tên làng vùng núi Phu Bia, Mường Trà, Fạ O Lo, Năm Mô, Nặm Dền... thuộc Huyện Xay Xỏm Bun, tỉnh Viêng Chăn mà đơn vị em gắn bó gần 6 năm.
Gần 6 năm sống trong sự đùm bọc, yêu thương của đồng bào Lào Sủng, Lào Thương, Lào Lùm, đơn vị em đã cùng các đơn vị bạn bám vào từng gốc cây, mô đá và từng chiến hào để tiêu diệt tàn quân phỉ Vàng Pao, bảo vệ cuộc sống yên bình của cả vùng Phu Bia, Mường Trà nói riêng và đất nước Lào nói chung. Trong gần 6 năm ấy, nếu kể cả các lần chạm trán, nổ súng dọc đường hành quân thì phải tính tới hàng trăm trận đánh.
Em không thể nào quên được cái đêm cả đơn vị bí mật tập kích vào Phu Tu Ngốc và hang Thẩm Khai - sào huyệt của tướng phỉ Say Sua Giàng khét tiếng liều lĩnh. Đang leo núi thì cả đại đội được lệnh dừng lại, thế là cả đơn vị nằm đứng giữa vách đá dựng đứng, sắc nhọn. Một chân em bám chặt vào khe đá, chiếc ba lô treo vào mỏm đá tai mèo, không có chỗ mắc võng, cũng không có chỗ ngồi, sảy chân là ngã nhào xuống vực sâu. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt. Miếng lương khô bỏ vào miệng đã bao lâu mà vẫn khô khốc không nuốt nổi đành phải nhè ra. Mặc cho muỗi đốt, chân đứng, chân co, em treo người vào sợi dây võng buộc quanh vai, đầu gục vào cánh tay bám vào mỏm đá đau điếng thiếp đi. Trong giấc mơ, em thấy mình vục mặt xuống dòng nước, uống cạn cả khúc sông mà không hết khát. Đến mười ngày sau, khi cuộc sống của người lính chiến đã trở lại bình thường nhưng cái cảm giác khô khát nơi cổ họng như vẫn chưa thôi. Ai mà không qua cái giây phút khắc nghiệt ấy thì sẽ không cảm được cái khát khủng khiếp này! Gần sáng, lệnh tấn công được phát ra, nhưng mọi lối mòn dẫn lên mục tiêu đều bị bọn phỉ bố phòng cẩn mật. Lợi dụng địa hình hiểm trở, chúng chống trả quyết liệt. Chiến sĩ đi đầu trúng đạn quỵ xuống, chiến sĩ đi sau xông lên, chạm ngay hai tên phỉ trước mặt. Chúng nổ súng, các anh ngã chúi về phía trước rơi xuống hõm núi, chỉ còn lại chiếc mũ mềm Pa Thét trên mặt đường tiếp tục dính đạn thủng lỗ chỗ. Sau trận đánh, bao nhiêu đồng đội của em đã mãi mãi nằm lại trên đất bạn Lào.
Từ đó đến nay và mãi mãi về sau cho đến lúc vào cõi vĩnh hằng, chắc trong em sẽ không bao giờ phai nhòa hình ảnh của những đồng đội thân thiết sống chết có nhau. Đó là binh nhất Văn Nam, quê mãi Con Cuông, tỉnh Nghệ An, rồi Lê Xuân Cơ người đại đội trưởng Đại đội 6 gan góc, dạn dày mà rất mực thương yêu chiến sĩ, kể cả nghĩa trang Mường Trà, một nghĩa trang đơn sơ nhưng ở đấy có trên 100 đồng đội của em đã mãi mãi nằm lại nơi thảo nguyên hoang sơ, yên ắng. Trước khi về nước, dẫu trong tay người lính trận không hoa, không cả hương, em vẫn đến chào từ biệt các anh với nén hương lòng chan chứa tình đồng đội, chan chứa thương đau và từ nơi sâu thẳm của lòng mình, em cầu chúc họ mãi mãi yên bình trên đất bạn Lào anh hùng....
1. E335/ trung đoàn 335/ đoàn Thảo Nguyên gồm những đơn vị nào?
- từ thời điểm tháng 12/1965 trở về trước, khi được biên chế với cơ cấu Lữ đoàn thì Lữ đoàn 335 có 4 tiểu đoàn: D1, D2, D3, D4.
- sau chiến dịch 74A (chiến dịch đường số 7 và đường số 4 Lào mở khoảng tháng 3/1964) một thời gian, lữ đoàn 335 về nước để củng cố, ổn định và tổ chức lại biên chế; rút gọn từ lữ đoàn xuống còn trung đoàn độc lập trực thuộc Quân khu Tây Bắc. Tháng 12/1965, E335 hành quân từ Mộc Châu về Điện Biên.
Từ thời điểm này, trong suốt quá trình bên Lào 1966 - 1971, không thấy nhắc đến cụ thể một đơn vị nào của E335; trong sử sách hầu như toàn ghi: "E335 cử một tiểu đoàn" hoặc " một tiểu đoàn, một đại đội trực thuộc đoàn Thảo Nguyên",..... Chính vì vậy rất khó xác định cụ thể phiên hiệu các đơn vị.
Tôi cho rằng, E335 vẫn giữ nguyên phiên hiệu (D1, D2, D3) theo cách thống nhất của BQP; trong thời gian phối thuộc cho sư đoàn 316/F316 thì có thể đổi phiên hiệu trong thời gian ngắn.
2. Thời điểm LS hy sinh:
18/6/1969:3. Liên hệ:
- CCB tiểu đoàn 3 trung đoàn 335/ D3 E335:
đây.- Một CCB khác ở Hải Phòng: tin nhắn,