Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:58:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 94764 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #90 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:33:11 am »

Bến Tre là chiến trường nằm độc lập với Khu và ở bên kia sông Tiền, nhưng cuộc chiến đấu không kém phần ác liệt. Từ giữa năm 1963, ngoài nhiệm vụ đấu tranh giành và giữ dân, Bến Tre còn phải bảo đàm đầu cầu tiếp nhập hàng chiến lược của Trung ương đưa vào miền Nam theo đường biển và là đầu mối, hành lang vận chuyển hàng chiến lược về Khu Sài Gòn - Chợ Lớn và về Miền. Vì nhiệm vụ chiến lược ấy mà Bến Tre trở thành nơi chịu đựng những cuộc hành quân lớn của địch. Bến Tre đã đánh địch bảo vệ đầu cầu tiếp vận rất anh dũng. Ngày 7 tháng 1 năm 1964, địch mở cuộc hành quân lớn Sóng Thần 5 do các tên tướng Lê Văn Kim - Bộ tổng tham mưu ngụy, Lâm Văn Phát - Tư lệnh khu chiến thuật Tiền Giang, nhiều cố vấn quân sự cao cấp của Mỹ và Đại tá Hoàng Gia Anh chỉ huy chiến đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 ngụy, 6 đại đội biệt kích, 60 máy bay, 33 tàu chiến, giang thuyền, 26 xe M113, 12 pháo 105 và pháo 155. Chúng bao vây 2 xã Thạnh Phong và Giao Thạnh huyện Thạnh Phú, lùng tìm kho hàng, bến bãi. Chúng ném bom, bắn phá rất ác liệt, giết chóc, hãm hiếp nhân dân rất tàn bạo. Tiểu đoàn 263 của Khu vừa thành lập lúc này đang huấn luyện đã cùng đơn vị bảo vệ bến M3, du kích các cơ quan các trường quân sự của tỉnh ở khu vực Thạnh Phú và du kích xã chặn đánh địch nhiều trận, làm cho chúng không tự do lùng sục được. Lực lượng tấn công của đội quân tóc dài đấu tranh quyết liệt với bọn càn quét và với tỉnh trưởng Kiến Hòa, ngăn chặn hành quân, làm cho chúng lúng túng, xoay trở đối phó khó khăn, không chủ động hợp đồng binh chủng được. Trong khi đó thì lực lượng vũ trang và lực lượng ba mũi toàn tỉnh đồng loạt phối hợp tấn công, căng kéo, chia cắt địch trên khắp các địa bàn trong tỉnh. Bộ đội tỉnh đánh vào nhiều vị trí trong thị trấn Mỏ Cày, pháo kích thị trấn Giồng Trôm, bắn cháy tàu chở tiểu đoàn biệt động quân trên sông Hàm Luông. Nhiều khu vực ở ngoại ô thị xã Bến Tre bị đánh, bị thiệt hại nặng, buộc địch phải rút bớt một số đơn vị đang càn quét về phòng thủ thị xã Bến Tre.

Qua 21 ngày đêm chiến đấu gian khổ, ác liệt trên một địa bàn hẹp, trống trải, Tiểu đoàn 263 của Khu cùng các lực lượng trong khu vực và quần chúng nổi dậy đã đánh bại cuộc hành quân càn quét quy mô lớn của địch; bảo tồn lực lượng, giữ được nguyên vẹn các kho tàng. Địch chết và bị thương 1.000 tên, trong đó có tên Đại tá Anh; 47 máy bay, phần lớn là trực thăng, bị bắn rơi. Đây là trận đánh càn quét giành được thắng lợi lớn.

Sau trận đánh, hãng thông tấn Pháp AFP đã bình luận: “Đây là trận đánh lớn nhất trong lịch sử trực thăng vận của Mỹ, đã trở thành ngày tồi tệ nhất của chiến thuật này”.

Về sau địch còn mở tiếp đợt càn dài ngày, cấp trung đoàn đánh vào hai xã An Thạnh, Thạnh Phong huyện Thạnh Phú. Trong 8 ngày đêm, quân và dân Thạnh Phú đã diệt 200 tên địch, trong đó có 3 cố vấn Mỹ, bảo vệ căn cứ và hành lang an toàn.

Ngoài khu vực ven biển, địch còn mở những cuộc hành quân Sóng Thần - Cửu Long đánh vào các đầu cầu trong nội địa như Phú Túc, Phú Đức - Bến Tre và vào các xã vùng 20-7 của Mỹ Tho thuộc hai bên bờ nam bắc sông Tiền.

Đầu năm 1964, Thường vụ Khu ủy chỉ đạo Bến Tre tập trung lực lượng quân sự, chính trị, binh vận và quần chúng nổi dậy phá cho được từng mảng ấp chiến lược trên những địa bàn trọng điểm để làm thông suốt hành lang vận chuyển. Tiểu đoàn 263 của Khu được tăng cường cho Bến Tre. Hai địa bàn này được chọn để mở chiến dịch là cù lao Bảo và cù lao Minh, lấy Ba Tri làm hướng chủ yếu, hướng phát triển là Mỏ Cày và Bình Đại. Điểm đột phá then chốt là các xã Mỹ Chánh, Mỹ Nhơn, Tân Xuân của Ba Tri.

Vào đầu tháng 3 năm 1964, thời tiết khô ráo, các lực lượng tham gia vào đợt tấn công nổi dậy đã nô nức hành quân về khu vực dọc sông Ba Lai của Giồng Trôm và Ba Tri. Tiểu đoàn 263 dùng thuyển gắn máy từ cù lao Minh vượt sông Hàm Long qua cù lao Bảo đến khu vực tập kết.

Mở đầu đợt, liên tiếp trong hai ngày 16, 17 tháng 3 năm 1964, bằng tấn công ba mũi, ta đã tiêu diệt và làm tan rã các đồn bốt trong ba xã Mỹ Chánh, Mỹ Nhơn, Tân Xuân, huyện Ba Tri. Quần chúng nổi dậy phá kìm kẹp, phá banh các khu gom dân. Địch điều Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 đến ứng cứu. Tất cả các huyện trong tỉnh được lệnh đẩy mạnh tấn công, căng kéo địch. Một lực lượng tấn công chính trị trên 20.000 người, trong đó có 1.000 gia đình binh sĩ, chia thành nhiều hướng kéo vào thị xã Bến Tre, hô vang các khẩu hiệu đòi “ngưng ngay các cuộc càn quét”, đòi “cho con em về nhà làm ăn”. Hốt hoảng, tỉnh trưởng Bến Tre vội gọi hai tiểu đoàn 1 và 2 của Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 quay về thị xã, chỉ để lại Tiểu đoàn 3 “Ó Đỏ” án ngữ ở xã Phú Lễ phía bắc chi khu Ba Tri.

Đêm 17 tháng 3 năm 1964, Tiểu đoàn 263 của Khu và đại đội của tỉnh bí mật tiếp cận cách đội hình trú quân của địch 500 mét, triển khai thành trận địa phục kích.

Sáng ngày 18 tháng 3 năm 1964, Tiểu đoàn “Ó Đỏ” rời công sự, hành quân về hướng Tân Xuân, rơi vào trận địa phục kích của ta, bị diệt gọn.

Đây là trận đánh tiêu diệt gọn tiểu đoàn chủ lực ngụy đầu tiên trên chiến trường Khu Trung Nam Bộ. Ta sử dụng lực lượng không lớn, chỉ 1 tiểu đoàn tăng cường tại mặt chính, đánh nhanh, diệt gọn 1 tiểu đoàn chủ lực địch, chứng tỏ cán bộ chỉ huy của ta đã trưởng thành về nghệ thuật chỉ huy và sử dụng lực lượng trong chiến thuật phục kích vận động.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #91 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:33:42 am »

Sau khi Tiểu đoàn “Ó Đỏ” bị tiêu diệt, các đồn bốt chung quanh chi khu Ba Tri bị lực lượng ba mũi bao vây, bức hàng, bức rút. Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1964, lực lượng tấn công chính trị đội quân tóc dài gồm 2.000 người, có giáo dục binh lính, các xã Phú Lễ, Phú Ngãi, An Bình Tây kéo vào thị trấn Ba Tri đấu tranh suốt hai ngày đòi địch bồi thường thiệt hại do các trận đánh gây nên. Tên quận trưởng phải đứng ra nhận bồi thường. Địch hoang mang, sợ hãi, một số chạy về đồi Xã Diệu, lính các đòn đào ngũ, rã ngũ hàng loạt, chỉ riêng ngày 20 tháng 3 đã có 165 tên dân vệ và bảo an bổ trốn về gia đình.

Như vậy, sau 15 ngày cao điểm tiến công và nổi dậy, ta đã giành được thắng lợi vang dội trên chiến trường Ba Tri: diệt gọn 1 tiểu đoàn chủ lực của Sư đoàn 7, bức rút 12 đồn, giải phóng hoàn toàn các xã Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh, Mỹ Thạnh, Tân Xuân, Bảo Thạnh, Phú Lễ, Phước Tuy, An Ngãi Tây. Thắng lợi đó đã tác động đến tinh thần, tư tưởng địch trên khắp tỉnh Bến Tre. Các đồn bốt và bọn kìm kẹp ở các xã, ấp còn lại hoang mang, dao động dữ dội.

Đêm 19 tháng 3 năm 1964, 1 trung đội của Tiểu đoàn 263 tăng cường cùng khẩu đội DKZ75 của tỉnh đội diệt đồn ngang Vang Quới, Bình Đại. Tên quận trưởng Bình Đại cho đại đội bảo an đồn Thừa Đức đi tiếp cứu. Đại đội của tỉnh cùng du kích bố trí chặn đánh khi chúng kéo về. Ta nhanh chóng tiêu diệt đại đội bảo an, thu 37 khẩu súng. Lập tức quần chúng nổi dậy giải phóng xã Vang Quới. Bọn địch ở khu trù mật Thới Thuận, Bình Đại ở cửa sông Ba Lai ngang Ba Tri hoang mang cao độ, kêu cứu, buộc tiểu đoàn Bến Tre phải đưa 1 tiểu đoàn 12 chiếc theo sông Ba Lai xuống yểm trợ cho bọn này rút chạy. Ta phát hiện và kịp thời chặn đánh chúng trên đường rút, bắn chìm 8 chiếc, bắn hỏng nặng 3 chiếc khác. Quần chúng nổi dậy cùng lực lượng vũ trang tại chỗ bức hàng, bức rút hơn 10 đồn bốt, mở rộng vùng giải phóng ven biển Thới Thuận, Thừa Đức.

Kết thúc đợt cao điểm của Ba Tri, Bến Tre tiếp tục phát triển thắng lợi: Đại đội 2 của tỉnh hoạt động kìm chân địch trên lộ 23 Giồng Trôm ở Mỹ Lồng, hỗ trợ cho quần chúng phá khu gom dân và căng kéo địch. Đợt hoạt động tiếp tục phát triển theo hướng Mỏ Cày. Điểm đột phá là các xã dọc trục lộ Mỏ Cày đi chợ Thơm.

Tiểu đoàn 263 của Khu và toàn bộ lực lượng còn lại của tỉnh, gồm Đại đội 1, Đại đội 3, Đại đội đặc công bí mật hành quân vượt sông Hàm Luông tập kết ở vùng nam Mỏ Cày.

Đêm 8 tháng 4 năm 1964, Đại đội đặc công diệt đồn ngã ba Cây Điệp, do một trung đội bảo an đóng giữ và bao vây chặt đồn dân vệ xã An Thạnh.

Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1964, địch đưa quân tới giải tỏa. Lần này, chúng tổ chức yểm trợ mạnh, có cả xe M113, trực thăng vũ trang, máy bay ném bom và pháo 105 từ Mỏ Cày chi viện. Chúng hành quân dè dặt, chia làm nhiều cánh, bọc sâu hai bên đường, xe M113 chạy gần sát mí vườn, pháo binh, trực thăng, máy bay ném bom bắn phá ác liệt vào các xóm ấp, dọc hai bên trục lộ Mỏ Cày ra Chợ Thơm. Đến 11 giờ, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 “Ó Vàng” lọt vào trận địa phục kích của ta. Sau một giờ chiến đấu ác liệt, ta tiêu diệt Tiểu đoàn “Ó Vàng”, bắn cháy tại chỗ 5 xe M113, bắn rơi 3 trực thăng và 1 máy bay. Nhân dân xã An Thạnh nổi dậy đánh trống mõ, cầm gậy gộc, dao mác lùng diệt tề, điệp, bức rút các đồn còn lại, giải phóng hoàn toàn xã An Thạnh.

Phát huy thắng lợi, liên tiếp những ngày sau, bộ đội địa phương và dân quân, du kích Mỏ Cày hỗ trợ cho quần chúng rầm rộ nổi dậy tiến công các đồn Phước Mỹ Trung, Hưng Khánh Trung, Nhuận Phú Tân, Thành An. Đặc biệt là đã tấn công ba mũi bức hàng chi khu Đơn Nhơn ở chợ Ba Vát thu 300 khẩu súng, bao vây bức rút khu trù mật kiểu mẫu Thành Thới đã được Ngô Đình Diệm chủ trương xây dựng từ năm 1959, do một đại đội bảo an trấn giữ. Một loạt đồn bốt ở các xã An Định, Tân Trung, Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, An Thới bị ba mũi giáp công bức hàng, bức rút. Ta giải phóng một vùng rộng lớn, nối liền nam - bắc Mỏ Cày.

Lộ 30 Mỏ Cày - Thạnh Phú bị cắt đứt một đoạn dài 10 kilômét từ Hương Mỹ đến Cây Keo xã Đa Phước Hội. Không ngại bom, pháo, quần chúng đã ngày đêm băm nát đường này không cho địch sửa chữa. Tiểu đoàn 263 cơ động xuống Thạnh Phú tiêu diệt đồn Phú Khánh, hỗ trợ cho quần chúng tiến công nổi dậy diệt đồn An Quy, Anh Nhơn, bao vây bức rút cầu Ván xã Giao Thạnh, giải phóng nhiều xã, ấp.

Cùng với chiến thắng dồn dập trên khắp các mặt trận, ngày 18 tháng 4 năm 1964, Đại đội 2 của tỉnh được tăng cường 1 trung đội của Đại đội 3 và 1 trung đội đặc công đã kết hợp với lực lượng binh vận tiến công cứ điểm Xã Diệu. Cứ điểm Xã Diệu nằm trên lộ giao thông Ba Tri, thuộc xã An Hòa Tây, tiếp giáp với xã Vĩnh Hòa, cách thị trấn Ba Tri 1.500 mét, xung quanh là ruộng đồng trống trải, bên trong có chợ và nhiều dãy nhà ngang dọc. Cứ điểm này là tiền đồn ven biển của huyện Ba Tri. Từ đây, quân địch kiểm soát chặt chẽ giao thông vùng duyên hải Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Nó được cấu trúc thành khu tức giác với 3 lô cốt bêtông và 3 cao điểm xây bằng đá xanh. Tường cứ điểm cao 2 mét, quanh bờ tường là những hố cá nhân sâu 1 mét, với nhiều hàng rào kẽm gai và ao mương cắm đầy chông. Cứ điểm này thường xuyên có một đại đội dân vệ được trang bị mạnh, do tổng Huấn chỉ huy. Bọn này rất ác ôn, ngoan cố. Ỷ vào công sự kiên cố, chúng tuyên bố khoác lác với nhân dân trong vùng: “Thị trấn Ba Tri có thể mất nhưng căn cứ Xã Diệu không thể mất”. Hàng ngàn cán bộ, nhân dân đã bị chúng bắt bớ, tra tấn, cưỡng hiếp, mổ bụng, moi gan.

Khi nhận nhiệm vụ diệt căn cứ quân sự Xã Diệu, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 hạ quyết tâm: “Vì lợi ích của nhân dân, toàn đại đội sẵn sàng hy sinh”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #92 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:34:08 am »

Hai giờ 30 phút đêm ngày 29 tháng 4 năm 1964, bộ đội ta đang bí mật triển khai lực lượng thì địch phát hiện. Ta nổ súng. Địch chống trả quyết liệt. Chỉ sau 20 phút chiến đấu, ta tiêu diệt hoàn toàn căn cứ. Địch chết và bị thương 50 tên, bị bắt 10 tên, tên tổng Huấn đền tội. Ta thu được 70 khẩu súng các loại, 21 máy thông tin và nhiều trang bị. Bọn địch ở đồn Giồng Nhan, sát thị trấn Ba Tri hốt hoảng bỏ chạy. Dân vệ, bảo an các đồn xung quanh đào ngũ trên 150 tên.

Giải phóng Xã Diệu, ta có một vùng nông thôn rộng lớn sát thị trấn Ba Tri, mở rộng hành lang giao thông vùng duyên hải, tạo thế liên hoàn giữa các vùng căn cứ chủ yếu của ba huyện ven biển Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại. Bộ đội tỉnh đã tiến bộ thêm một bước về kỹ thuật, chiến thuật tập kích diệt cứ điểm địch có công sự vững chắc.

Mùa hè năm 1964, cuộc nổi dậy hàng loạt của nhân dân Bến Tre đã phát triển lên đến đỉnh cao. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ, Tỉnh ủy được Thường vụ Khu ủy chấp nhận cho thành lập tiểu đoàn bộ binh, lấy tên là Tiểu đoàn 516. Sau khi thành lập, Đại đội 1 và Đại đội 2 Tiểu đoàn 516 ra quân tập kích đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn biệt động quân 41 của địch ở yếu khu Nhơn Thạnh Giồng Trôm. Đại đội 3 Tiểu đoàn 516 tập kích diệt đồn cấp trung đội ở khu phố An Hóa Châu Thành.

Ngày 20 tháng 8, Đại đội 3 Tiểu đoàn 516 và Trung đội đặc công diệt đồn Phú Túc ven sông Cửu Long, phía bắc thị trấn Sóc Sải, cách chi khu Trúc Giang 5 kilômét. Địch chết 13 tên, bị bắt sống 9 tên. Ta thu được 24 khẩu súng. Trong khi đó, Đại đội 1 và 2 Tiểu đoàn 516 phục kích đánh viện ở lộ Thơ thuộc xã Thành Triệu. Đoạn đường này đã bị ta phá hoại nên địch phải đi bộ. Lúc 4 giờ chiều, Tiểu đoàn biệt động 41 “Cọp Đen”, từ Tường Đa đến lộ đất Phú Túc ven sông Ba Lai cùng với các tiểu đoàn của Sư đoàn 7 càn quét vùng Phú Túc và Thành Triệu. Chúng chia thành hai mũi kéo ra lộ Thành Triệu về Sóc Sải, bị Tiểu đoàn 516 đánh vào phía sau, bên sườn và chia cắt. Sau một giờ chiến đấu, Tiểu đoàn “Cọp Đen” bị tiêu diệt. Tiểu đoàn của Sư đoàn 7 bị thiệt hại nặng, rút chạy về đồn Thành Triệu. Binh sĩ, dân vệ các đồn trong khu vực hoang mang cao độ, đào rã ngũ gần hết. Tên trưởng đồn Thành Triệu trốn về tiểu khu. Bọn chỉ huy chi khu Hàm Luông được lệnh truy kích, nhưng không dám hành quân.

Trận này địch chết và bị thương gần 500 tên (có cả ban chỉ huy tiểu đoàn biệt động quân và 4 tên cố vấn Mỹ), bị bắt sống 52 tên. Ta thu được 225 khẩu súng các loại, 25 máy vô tuyến điện và nhiều loại trang bị quân sự khác. Tại các xã, lực lượng ba mũi tiến công bao vây bức rút, làm tan rã nhiều đồn bốt, phá dứt điểm các khu gom dân. Các xã Tường Đa, Thành Triệu, Tam Phước, An Khánh, Phú An Hòa thuộc mảng giáp sông Tiền phía Bắc Châu Thành được giải phóng, mở thông hành lang từ Bến Tre qua sông Tiền sang vùng 20-7 Mỹ Tho.

Lần đầu ra quân, Tiểu đoàn 516 của tỉnh, bằng nhiều chiến thuật phục kích vận động, đã diệt tiểu đoàn biệt động quân sừng sỏ của địch, chứng tỏ trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội Bến Tre đã có bước phát triển mạnh.

Đến cuối năm 1964, tỉnh Bến Tre đã giải phóng 57 xã và 27 xã khác địch chỉ còn một góc. Nhiều xã ở vùng yếu đã chuyển lên thế tranh chấp mạnh, 30 vạn đồng bào Bến Tre thoát ách kìm kẹp của địch.



Công trường chế tạo vũ khí đánh địch của tỉnh Bến Tre
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Ba, 2017, 09:38:35 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #93 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:34:41 am »

Kiến Tường, từ khi cường độ chiến tranh gia tăng thì nhiệm vụ bảo đảm, giữ vững hành lang từ căn cứ Khu đến chiến trường trọng điểm Mỹ Tho và phía nam Kiến Phong càng trở nên thiết yếu. Địch cũng ý thức được vị trí chiến lược của Kiến Tường đối với khu vực bắc sông Tiền, đặc biệt vùng nam Kiến Tường lại là nơi tập kết lực lượng của “Quân khu II”, trực tiếp đe dọa hệ thống phòng thủ lộ 4 của chúng nên chúng tăng cường lực lượng, ráo riết đánh phá, khiến cho cuộc chiến đấu trở nên hết sức ác liệt. Chúng liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân vào các căn cứ, đốt phá nhà cửa, triệt hạ sản xuất.

Kế hoạch bình định của chúng nhằm mục đích tiêu diệt tận gốc lực lượng cách mạng, phá hủy tất cả căn cứ giải phóng trên lãnh thổ Kiến Tường, tái lập hạ tầng cơ sở. Kiến Tường được chúng chia thành ba khu vực, tiến hành bình định mỗi khu vực 3 đợt trong vòng 40 ngày, trước hết dùng quân sự tiêu diệt lực lượng vũ trang và phá hủy cơ sở cách mạng, sau đó lực lượng quân sự rút về vùng trọng điểm, giao lại cho bọn bình định, dân vệ và thanh niên chiến đấu đảm trách. Trọng điểm của chúng là vùng 4 Kiến Tường.

Địch tuyên bố Kiến Tường là vùng tự do bắn phá. Chúng ném bom, bắn pháo với cường độ và mật độ chưa từng có. Hễ phát hiện có bóng người là chúng dùng phi, pháo oanh tạc ngay, gây rất nhiều khó khăn cho việc đi lại, sản xuất của nhân dân, hoạt động của bộ đội và du kích.

Mặc dù địch quyết tâm tăng cường hoạt động như vậy nhưng ở Kiến Tường cấp ủy nắm vững phương châm đấu tranh: mũi quân sự được đặc biệt quan tâm xây dựng, củng cố; mọi hoạt động luôn được kết hợp giữa ba mũi nên vùng căn cứ vẫn mở rộng, hầu hết nông thôn được giải phóng. Lực lượng vũ trang tỉnh đủ sức cản phá các cuộc càn của địch; làm bảo an, dân vệ, tề điệp co vào đồn, thế kìm kẹp lỏng, ta làm chủ ban đêm các vùng thị trấn và gần đồn. Phong trào bắn máy bay được phát động rộng rãi trong du kích. Du kích dùng súng trường bắn rơi được máy bay địch và dùng súng có máy ngắm bắn tỉa địch trong đồn bốt, khiến cho chúng nơm nớp lo sợ mỗi khi ra khỏi đồn. Trong năm, du kích đã bắn rơi và bắn hỏng 52 máy bay địch. Du kích xã Tân Hòa kết hợp với đặc công, công binh tỉnh và nhân dân nổi dậy bao vây bức rút 7 đồn bốt trong xã, diệt 690 địch, phá hủy 70 xe quân sự, có cả xe M113, thu 147 khẩu súng, giải phóng xã.

Trong những tháng đầu năm 1964, Thường vụ Khu ủy chủ trương mở đợt đánh địch ở biên giới Campuchia và các chốt địch cắm sâu trong nội địa để mở rộng căn cứ và làm thông suốt hành lang từ căn cứ Khu xuống các tỉnh.

Lực lượng chủ lực của Khu kết hợp với các lực lượng địa phương tiến hành nhiều trận đánh lớn trên địa bàn các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong và An Giang.

Tiểu đoàn 261 của Khu đã đánh diệt đồn Vàm Đồn xã Hưng Điền, do 1 đại đội bảo an đóng giữ. Tiếp đó, Tiểu đoàn kết hợp với lực lượng vũ trang tỉnh diệt khu Măng Đa ở xã Vĩnh Trị là trung tâm huấn luyện biệt kích và ổ hoạt động gián điệp nổi tiếng ở Đồng Tháp Mười.

Lực lượng vũ trang tỉnh phục kích đánh viện trên sông Vàm Cỏ Tây, bắn cháy, hỏng 5 tàu, diệt 100 tên địch. Du kích Vĩnh Lợi, Vĩnh Đại, Tuyên Bình bao vây, bức rút đồn Cả Rưng. Sau những trận này, địch co về giữ quận lỵ Tuyên Bình, tàu địch không dám chạy trên sông, hành lang dọc tuyến biên giới từ Hưng Điền đến Vĩnh Đại được thông suốt. Cũng trong tháng 4 năm 1964, lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp với du kích các xã vùng 4 đánh 4 trận cấp đại đội, kết hợp với công tác binh vận diệt 13 đồn. Vùng 4 Kiến Tường chỉ còn 2 đồn là Phụng Thớt và Cà Nhíp. Tại vùng 6, lực lượng vũ trang vùng đánh các đồn Rau Má, Bến Bùi, An Đông 1 và bức rút nhiều đồn khác, giải phóng gần hết vùng 6. Vùng 8 đánh các đồn Cả Rưng, Vàm Dưng, giải phóng các xã Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, Hưng Điền. Vùng 2 đánh đồn Tầm Đuông, Cả Đôi.

Tháng 5 năm 1964, các tiểu đoàn 261, 263 của Khu kết hợp với Tiểu đoàn 504 của tỉnh đánh căn cứ Kinh Quận, nhổ hết một loạt đồn bốt ở 2 xã Nhơn Hòa Lập, Hậu Thạnh. Ngày 5 tháng 5 năm 1964, Tiểu đoàn 261 đánh chiếm khu Măng Đa lần thứ hai.

Cho đến tháng 7 năm 1964, vùng 4 đã mở rộng được thế làm chủ. Căn cứ đủ đứng chân cho hàng trung đoàn. Hành lang từ biên giới xuống nội địa được thông suốt. Bộ đội có thể hành quân từ vùng 8 xuống vùng 4 giữa ban ngày, đứng chân ngay trên kênh Dương Văn Dương. Kế hoạch bình định vùng trung tâm Đồng Tháp Mười của địch bị phá sản. Địch chỉ còn kiểm soát được thị xã, thị trấn. Các đường giao thông thủy, bộ quan trọng là sông Vàm Cỏ Tây từ Mộc Hóa đến Tân An bị cắt, lộ 29 đi Cai Lậy bị khống chế, có lúc ta làm chủ hàng tuần ở đoạn Tân Lập - Tân Hòa.

Ở hầu hết các khu gom dân, đồng bào nổi dậy dỡ nhà chuyển về chỗ cũ, đã có 15 xã giải phóng trên toàn bộ 20 xã trong toàn tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #94 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2013, 06:16:41 pm »

Kiến Phong, phía bắc là căn cứ đầu não của Khu, phía nam là khu vực liên hoàn với vùng 4 Kiến Tường tạo thành địa bàn căn cứ trực tiếp uy hiếp lộ 4 của địch.

Căn cứ Tứ Thường của Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu tuy ổn định nhưng địch cũng chú ý đánh phá nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não quan trọng của cách mạng. Chúng tiến hành cả thảy ba trận đánh vào căn cứ của ta, nhưng đều thất bại chua cay.

Trận thứ nhất diễn ra vào ngày 2 tháng 9 năm 1962, một cánh quân của địch lợi dụng nước lũ dâng cao, dùng tàu chở xe lội nước theo sông Tiền vòng lên đất Campuchia đánh xuống căn cứ; một cánh khác từ xã Thường Phước đánh vào gặp đại đội tiền tiêu của Tiểu đoàn 274 bảo vệ. Ta chỉ có súng bộ binh, lại là mùa nước, công sự bị ngập nên chỉ ngăn chặn bước tiến của địch, đánh lạc hướng chúng để đại bộ phận cơ quan trong căn cứ rút lui an toàn.

Trận thứ hai diễn ra ngày 29 tháng 6 năm 1963, địch càn vào Cây Dừng ổ quạ, xã Thường Phước. Nước bắt đầu vào bưng, địch kết hợp bộ binh và xe M113, chia làm hai cánh: một cánh từ Cái Sách đánh sang; cánh kia từ Mương Kinh đánh lên, hợp điểm tại Cây Dừng ổ quạ. Ta chỉ có súng bộ binh, lựu đạn và thủ pháo. Tiểu đoàn 274 bảo vệ căn cứ đã chiến đấu ngoan cường ngăn chặn địch. Trong khi địch càn, một nông dân là cha của em Võ Văn Lai, 17 tuổi, chiến sĩ của đơn vị, xách giàn trâu chạy vào hướng tiểu đoàn. Trong lúc đang chiến đấu, em Lai nhanh trí lấy giàn trâu của cha bỏ lại, giả chăn trâu, bám theo xe M113 dùng thủ pháo đánh hỏng nặng 1 chiếc. Em đã hy sinh.

Trận thứ ba diễn ra vào ngày 3 tháng 4 năm 1964. Đây là thất bại của Cao Văn Viên, Đại tá, Tư lệnh Lữ đoàn dù thuộc lực lượng tổng trù bị Sài Gòn trong cuộc tấn công quy mô vào căn cứ Khu ủy. Địch biết được là lực lượng bảo vệ đầu não Khu ủy chỉ có một đại đội và du kích cơ quan. Cao Văn Viên tin chắc 4 tiểu đoàn dù đang đứng hàng sừng sỏ nhất trong “quân lực Việt Nam cộng hòa” của mình cùng với lực lượng thiết giáp, có máy bay, trọng pháo hùng hậu hỗ trợ, sẽ xé nát căn cứ, tiêu diệt đầu não Khu ủy. “Chiến thắng” được tuyên bố trước với các phóng viên báo chí trong và ngoài nước đi theo cuộc hành quân. Ở thị trấn Hồng Ngự và Tân Châu, tên quận trưởng còn truyền rao cho dân chúng chuẩn bị mở radio nghe “tường thuật tại chỗ” cuộc hành quân tiêu diệt đầu não “Khu ủy” do Đại tá Cao Văn Viên đích thân chỉ huy.

Quả thật, lực lượng vũ trang bảo vệ Khu ủy và các cơ quan dân quân chính cấp khu đúng như địch đã phán đoán, nhưng điều nằm ngoài nhận thức của chúng là quyết tâm và cách đánh của các đồng chí không chỉ lệ thuộc vào số lượng mà còn bằng nghệ thuật và mưu trí. Đại đội bảo vệ Khu và du kích cơ quan đã tổ chức trận địa phòng ngự thành ba tuyến theo tinh thần đánh dài ngày không cho địch lọt vào khu vực trung tâm căn cứ.

Quân dù bị một điều bất ngờ là đêm hôm trước chúng đã đến ngủ trên cánh đồng cách trận địa của ta không quá vài trăm bước. Chiến sĩ ta được lệnh để chúng tạm ngủ yên. Sáng ra, trời có sương mù, sau khi làm lễ xuất quân, các tiểu đoàn dù hàng hàng lớp lớp theo sau xe M113 chạy vào trận địa của ta. Địch không bắn pháo. Tên Đại tá Cao Văn Viên đứng trên xe M113, tay cầm gậy chỉ huy. Đợi địch đến gần, các cỗ súng của ta từ trên bờ rọc cao bắn xuống lòng rọc. Cao Văn Viên buông gậy, ngã gục ngay trên xe. Bị đánh bất ngờ, bọn lính chạy tán loạn, dẫm đạp lên nhau lớp chết, lớp bị thương nhiều vô kể. Bọn chỉ huy địch phải gọi cấp cứu.

Sau một lúc choáng váng, được máy bay, trọng pháo yểm trợ quyết liệt, quân dù tổ chức lại lực lượng rồi phản kích. Chúng đánh thủng được tuyến 1 của ta nhưng chỉ làm được một việc là nhặt xác đồng bọn. Dân ở ngoài bờ sông Tiền nghe súng nổ dữ dội, lo lắng cho anh em trong căn cứ. Tới khi thấy trực thăng tới tấp đến lấy xác, mới thở phào. Cứ đếm số trực thăng hạ xuống, bà con đoán chúng chết, bị thương cỡ 100 tên trở lên. Cái trò tường thuật tại chỗ dẹp luôn.

Cùng lúc, lực lượng tấn công chính trị các xã Thường Phước, Tân Thành, Bình Thạnh khiêng xác người bị pháo bắn chết, tập trung kéo vào thị trấn, vào tổng ủy và các đồn bốt đấu tranh trực diện đòi bồi thường nhân mạng, tài sản bị thiệt hại, đòi chấm dứt càn quét, chấm dứt bắn pháo vào xóm làng, làm cho địch càng thêm rối rắm. Cuộc hành quân của địch đã thất bại.

Sau này, thấy không thể xâm nhập vào căn cứ được, đêm 18 tháng 8 năm 1969, lợi dụng mùa lũ, nước ngập sâu 3 mét, địch sử dụng pháo hạm kết hợp với pháo ở Hồng Ngự, Tân Châu bắn đúng vào căn cứ đến vài ngàn quả. Nhưng căn cứ vẫn tồn tại cho đến 1970.

Đêm 15 tháng 4 năm 1964, địch còn chưa hoàn hồn sau trận đánh, Tiểu đoàn 261 của khu thực hiện chỉ thị của Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy cùng với các tỉnh Kiến Tường, An Giang, Kiến Phong tấn công mở rộng hành lang biên giới, đã diệt đồn cấp đại đội ở Cái Sách, xã Thường Thới Hậu - Hồng Ngự, diệt 10 tên, bắt sống 43 tên, thu nhiều vũ khí đạn dược, mở rộng tuyến hành lang biên giới vùng sông Sở Thượng - Sở Hạ. Phong trào chiến tranh du kích huyện Hồng Ngự phát triển mạnh mẽ. Du kích thường xuyên bám sát đồn bốt địch, quấy rối tiêu hao nhiều sinh lực địch. Tinh thần binh lính địch hoang mang, nhiều binh sĩ bỏ ngũ về với nhân dân. Hàng loạt đồn bốt bị san bằng, như các đồn Cả Cái, Thông Bình xã Tân Thành, đồn Bình Phú xã Tân Hội Cơ, các đồn Cầu Muống, Trà Dư, Thước Nước xã Thường Lạc, các đồn Cầu Ván, Mương Kinh xã Thường Phước. Du kích Thường Thới Tiền còn tập kích đồn Xã Song, bắt sống bo bo địch.

Tháng 5 năm 1964, Tiểu đoàn 502 Kiến Phong cùng du kích xã Bình Hàng Trung tập kích địch tại Chợ Cũ, diệt gọn một đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Bộ đội tỉnh còn hỗ trợ cho du kích các xã Mỹ Ngãi, Nhị Mỹ, An Bình, Cao Lãnh tấn công địch ở vùng ven tỉnh lỵ Kiến Phong, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, diệt và bức rút nhiều đồn bốt, giải phóng được nhiều ấp. Ở vùng nam Cao Lãnh, ta tích cực tấn công bằng ba mũi, nhiều xã cơ bản được giải phóng, địch bị dồn sát ven lộ 30.

Cuối năm 1964, hình thái chiến trường Kiến Phong có nhiều thay đổi, vùng giải phóng nối liền nhau thành thế liên hoàn, hành lang mở rộng, vùng tranh chấp áp sát tới chi khu, tiểu khu. Địch bị tấn công trên nhiều mặt, phải đối phó bị động. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ về cơ bản đã bị thất bại nghiêm trọng ở Kiến Phong.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #95 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2013, 06:17:27 pm »

An Giang, năm 1964, tình hình diễn ra khá phức tạp do địch ra sức nắm đạo Hòa Hảo. Sau khi Ngô Đình Diệm chết, những tên lãnh đạo đầu sỏ mới ở Sài Gòn như Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, đại sứ Mỹ Cabốt Lốt đều đến viếng Tổ đình. Chúng chiêu dụ các lực lượng Hòa Hảo còn ly khai của bọn Cù, Đớm, Hiếu ra hàng, sáp nhập vào bảo an đóng chốt ở Chi Lăng và dọc biên giới. Chúng chọn người có gốc đạo Hòa Hảo là tỉnh trưởng An Giang, Châu Đốc. Giáo hội Trung ương Hòa Hảo được tái lập, cùng với Ban trị sự Hòa Hảo các cấp nắm chặt tín đồ. Trong nội bộ Hòa Hảo, mâu thuẫn giữa hai phe Ba Sao và Chữ Vạn cũng được dàn xếp. Hàng chức sắc trong đạo được nhiều đặc ân. Các ngày lễ lớn của đạo được tổ chức trọng thể. Chúng khơi dậy chuyện Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ thọ nạn, gợi lòng căm thù của tín đồ với cách mạng.

Từ một tỉnh An Giang trước kia, địch tách ra thành hai tỉnh: An Giang và Châu Đốc. Tỉnh An Giang mới gồm 4 quận: Châu Thành, Chợ Mới, Thốt Nốt, Huệ Đức, được xác định là vùng ưu tiên bình định quốc gia. Ở đó, địch có những chủ trương, chính sách riêng để nắm tín đồ Hòa Hảo. Tỉnh Châu Đốc thuộc biệt khu 44 biên phòng là tỉnh đặc biệt về quân sự và dân tộc, nhiệm vụ là bình định và nắm người Khơme, Chàm và đánh phá hành lang tiếp vận của ta từ Miền về Khu IX và từ Khu xuống các tỉnh.

Đêm 14 tháng 5, thực hiện chủ trương mở hành lang biên giới của Khu, Tiểu đoàn 512 quân địa phương huyện và du kích tấn công diệt gọn các đồn Đồng Ki, Khánh Bình, đánh thiệt hại nặng đồn Quan Thuế và trạm kiểm soát kinh tế. Riêng đồn Bắc Đai bị ta chiếm bằng lực lượng tấn công chính trị, binh vận trong khi bộ đội bao vây. Ngày hôm sau địch điều một tiểu đoàn biệt động quân có máy bay, trọng pháo, tàu chiến đến tiếp viện. Đại đội 1 và Đại đội 2 Tiểu đoàn 512 tỉnh chuyển sang đánh viện ở khu vực mương Tám Sớm (từ Phú Hội đến Phước Hưng), diệt 60 tên. Kết quả hai trận này ta loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên địch.

Sáng ngày 17 tháng 6, Tiểu đoàn 512 bao vây các đồn Phổ Đà, Phi Lai và Tam Bửu. Chúng gọi tiếp viện. Trung đội bảo an từ Lạc Quới kéo đến, qua khỏi cầu sắt Vĩnh Thông thì bị ta phục kích nổ súng diệt gọn.

Sáng ngày 18 tháng 9, địch bắn pháo dọn đường cho 5 đại đội bảo an từ hướng Phú Cường hành quân về Lê Trì. Bọn này lọt vào trận địa phục kích của ta. Nhiều tên bị tiêu diệt. Chúng củng cố lại đội hình rồi dùng hỏa lực bắn từ xa. Đến chiều, máy bay đến ném bom nhưng lại trúng đội hình địch bên bờ suối phía đông ấp chiến lược. Cuối cùng, chúng rút chạy về Vĩnh Trung. Kết quả, ta diệt và làm bị thương 200 tên địch, 40 tên đầu hàng và bị bắt sống.

Chi khu Kiên Lương là vị trí quan trọng để địch ngăn chặn hành lang tiếp vận của ta từ biên giới về U Minh, bảo vệ nhà máy xi măng Hà Tiên và là bàn đạp tiến công, khai hoang đồng tràm Hà Tiên nhằm phá căn cứ của ta. Lực lượng của chúng gồm một đại đội, 3 liên đoàn thanh niên chiến đấu, hơn 150 nhân viên hành chính và cảnh sát. Tiểu đoàn 512 của tỉnh được lệnh cấp tốc hành quân từ Núi Dài, vượt qua hơn 50 kilômét về Kiên Lương chiếm lĩnh các vị trí tiến công.

Một giờ sáng ngày 6 tháng 10 năm 1964, bộc phá của đặc công nổ ran phát lệnh tấn công. Sau 20 phút chiến đấu, ta đã chiếm hầu hết các lô cốt trại lính, diệt và bắt sống nhiều tên địch. Bọn còn lại co cụm trong khu vực dinh quận, chống trả quyết liệt. Ban Chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho đại đội trợ chiến cơ động 2 khẩu DK, bắn cháy 2 xe nồi đồng và tiêu diệt bọn lính cổ thủ trong lô cốt phía trước, bộ đội xung phong chiếm dinh quận. Đúng 3 giờ sáng, ta làm chủ hoàn toàn chi khu, đánh tan quân cứu viện từ núi Còm xuống, bắn cháy 2 xe nồi đồng. Kết quả địch chết và bị thương 61 tên, bị bắt 150 tên.

Chiến thắng Kiên Lương là một bước phát triển lớn về trình độ tác chiến của bộ đội An Giang, lần đầu tiên cơ động tác chiến tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm quân sự cấp chi khu giành thắng lợi trọn vẹn trong một thời gian ngắn.

Đêm 30 tháng 11 năm 1964, Tiểu đoàn 512 lại diệt đồn Băng Trạo - An Tức. Một trung đội dân vệ bị loại khỏi vòng chiến đấu. Ta thu toàn bộ vũ khí.

Đêm 1 tháng 12 năm 1964, đơn vị bộ binh và đặc công tỉnh diệt đồn Thalapăngàxây ở Ô Lâm, diệt hai trung đội dân vệ. Đồn cầu Sắt Tri Tôn - Huệ Đức bỏ chạy. Ngày 4 tháng 12 năm 1964, địch mở cuộc hành quân cấp trung đoàn, gồm quân ngụy, bảo an, chiếm lại An Tức. Địch đang củng cố Núi Tô thì một tuần sau lực lượng vũ trang tỉnh diệt đồn Vĩnh Thông - Lạc Quới là cứ điểm quân sự quan trọng của địch trên tuyến biên giới, thường là nơi đặt sở chỉ huy và trận địa pháo cho những cuộc hành quân lớn đánh vào Núi Dài. Đại đội bảo an giữ đồn bị tiêu diệt, đại đội đóng dã ngoại ở ngoài đồn phải bỏ chạy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #96 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2013, 06:18:22 pm »

*
*   *

Đồng khởi thắng lợi, Khu Trung Nam Bộ đã đưa thế phong trào phát triển sang giai đoạn toàn dân nổi dậy chống Mỹ toàn diện bằng đấu tranh chính trị song song với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh vũ trang làm lực lượng quyết định trực tiếp; bằng phương châm đấu tranh hai chân, ba mũi, ba vùng kết hợp các thứ quân đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược của Mỹ - ngụy triển khai trên địa bàn Khu.

Cuộc đấu tranh giữa ta và địch đã diễn ra rất quyết liệt. Địch rất hung hăng đã phản công ta trên khắp các tỉnh trong Khu, đặc biệt là trên khu vực bắc sông Tiền. Các cuộc hành quân với binh lực lớn được tăng cường những phương tiện trang bị hiện đại, những chiến thuật mới được triển khai ráo riết nhằm gom dân, lập ấp chiến lược của địch đã gây cho ta không ít những khó khăn, tổn thất. Bước đầu, ta có bị bất ngờ trước sự gia tăng đột ngột cường độ chiến tranh của địch ở một số nơi, đặc biệt là ở khu vực chiến trường trọng điểm. Nhưng rồi, với ý chí quyết thắng, luôn luôn xác định tư tưởng chủ đạo là trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện phương tiện nào cũng phải liên tục chủ động tiến công, Đảng bộ đã nêu cao tinh thần tự lực, tích cực xây dựng, phát triển lực lượng, khai thác triệt để thế mạnh của việc thực hiện phương châm hai chân, ba mũi, và về sau - khi được chi viện vũ khí của Trung ương, xây dựng thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, thế trận này càng thêm mạnh mẽ và vững chắc. Trên cơ sở đó, ta đã làm nên những chiến thắng vang dội, đánh bại các chiến thuật “tân kỳ”, phương tiện chiến tranh hiện đại của địch ở Ấp Bắc, mở ra vùng 20-7; đã diệt được cứ điểm kiên cố cấp tiểu đoàn, căn cứ cấp chi khu của địch, diệt được nhiều tiểu đoàn chủ lực địch trong những trận đánh càn; đã góp phần không nhỏ làm sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm, làm thất bại một bước quan trọng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch trên chiến trường Trung Nam Bộ.

Trong quá trình tiến hành cuộc đấu tranh, Đảng bộ Khu Trung Nam Bộ đã lãnh đạo quân và dân các tỉnh trong Khu vừa không ngừng tiến công địch vừa ra sức xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, binh vận trong thực hiện phương châm vừa tấn công vừa xây dựng. Bởi vì, có tích cực chủ động tấn công địch thì mới xây dựng được tốt, có khẩn trương xây dựng mới kịp thời tấn công có kết quả và phải tranh thủ phát triển mọi mặt, càng đánh càng mạnh. Đặc biệt coi trọng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang các thứ quân và những binh chủng kỹ thuật chủ yếu, xây dựng hành lang, căn cứ.

Từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, quân và dân Khu Trung Nam Bộ đã sáng tạo cách đánh ba mũi tấn công giáp công, hình thành loại hình chiến dịch tấn công nổi dậy tổng hợp; đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức chiến thuật để đánh bại các cuộc càn quét quy mô lớn của địch, đánh diệt cả chi khu, yếu khu và bằng phục kích, vận động diệt nhiều tiểu đoàn, đại đội, đánh bại quốc sách “ấp chiến lược”, giải phóng nhiều vùng rộng lớn liên hoàn, giành quyền làm chủ, giải phóng 2/3 đất đai trong toàn Khu với ngót một triệu rưỡi dân.

Khu ủy đã lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền tự quản, Mặt trận dân tộc giải phóng và đoàn thể các cấp tích cực chăm lo xây dựng nền tảng của chiến tranh nhân dân trong vùng ta làm chủ: tạm cấp ruộng đất cho nông dân còn thiếu ruộng, đẩy mạnh sản xuất, chăm lo phát triển y tế, văn hóa, giáo dục…, bồi dưỡng sức dân, động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.

Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển Đảng, tập trung nhất ở khâu bồi dưỡng lập trường, phẩm chất đạo đức đảng viên và năng lực lãnh đạo của chi bộ cơ sở, điểm đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng và cơ sở cách mạng là tuy ta đã mở nhiều vùng giải phóng và vùng làm chủ rộng lớn nhưng ta vẫn để phần lớn đảng viên, đoàn viên, hội viên ở thế bí mật, hòa mình trong quần chúng nhằm sẵn sàng đối phó với địch trong mọi tình huống. Số đảng viên trong toàn Khu từ hơn 6.000 sau Đồng khởi năm 1960 đến cuối năm 1964 đã phát triển lên gấp ba lần. Hội viên các đoàn thể từ vài trăm ngàn người cuối năm 1961, cũng đã phát triển lên gấp ba lần vào cuối năm 1963.

Lực lượng vũ trang các thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc bằng hai chân, ba mũi được xây dựng và phát triển lớn mạnh, cân đối, thích hợp trên chiến trường toàn Khu, từ vùng giải phóng cho đến vùng yếu và thị xã, thị trấn. Toàn bộ lực lượng vũ trang các thứ quân phát triển rộng theo mô hình cân đối trên dưới đều vững mạnh. Từ những đơn vị cấp trung đội, đại đội được xây dựng trong thời kỳ 1955 - 1959, trang bị vũ khí thông thường, được phát triển nhanh chóng trong các cao trào Đồng khởi năm 1960, đã hình thành ba thứ quân: chủ lực khu, bộ đội tỉnh và quân địa phương huyện, dân quân và du kích. Khu đã có 6 tiểu đoàn bộ binh chủ lực tập hợp trong hai chiến đoàn 1 và 2, nhiều tiểu đoàn, đại đội binh chủng kỹ thuật: trinh sát, thông tin, công binh, pháo binh, đặc công, biệt động. Tỉnh đã có tiểu đoàn bộ binh. Huyện có trung đội đến đại đội bộ binh. Ngoài ra, tỉnh, huyện còn có các đại đội, trung đội binh chủng. Xã có 5 loại du kích; du kích xã có tiểu đội, trung đội; du kích ấp có tiểu đội; du kích mật có tổ; du kích công binh, đặc công và lực lượng quần chúng nỗi xã tự chiến đấu. Riêng tỉnh Long An còn có trung đội du kích liên xã. Bộ đội được trang bị súng bắn máy bay, diệt xe M113, bắn tàu, do miền Bắc chi viện.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #97 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2013, 06:19:00 pm »

Tính đến đầu năm 1965, lực lượng vũ trang toàn Khu đã có ngót 7 vạn người. Trong đó du kích có trên 5 vạn, chiến đấu tại xã, ấp, có rất nhiều đơn vị du kích chiến đấu giỏi như ở Long An. Bộ đội tỉnh, huyện có 15.000 người, có nhiều trung đội, đại đội huyện và tiểu đoàn tỉnh chiến đấu đạt hiệu suất cao như ở Mỹ Tho, Long An, Bến Tre, An Giang đơn vị tỉnh diệt được cả tiểu đoàn bảo an, tiểu đoàn chủ lực, chi khu quân sự địch. Ở Kiến Phong, Kiến Tường, bộ đội tỉnh, huyện và du kích trong những năm nước lũ tràn về có nhiều trận đánh đồn, tập kích, phục kích đánh càn rất sáng tạo, diệt nhiều địch, bảo tồn mình, giải phóng nhiều vùng.

Các đơn vị chủ lực của Khu - bộ binh và binh chủng - có trên 5.000 người, được huấn luyện tốt, sức chiến đấu cao, là lực lượng nòng cốt của các thứ quân, là chỗ dựa của phong trào toàn dân đánh giặc, là đòn xeo trong cuộc chiến tranh nổi dậy ba mũi binh vận, chính trị, vũ trang tấn công và giáp công ở cơ sở.

Trong những năm 1963 - 1964, trong toàn Khu đã tuyển được hàng vạn thanh niên vào bộ đội, đưa hàng ngàn du kích bổ sung cho lực lượng vũ trang của huyện, tỉnh, khu và đưa về Miền. Hàng vạn thanh niên nam, nữ đã được bổ sung vào các đơn vị chủ lực và phục vụ trong các cơ quan Đảng, ngành hậu cần, giao liên, vận tải, mặt trận, đoàn thể. Trên khắp các núi rừng miền Đông Nam Bộ ra đến tận Khu VI - Lâm Đồng - Đà Lạt đâu đâu cũng gặp nam, nữ thanh niên các tỉnh Khu VIII - Trung Nam Bộ chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Công cuộc cải tạo địa hình được phát động thành phong trào “Toàn dân trồng cây gây rừng” trên các tuyến kênh rạch, trên các cánh đồng trống trải, tạo thế che khuất cho bộ đội hành quân, dân công vận tải. Công cuộc đào các con kênh mới, đắp các cản đất, cản cây, cản lục bình chặn địch trên các con sông, các kênh rạch được thực hiện ở Đồng Tháp Mười và khắp các vùng giải phóng, vùng làm chủ ở nông thôn các tỉnh Trung Nam Bộ. Làm nên những kỳ tích đó chính là do sức lao động to lớn của những người nông dân chí cốt, tay lấm, chân bùn trong vùng giải phóng và cả dân ở các vùng thị xã, thị trấn, vùng yếu cùng tham gia dưới làn bom đạn ác liệt.

Chiến tranh còn phải lâu dài, nên từ năm 1961, Khu đã nghĩ đến việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ một cách toàn diện, bảo đảm cho nhu cầu chiến tranh. Các trường Đảng, trường quân chính, trường dân quân với các lớp tập huấn đặc công, công binh, hậu cần, các lớp thông tin, cơ yếu, các trường y tá, y sĩ, văn hóa, các trường huấn luyện thanh niên, phụ nữ, các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã được thành lập ở nhiều nơi, đã bồi dưỡng, đào tạo hàng vạn cán bộ đủ các ngành để cung cấp cho việc củng cố Đảng ở cơ sở, xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang tập trung và dân quân du kích, xây dựng bộ máy chính quyền, các đoàn thể nâng cao trình độ tri thức, văn hóa cho cán bộ. Ngoài ra còn có hàng ngàn cán bộ các ngành Đảng, quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội được gửi lên đào tạo ở Miền.

Các công binh xưởng của khu, tỉnh cũng được thành lập và mở rộng, bảo đảm việc sửa chữa các loại vũ khí, sản xuất các loại lựu đạn, thủ pháo, các loại mìn đánh xe, đánh tàu ĐH5, ĐH10, bộc phá ống phá rào, phá tường,… cho các lực lượng vũ trang chiến đấu.

Các tổ sản xuất vũ khí của huyện, xã được phát triển rộng rãi, sản xuất các loại vũ khí thô sơ, tự tạo các loại lựu đạn, chông, mìn, cạm bẫy, phục vụ cho phong trào toàn dân đánh giặc.

Các bệnh viện, bệnh xá, các trạm y tế được hình thành và xây dựng ở khu, tỉnh, huyện, xã, vừa chiến đấu hàng ngày dưới bom đạn ác liệt, vừa xây dựng và mở rộng, đảm nhận việc cứu chữa, điều trị cho thương binh, bệnh binh và nhân dân.

Trong các vùng giải phóng đều có mở trường cho con em nhân dân được học hành. Các đoàn văn công, văn nghệ quần chúng ở khu, tỉnh, huyện, xã; các tổ nhiếp ảnh, quay phim, nhà in sách báo cũng ra đời phục vụ cho bộ đội và động viên cách mạng không chỉ nhân dân vùng giải phóng mà cả đồng bào ở các vùng, các thị xã, thị trấn còn bị địch tạm chiếm.

Từ sự lãnh đạo, chỉ đạo vừa kiên quyết tấn công địch vừa xây dựng toàn diện, tạo cơ sở tổng hợp cả về quân sự, chính trị, kinh tế, sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội như đã nói ở trên. Đảng bộ Khu Trung Nam Bộ đã phát động được một phong trào toàn dân đánh giặc rộng khắp, hình thành thế nhân dân chiến đấu ở các xã, ấp phát triển rộng, mạnh trên những vùng trọng yếu nhất và hầu khắp các địa phương.

Đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, ở Khu Trung Nam Bộ cách mạng đã ở thế chủ động tiến công. Trung Nam Bộ đã sẵn sàng để thực hiện quyết tâm giành thắng lợi quyết định của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục miền Nam đề ra. Nhưng đến giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chưa chịu bỏ cuộc, đã dấn sâu thêm một bước nữa, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Khu Trung Nam Bộ phải chuyển qua đối phó trực tiếp với quân Mỹ trên chiến trường.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #98 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2013, 05:19:28 pm »

CHƯƠNG IV

TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN THẾ TẤN CÔNG HAI CHÂN, BA MŨI,
ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
(1965-1968)

I - KHU VIII CHUẨN BỊ SẴN SÀNG ĐÁNH QUÂN MỸ

Năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới. Trước sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang dùng chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Chúng quyết định ồ ạt đưa thêm hàng chục vạn quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam; đồng thời cho hàng trăm máy bay và tàu chiến tăng cường đánh phá miền Bắc.

Mục tiêu của chiến lược “chiến tranh cục bộ” là đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25-30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967).

Kế hoạch chiến lược chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn 1: phá kế hoạch mùa mưa của ta, chặn chiều hướng thua của chế độ ngụy, bảo đảm triển khai nhanh lực lượng quân viễn chinh Mỹ; giai đoạn 2: mở các cuộc phản công chiến lược để diệt quân chủ lực của ta và kiểm soát vùng nông thôn; giai đoạn 3: hoàn thành việc tiêu diệt quân chủ lực của ta, hoàn thành cơ bản chương trình bình định miền Nam vào cuối năm 1967.

Về lực lượng chiến tranh: quân viễn chinh Mỹ và quân ngụy là hai lực lượng chiến lược; quân viễn chinh Mỹ tuy được coi là con chủ bài, là nòng cốt, nhưng quân đội ngụy vẫn được sử dụng như một lực lượng quan trọng. Quân Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu để “tiêu diệt” bộ đội chủ lực của ta; quân ngụy là lực lượng chiếm đóng để bình định, kìm kẹp nhân dân.

Biện pháp chủ yếu của chiến lược mới của Mỹ ở miền Nam là “tìm diệt”, sau đó là “bình định” - được coi là chiến lược hai gọng kìm, đưa Mỹ ồ ạt vào miền Nam, mở các cuộc tiến công lớn “tiêu diệt” chủ lực của ta ở miền Nam, đồng thời dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc hòng ngăn cản sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; cô lập và đè bẹp cách mạng miền Nam, làm suy yếu căn cứ địa cách mạng của cả nước, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến.

Đây là cố gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở miền Nam, cũng là lần đầu tiên Mỹ đưa nhiều quân nhất đi xâm lược, kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Đế quốc Mỹ đã tăng quân viễn chinh gồm cả lục quân, không quân và hải quân, với tốc độ rất nhanh, đẩy cường độ và tính chất ác liệt của chiến tranh lên rất cao.

Trong giai đoạn này, với cố gắng quân sự lớn, giới cầm quyền Mỹ đã huy động lực lượng và tiền của đến mức cao nhất vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam(1).

Việc leo tang chiến tranh như trên của đế quốc Mỹ đã đặt cách mạng nước ta và cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước muôn vàn khó khăn.

Đảng ta đã đánh giá tình hình chiến lược mới một cách bình tĩnh và sáng suốt, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, cả nước một lòng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Các cuộc Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965) đã phân tích toàn diện, sâu sắc chiến lược mới của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và đề ra chủ trương đúng đắn, chủ động, sáng tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12 xác định quyết tâm: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà…

Quyết tâm đó còn được thể hiện trong Lời kêu gọi nhân ngày 20-7 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”(2).

Trên cơ sở đánh giá địch, ta một cách khách quan, khoa học, toàn diện, Đảng ta đã xác định một số vấn đề cơ bản như sau;

- Tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, nên có những mâu thuẫn lớn về chính sách chiến lược.

- Trước tình hình cả nước có chiến tranh với mức độ và hình thành khác nhau, Đảng ta chủ trương kịp thời động viên và tổ chức cả nước cho kháng chiến chống Mỹ; miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn…

- Quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam, tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh tăng lên, gây cho ta những khó khăn lớn, nhưng so sánh lực lượng giữa địch và ta căn bản không thay đổi. Vì thế, ta vẫn giữ vững và phát huy thế chiến lược tiến công của chiến tranh cách mạng miền Nam.

- Tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và chính trị, nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp.


(1) Mỹ huy động tới 70% quân số, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh xâm lược Việt Nam.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.11, tr.470.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #99 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2013, 05:19:52 pm »

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng là Nghị quyết kết tinh trí tuệ, ý chí và sức sáng tạo của nhân dân ta. Nó mang sức nặng của tinh hoa truyền thống 4000 năm của dân tộc Việt Nam, mở đầu sự ra đời của thiên hùng ca của dân tộc ta trong thế kỷ XX và sẽ lưu lại cho ngàn đời, sau những trang sử hào hùng và oanh liệt.

Bước sang năm 1965, sự can thiệp trực tiếp của quân Mỹ vào miền Nam ngày càng tăng.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, Mỹ đã đưa Không đoàn 13 đến sân bay Cần Thơ, Không đoan 7 đến sân bay Sóc Trăng, lập căn cứ hải quân ở An Thới - Phú Quốc và đưa hải quân đặc nhiệm phối hợp hoạt động với hải quân vùng 4 ngụy.

Quân ngụy được tích cực vực dậy, mỗi trung đoàn của sư đoàn chủ lực tăng thêm 1 tiểu đoàn, số pháo của chi khu, tiểu khu được tăng gấp đôi. Chúng bị thúc đẩy hoạt động ráo riết, đánh mạnh vào vùng giải phóng của ta để tăng cường phòng ngự vùng chúng kiểm soát và tiếp tục gom dân trong khi quân Mỹ đang tích cực triển khai. Chúng đánh vào Ba Tri - Bến Tre, Cần Giuộc - Long An, bắc lộ 4 và xúc tiến bình định ráo riết ở Gò Công. Vùng giải phóng bị bom, pháo nặng nề. Dân bám lại phải bỏ địa hình, tản ra đồng. Cuộc đấu tranh chống cào nhà, gom dân diễn ra quyết liệt. Bọn lính đến từng nhà hăm dọa, đập phá đồ đạc, kéo sập nhà, vây bắt đàn bà, trẻ con, người già lùa đi. Nhưng số đông đồng bào vẫn cố tìm cách ở lại. Đồng bào chất vấn bọn đi cào nhà: “Các chú bảo ra ngoài đó thì chúng tôi lấy gì mà sống? Ruộng vườn bỏ cho ai? Vợ con các chú còn sống không nổi thì bà con làm sao sống được”.

Ở nhiều nơi, dân xách dao đuổi chém bọn đi dỡ nhà, làm cho chúng phải chùn tay.

Hàng ngày, đội quân tóc dài gồm hàng trăm người kéo vào thị xã, thị trấn đấu tranh đòi ở lại. Một số đồng bào bị địch cưỡng bức đi đã chở cành cây ra vứt bừa bãi giữa đường làm cản trở giao thông và tố cáo tội ác của địch với khách đi xe qua lại và với dân ở dọc đường.

Trong khi đó, Thường vụ Khu ủy đang triển khai theo chủ trương của Bộ Chính trị Trung ương Đảng là tiến tới giành một thắng lợi quyết định ở miền Nam, đồng thời tranh thủ đánh bại hoàn toàn quân ngụy trước khi quân Mỹ nhảy vào. Thực hiện được chủ trương trên là cả một quá trình chiến đấu khẩn trương, hết sức gay go và phức tạp.

Trước tình hình địch đánh phá ác liệt, Khu ủy chỉ đạo các tỉnh lãnh đạo đồng bào tìm cách bám lại, đồng thời khẩn trương lập kế hoạch cho bộ đội và du kích tăng cường đánh bọn đi bình định và tiến hành những hoạt động tác chiến lớn, chủ động tiến công địch.

Việc sắp xếp lại thế đứng của dân phải trải qua nhiều cam go. Lúc đầu gần như hầu hết các gia đình phải tạm sơ tán ra vùng địch. Sau đó, tranh thủ đấu lý với chúng, nhân dân mới lần lượt trở về dựng chòi ngoài đồng, bên mảnh ruộng của mình. Từ đó hình thành thế ăn ở và chiến đấu phù hợp với tình hình mới. Nhân dân ra đồng nhưng vẫn liên hệ, phối hợp với cơ quan, du kích, bộ đội trong địa phương chặt chẽ. Đây là một cuộc di chuyển to lớn, gồm hàng vạn gia đình với hàng chục vạn người. Cuộc di chuyển này là một hình thức linh hoạt trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt để người dân có điều kiện bám đất mà vẫn giữ được thế công khai hợp pháp đấu tranh với địch theo tinh thần chỉ đạo của Đảng bộ: “dân bám đất, cán bộ bám dân, bộ đội du kích bám địch”.

Người dân ra đồng dựng nhà trên mảnh ruộng của mình vừa tránh được bom pháo, vừa có điều kiện chăm sóc lúa tốt hơn, đảm bảo hậu cần cho cách mạng, làm tai mắt cho cơ quan, bộ đội, du kích và vẫn đấu tranh chính trị với địch và làm binh vận. Lính địch càn vào, trước khi đối đầu với du kích và bộ đội, chúng đã bị nhân dân giữ chân để tác động, đánh lạc hướng, lôi kéo, làm giảm sút tinh thần chiến đấu.

Trước đây đồng bào làm nhà trong vườn, dọc theo sông hay bờ kênh. Khi có chiến tranh, bộ đội và du kích ở lẫn lộn với đồng bào. Nay đồng bào ra đồng, chỉ còn lại bộ đội và du kích, cơ quan ở trong địa hình, hoạt động tác chiến sẽ dễ dàng hơn.

Để thích hợp với điều kiện tác chiến mới, chủ động đánh càn, Khu ủy chủ trương xây dựng thế chủ động phòng ngự vững chắc. Các tiểu đoàn tập trung của Khu và tỉnh đều lập phương án tác chiến và xây dựng các trận địa công sự trên khu vực của mình, tạo thuận lợi cho việc hành quân, trú quân và tác chiến. Mỗi tiểu đoàn xây dựng từ 5 đến 7 hay 10 trận địa công sự. Ở nam - bắc lộ 4 của Mỹ Tho, các tiểu đoàn của Khu cùng với lực lượng tỉnh có đến một, hai chục trận địa công sự.

Ở Long An, các trận địa công sự rải từ Đức Hòa, Thủ Thừa đến nam quốc lộ 4. Ở Bến Tre, bộ đội của tỉnh xây dựng trận địa ở ba huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM