@phong1303: chà, trông thế mà phức tạp phết,
.
1. D5/ tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn Long An:
- Trung đoàn Long An (theo tôi biết) thì được thành lập sau 1975, khi ta đánh Pốt, trên cơ sở nâng các tiểu đoàn trực thuộc tỉnh đội Long An lên.
- Vừa thử tìm hiểu thì thấy, trong KCCM, nhất là giai đoạn trước 1970, ta không có trung đoàn nào mang phiên hiệu, mật danh, mật ngữ Long An (hiểu theo cách phiên hiệu được phổ biến rộng rãi, chính thức). Thời gian này, Tỉnh đội Long An, cũng như các tỉnh đội khác, gồm có D504A/ tiểu đoàn 504A và sau này lập thêm D504B/ tiểu đoàn 504B, cùng các phân đội đặc công và đại đội bộ binh trực thuộc huyện đội của tỉnh.
Bác có thể xem một số thông tin ở bày viết này của tôi:
đây. 3. Vậy ta chỉ còn một hướng là D5 thuộc tỉnh đội Long An của Quân khu 8:
- Vậy, D5/ tiểu đoàn 5 này có thể hiểu là D504 và nó là 504A hay 504B?
- giấy báo tử ghi
hy sinh tháng 3/1968 còn theo thông tin mà bác lấy ở QK 9 thì là
tháng 7/1968? Cứ xem xét cả hai nhé,
toàn cảnh Long An thuộc QK 8 hay Phân khu 2, 3 thuộc BTL Miền (theo thời điểm) hay theo cách gọi của VNCH là Kiến Tường, Kiến Phong, ....
4. Các thông tin tham chiếu:
tài liệu đảng bộ tỉnh Long An:...Theo phương án của trên thì Sài Gòn và vùng phụ cận chia thành 5 phân khu theo 5 hướng tấn công vào Sài Gòn. Tỉnh Long An được tổ chức thành 2 phân khu (2 và 3) tấn công vào hướng Tây và Nam Sài Gòn. Lực lượng các tiểu đoàn chủ lực Quân khu 8 tập trung vào trọng điểm Mỹ Tho.
... Chấp hành chỉ đạo của cấp trên, Tỉnh ủy Kiến Tường đã trực tiếp chỉ đạo Ban cán sự, Ban chỉ huy Tỉnh đội điều toàn bộ lực lượng các trường (huấn luyện Đặc công; Thiếu sinh quân; Tân quân và giáo viên, học sinh trường Bổ túc văn hóa). Động viên hàng trăm du kích xã, đảng viên, đoàn viên thanh niên bổ sung cho Tiểu đoàn 504 (hoàn chỉnh như một tiểu đoàn chính quy), các đại đội bộ đội vùng 4, vùng 6, vùng 8 và đội biệt động thị xã Mộc Hóa (vùng 2). Tỉnh còn tổ chức mới 3 phân đội đặc công (1, 2 và 3), củng cố lại đại đội pháo (1 trung đội ĐKZ, 1 trung đội cối) và 1 trung đội súng cối 60 và cối 81 ly gồm 20 cán bộ và chiến sĩ nữ do nữ đồng chí Mười Bình và Bé Hoa chỉ huy, tổ chức thêm 1 trung đội thông tin vận động11 và vô tuyến điện có 12 nữ do 2 nữ đồng chí Ba Nhỏ và Hai Thái chỉ huy.
Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các vùng vận động và động viên thanh niên nam nữ ở vùng giải phóng và cả ngoài vùng địch kiểm soát thành lập 1 đội dân công hỏa tuyến nữ do 2 đồng chí Mai Phương và Út Dung chỉ huy, bổ sung hàng trăm chiến sĩ du kích cho các đội du kích tập trung xã.
Đi đôi với tăng cường lực lượng quân sự, Tỉnh ủy chú trọng xây dựng, củng cố lực lượng đấu tranh chính trị, rà soát các cơ sở binh vận và móc nối liên lạc với các cơ sở nội tuyến, quán triệt và giao nhiệm vụ cho các đảng viên, cơ sở mật trong thị xã và các thị trấn.
Lúc này ở Kiến Tường, lực lượng địch gồm: lực lượng biên phòng có 4 Đại đội biệt kích; bảo an có 1 tiểu đoàn, 9 đại đội độc lập, dân vệ có 25 trung đội; 4 trung đội biệt kích thám báo; một đại đội tuần giang; một đại đội cơ giới; 1 đại đội pháo cơ động và 4 trung đội pháo diện địa. Ngoài ra địch còn có ưu thế về sự chi viện của không quân.
