Cảm ơn bác Quangcan rất nhiều ạ! Cháu hồi hộp quá.
Vâng, xin tiếp tục,
.
3.1 Ngày 08/02/1968 tại La Thọ Điện An Điện Bàn Quảng Nam (xưa ta gọi là Quảng Đà) có những đơn vị gì? (phần tiếp theo):
- đợt Mậu Thân 1968 thì ta không thể quân hai đơn vị, hai tiểu đoàn bộ binh nổi tiếng của mặt trận 44/ Mặt trận Quảng Đà:
* tiểu đoàn bộ binh 1/ R20
* tiểu đoàn bộ binh 2/ V25
... Chiến sự ở Đà Nẵng diễn ra càng quyết liệt. Tại Trung Lương – Cồn Dầu, Mỹ - Ngụy huy động hàng ngàn tên được xe tăng, phi pháo chi viện đắc lực, mở nhiều đợt phản kích vào trận địa của Tiểu đoàn bộ binh R20. Mặc dù lực lượng địch đông gấp nhiều lần, nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn trụ bám quyết tâm chiến đấu đến cùng, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của bộ binh, xe tăng địch. Ngày thứ 2 (01.02.1968) quân số, trang bị hao hụt, không bổ sung kịp, Mỹ - Ngụy liên tục tiến công, gây nhiều thương vong cho đơn vị, các đồng chí Mai Đăng Chơn, Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Văn Đáng vừa chỉ huy, động viên cán bộ, chiến sĩ chiến đấu, vừa cầm súng đánh trả địch đến cùng và hy sinh anh dũng. Đêm 01.02.1968, lợi dụng quân Mỹ co cụm, đồng chí Nguyễn Văn Trí – Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ huy củng cố đội hình, tổ chức mở đường đưa hơn 80 cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn vượt khỏi vòng vây của địch, rồi cơ động về Gò Nổi (Điện Bàn). Như vậy, sau 2 đêm 2 ngày quần lộn chiến đấu với một lực lượng địch đông gấp nhiều lần, Tiểu đoàn bộ binh R20 đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Mỹ - Ngụy, bắn cháy 2 xe tăng, san bằng 1 chốt điểm. Tuy nhiên để làm nên chiến công đó, tiểu đoàn cũng chịu tổn thất lớn, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã từng chiến đấu xông pha trận mạc, lập công xuất sắc, dày dạn kinh nghiệm và đã hy sinh anh dũng trong trận chiến đấu không cân sức, không theo ý định quyết tâm đề ra, ngoài những tình huống đã dự kiến, sự hy sinh của các đồng chí để lại biết bao niềm thương tiếc của đồng chí, đồng bào.
Vậy, tổng hợp lại, nếu LS thuộc đại đội 2, E Bình Điện Bàn, hy sinh ngày 08/02/1968 thì khả năng cao thuộc đại đội 2 trực thuộc huyện đội Điện Bàn; khả năng thấp thuộc đại đội 2 tiểu đoàn 1/ R20 trực thuộc tỉnh đội.
3.2 Ngày 08/12/1968 tại La Thọ Nam Điện An Điện Bàn Quảng Nam (xưa ta gọi là Quảng Đà) có những đơn vị gì?
- Bạn đọc giùm
ở đây nhá,
. Trích một đoạn ra để làm dẫn chứng này:
....nên từ tháng 07.1967, Khu ủy Khu 5 quyết định thành lập Đặc khu ủy Quảng Đà (thay cho Tỉnh ủy Quảng Đà) do đồng chí Hồ Nghinh làm Bí thư. Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận 44 (tức mặt trận Quảng Đà) do đồng chí Võ Thứ làm Tư lệnh, đồng chí Hồ Nghinh làm chính ủy. Lực lượng vũ trang Mặt trận Quảng Đà bao gồm các đơn vị thuộc tỉnh đội Quảng Đà và thành đội Đà Nẵng. Để tăng cường lực lượng tác chiến trên chiến trường Quảng Đà, BTL Quân khu bổ sung 2 trung đoàn pháo binh mang vác (575 và 577), Trung đoàn bộ binh 31 (thiếu 1 tiểu đoàn). Trước đó, Bộ tư lệnh Hải quân bổ sung cho tỉnh Quảng Đà 1 phân đội (đại đội) đặc công nước, BCH Tỉnh đội và Thành đội Đà Nẵng cũng điều động lực lượng thành lập Tiểu đoàn 487 đặc công hậu cứ, Tiểu đoàn bộ binh 3 và Đại đội công binh Hải Vân.
... Quân và dân Mặt trận Quảng Đà khẩn trương chuẩn bị mọi mặt tham gia chiến dịch Hè 1968. Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng trên chiến trường chính: Đà Nẵng và các đô thị, Thường vụ Khu ủy Khu 5 chỉ định đồng chí Trương Chí Cương làm Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà, BTL Quân khu 5 chỉ định đồng chí Nguyễn Chánh làm Tư lệnh Mặt trận 44, đồng chí Võ Thứ làm phó tư lệnh, đồng chí Giáp Văn Cương – phó tư lệnh – Tham mưu trưởng, đồng chí Hồ Nghinh – phó bí thư Đặc khu ủy kiêm chính ủy Mặt trận. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ trên giao, tháng 04.1968, BTL Mặt trận quyết định thành lập Trung đoàn 38 (gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 3 và 489) do đồng chí Nguyễn Hoán làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Phục (Khôi) làm chính ủy. Ngoài lực lượng hiện có, Quân khu quyết định tăng cường cho Mặt trận Quảng Đà Trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308 từ miền Bắc mới vào.....
.... Quân và dân Mặt trận Quảng Đà khẩn trương chuẩn bị mọi mặt tham gia chiến dịch Hè 1968. Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng trên chiến trường chính: Đà Nẵng và các đô thị, Thường vụ Khu ủy Khu 5 chỉ định đồng chí Trương Chí Cương làm Bí thư Đặc khu ủy Quảng Đà, BTL Quân khu 5 chỉ định đồng chí Nguyễn Chánh làm Tư lệnh Mặt trận 44, đồng chí Võ Thứ làm phó tư lệnh, đồng chí Giáp Văn Cương – phó tư lệnh – Tham mưu trưởng, đồng chí Hồ Nghinh – phó bí thư Đặc khu ủy kiêm chính ủy Mặt trận. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ trên giao, tháng 04.1968, BTL Mặt trận quyết định thành lập Trung đoàn 38 (gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 3 và 489) do đồng chí Nguyễn Hoán làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Phục (Khôi) làm chính ủy. Ngoài lực lượng hiện có, Quân khu quyết định tăng cường cho Mặt trận Quảng Đà Trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308 từ miền Bắc mới vào....
Ái chà, hơi nhiều đơn vị nhể, mà hầu như đơn vị nào cũng có đại đội 2/ C2; để xem trên đất Điện Bàn đơn vị nào phụ trách nhá; thông tin lấy từ nguồn chính thống nhá,
:
.....các LLVT huyện Điện Bàn.
....Hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang Điện Bàn không có nhiều trận đánh lớn, nhưng diễn ra liên tục, tiêu hao nhiều sinh lực địch, giữ vững thế trận làm chủ địa bàn, tạo điều kiện cho cơ quan tiền phương của Đặc Khu ủy. Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà và các tiểu đoàn, Trung đoàn 36. Tiểu đoàn Đặc công 89, 91 và cơ quan Quận Nhất - Đà Nẵng đứng chân lãnh đạo, chỉ đạo phong trào Đà Nẵng - Hòa Vang. Hầu hết các cơ quan đơn vị đang đứng tại vùng B và vùng C.
Trước tình hình đó, ngày 20-11-1968, Mỹ - ngụy huy động lực lượng trên 7.000 tên, thuộc sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ, liên đoàn 11 biệt động quân, trung đoàn 5 ngụy được xe tăng, phi pháo yểm trợ mở cuộc hành quân “Coóc-đom” (tọa độ) đánh phá các xã “Điện Thọ, Điện Phước, Điện Hòa, Điện An, Điện Thắng” nhằm tiêu diệt các cơ quan, đơn vị của Mặt trận, của huyện và Đà Nẵng, giành quyền kiểm soát vùng này, xóa bỏ các căn cứ, bàn đạp, hành lang cơ động của ta.
Rạng sáng ngày 20-11, các loại máy bay trinh sát L19, OV10 quần lượn khắp vùng A, B, chỉ điểm cho máy bay F4, F105 ném bom dọc đường 100, dọc bờ nam sông La Thọ; pháo binh từ các trận địa chung quanh bắn cấp tập vào các xã. Sau hơn 1 giờ bắn phá dọn đường, dọn bãi, quân Mỹ - ngụy từ các vị trí tập kết xuất phát tiến công bằng đường bộ và đường không, hàng trăm lượt máy bay trực thăng HU1A, CH47 đổ quân dọc theo đường 100, đường số 1 và đường sắt, hình thành thế bao vây các xã vùng B. Chúng sử dụng máy bay trực thăng CH54 (cần cẩu bay) vận chuyển lô cốt, vọng gác thả xuống thôn La Thọ, dọc đường 100 để lập sở chỉ huy, đài quan sát, sử dụng các loại máy bay trinh sát rải truyền đơn, dùng loa phóng thanh kêu gọi đầu hàng, chiêu hồi. Đội hình bao vây, tiến công của địch hình thành 3 tuyến:
- Tuyến 1: (thê đội 1) lực lượng đi đầu, làm nhiệm vụ mở đường, bắt hết dân khoảng trên 10.000 người tập trung về các địa điểm quy định, rồi dùng xe GMC chở về Vĩnh Điện và Trảng Nhật (Thanh Quýt) để thanh lọc, truy tìm cơ sở. Ai không đi phản đối thì chúng đánh đập hoặc bắn chết.
