Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:07:25 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 94473 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #200 vào lúc: 23 Tháng Bảy, 2014, 07:15:33 pm »

Vào đầu tháng 1 năm 1973, trước ngày Hiệp định Pari được ký kết, Thường trực Khu ủy cùng một bộ phận cơ quan Khu ủy đã về căn cứ Long Trung ở nam quốc lộ 4, giáp với căn cứ Long Tiên của Tỉnh ủy Mỹ Tho. Tại đây, Thường vụ Khu ủy đã họp mở rộng, có Thường vụ Tỉnh ủy Mỹ Tho và chỉ huy các trung đoàn chủ lực, bàn việc tranh thủ lúc Hiệp định Pari chưa có hiệu lực, ta tiếp tục mở đợt tiến công địch, mở mảng, mở vùng. Sau đó, Thường vụ Khu ủy chỉ đạo mở đợt tấn công nổi dậy đồng loạt toàn Khu giành những địa bàn đứng chân có lợi. Đồng chí Trần Nhiên (Sáu Phú), - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 được lệnh điều lực lượng từ Gò Công về đánh cứ điểm Ba Dừa, hỗ trợ cho lực lượng chính trị, binh vận tại chỗ mở thêm vùng 20-7. Nhưng đến trước ngày ấn định nổ súng thì có điện của Trung ương Cục chỉ thị ngừng tiến công quân sự để triển khai thi hành Hiệp định Pari. Theo tinh thần chỉ thị đó, thì các lực lượng chủ lực của Khu rút vào vùng 4 Kiến Tường, bên trong kênh Nguyễn Văn Tiếp; địa bàn bên ngoài kênh ra đến lộ 4, sông Cửu Long do các lực lượng địa phương tỉnh, huyện, du kích chốt giữ, thực hiện cắm cờ giữ đất, tấn công chính trị và binh vận đối với địch. Trước đó thì các lực lượng chủ lực của Miền tham gia chiến dịch tiến công tổng hợp năm 1972 gồm Sư đoàn 5 và C30B đã được lệnh rút vào bên trong kênh Nguyễn Văn Tiếp vào sau đó rút về biên giới Campuchia.

Ít ngày sau đó, có điện của Trung ương Cục mới các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái, Võ Văn Kiệt và Nguyễn Minh Đường (Sáu Đường) ra ham dự cuộc họp Bộ Chính trị ở Hà Nội.

Trong thời gian này, địch không có dấu hiệu nào tuân thủ Hiệp định Pari. Ngay từ sau Hiệp định được ký kết, ở Khu VIII, ngày 28 tháng 1 năm 1973, địch đã xua quân đi phản kích, giành giật quyết liệt với ta ở hai bên lộ 4 và các lộ sườn ven thành phố Mỹ Tho. Ngày 7 tháng 2 năm 1973, đại bộ phận Sư đoàn 7 ngụy, các tiểu đoàn bảo an cơ động đánh sâu vào vùng 20-7, nam lộ 4 Mỹ Tho. Ngày 15 tháng 2 năm 1973, chúng chiếm nam Giồng Trôm, Bến Tre. Ngày 19 tháng 2 năm 1973, chúng đánh rộng ra bắc lộ 4 Mỹ Tho. Trên vùng Chữ U của An Giang, từ 28 tháng 1 năm 1973, chúng đánh bật toàn bộ lực lượng ba thứ quân của ta ra khỏi các xã Vĩnh Xương, Tân Phú, Phú Hữu, đẩy ta lùi về biên giới.

Trước tình hình đó, các đơn vị chủ lực Khu không thể rút vào bên trong kênh Nguyễn Văn Tiếp mà phải đứng lại tại chỗ cùng các đơn vị tỉnh và bộ đội địa phương đánh trả địch để tự vệ. Trong tháng 2 năm 1973, Tiểu đoàn 2009B Mỹ Tho, đặc công, trinh sát, du kích đã diệt 170 tên địch, 7 xe M113, giữ vững tuyến lộ Gò Lũy - Nhị Bình ra sát thị trấn Cai Lậy. Trung đoàn 1 và Trung đoàn 88 giữ vùng 20-7 diệt một tiểu đoàn của Sư đoàn 7 ngụy và nhiều đại đội bảo an. Kiến Phong đánh địch ở Kiến Văn. Bến Tre cũng đánh trả mạnh địch ở Giồng Trôm.

Rõ ràng, ngụy quyền Sài Gòn vẫn tiếp tục chiến tranh, không thi hành Hiệp định Pari. Ban Liên lạc của Quân Giải phóng khu vực Mỹ Tho do các đồng chí Nguyễn Văn Trung và Lê Minh Đào phụ trách, hễ hai bên thỏa thuận hẹn đón ở chỗ nào thì Sư đoàn 7 ngụy đổ quân chỗ đó để đón bắt. Ta chấp hành Hiệp định, cắm cờ, giữ đất nhưng lực lượng ta quá mỏng, nên chỉ trong vòng tháng 2 và tháng 3 năm 1973, ta bị mất nhiều vùng quan trọng ở nam bắc lộ 4 Mỹ Tho, vùng 4 Kiến Tường, nam Giồng Trôm - Bến Tre, bắc Kiến Phong, An Giang.

Thường vụ Khu ủy họp mở rộng, do đồng chí Huỳnh Châu Sổ (Năm Bê) chủ trì, (đồng chí Sáu Đường - Bí thư Khu ủy đi họp hội nghị ở miền Bắc). Nhiều cuộc họp kéo dài trong tháng 3 và tháng 4 năm 1973 để bàn cách xử lý tình hình nhưng vẫn không kết luận được phương hướng hành động thỏa đáng. Nhiều đồng chí Khu ủy viên khẳng định địch đang tiếp tiếp tục chiến tranh, không chịu thi hành Hiệp định, ta phải dùng bạo lực vũ trang, chính trị, kiên quyết tổ chức phản công tiêu diệt địch trên cả các vùng, phải phát động lại thế trận chiến tranh nhân dân nổi dậy, đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, binh vận, buộc chúng phải thi hành Hiệp đi Pari thì mới giữ được thành quả cách mạng.

Quyết định cuối cùng của Thường vụ Khu ủy là bằng bất cứ giá nào cũng phải tấn công. Bộ tư lệnh Quân khu được chỉ đạo tổ chức lại lực lượng, làm công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng thấy rõ địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh, không thi hành Hiệp định, ta phải phản công tiêu diệt địch để giữ thành quả cách mạng. Các Tỉnh ủy được chỉ đạo phải nhanh chóng củng cố lại thế tấn công vũ trang và chiến đấu ba mũi ở xã, ấp.

Thực hiện tinh thần chỉ đạo đó, tại chiến trường Mỹ Tho, lực lượng vũ trang các thứ quân đã chủ động phản công và tiến công ngăn chặn tốc độ lấn chiếm và đẩy lùi nhiều mũi lấn chiếm của địch.

Ở Cai Lậy Bắc, Cái Bè, vùng 20-7 Mỹ Tho, Mỹ An - Kiến Phong và vùng 4 Kiến Tường, phong trào đã chuyển dần lên, ngăn chặn và ép địch lại. Quần chúng đấu tranh chính trị, binh vận tại chỗ, tác động bằng nhiều cách để trung lập hóa được nhiều đồn bốt ở vùng 20-7. Bến Tre cũng kiên quyết phản công.

Nhưng sau 2 tháng chỉ dừng lại ở thế chống càn bị động, Mỹ Tho và một số tỉnh đã bị mất thêm một số vùng căn cứ giải phóng đã được mở ra năm 1972, vừa thu hồi lại được trong tháng 4 năm 1973.

Tháng 7 năm 1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết khẳng định: “… Giải phóng miền Nam, phải bằng bạo lực quân sự và chính trị…”. Thường vụ Khu ủy chỉ đạo phải kiên quyết và liên tục phản công và tiến công địch để ngăn chặn, đẩy lùi các mũi lấn chiếm, bình định của địch, phát động quần chúng nổi dậy củng cố lại ba mũi quân sự, chính trị, binh vận ở cơ sở, tiếp tục tiến công tiêu diệt và làm tan rã địch để mở mảng, mở vùng.

Quân Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu đã chủ trương bổ sung quân số, vũ khí, đạn dược cho các lực lượng vũ trang, làm kế hoạch phản công, tiến công địch đều khắp các tỉnh, đặc biệt tập trung ngăn chặn, đẩy lùi các mũi lấn chiếm, bình định ở trọng điểm nam - bắc lộ 4 và vùng 4 Kiến Tường.

Từ tháng 8 năm 1973, các lực lượng vũ trang Quân khu đã liên tục phản công và tiến công địch, bẻ gãy nhiều mũi lấn chiếm của địch, gỡ nhiều đồn bốt địch, giành lại một số vùng địch lấn chiếm sau ngày 28 tháng 1 năm 1973 và tiếp tục phát triển, tạo thế mới, lực mới để bước vào năm 1974 giành thắng lợi mới to lớn hơn.