Trong đợt Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, Kiến Tường được Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 8 giao cho nhiệm vụ là: ''Bằng lực lượng của tỉnh tiến công dứt điểm thị xã Mộc Hóa và hỗ trợ, phát động quần chúng nổi dậy giải phóng các quận lỵ và vùng nông thôn. Đồng thời bảo đảm hành lang vận chuyển thông suốt từ biên giới đến các vùng trọng điểm ở Khu 8. Về nhiệm vụ bảo đảm hành lang, Khu ủy và Quân khu nhấn mạnh đó là nhiệm vụ rất quan trọng và yêu cầu tỉnh phải bố trí lực lượng đảm bảo cho được hai tuyến hành lang: từ Tăng Lèo qua vùng 8, vùng 4, đến vùng Bắc Cai Lây (Mỹ Tho) và đường từ Chân Rà - Ba Thu (biên giới) qua vùng 6 đến vùng Bắc Long Định (Mỹ Tho).
Ngày 28 tháng 1 năm 1968, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Cán sự tỉnh đội họp tại biên giới Bắc Bình Hiệp (Ban Chăng) nghe báo cáo về công tác chuẩn bị, xác định quyết tâm và tổ chức chỉ đạo. Cũng tại Hội nghị này, đồng chí Lê Văn Khuyên (Tám Dần) được trên chỉ định vào Thường vụ Tỉnh ủy và làm Tỉnh đội trưởng (thay đồng chí Ba Hiền bị bệnh), Khu ủy rút đồng chí Trần Công Lý, Thường vụ Tỉnh ủy Trưởng ban An ninh Kiến Tường, điều đồng chí Phạm Văn Hai về thay, Hội nghị đã thành lập Ban chỉ huy thống nhất ở trọng điểm thị xã Mộc Hóa do đồng chí: Lê Ngọc Thanh, Phó Bí thư tỉnh ủy làm Trưởng ban; Nguyễn Xích Điểu, Tỉnh đội phó làm Phó ban.
Đồng thời cũng tăng cường các Tỉnh ủy viên về các vùng: Đồng chí Trần Ngọc Nhóm về vùng 4; đồng chí Bùi Văn Ngưu về vùng 8, đồng chí Lê Văn Mỹ về vùng 6...
Các mặt công tác chuẩn bị đang được hoàn tất, chỉ còn 48 giờ nữa là đến giờ nổ súng thì có lệnh của Khu điều Tiểu đoàn 504 vào đội hình Quân khu để tăng cường lực lượng cho trọng điểm 1 (thành phố Mỹ Tho).
Tỉnh ủy, Tỉnh đội Kiến Tường một mặt lo chỉ đạo sắp xếp và động viên cán bộ, đảng viên và chiến sĩ đi nhận nhiệm vụ mới. Mặt khác động viên rút lực lượng từ bộ đội các vùng 4, 6, 8 và du kích đã qua chiến đấu để thành lập 2 đại đội bộ binh mang phiên hiệu Tiểu đoàn 504B. Đồng thời củng cố lại hai đội đặc công, đội biệt động thị xã Mộc Hóa, đại đội pháo cối để tiến hành tấn công vào thị xã Mộc Hóa với các mục tiêu quan trọng là dinh Tỉnh trưởng, Tỉnh đoàn bao an, Ty Cảnh sát, Đài Truyền thanh, cụm pháo binh, sân bay, khu hậu cần và khám đường (nhà lao).
... Trên chiến trường trọng điểm của Quân khu (Thành phố Mỹ Tho), Tiểu đoàn 504A do đồng chí Châu Văn Thiêm (Sáu Một) làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Võ Văn Vi, Chính trị viên, trong thời gian gần 2 tháng (từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 3 năm 1968), đã đánh nhiều trận, tiêu biểu như trận Giồng Nhỏ, trận Phú Kiết, trận trên Quốc lộ 4 (đoạn Tây ngã ba Trung Lương), tiểu đoàn đánh chiếm 2 đồn địch, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội địch, bắn cháy 9 xe quân sự và xe thiết giáp, bắn rơi 2 trực thăng võ trang, loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 tên địch. Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu giao. Đến cuối tháng 3 năm 1968, Tiểu đoàn 504 được lệnh trở về Kiến Tường đánh địch, bảo vệ hành lang biên giới và củng cố lực lượng chuẩn bị cho tấn công đợt 2 Mậu Thân (1968).