- Tuyến 2: (thê dội 2) lực lượng tìm kiếm hầm bí mật, trang bị mỗi tên Mỹ 1 cây sắt nhọn (dài 1,54m), nhiều tên lính Mỹ nói thạo tiếng Việt được sử dụng tìm hầm bí mật.
- Tuyến 3: (thê đội 3) dùng xe cày ủi, dùng cưa cắt đứt cây cối, dùng mìn đánh sập hầm, công sự trú ẩn.
Theo sau, hàng đàn xe M118 tiến tới dùng súng phun lửa thiêu cháy nhà cửa, khắp làng xã ngày đêm khói lửa mịt mù. Ban đêm, máy bay C130 (Đa-kô-ta) thả đèn sáng rực cháy cả một khoảng không rộng lớn. Diễn biến của cuộc hành quân hết sức ác liệt. Quân Mỹ - ngụy ngày càng xiết chặt vòng vây. Theo kế hoạch các cánh quân sẽ hợp điểm ở Hạ Nông trên và La Thọ Nam.
Cuộc hành quân “Coóc-đom” của Mỹ - ngụy là một cuộc càn quét lớn nhất từ trước đến lúc bấy giờ về quy mô lực lượng, phương tiện, cường độ, tính chất đánh phá. Đội hình tiến công của đích hình thành vòng vây nhiều lớp đoạn đầu, chúng lùa hết dân về giam giữ ở các khu tập trung, rồi tiến hành đánh phá mang tính chất hủy diệt. Lực lượng vũ trang và các cơ quan Dân - Chính - Đảng đứng chân tại khu vực này tương đối đông, diễn biến tình hình làm cho ta gặp nhiều khó khăn, nhất là thời tiết đang trong mùa mưa rét, hầm, hào, công sự, hầm bí mật đều bị ngập nước, ẩm ướt, hành lang cơ động, cửa khẩu thu mua, tiếp nhận lương, thực phẩm bị cắt đứt, nguồn dự trữ không nhiều. Nhiều cán bộ của Đặc Khu ủy, Mặt trận, Huyện ủy, Huyện đội Điện Bàn, Quận ủy Quận Nhất, Thành ủy Đà Nẵng phải nằm hầm bí mật, ngâm mình trong nước, hoặc thoát ra trú ẩn giữa các đồng trống.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với quyết tâm đánh bại cuộc hành quân của địch, Tiểu đoàn bộ binh 3 của Mặt trận và Đại đội 1 bộ đội địa phương huyện, du kích các xã chiến đấu đánh bại các mũi tiến quân của địch, đồng thời sử dụng các lực lượng cơ động, quần lộn đánh địch trong mọi lúc, mọi nơi, cán bộ, nhân viên các cơ quan Dân - Chính - Đảng cũng tích cực tham gia chiến đấu bảo vệ cơ quan và cán bộ lãnh đạo, chỉ huy.
Diễn biến chiến đấu đến ngày thứ 13, mặc dù bộ đội, du kích đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, giữ vững trận địa, nhưng tình hình ngày càng căng thẳng, khó khăn nhất là quân số, lương thực, vũ khí đạn dược bị tổn thất không được bổ sung, nhiều lần các đơn vị, địa phương tổ chức lực lượng đột kích phá vòng vây của địch để đưa cán bộ các cơ quan ra khỏi trận địa; đồng thời nhận nguồn cung cấp hậu cần, kỹ thuật, nhưng không được, vì địch bố trí trận địa dày đặc. Bên ngoài, Bộ Tư lệnh Mặt trận ra lệnh cho Tiểu đoàn 91, Tiểu đoàn 2 (V25) sử dụng lực lượng tiến công phá vòng vây của địch, nhưng cũng không thành, vì không nắm được tình hình cụ thể; hơn nữa chiều sâu phòng ngự của địch rất lớn. Trước tình hình đó, Đảng ủy - Ban chỉ huy Tiểu đoàn 3, cũng như lãnh đạo, chỉ huy các địa phương động viên cán bộ, chiến sĩ nêu cao tinh thần đoàn kết chi viện, giúp đỡ lẫn nhau, hợp đồng chiến đấu chặt chẽ, hết sức tiết kiệm vũ khí đạn dược, tích cực lấy vũ khí đích để đánh địch. Nhân dân ở một số thôn như Hạ Nông trên, Châu Lâu, thôn Trung, Giáng La thoát khỏi địch xúc tát, đã trụ bám, tham gia phục vụ chiến đấu, đóng góp lương thực, nấu cơm rồi mang ra trận địa tiếp sức cho bộ đội, du kích; chuyển thương binh về Giáng La và thôn Trung để cứu chữa. Các chị Nguyễn Thị Tướt, Nguyễn Thị Hoa, Phan Thị Cước, Nguyễn Thị Hân, Nguyễn Thị Chắc, ông Nguyễn Mân, Sơn,… là những tấm gương kiên trung, bất khuất không ngại hy sinh, gian khổ, ngày đêm lăn lội dưới làn bom đạn để tiếp tế cho bộ đội, cứu chữa thương binh, chôn cất tử sĩ.
Quyết tâm chiến đấu của lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị và sự giúp đỡ của nhân dân trụ bám đã động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ hăng hái xông lên tiêu diệt quân thù.
Về địch, mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng quân số đông, trang bị mạnh, quân Mỹ - ngụy quyết phá tan trận địa phòng ngự của ta, tiêu diệt Tiểu đoàn 3 và cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, nên chúng ra sức tiến công khép chặt vòng vây; đến ngày thứ 19, quân Mỹ đã chiếm được thôn Nông Sơn, rồi tiến ra Châu Lâu; một mũi khác tiến ra Cổ Cò, đánh chiếm Hạ Nông trên, La Thọ Nam. Trước sức tiến công liều lĩnh của quân địch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3 và du kích vẫn bám chặt công sự, trận địa, chờ Mỹ đến gần mới nổ súng tiêu diệt, rồi xung phong đánh lui bọn địch còn sống sót, trước khi quay về trận địa các tổ thu vũ khí, đạn dược và kéo xác Mỹ để nằm trên bờ công sự, làm vật cản, tiếp tục chiến đấu. Đến ngày thứ 19 (tức đêm ngày 9-12-1968), nắm chắc tình hình địch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 575 pháo binh, lãnh đạo của Đặc khu, thành phố và huyện được du kích Điện Phước, Điện An bí mật đưa ra khỏi vòng vây của địch và hành quân về hậu cứ ở Gò Nổi an toàn. Ngày thứ 21, các mũi tiến quân của địch tưởng đã tiêu diệt hết lực lượng ta nên chúng ung dung kéo vào thôn La Thọ Nam. Cuộc càn quét kết thúc ở đây.
Mặc dù so sánh tương quan lực lượng, trang bị quân địch gấp hơn ta rất nhiều lần, nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, lực lượng vũ trang Điện Bàn đã sát cánh cùng Tiểu đoàn bộ binh 3 Mặt trận Quảng Đà dựa vào địa thế, địa hình làng xã chiến đấu, để đánh địch ròng rã suốt 21 ngày đêm lập được nhiều chiến công oanh liệt, loại khỏi vùng chiến đấu 1.700 tên địch, đánh cháy và hư hỏng hàng trăm xe tăng, thiết giáp; bắn rơi, bắn bị thương 18 máy bay; thu nhiều vũ khí, trang bị; bảo vệ an toàn các cơ quan, đơn vị. Quá trình chiến đấu, nổi lên nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu như: Trung đội du kích tập trung xã Điện Thọ phối hợp với Tiểu đoàn 3 gỡ hàng trăm quả mìn của địch ở Gò Lôi - khu vực Bàu Lác, đem về bố trí 2 trận địa phục kích để chặn đánh địch từ căn cứ Bồ Bồ tiến xuống và địch từ ngã ba Trùm Giao tiến ra, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch, đánh cháy 5 xe M113, bắn rơi 3 máy bay HUlA. Trung đội du kích xã còn phối hợp với Đại đội 1 - bộ đội địa phương huyện phục kích chặn đánh quyết liệt với quân Mỹ ở khu vực cầu Liệu, diệt hàng chục tên, bảo vệ địa bàn đứng chân. Sau trận đánh Tiểu đoàn 3 được Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tặng thưởng Huân chương quân công hạng 2. Tuy nhiên, các đơn vị, địa phương cũng gặp nhiều hy sinh, tổn thất, Tiểu đoàn BB3, sau 21 ngày chiến đấu liên tục, quân số hao hụt chỉ còn 1/3 (khoảng 80 cán bộ, chiến sĩ), cán bộ các cơ quan, ban ngành và du kích có gần 100 đồng chí hy sính, bị thương, bị bắt, riêng địch tìm kiếm, xăm hầm bí mật, gây thương lớn cho cán bộ, du kích các xã Điện Phước 36 đồng chí, Điện An có 2 đồng chí, Điện Thắng có 15 đồng chí. Hàng ngàn nóc nhà, hầm trú ẩn của dân bị thiêu cháy và đánh sập hầu hết vườn cây ăn trái bị triệt hạ, hơn 100 người dân bị bom đạn địch giết hại....
còn tiếp,