Như vậy, trước, trong và sau khi có Hiệp định Pari, quân và dân Khu VIII đã liên tục tiến công và phản công địch, góp phần quan trong cùng toàn Miền buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari theo những điều khoản có lợi cho ta. Khi Hiệp định Pari có hiệu lực, có lực lượng vũ trang của Khu, nhất là các đơn vị ở trọng điểm Mỹ Tho, Bến Tre... vẫn liên tục chiến đấu, đánh trả địch quyết liệt, không có ngày ngưng nghỉ để giữ vững vùng giải phóng. Nhưng do địch ngoan cố và tập trung lực lượng, phương tiện chiến tranh cao để đánh vào từng khu vực nên chúng có lấn chiếm và đóng lại được một số đồn bốt, nhưng Khu ủy và Quân khu ủy đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục phản công và tiến công có hiệu quả, giành lại thế chủ động chiến trường và tiếp tục phát triển.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #201 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:02:44 pm »

II - TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975,
GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM

1. Tình hình Khu VIII những năm 1973-1975, chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường trong hai năm 1773 và 1974, nhất là trong năm 1974 đã cho thấy những dấu hiệu mới về sự suy yếu, bất lực của địch, và những điều kiện để ta hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam đã từng bước chín muồi.

Tháng 7 năm 1974, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trực tiếp hướng dẫn Bộ tổng tham mưu khởi thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Tiếp đó, tháng 10 và tháng 12 năm 1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng các đồng chí chủ chốt của chiến trường hai lần họp hội nghị thống nhất quyết tâm chiến lược và thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

Về quyết tâm chiến lược, ta hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong thời gian hai năm 1975-1976.

Về kế hoạch chiến lược, ta xác định mục tiêu trong năm 1975 là làm cho lực lượng ta lớn mạnh vượt bậc, mở nhiều đợt tiến công và nổi dậy làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện chín muồi để tổng công kích - tổng khởi nghĩa trong năm 1976; mục tiêu trong năm 1976 là phát động tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đánh lớn, đánh nhanh, diệt từng sư đoàn địch, đánh Sài Gòn là chỗ hiểm yếu nhất, giành thắng lợi cuối cùng.

Ngoài kế hoạch cơ bản trên, ta còn dự kiến một phương án nữa: nếu thời có đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Trên thực tế, đây là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị cuộc tổng tiến công trong thời kỳ kết thúc chiến tranh cũng như sau này trong việc điều hành cuộc tổng tiến công chiến lược.

Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực, cuộc tổng tiến công chiến lược của ta mở đầu từ ngày 4 tháng 3 năm 1975 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu bằng trận đột phá chiến lược đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định với nhiều bước phát triển nhảy vọt và kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tình hình chiến trường Khu VIII - Trung Nam Bộ đến cuối năm 1974 như sau:

Đến tháng 11 năm 1973, sau 4 tháng phản công, Khu VIII - Trung Nam Bộ đã khôi phục và mở rộng được các vùng quan trọng ở nam - bắc lộ 4, đông - tây sông Ba Rài - Cai Lậy Nam, mảng 3 Cai Lậy Bắc - Mỹ Tho, vùng 4 Kiến Tường, dọc theo kênh Nguyễn Văn Tiếp A và B, kênh Ba, Mỹ Điền, Mỹ An, Kiến Phong, vùng từ Định Thủy, Minh Đức, Tân Trung, Bình Khánh lên gần sát thị trấn Mỏ Cày - Bến Tre; đánh thiệt hại nặng nhiều đại đội, tiểu đoàn của Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 ngụy và bảo an. Tuy nhiên, ta vẫn chưa hoàn toàn trở lại thế giải phóng và làm chủ như trước ngày ký Hiệp định Pari.

Trong tháng 12 năm 1973 và những tháng đầu năm 1974, địch vẫn tiếp tục các cuộc hành quân lấn chiếm và cướp bóc. Vùng trọng điểm hành quân của chúng là khu vực nam bắc lộ 4 Mỹ Tho, ba huyện phía nam tỉnh Kiến Phong, vùng 4, vùng 8 Kiến Tường. Địch tái chiếm 29 đồn và cướp mất 7.500 giạ lúa... Quần chúng vừa mới quay về ruộng vườn cũ từ sau ngày 28 tháng 1 năm 1973 để ổn định lại nơi ăn ở và khôi phục sản xuất, chưa yên chỗ thì nay lại bị địch khủng bố, thúc ép trở lại vùng địch chiếm.

Do đó, ta phải tiếp tục tiến công và phản công, nhất là phải tiến công trên diện rộng với lực lượng các thứ quân và đẩy mạnh phong trào chính trị, binh vận của quần chúng nhằm đánh bại kế hoạch lấn chiếm của địch.

Cuối tháng 2 năm 1974, theo chỉ đạo của Miền, Thường vụ Khu ủy quyết định mở cuộc tấn công mùa khô.

Đợt 1: Trung đoàn 1 và Trung đoàn 88 không tham gia, mà tập trung củng cố bổ sung và huấn luyện để đánh cứ điểm lớn, khu dân cư và thành phố. Trung đoàn 24 và Trung đoàn 320 đánh một số trận ở vùng 4 Kiến Tường và mảng 4 Cai Lậy Bắc để giữ thế chiến trường rồi luân phiên từng tiểu đoàn, bổ sung huấn luyện. Các tiểu đoàn tỉnh vừa hoạt động, vừa tuyển quân bổ sung và huấn luyện.

Đợt 2: là đợt chủ yếu, dự kiến bắt đầu từ tháng 4 năm 1974. Đợt 2 chưa nổ súng thì địch mở cuộc hành quân quy mô, lấn chiếm vùng 4 Kiến Tường. Chúng huy động hầu hết Sư đoàn 7 ngụy, một bộ phận Sư đoàn 9 ngụy, 2 liên đoàn biệt động quân, 3 chi đoàn xe M113 và các cụm pháo Mỹ An, Thiên Hộ, Mỹ Phước Tây, kênh Quận, Kiến Bình. Ta phải chuyển sang đối phó với âm mưu lấn chiếm của địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #202 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:05:47 pm »

Để thực hiện nhiệm vụ tiến công quân sự ở vùng trọng điểm, Thường vụ Khu ủy chấp nhận đề nghị của Quân khu ủy cho triển khai bộ phận chỉ huy tiền phương; Một là, Bộ chỉ huy J10 ở nam lộ 4, do đồng chí Võ Văn Thạnh là Tư lệnh, chỉ huy các đơn vị: Trung đoàn 24, Tiểu đoàn 269 đặc công, Đại đội 318 đặc công nước, tiểu đoàn pháo 309 F, Tiểu đoàn trinh sát, cùng lực lượng vũ trang Mỹ Tho và lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận ở cơ sở đảm nhiệm khu vực vùng 20-7, mảng ba Cai Lậy Bắc, Châu Thành (Mỹ Tho). Hai là, Bộ chỉ huy J25 ở vùng 4 Kiến Tường, do đồng chí Huỳnh Văn Mến (Tư Thân) làm Tư lệnh, chỉ huy các đơn vị: Trung đoàn 320, Trung đoàn 88, Tiểu đoàn 283 đặc công, Đại đội 432 công binh kết hợp lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận ở cơ sở tiến công, đảm nhiệm khu vực vùng 4 Kiến Tường và mảng 4 Cai Lậy Bắc - Cái Bè (Mỹ Tho).

         Thiếu tướng Huỳnh Văn Mến (Tư Thân)          
         Thiếu tướng Võ Văn Thạnh          

Phối hợp với kế hoạch tiến công và phản công của Khu trên hướng chủ yếu Mỹ Tho, Kiến Tường, các tỉnh Bến Tre, Kiến Phong, An Giang, Long An cũng đẩy mạnh tiến công địch.

Kết thúc đợt tiến công và phản công trên chiến trường Mỹ Tho và vùng 4 Kiến Tường cho đến hết mùa mưa năm 1974, các thứ quân và lực lượng ba mũi ở cơ sở do ta đã diệt, bức hàng, bức rút trên 150 đồn bốt, làm tan rã 8.000 địch, giải phóng 10 xã, 50 ấp, 50 ngàn dân, đồng bào bung về vườn cũ gần 7.000 gia đình. Lực lượng du kích ở Mỹ Tho phát triển mạnh và đều khắp. tỉnh đã có 3.600 du kích xã, ấp, 5.000 dân quân, tuyển được 820 tân binh, đào tạo hơn 500 cán bộ quân sự địa phương. Phong trào lính về làng, dân về vườn ngày càng mạnh.