....Tháng 3 năm 1968, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 tổ chức hội nghị sơ kết đợt 1 và triển khai đợt 2 cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa Mậu Thân (1968). Đợt 2 Kiến Tường có nhiệm vụ là tiếp nhận huyện Châu Thành và thị xã Tân An của tỉnh Long An (Phân khu 3) để lực lượng Phân khu 3 Long An tập trung tấn công vào hướng nam thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Cuối tháng 3 năm 1968, Khu ủy điều động đồng chí Lê Văn Khuyên (Tám Dần), Thường vụ Tỉnh ủy Kiến Tường về Quân khu 8; đồng chí Nguyễn Xích Điểu (Sáu Điểu) được bổ nhiệm vào Thường vụ Tỉnh ủy và giữ chức vụ Tỉnh đội trưởng.
Đầu tháng 4 năm 1968, bộ phận chỉ đạo, chỉ huy phiá trước (tiền phương) Tỉnh ủy, (vùng 2) chuyển về xã Hòa Phú huyện Châu Thành gồm các đồng chí:
- Lê Quốc Hùng, Bí thư Tỉnh ủy.
- Phạm Công Hưng, Ủy viên Ban Tuyên huấn Khu 2 được Khu ủy chỉ định kiêm Phó Bí thư Tỉnh ủy.
- Nguyễn Xích Điểu, Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng.
- Hồ Ngọc Dẫn, Tỉnh đội phó, Tham mưu trưởng và tăng cường 12 cán bộ trung cao cấp các ngành, đoàn thể cho thị xã Tân An do đồng chí Huỳnh Hữu Thống, Tỉnh ủy viên phụ trách16.
Chỉ huy lực lượng tấn công vào thị xã Mộc Hóa vẫn do đồng chí Lê Ngọc Thanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Vũ Quang Tường, Tỉnh ủy viên và đồng chí Trương Văn Rật (Mười Tâm), Tỉnh đội phó đảm nhận.
Các đồng chí Tỉnh ủy viên phụ trách các vùng gồm: vùng 4 và vùng 8 do đồng chí Bùi Văn Ngưu và đồng chí Trần Ngọc Nhóm (lúc này lực lượng vùng 4 và vùng 8 thống nhất thành 1 lực lượng); vùng 6 do đồng chí Lê Văn Mỹ (Năm Lợi) phụ trách.
Nhiệm vụ trọng tâm trên giao cho Tỉnh ủy, Tỉnh đội Kiến Tường lãnh đạo và chỉ huy tấn công đợt 2 Mậu Thân (1968) là tấn công vào thị xã Tân An. Ta đang tiếp tục sắp xếp tổ chức Tiểu đoàn 504 để hành quân đến chiến trưởng thị xã Tân An thì ngày 20 tháng 4 năm 1968, Tiểu đoàn 504 phối hợp với Đại đội địa phương huyện Hồng Ngự tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp) do đồng chí Dương Văn Thương, Tiểu đoàn phó Tham mưu trưởng chỉ huy phục kích đánh 2 đại đội biệt kích tại đầu kinh Nguyễn Văn Trỗi thuộc xã Hưng Điền B, diệt gần hết 1 đại đội đi đầu và đánh thiệt hại nặng đại đội phía sau, diệt và làm bị thương 70 tên địch tại trận địa, thu gần 200 súng (cả số súng du kích lấy sau trận đánh), 2 máy vô tuyến điện và nhiều đạn dược đồ dùng dã ngoại của địch.
Trận đánh biệt kích địch trên kinh Nguyễn Văn Trỗi được Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam gửi điện khen ngợi và sau đó Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng Huân chương chiến công hạng nhì. Chiến thắng trận kinh Nguyễn Văn Trỗi làm nức lòng, hả dạ quân dân Đồng Tháp Mười, vì đã diệt được bọn ác ôn gây nhiều nợ máu đối với nhân dân trong vùng. Chiến thắng trên đã động viên cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn 504 và các lực lượng vũ trang khác trong tỉnh bước vào cuộc chiến đấu đợt 2 Mậu Thân (1968) với tinh thần hồ hởi hơn bao giờ hết.
Nhìn chung sau tấn công đợt 1, tình hình Kiến Tường có nhiều khó khăn hơn trước cả về chủ quan và khách quan: lực lượng vũ trang của tỉnh đã bị thiệt hại khá nhiều trong tấn công đợt 1, nhưng chưa được bổ sung kịp thời. Quân địch ở các đồn bót và thị xã, thị trấn đã cảnh giác, củng cố lại cách bố trí lực lượng và canh phòng rất cẩn mật. Nói cách khác là ta không còn yếu tố quan trọng nhất là bất ngờ, trong khi tương quan lực lượng còn rất chênh lệch. Đứng trước thực tế ấy, Tỉnh ủy Kiến Tường đã tập trung công tác lãnh đạo vào lực lượng vũ trang nhằm giữ vững ý chí tiến công, sẵn sàng nhận những nhiệm vụ nặng nề và khó khăn hơn, đồng thời tranh thủ củng cố lại các cơ quan ban ngành chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới.
Sau chiến thắng trên, Tiểu đoàn 504 lại hành quân đến thị xã Tân An bước vào đợt 2. Do đường hành quân xa và phải vừa đi vừa đánh địch mở đường hành quân nên mãi gần hết cao điểm 1 đợt 2, tiểu đoàn mới đến được điểm tập kết. Lúc này trên vành đai thị xã Tân An, địch đã điều động 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 10 Sư đoàn 7 ngụy, 1 liên đoàn bảo an, 2 tổng đoàn dân vệ và các lực lượng thiết giáp, hải quân, cảnh sát dã chiến tổ chức phòng thủ thành nhiều lớp. Tiểu đoàn phản chiến đấu ngoài vùng ven nhằm tạo ra chỗ hở để thọc sâu đánh vào thị xã phối hợp với lực lượng ta đã bố trí bên trong. Ở vùng ven, Tiểu đoàn 504 đã đánh địch nhiều trận như: trận phục kích trên lộ 21 diệt 4 xe GMC từ Châu Thành đi thị xã Tân An; trận phục kích thứ 2 ở Bắc Vàm Cống (Vĩnh Công) diệt 1 trung đội địch thu vũ khí; trận Tiểu đoàn 504 phối hợp với đội Biệt động thị xã Tân An tập kích 1 đại đội bảo an, 1 đoàn bình định ở Bình Tâm, diệt và làm bị thương 50 tên, thu 20 súng; Trận đánh 1 trung đội biệt kích ác ôn ở sát căn cứ Bình Tịnh diệt gần hết trung đội địch. Tiểu đoàn 504 trở về xã An Vĩnh Ngãi đánh 2 trận liên tiếp làm tan tác trung đội biệt kích do tên Út Xéo chỉ huy (một tên ác ôn gây nhiều nợ máu ở vùng ven thị xã Tân An), bẻ gãy chiến thuật đột kích của địch đánh vào các cơ sở ăn ở của ta.
Cùng trong thời gian đợt 2, trên địa bàn các huyện lâm thời ở Kiến Tường ta chủ yếu vừa củng cố lực lượng vừa tổ chức đánh địch phản kích và bọn biệt kích bung ra ngăn chặn hành lang. Tháng 6 năm 1968, đơn vị Đặc công 2 và đội Công binh tỉnh phục kích đoàn tàu ở gần Chùa Nổi (Tuyên Bình), bắn chìm 3 chiếc, bắn hỏng 3 chiếc. Trên sông Vàm Cỏ Tây và kinh Dương Văn Dương, địch tăng cường hơn 50 chiếc tàu chiến các loại của Mỹ để hoạt động ngăn chặn hành lang. Tỉnh ủy, Tỉnh đội đã chỉ đạo các Huyện ủy lâm thời, các đơn vị bộ đội tăng cường lực lượng về phối hợp với du kích xã tổ chức được 13 đội đánh tàu địch, bố trí trên các tuyến, bắn chìm và bắn cháy 57 chiếc. Đại đội pháo cối cũng được phân tán về bám các trọng điểm của từng nơi, liên tục tổ chức pháo kích, tập kích hỏa lực vào thị xã, các thị trấn và cứ điểm quân sự của địch.
Sau đợt 2 (khoảng tháng 8 năm 1968), theo chỉ đạo của trên, Kiến Tường trở về đội hình cũ, trả huyện Châu Thành và thị xã Tân An về Phân khu 3, giải thể các Huyện ủy lâm thời Mộc Hóa, Vàm Cỏ. Đồng chí Phạm Công Hưng, Phó Bí thư Tỉnh ủy Kiến Tường được điều về Khu....
Hơi rắc rối phải không,
. Vậy
có khả năng (
một giả thiết) là tiểu đoàn 504B/ D504B?
4. Địa danh hy sinh?
- Lò bún?
chịu,
; tìm trên bản đồ thời điểm đó và tra bảng địa danh không thấy có,
danh từ chung chung theo nghĩa đen chăng?
- Tân Phú, Đức Hòa, Long An: tặng bác cái bản đồ này,