Trong toàn Khu, ta đã diệt, bức hàng, bức rút 1.070 đồn. Địch chỉ đóng lại được 230 đồn. Ta mở rộng được vùng giải phóng ở nam bắc lộ 4, vùng Phú Mỹ, Củ Chi, Chợ Gạo của tỉnh Mỹ Tho, vùng trung tâm Đồng Tháp Mười thuộc Kiến Tường và chuyển mở thêm một số vùng ở Kiến Văn, Cao Lãnh của tỉnh Kiến Phong. Riêng ở vùng 4 Kiến Tường, địch còn giữ được mấy chốt lớn ở kênh Quận, Phụng Thớt, Năm Ngàn, kênh Bùi, ngã tư Bằng Lăng vì chúng đóng chốt có kèm theo 1 tiểu đoàn chủ lực hoặc bảo an để bảo vệ chốt nên ta chưa dứt điểm được. Tuy ta chưa thu hồi được hoàn toàn vùng 4 Kiến Tường nhưng lại mở được một số khu vực mới. Ở chiến trường trọng điểm Mỹ Tho, ta đã đẩy địch ra sát lộ 4, uy hiếp mạnh thành phố Mỹ Tho và các thị trấn, đặc biệt là trong mùa mưa năm 1974, ta lại giành thắng lợi lớn hơn mùa khô.

Thực hiện ý định của Khu ủy, Thường vụ Tỉnh ủy Mỹ Tho, do đồng chí Nguyễn Công Bình (Sáu Bình) là Bí thư, chủ trương đưa lực lượng vũ trang và cán bộ chính trị, binh vận thọc sâu xuống Chợ Gạo để mở vùng. Nhưng địch liên tiếp ngăn chặn nên ta không đi xuống được. Qua tin của Bộ Nội vụ, cơ quan an ninh tỉnh, do đồng chí Việt Thanh phụ trách, phát hiện tên Lê Thường Đại là tình báo Mỹ và tên Thích Thiện Khanh là đặc ủy tình báo ngụy đã xây dựng mạng lưới tình báo ở đây, chúng móc được với một Huyện ủy viên ở Châu Thành. Được Thường vụ Tỉnh ủy đồng ý, an ninh tỉnh đã bắt tên Đại và tên Khanh, phá tan mạng lưới tình báo địch. Sau đó lực lượng Mỹ Tho tiến xuống Chợ Gạo.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Ba, 2017, 10:06:58 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #203 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:10:26 pm »

Lực lượng các mặt đều được xây dựng, củng cố mạnh thêm. Ở vùng giải phóng, sản xuất, giáo dục, y tế đều phát triển, thu tài chính đạt kế hoạch. Các chi bộ Đảng ở nông thôn đã nắm chắc lực lượng du kích, lực lượng chính trị, binh vận phát động quần chúng nổi dậy bao vây đồn bốt, phá rã, phá lỏng bộ máy kìm kẹp ở nhiều xã, ấp. Thế chiến tranh nhân dân tiến công và nổi dậy phát triển mạnh đều ở các tỉnh.

Đến cuối năm 1974, diễn biến trên chiến trường xuất hiện nhiều khả năng mới. Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định tình hình chung trên toàn miền Nam như sau: “Ta đã mạnh hơn hẳn địch. Đây là thời cơ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam”. Bộ Chính trị chủ trương phải động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả nước trong hai năm 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng, tiến hành khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi để tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.

Để thực hiện quyết tâm đó ở Khu VIII - Trung Nam Bộ, Ban chỉ huy Miền chỉ đạo tổ chức lại chiến trường. Thành lập hai tỉnh mới nhằm vào hai khu vực trọng điểm tôn giáo Hòa Hảo là vùng Chữ O, tỉnh An Giang và vùng các huyện Chợ Mới, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành tỉnh Sa Đéc. Cụ thể là cắt toàn bộ phần hữu ngạn sông Hậu của tỉnh An Giang giao cho Khu IX, phần còn lại của An Giang gồm các huyện Tân Châu, An Phú, Phú Tân nhập với các huyện Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình của tỉnh Kiến Phong thành tỉnh Long Châu Tiền. Phần còn lại của Kiến Phong là các huyện Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An, Chợ Mới nhập lại với các huyện Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành tỉnh Sa Đéc, thị xã Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long thành tỉnh Sa Đéc.

Riêng tỉnh Long An thì đã có quyết định trở về với Khu VIII từ tháng 8 năm 1973. Từ đây, địa bàn Khu VIII lại có hướng tiếp cận sát phía tây và nam Sài Gòn.

Về xây dựng lực lượng, Khu VIII được tổ chức sư đoàn bộ binh. Sư đoàn 8 được thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1974, gồm các trung đoàn 24, 88, 320, do đồng chí Huỳnh Văn Mến (Tư Thân) làm Sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thạnh làm Chính ủy.



Trung tướng Nguyễn Văn Thạnh

Để tạo địa bàn và thế cơ động chiến dịch cần mở hành lang nối liền Khu VIII, Khu IX và nam Sài Gòn. Trung đoàn 1 được lệnh sang Mỏ Cày - Bến Tre mở vùng Chợ Lách, các lực lượng khác của Khu xuống đứng chân ở vùng Chợ Gạo tỉnh Mỹ Tho, sau đó mở vùng nối liền qua Châu Thành - Long An, Tân Trụ, Cần Giuộc, Cần Đước tạo một hành lang nối liền từ Khu IX qua Bến Tre, Mỹ Tho, Long An của Khu VIII với Sài Gòn để cơ động lực lượng chiến dịch.

Tháng 5 năm 1974, đồng chí Sáu Đường - Bí thư Khu ủy được rút về Miền làm Trưởng ban Mặt trận Trung ương Cục miền Nam kiêm Phó ban Chỉ đạo đồng bằng sông Cửu Long. Đồng chí Huỳnh Châu Sổ (Năm Bê) được bầu làm Bí thư Khu ủy. Đồng chí Đồng Văn Cống - Phó tư lệnh Miền thay đồng chí Lê Quốc Sản - Tư lệnh Quân khu đi trị bệnh.

                       
                       

   Đồng chí Huỳnh Châu Sổ (Năm Bê) - nguyên Bí thư Khu ủy    
   Trung tướng Đồng Văn Cống - nguyên Tư lệnh Quân khu VIII    

Việc thực hiện chủ trương của Miền là tổ chức lại chiền trường Khu VIII trong một thời gian gấp rút có rất nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng Thường vụ Khu ủy đã tìm mọi cách khắc phục, lãnh đạo chặt chẽ khâu giao nhận, sắp xếp lại từng cán bộ giữa Khu VIII và Khu IX, giữa các tỉnh. Đến tháng 8 năm 1974 đã hình thành xong hai Tỉnh ủy và hai Ban chỉ huy Tỉnh đội Sa Đéc và Long Châu Tiền.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Ba, 2017, 10:09:09 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #204 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:13:53 pm »

Để thực hiện quyết tâm chiến lược chung trên chiến trường, Thường vụ Khu ủy chủ trương: Tích cực củng cố, bố sung, xây dựng ba thứ quân đủ mạnh, làm thay đổi tương quan lực lượng một bước quan trọng trên chiến trường. Mở đợt tiến công quân sự mạnh, phát động quần chúng nổi dậy mạnh mẽ trong các vùng, kiên quyết đánh bại về cơ bản kế hoạch lấn chiếm của địch, phá lỏng, phá rã thế bình định ở các vùng tôn giáo, vùng sâu, vùng yếu. Phá vỡ thế ngăn chặn biên giới và hành lang. Giải phóng liên hoàn khu vực Đồng Tháp Mười, giải phóng rộng nông thôn Bến Tre.

Trên cơ sở quyết tâm ấy, chiến trường được chia làm 5 khu vực:

Khu vực 1 là chiến trường chủ yếu, nơi cơ động của lực lượng Khu và cấp trên, là quyết chiến điểm của Khu, gồm tỉnh Mỹ Tho (trừ huyện Chợ Gạo), bắc Long An, toàn tỉnh Kiến Tường, 6 huyện tả ngạn sông Tiền của hai tỉnh Sa Đéc, Long Châu Tiền.

Khu vực 2 biệt lập, chủ yếu do lực lượng địa phương tự tiến công và nổi dậy là tỉnh Bến Tre.

Khu vực 3 là vùng sâu có phương châm, phương thức hoạt động tác chiến riêng, gồm tỉnh Gò Công, huyện Chợ Gạo của tỉnh Mỹ Tho, các huyện nam lộ 4 của tỉnh Long An.

Khu vực 4 là vùng tôn giáo Hòa Hảo có phương châm, phương thức hoạt động quân sự, chính trị thích hợp, gồm các huyện nằm giữa sông Tiền và sông Hậu của hai tỉnh Long Châu Tiền và Sa Đéc.

Khu vực 5 gồm các thị xã, thị trấn và thành phố Mỹ Tho, hoạt động chủ yếu là của đặc công, biệt động và lực lượng chính trị, binh vận, cơ sở.

Mặt trận lộ 4 được thành lập, do đồng chí Lê Văn Phục (Mười Phục) - Trưởng phòng Dân quân Quân khu làm Chỉ huy trưởng; các đồng chí Bảy Dũng, Đặng Tiến Nghĩa (Hai Nghĩa) - Phó phòng Công binh Khu và đồng chí Lê Quang Công (Tám Công) - Tỉnh đội phó Mỹ Tho làm Chỉ huy phó; có nhiệm vụ đánh phá từng đoạn lộ 4 của các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

Thường vụ Khu ủy đề ra chỉ tiêu cho năm 1975 là chủ yếu trong mùa khô 1974-1975 diệt và làm tan rã 40.000 tên địch, phá rã 2/3 lực lượng phòng vệ dân sự, diệt, bức rút, bức hàng từ 1.000 đến 1.200 đồn. Giải phóng hoàn toàn và cơ bản 200 xã với trên 1 triệu dân. Vận động tòng quân bổ sung đủ mỗi tiểu đoàn bộ binh 300 quân, phát triển 60.000 du kích.

Trong khi đó, địch cho là năm 1975 khả năng của ta ở đồng bằng sông Cửu Long cũng sẽ chỉ mở chiến dịch mùa khô ở mức như các năm trước nhưng phải đến đầu tháng 3 năm 1975 mới có thể thực hiện được. Về mục tiêu tiến công, chúng phán đoán ta sẽ đánh vào khu vực Kiến Bình, tỉnh Kiến Tường. Như vậy là địch sẽ bị bất ngờ về hướng tiến công và thời gian tiến công của ta.

Chúng không biết là Sư đoàn 5 đã được lệnh sẵn sàng mở thông biên giới, diệt tiểu khu Mộc Hóa, tiến xông cùng với các lực lượng của Khu đánh chiếm lộ 4, vây ép thành phố Mỹ Tho. Tại Mỹ Tho và vùng 4 Kiến Tường, Sư đoàn 8 và các binh chủng đã sẵn sàng tiến công. Các lực lượng Long An đã xuống các huyện phía nam lộ 4. Long Châu Tiền đã đứng chân trên địa bàn phía bắc Hồng Ngự và phía tây sông Tiền. Các cán bộ chính trị, binh vận, Hòa Hảo đã về bám địa bàn. Chỉ còn Tiểu đoàn 502 A và cơ quan chỉ huy của tỉnh Sa Đéc là chưa sang được hữu ngạn sông Tiền. Các Khu ủy viên đã xuống từng khu vực. Đồng chí Nguyễn Văn Trung (Hai Trung) - Ủy viên Thường vụ Khu ủy và đồng chí Lê Văn Khuyên (Tám Dần) - Tư lệnh phó Quân khu đi Bến Tre. Đồng chí Lê Văn Phẩm (Chín Hải) - Ủy viên Thường vụ Khu ủy đặc trách mở hành lang từ Chợ Gạo - Mỹ Tho qua Châu Thành - Tân An, Tân Trụ, Cần Đước - Long An. Đồng chí Lê Văn Nhung (Tư Việt Thắng) - Phó bí thư Khu ủy đặc trách chỉ đạo khu vực thành phố Mỹ Tho - Chợ Gạo - Gò Công. Đồng chí Trần Anh Điền (Tám Bé) - Ủy viên Thường vụ Khu ủy chỉ đạo khu vực Sa Đéc.



Đồng chí Lê Văn Nhung - Nguyên Phó Bí thư Khu ủy

Trong tình thế chung, thắng bại trên chiến trường đã khá rõ ràng nhưng địch vẫn đánh ác liệt. Chiến trường không lúc nào yên. Cơ quan lãnh đạo của Khu phải đổi chỗ liên tục. Địch lẩn quẩn chung quanh, có lúc ta chỉ cách địch 50 đến 100 mét, như lúc ở Xuân Sơn hoặc khi ở Ngũ Hiệp chỉ cách hàng rào của bốt vài chục mét. Đến đầu năm 1975, cơ quan chuyển qua bắc lộ 4 và khi mở chiến dịch Hồ Chí Minh, thì ra ở Tân Phú, Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

Từ việc triển khai kế hoạch tiến công và nổi dậy lần này, từ quán triệt mục đích, yêu cầu, bố trí lực lượng cũng như tổ chức hiệp đồng giữa các mũi quân sự, chính trị, binh vận, kế hoạch được vạch ra một cách bình tĩnh, chắc chắn, chu đáo.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Ba, 2017, 10:09:58 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #205 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:14:10 pm »

Để hợp đồng chung với toàn Miền, chiến dịch mùa Khô 1974-1975 của Khu chia làm 2 đợt: đợt 1, bắt đầu từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975; đợt 2, từ tháng 3 đến hết tháng 6 năm 1975.

Vào đợt 1, dự kiến của ta là sử dụng Sư đoàn 8 tiến công mở hoàn chỉnh trọng điểm 1, diệt cho được các căn cứ, các trận địa pháo ở Thiên Hộ, Chợ Giồng, Kiến Bình, Mỹ Phước Tây. Mở rộng vùng giải phóng trên kênh Nguyễn Văn Tiếp và kênh Dương Văn Dương, khôi phục lại vùng 4 Kiến Tường. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 8 dự kiến 2 phương án tác chiến:

Phương án 1 là ngay đầu chiến dịch sẽ diệt cứ điểm Chà Là kênh 10, đánh viện, diệt cho được 1 tiểu đoàn chủ lực ngụy, sau đó chuyển sang diệt căn cứ cấp tiểu đoàn địch ở Phụng Thớt.

Phương án 2 là nếu địch tăng cường phòng thủ hoặc chủ động đánh ta trước vào mảng 4 Cai Lậy Bắc thì ta sử dụng sư đoàn (thiếu) tiến công vùng kênh Dương Văn Dương mở mảng 2 xã trên kênh này, khôi phục thế giải phóng vùng 4 Kiến Tường. Phối hợp và nối liền thế tiến công của chủ lực Miền từ biên giới Campuchia xuống.

Phương án 1 và 2 đều dùng Trung đoàn 320 diệt đồn, chốt chặn kênh 12, đánh quân cơ động của địch hành quân chi viện hướng mảng 4 vùng 4 Kiến Tường.

Ta chưa kịp nổ súng thì xảy ra việc cơ quan tham mưu sư đoàn làm mất kế hoạch tác chiến theo phương án 1. Địch gấp rút điều Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 ngụy đến đối phó, quyết giữ tuyến ngăn chặn trung gian này không cho chủ lực ta từ biên giới Kiến Tường tiến xuống Mỹ Tho. Ta quyết định nổ súng theo phương án 2.

Đêm mồng 5 rạng ngày 6 tháng 12 năm 1974, Trung đoàn 88 được tăng cường 1 tiểu đoàn pháo cối tiến công căn cứ kênh Quận nhưng không diệt được, nên chuyển sang vây lấn kéo dài đến ngày 12 tháng 12 năm 1974. Địch biết ta vây đồn để diệt viện nên chúng lệnh cho căn cứ kênh Quận cố thủ và dùng máy bay đánh phá liên tục ở vòng ngoài, giải tỏa áp lực chứ không sử dụng bộ binh. Địch không tiếp viện, Trung đoàn 24 phải chuyển nhiệm vụ sang tập kích một bộ phận của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 của địch, buộc chúng lùi ra xa. Đêm mồng 4 tháng 12 năm 1974, Trung đoàn 88 (thiếu) và 1 tiểu đoàn pháo cối đánh căn cứ kênh Quận lần hai, cũng không đạt kết quả, bị tiêu hao. Ta phải bỏ mục tiêu.

Hướng lộ 12, Trung đoàn 320 diệt đồn Cây Dừa, diệt 2 trung đội bảo an, sau đó lần lượt diệt tiếp 4 đồn khác và 3 đại đội bảo an đi giải tỏa, khống chế chặt đoạn lộ giữa Mỹ Phước - Mỹ Hạnh Trung, Tân Bình, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Bước sang tháng 1 năm 1975, Sư đoàn 8 chuyển qua tiến công mở vùng kênh Nguyễn Văn Tiếp và mảng 4 Cai Lậy Bắc. Sử dụng Trung đoàn 24 đánh điểm, Trung đoàn 88 và Trung đoàn 320 đánh viện.

Đêm mồng 7 rạng ngày 8 tháng 1 năm 1975, Trung đoàn 24 đánh căn cứ cấp tiểu đoàn của địch trên kênh Chà Là nhưng không dứt điểm được. Sáng ngày 9 tháng 1 năm 1975, 2 trung đoàn 11 và 12 Sư đoàn 7 ngụy, 1 chi đoàn xe M113 tiếp viện căn cứ Chà Là. Địch đi không đúng hướng phục kích. Sư đoàn 8 đưa 1 đại đội đánh chặn, buộc địch đổi hướng. Nhưng địch đánh tràn qua, tiến thẳng vào căn cứ Chà Là. Giải tỏa xong kênh Chà Là, Sư đoàn 7 ngụy tập trung đại bộ phận cùng 3 chi đoàn xe M113 càn quét giải tỏa vùng 4 Kiến Tường. Thường vụ Khu ủy chấp nhận đề nghị của Bộ tư lệnh tiền phương Quân khu chuyển đại bộ phận Sư đoàn 8 ra khỏi vùng 4 Kiến Tường, qua tây bắc Cái Bè giáp Kiến Văn, Kiến Phong, chỉ để lại Trung đoàn 88 kiềm chế, ngăn chặn không cho địch phá kho tàng.

Trung đoàn 320 đưa 1 tiểu đoàn tiến xuống Phú Mỹ. Ngày 9 tháng 1 năm 1975, tiểu đoàn này phối hợp với bộ đội địa phương huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho diệt phân chi khu Tân Hòa Thành. Du kích và quần chúng nổi dậy cùng bộ đội diệt tiếp 9 đồn, giải phóng xã Tân Hòa Thành, giải phóng cơ bản xã Phú Mỹ, mở thông hành lang từ Châu Thành xuống Chợ Gạo. Cùng lúc, Trung đoàn 24 mở các căn cứ ở bắc lộ 4 và kênh Nguyễn Văn Tiếp B ở Cái Bè. Công binh và du kích diệt một số xe quân sự trên lộ 4 đoạn Cái Bè. Du kích và quần chúng nổi dậy bao vây nhiều đồn bốt.

Trên biên giới, đêm ngày 7 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 5 đánh chi khu quân sự Long Khốt (lần thứ hai) nhưng không đạt kết quả, bị thương vong nhiều. Sư đoàn nhanh chóng chuyển sang phối hợp với bộ đội Kiến Tường và du kích các xã tiến công các đồn bốt nhỏ dọc biên giới và ven sông Vàm Cỏ Tây trên chiều dài 40 kilômét. Liên tiếp trong ba ngày diệt hết đồn bốt, đánh chiếm luôn quận lỵ Tuyên Nhơn. Bọn chi khu Tuyên Nhơn chạy về căn cứ biệt kích Bún Bà Của, xã Thủy Đông. Cửa ngõ biên giới trên vùng 6 và một phần vùng 2, vùng 8 Kiến Tường đã mở, quần chúng nổi dậy phá kìm, trở về vùng giải phóng ngày càng đông.

Địch phải vội vã điều Sư đoàn 9 ngụy (thiếu) và Lữ đoàn 4 thiết giáp lên phòng thủ hướng Kiến Tường. Chúng bố trí hỗn hợp bộ binh và thiết giáp thành từng cụm tiểu đoàn để giữ các chốt quan trọng Long Khốt, Bắc Chang, Thạnh Trị, Gò Măng Đa, thị xã Mộc Hóa, Bún Bà Của. Từ ngày 15 đến ngày 22 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 5 đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 9 ngụy, diệt 2 đại đội bảo an, 1 chi đoàn xe M113, 1 giang đoàn 12 tàu trên sông Vàm Cỏ Tây, khống chế giao thông thủy.

Sư đoàn 5 tích cực chuẩn bị chiến trường, đưa pháo xuống vùng 2 và vùng 8 Kiến Tường để sang tháng 1 năm 1975 hoặc vào đầu đợt 2 sẽ đánh chiếm thị xã Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #206 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:14:31 pm »

Ở Sa Đéc, các tiểu đoàn 502A, 502B chưa qua sông Tiền. Khu đồng ý cho tỉnh sử dụng 2 tiểu đoàn này vào việc mở rộng tuyến Kiến Văn - Lộ 30 - kênh Nguyễn Văn Tiếp bắc Cao Lãnh. Rạng sáng ngày 7 tháng 12 năm 1974, 2 tiểu đoàn phối hợp với lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận ở cơ sở diệt phân chi khu Thiện Mỹ, giải phóng một đoạn dài 2 kilômét trên kênh Nguyễn Văn Tiếp. Đêm 12 tháng 12 năm 1974, ta tiến công bằng sức mạnh quân sự kết hợp với quần chúng nổi dậy diệt 30 đồn trên sông Cần Lố và kênh Nguyễn Văn Tiếp A, kênh Nguyễn Văn Tiếp B. Cũng trong đợt 1, trung đội trinh sát và 1 trung đội đặc công của tỉnh được đưa sang các huyện ở phía nam sông Tiền. Các lực lượng này đã cùng với tiểu đoàn 1 Vĩnh long, quân địa phương các huyện và du kích chuyển phong trào ở phía nam sông Tiền lên một bước, tạo thành thế chiến tranh nhân dân vây diệt đồn bốt, đã diệt được 5 đồn, làm chủ nhiều ấp, mở rộng căn cứ du kích ra sát lộ 8 và lộ 23. Đến ngày 23 tháng 1 năm 1975, Tiểu đoàn 502 và Đại đội công an vũ trang vượt sông Tiền. Đồng chí Trần Anh Điền (Tám Bé) - Ủy viên Thường vụ Khu ủy theo sát chỉ đạo hướng tiến công này.

Ở Mỹ Tho, trong đợt này được giao mở mảng dọc hai bên bờ kênh Chợ Gạo. tỉnh thành lập Ban chỉ huy thống nhất mặt trận bao gồm cả Chợ Gạo, do đồng chí Nguyễn Văn Thành - Tỉnh đội trưởng làm Chỉ huy trưởng, phối hợp chặt giữa lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh và ba mũi giáp công nổi dậy của quần chúng để diệt, bức hàng, bức rút đồn bốt, làm tan rã địch. Cùng thời gian đó, đồng chí Chí Hải - Ủy viên Thường vụ Khu ủy cùng một bộ phận của Tỉnh ủy Mỹ Tho và đoàn cán bộ phát động quần chúng xuống xây dựng địa bàn đứng chân, chuẩn bị hậu cần với nhiệm vụ mở hành lang thông sang Long An. Đoàn dân công vận tải của tỉnh trong ba tháng ròng rã vận chuyển hàng từ Ba Thu xuống Hưng Thạnh, vượt lộ 4 xuống Chợ Gạo, cất giấu, dự trữ hàng trăm tấn vũ khí cho kế hoạch tiếp sau.

Tỉnh Mỹ Tho quyết định hoạt động trước thời hạn chung một tháng. Đêm 6 tháng 11 năm 1974, Tiểu đoàn 514C và bộ đội địa phương Chợ Gạo hỗ trợ cho du kích các xã và lực lượng chính trị, binh vận xã, ấp tấn công nổi dậy mạnh mẽ. Đến cuối tháng, ta đã mở được một vùng rộng, bức hàng đồn xóm Củi, xã Đăng Hưng Phước, đồn Bình Hiệp, đồn Ngã ba lộ Xoài, xã Song Bình. Du kích và bộ đội huyện còn vây ép, đánh thiệt hại nặng 11 đồn. Ngày 19 tháng 11 năm 1974, chi khu Chợ Gạo đưa 1 tiểu đoàn bảo an và 1 trung đội dân vệ đến phản kích. Mũi tấn công chính trị có gia đình binh sĩ kéo ra đấu tranh, tác động, làm cho địch hoang mang, lo sợ lọt vào ổ phục kích, nên chỉ thập thò ngoài lộ Ông Văn. Đêm 19 tháng 11 năm 1974, Tiểu đoàn 514 C để một bộ phận nhỏ kìm chân địch, còn đại bộ phận chuyển hướng đánh các đồn Điền Mỹ, xã Long Bình Điền; đồn Tư Tao, tua cầu Cả Quới, xã Đăng Hưng Phước. Sau đó chuyển lên Thanh Bình, Mỹ Phong diệt tiếp 1 đồn, bức rút 7 đồn. Trong khi đó, du kích Thanh Bình nắm thời cơ bao vây chặt đồn xóm Chùa, đưa 7 gia đình binh sĩ vào đồn thuyết phục, tác động chồng, con em mình và các binh sĩ khác, kết quả là 8 dân vệ bỏ trốn, sau đó số còn lại tháo chạy. Phía Lương Hòa Lạc, Đại đội Ấp Bắc cùng du kích bức rút 3 đồn. Bộ đội địa phương huyện Chợ Gạo cùng du kích và quần chúng bức rút 3 đồn ở xã Mỹ Tịnh An, công sở tề xã Trung Hòa, 2 đồn và 2 tháp canh xã Phú Kiết, làm chủ lộ Phú Kiết - Bến Tranh và lộ tổng An Khương. Du kích xã Quơn Long, Tân Thuận Bình bức rút 2 đồn Quang Khương, Năm Biển. Phía nam lộ 24, bộ đội địa phương, du kích và lực lượng chính trị binh vận bao vây, bức hàng đồn cầu Tréo, xã Bình Ninh, phối hợp với lực lượng vũ trang bám trụ ở nam lộ 24, bao vây, bức rút 4 đồn ở các xã của Gò Công giáp ranh với huyện Chợ Gạo.

Tình hình ở Chợ Gạo tác động mạnh đến các xã Vĩnh Hựu, Long Hựu, Bình Hiệp Nam, Bình Long ở Gò Công Tây, quần chúng các xã này đã nổi dậy diệt ác, phá kìm.

Trong đợt hoạt động tạo thế cho Chợ Gạo lần này, Mỹ Tho đã phát động được phong trào quần chúng nổi dây mạnh hơn năm 1972, nhiều cuộc mít tinh có hàng ngàn người tham dự mừng chiến thắng, biểu dương lực lượng, đem bọn ác ôn ra thú tội trước nhân dân. Quần chúng xé cờ ba que, xóa khẩu hiệu phản động, đập phá bảng liên gia, vận động làm rã 14 toán phòng vệ dân sự.

Vào đợt chung toàn Khu, Mỹ Tho đưa tiếp Tiểu đoàn 2009 B xuống Chợ Gạo. Đêm 6 tháng 12 năm 1974, các lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, binh vận tại xã, ấp nổi dậy tiến công hầu như toàn bộ vùng địch bình định lâu ngày trên huyện Chợ Gạo. Sau 3 ngày tiến công, trên tuyến lộ Ông Văn ta diệt và bức rút 8 đồn của các xã Long Bình Điền, Song Bình. Tiểu đoàn 514 C phục kích đánh 1 đại đội bảo an, 2 trung đội dân vệ, diệt 780 tên địch, thu được 50 khẩu súng, 5 máy thông tin, diệt gần hết đại đội bảo an đóng dã chiến ở lộ Ông Văn. Bọn lính dân vệ ở đồn Cả Quới, đồn Mới hoảng sợ, bỏ đồn tháo chạy. Du kích thừa thắng bức rút 2 đồn ở xã Mỹ Tịnh An và xã Phú Kiết. Bọn bảo an, dân vệ bị diệt ở Đăng Hưng Phước, Long Bình Điền, địch không dám vào lấy xác đồng bọn. Mũi tiến công chính trị, binh vận phát động 200 quần chúng khiêng xác địch trên lộ Ông Văn đấu tranh đòi tiền bồi thường, đòi trả lại chồng con, vận động binh lính đào ngũ, làm cho tinh thần địch càng thêm hoang mang.

Trên tuyến kênh Chợ Gạo, Tiểu đoàn 2009 B, Đại đội đặc công và lực lượng nổi dậy tại chỗ đã bao vây diệt, bức rút 4 đồn, 2 bốt ở Tân Thuận Bình, 3 đồn ở Quơn Long, 2 đồn ở Bình Phục Nhứt, uy hiếp mạnh bọn ở kênh Chợ Gạo và khu phố Ông Văn.

Tình hình ở Chợ Gạo nghiêm trọng, địch phải vội vã gom lực lượng đối phó. Ngày 17 tháng 12 năm 1974, địch huy động Tiểu đoàn bảo an của 3 tỉnh Long An, Gò Công, Mỹ Tho, 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 và 2 đại đội thám báo, 1 chi đoàn xe M113 càn giải tỏa kênh Chợ Gạo. Máy bay và các cụm pháo ở Bình Phước (Long An), Chợ Gạo, Tân Hiệp (Mỹ Tho), Hòa Đồng (Gò Công) bắn yểm trợ mạnh mẽ. Tiểu đoàn 2009 B và du kích phân tán lực lượng đánh ngăn chặn. Mũi chính trị, binh vận tung lực lượng hàng trăm người ra chặn đầu xe M113, níu kéo bọn chỉ huy, đấu tranh đòi không được bắn pháo vào xóm, không cho thiết giáp càn phá lúa.

Sau 2 ngày hành quân vất vả, lại bị trúng mìn, lựu đạn, bị bộ đội, du kích bắn tỉa tiêu hao; đồng thời trên hướng Kiến Tường, Cái Bè, Cai Lậy, chủ lực Miền và Khu tiến công mạnh, địch phải bỏ cuộc, gấp rút đưa lực lượng của Sư đoàn 7 đi cứu viện. Sư đoàn 7 cũng phải rút, bỏ lại đám bảo an chi khu. Tiểu đoàn 514 C và Tiểu đoàn 2009 B của ta vây đánh diệt trên 150 tên. Trên tuyến lộ Ông Văn, các đồn dân vệ bị du kích bao vây chặt; gia đình binh sĩ ban đêm đốt đuốc vào kêu gọi, bọn chỉ huy cố sức ngăn cản nhưng binh sĩ vẫn chạy trốn và đầu hàng, còn bọn chỉ huy thì bị ta bắt sống. Các tiểu đoàn 514 C và 2009 B vây bám tiêu diệt bức rút thêm 8 đồn, đột nhập vào khu phố Ông Văn, tước súng 3 toán phòng vệ dân sự. Cuộc tiến công và nổi dậy ở vùng Chợ Gạo trong đợt 1 mùa khô 1974-1975 đã mở ra một vùng giải phóng liên hoàn từ lộ Bốn Ngàn đến bờ sông Bảo Định, mở ra một vùng tuy nhỏ nhưng rất quan trọng ở hai bờ đông và tây kênh Chợ Gạo, tạo thế để khi có lệnh thì cắt giao thông thủy ở Chợ Gạo và từ đây tiến xuống Gò Công. Ngày 20 tháng 12 năm 1974, huyện Chợ Gạo tổ chức cuộc mít tinh lớn đầu tiên từ sau Xuân 1968 mừng ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhân dân các xã đến dự trên 4.000 người. Trong cuộc mít tinh, 52 thanh niên tình nguyện tòng quân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #207 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:14:52 pm »

Ở Bến Tre, đầu tháng 12 năm 1974, tỉnh xác định hai khu vực trọng điểm, lập kế hoạch tấn công nổi dậy toàn diện. Trọng điểm 1 là khu vực Mỏ Cày Bắc và Chợ Lách, lực lượng có Trung đoàn 1 của Khu và bộ đội địa phương huyện Mỏ Cày Bắc. Trọng điểm 2 là phía nam huyện Giồng Trôm, phía nam huyện Ba Tri do lực lượng tỉnh đảm nhiệm.

Ở trọng điểm 1, đêm 11 tháng 12 năm 1974, Trung đoàn 1 và bộ đội huyện diệt 8 đồn, lực lượng quần chúng nổi dậy bức hàng 1 đồn, bức rút 4 đồn ở các xã Thành An, Tân Phú, Thạnh Ngãi, giải phóng 6 ấp. Ngày 12 tháng 12 năm 1974, Trung đoàn 1 tập kích diệt 1 đại đội bảo an và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 509 bảo an, xóa phiên hiệu trung đội dân vệ cơ động ác ôn của chi khu Chợ Lách. Ngày 13 tháng 12 năm 1974, tiểu khu Bến Tre huy động 6 tiểu đoàn bảo an đến tiếp viện. Trung đoàn phân tán từng tiểu đoàn phối hợp với bộ đội huyện và du kích chặn đánh, tiêu hao nặng các tiểu đoàn bảo an 454, 507, kìm chân 6 tiểu đoàn bảo an trong vùng Tân Phú, Thạnh Ngãi.

Tại trọng điểm 2, các tiểu đoàn của tỉnh kết hợp với bộ đội huyện và lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận ở cơ sở tấn công bao vây, bức rút 15 đồn, giải phóng xã Long Mỹ. Các tiểu đoàn 560, 516, 263 phục kích diệt gọn 1 đại đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn bào an 415, 455 đi giải tỏa. Quần chúng nổi dậy giải phóng 9 ấp ở xã Hiệp Hưng, huyện Giồng Trôm và xã Tân Hưng, huyện Ba Tri. Ngày 4 tháng 1 năm 1975, địch đưa 2 tiểu đoàn bảo an 453 và 454 đi càn quét ở hai xã Tân Thanh, Hiệp Hưng. Ta quyết định phục kích tiêu diệt Tiểu đoàn 453 khi chúng rút quân. Tám giờ sáng ngày 22 tháng 1 năm 1975, địch lọt vào trận địa. Sau 6 giờ chiến đấu giằng co ác liệt, Tiểu đoàn 453 bị ta tiêu diệt.

Kết thúc đợt 1, ở Bến Tre ta đã diệt được 1 tiểu đoàn, 1 đại đội bảo an, đánh tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn bảo an, bức hàng, bức rút 82 đồn tua, có 2 phân chi khu, giải phóng 2 xã, 38 ấp. Phong trào quần chúng nổi dậy giáp công phát triển khá đồng đều trên hai vùng trọng điểm.

Ở Long An, vào đợt mùa khô 1974-1975 trong tình hình tỉnh Long An đã được giao về khu VIII, các lực lượng vũ trang và cơ sở chính trị đã có được một bước củng cố trong năm 1973-1974. Tỉnh đã có ba tiểu đoàn bộ binh là K1, K54, K7, 1 tiểu đoàn pháo, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh, 2 đại đội đặc công.

Tại các huyện Thủ Thừa, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, lực lượng quần chúng ở cơ sở có lực lượng vũ trang làm nòng cốt đã nổi dậy tiến công mở ra nhiều lõm nhỏ đều khắp các xã. Ở bắc lộ 4, dọc theo hai bờ sông Vàm Cỏ, ta mở nhiều vùng giải phóng rộng, liên hoàn. Đến cuối năm 1974 đầu năm 1975, các đường hành lang đã được nối liền từ bắc Long An xuống các huyện ở nam Long An, lại có thêm một đường hành lang vòng qua huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ tho xuống Chợ Gạo, lên Châu Thành, tỉnh Long An rồi qua Tân Trụ, Cần Đước...

Long An vào đợt mùa khô 1974-1975 chậm 3 ngày, tập trung lực lượng mở rộng tuyến Vàm Cỏ Đông, diệt và bức rút 10 đồn, giải phóng 7 ấp. Các xã phía bắc Long An đã tiến lên giành được thế làm chủ từ 4 giờ chiều đến 6 giờ sáng. Bọn chủ lực ngụy và bảo an đang lo đối phó ở hướng Kiến Tường và miền Đông. Phía nam Long An, 1 tiểu đoàn của tỉnh và bộ đội địa phương huyện Châu Thành, Tân Trụ mở rộng các xã giáp Chợ Gạo, Mỹ Tho và các lõm ở Tân Phước Tây.

Long An cố gắng chuyển lên mạnh ở phía bắc. Còn phía nam tuy có mở được nhiều lõm nhỏ nhưng cũng còn khó khăn vì phong trào quần chúng nổi dậy tiến công tại chỗ chưa mạnh.

Ở Long Châu Tiền, mãi đến ngày 25 tháng 12 năm 1974 mới nổ súng tiến công vì lúc đầu tỉnh xác định huyện Thanh Bình là trọng điểm, nhưng vì nước chưa rút sẽ gây trở ngại cho việc hành quân nên phải chuyển lên huyện Hồng Ngự. Vào đợt, ta diệt ngay phân chi khu Thường Thới Tiền, sau đó tập kích diệt tiếp 2 đại đội bảo an ở chi khu Hồng Ngự đến phản kích.

Kết thúc đợt 1 mùa khô 1974-1975, toàn Khu loại khỏi vòng chiến đấu 15.000 tên địch, tiêu diệt 1 tiểu đoàn, 8 đại đội, 31 trung đội, đánh thiệt hại nặng 8 tiểu đoàn, 3 căn cứ quân sự, diệt bức rút, bức hàng, vận động binh lính phá bỏ 411 đồn, giải phóng 3 xã, chuyển thế làm chủ ở 131 ấp với trên 200.000 dân. Ta đã mở được nhiều lõm liên hoàn từ biên giới Kiến Tường xuống nam bắc lộ 4 đến vùng Chợ Gạo, Gò Công và các huyện ở phía nam tỉnh Long An, tạo được bàn đạp hành lang để cơ động bộ đội và vận chuyển vũ khí, đạn dược xuống chiến trường, bố trí được lực lượng vây ép thị xã, sẵn sàng đánh phá giao thông ở lộ 4 và kênh Chợ Gạo.

Trong khi đó, trên chiến trường miền Đông, chủ lực Miền đánh thắng giòn giã: trong chiến dịch đường 14 ngày 26 tháng 12 năm 1974 ta diệt chi khu Đồng Xoài; ngày 6 tháng 1 năm 1975 diệt tiểu khu Phước Long, giải phóng tỉnh Phước Long. Quân ngụy Sài Gòn không có khả năng đối phó.

Sau đợt 1, trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, địch có những thay đổi lớn. Lực lượng không được bổ sung, chúng buộc phải giảm hàng chục tiểu đoàn bảo an. Bộ máy kìm kẹp và hệ thống đồn bốt bị vỡ từng mảng lớn. Nhưng chúng lại phán đoán cho là ta đã xong cao điểm mùa khô và phải từ tháng 4 năm 1975 trở đi mới có thể đánh lớn. Địch phát động kế hoạch “Tổng công kích”, tranh thủ đánh phá tái chiếm. Chúng nâng tổ chức dân vệ thành liên đội, cơ động cho chi khu, nâng tổ chức bảo an lên thành liên đoàn, cơ động cho tiểu khu, rút bảo an bổ sung cho chủ lực. Biên chế lại chủ lực mỗi tiểu đoàn 4 đại đội, mỗi trung đoàn 4 tiểu đoàn, mỗi sư đoàn 4 trung đoàn để duy trì được các cuộc hành quân đối phó ở biên giới, vùng 4 Kiến Tường và dọc kênh Nguyễn Văn Tiếp để đối phó với những cuộc tiến công của ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #208 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:15:17 pm »

Vào đợt 2, Khu cùng toàn miền Nam đồng loạt tiến công. Quy định ngày N cho toàn Miền là vào đêm mồng 10 rạng ngày 11 tháng 3 năm 1975. Đây là ngày lịch sử mở đầu cuộc tổng tiến công giải phóng toàn miền Nam.

Trước khi vào đợt 2, Bộ tư lệnh Quân khu có sự thay đổi. Đồng chí Lê Quốc Sản đi dưỡng bệnh ở Hà Nội về, trở lại vị trí Tư lệnh Quân khu, thay đồng chí Đồng Văn Cống về Miền. Đồng chí Lê Quốc Sản bắt tay vào công việc, cùng với các đồng chí Quân khu ủy và Bộ tư lệnh nghiên cứu lại toàn bộ tình hình, kế hoạch tác chiến. Quân khu ủy nhất trí đề nghị với Thường vụ Khu ủy cho chuyển hướng tiến công ra phía Cái Bè. Cụ thể là đợt 2 mở khu vực Ngã Sáu - Mỹ Trung, bao gồm các xã giáp ranh huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, huyện Mỹ An, tỉnh Sa Đéc. Sau đó tùy tình hình phát triển có thể quay lại chiến trường Mỹ Tho - Kiến Tường.

Chủ trương chuyển hướng được Thường vụ Khu ủy chấp thuận. Đêm 11 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 8 sử dụng Trung đoàn 24 đánh diệt căn cứ cấp tiểu đoàn của địch tại Ngã Sáu. Ngày 12 tháng 3 năm 1975, sư đoàn phục kích diệt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 10 Sư đoàn 7 ngụy trên cánh đồng giáp Hậu Mỹ - Mỹ Thiện, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3. Ngày 13 tháng 3 năm 1975, địch đưa 4 đại đội bảo an tái chiếm căn cứ Ngã Sáu. Sư đoàn đánh trận thứ hai, diệt gọn 4 đại đội này, thu nhiều súng các loại, trong đó có cả pháo 105 ly. Địch lo giữ yếu khu Hậu Mỹ và lộ 4, lại phải đưa lực lượng đi tiếp viện hướng Trà Vinh ở Khu IX nên không thể tái chiếm Ngã Sáu. Đây là trận thắng giòn giã ở Khu VIII và là trận thắng mở đầu cho đợt tiến công. Cùng những ngày ấy của tháng 3 năm 1975, Quân đoàn 3 của Bộ tổng tư lệnh tiêu diệt quân ngụy, giải phóng Buôn Ma Thuột.

Thừa lúc bọn bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự và bộ máy tề điệp hoang mang, lực lượng ba mũi giáp công nổi dậy, trong vòng 2 tuần lễ đã phá rã hệ thống đồn bốt địch ở kênh Tư mới, kênh Nhứt, kênh 2 và các xã Mỹ Điền, Thanh Mỹ, giải phóng một vùng rộng hai bên kênh Nguyễn Văn Tiếp B, thành một mảng liên hoàn lên phía Kiến Văn, Mỹ An, Cao Lãnh của tỉnh Sa Đéc và ra gần sát lộ 4 Cái Bè - Mỹ Tho. Tiểu đoàn 269 đặc công diệt tiếp 2 đồn ở đông bắc Ngã Sáu và đồn ngã ba Hậu Mỹ trên kênh Nguyễn Văn Tiếp A nối liền với vùng 4 Kiến Tường. Trên lộ 12, bộ phận chốt giữ của Trung đoàn 320 diệt 3 đồn ở xã Mỹ Hạnh Trung.

Tại vùng điểm Chợ Gạo của Mỹ Tho, ta chưa diệt được ngay phân chi khu Thanh Bình, do địch tăng cường đến 2 tiểu đoàn bảo an. Ta chuyển sang đánh bọn tăng cường, diệt 1 đại đội sau đó quay lại diệt phân chi khu và 4 đồn, mở rộng vùng giải phóng ở Chợ Gạo tới giáp thành phố Mỹ Tho. Lực lượng Thành đội Mỹ Tho pháo kích liên tục vào căn cứ Tiểu đoàn 71 pháo binh, đánh chìm 1 tàu, diệt 6 đồn ở ngoại ô thành phố.

Phía Bến Tre, trên hướng Chợ Lách, Trung đoàn 1 bị các tiểu đoàn bảo an ngăn chặn không mở được vùng chợ Lách. Lực lượng của tỉnh ở Ba Tri diệt phân chi khu Tân Xuân và kết hợp với quần chúng nổi dậy tiến công, bao vây, phá rã bộ máy tề và phòng vệ dân sự trên hầu hết 4 xã phía bắc huyện Ba Tri, bức hàng, bức rút 42 đồn.

Ở vùng phía nam tỉnh Long An, từ tháng 3 năm 1975, địch có thêm tàn quân của Sư đoàn 22 ngụy từ vùng chiến thuật 1 chạy về đóng trên đoạn lộ Bến Lức. Ngày 9 tháng 3 năm 1975, Tiểu đoàn 1 phục kích diệt Tiểu đoàn 333 bảo an ở xã An Thạnh. Địch đưa 1 tiểu đoàn bảo an đến phản kích. Ta diệt 1 đại đội, giữ vững vùng mới giải phóng ở bắc Long An, ngày 20 tháng 3 năm 1975, lực lượng binh đoàn 232 diệt căn cứ Quéo Ba, giải phóng hoàn toàn huyện Đức Huệ. Sau đó, binh đoàn 232 cùng lực lượng của tỉnh Long An dứt điểm một loạt đồn bốt ở dọc sông Vàm Cỏ Đông. Tiểu đoàn 45 và Đại đội 25 đặc công cùng bộ đội địa phương tiến công mở vùng ở hạ Châu Thành, Tân Trụ.

Hướng Sa Đéc, vùng các huyện phía nam sông Tiền, từ 20 tháng 1 năm 1975 đến 21 tháng 2 năm 1975, ta bao vây tiến công bức rút 49 đồn ở các huyện Châu Thành, Lấp Vò, Lai Vung, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn bảo an. Đến cuối tháng 2 năm 1975, Tiểu đoàn 502 B vượt sông Tiền, phối hợp cùng với các lực lượng đã qua sông trước mở tuyến Lai Vung - Lấp Vò hướng lên Chợ Mới, đi sâu vào quần chúng tín đồ Hòa Hảo, xây dựng được nhiều cơ sở chính trị, binh vận và du kích trong vùng mới mở. Đồng bào tín đồ Hòa Hảo nổ dậy tham gia tiến công và ủng hộ nhiều lương thực, thực phẩm cho bộ đội.

Chủ trương của Khu ủy và Quân khu ủy chuyển hướng chiến dịch ra vùng Cái Bè trong đợt 2 mùa khô 1974-1975 là linh hoạt và đúng đắn. Kết quả là trong vòng hai tuần, ta đã mở rộng vùng giải phóng ở giữa Đồng Tháp Mười, bao gồm các huyện Cái Bè, Cai Lậy (Mỹ Tho), vùng 4 (Kiến Tường), Mỹ An, Kiến Văn (Sa Đéc). Các binh chủng của Khu cùng với quần chúng và lực lượng ba mũi ở cơ sở của Mỹ Tho đã áp sát quanh thành phố Mỹ Tho. Các hướng tiến công và nổi dậy đã đạt được kết quả.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #209 vào lúc: 03 Tháng Tám, 2014, 07:15:44 pm »

2. Tham gia tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Trong tháng 3 năm 1975, trên chiến trường Tây Nguyên, các binh đoàn cơ động của Bộ tổng tư lệnh đã giải phóng Buôn Ma Thuột. Địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku, Cheo Reo. Ngày 19 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng Quảng Trị. Ngày 23 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng Huế, rồi Quảng Nam - Đà Nẵng. Tiếp đó là các tỉnh ven biển Khu V trở vào lần lượt được giải phóng.

Thời cơ chiến lược mới đã xuất hiện. Ngày 1 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra quyết định thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa.

Sư đoàn 5 theo lệnh của Miền bỏ kế hoạch giải phóng Mộc Hóa (Kiến Tường), trở về đội hình cánh quân phía tây nam. Ngày 6 tháng 4 năm 1975, đồng chí Huỳnh Châu Sổ - Bí thư Khu ủy đi nhận nhiệm vụ ở Trung ương Cục.

Nhiệm vụ của Khu VIII là:

- Chia cắt chiến lược, cắt đứt hoàn toàn lộ 4 và kênh Chợ Gạo.

- Mở một mũi tiến công từ hướng đông nam đánh vào Sài Gòn, chiếm tổng nha cảnh sát ngụy và khu vực cảng Nhà Bè là một trong năm mục tiêu then chốt của chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

- Tự lực tiến công và nổi dậy giải phóng tỉnh, huyện, xã và toàn Khu.

Ngày 10 tháng 4 năm 1975, tại căn cứ Khu ủy ở Long Trung phía nam lộ 4 huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy họp quán triệt nhiệm vụ của Trung ương Cục và Quân ủy Miền giao, bàn cách tổ chức lực lượng, phân công triển khai, chỉ đạo các tỉnh. Cuộc họp kết thúc vào ngày 12 tháng 4 năm 1975. Đồng chí Bí thư Khu ủy nói về cuộc họp lịch sử: Hội nghị đã có sự nhất trí cao giữa tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, tấn công ba mũi quân sự, chính trị, binh vận để tự lực giải phóng các tỉnh, huyện, xã trong toàn Khu.

Đồng chí Lê Quốc Sản - Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Tư lệnh Quân khu đề xuất Hội nghị cho triển khai mấy việc khẩn cấp:

- Đưa Trung đoàn 1 từ Bến Tre về để tập trung lực lượng tấn công vào trọng điểm của Khu.

- Tổ chức sư đoàn nhẹ mang mật danh J50 đánh vào phía nam Sài Gòn, do đồng chí Huỳnh Văn Mến làm Tư lệnh, đồng chí Võ Văn Thạnh làm Chính ủy.

- Chuyển cơ quan Khu ủy, Sở chỉ huy Quân khu về vùng Tân Phú ở bắc lộ 4 và mảng 3 Cai Lậy Bắc để lãnh đạo và chỉ huy cuộc tiến công và nổi dậy ở trọng điểm Mỹ Tho và các tỉnh.

- Lực lượng biệt động của thành phố Mỹ Tho và các thị xã, thị trấn trong toàn Khu cùng với các cán bộ chính trị, binh vận đột nhập nội ô phát động quần chúng nổi dậy.

- Từng địa phương xây dựng kế hoạch tổng công kích - khởi nghĩa, thực hiện xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh, diệt và làm tan rã địch trong toàn Khu.

Nghị quyết của Hội nghị được triển khai hết sức khẩn trương. Địch tuy hò hét từ thủ, nhưng sự thất bại của chúng đã rõ ràng. Tinh thần binh sĩ ngụy hoang mang, dao động và có xu hướng tan rã. Từ giữa tháng 4 năm 1975, trên chiến trường Mỹ Tho, các lực lượng của Khu và của Mỹ Tho đã đột phá tuyến phòng thủ vòng ngoài của chúng, áp sát thành phố và liên tục đánh ở lộ 4.

Trong lúc toàn Khu VIII đang triển khai toàn diện kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa thì ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định, trung tâm đầu não của ngụy quyền, lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Nhiệm vụ mà Trung ương Cục và Quân ủy Miền giao cho Khu VIII thật quan trọng, nặng nề và nhiều khó khăn. Vừa phải tự lực giải phóng toàn Khu, đồng thời phải cắt đứt hẳn mạch máu giao thông thủy, bộ nối liền Sài Gòn với miền Tây và khẩn cấp tổ chức sư đoàn nhẹ vừa hành quân vừa tác chiến, xuyên qua các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc, Bình Chánh thuộc tỉnh Long An đánh vào phía nam Sài Gòn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM