Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:22:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 94487 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2013, 06:45:22 am »

Sau hội nghị kiểm điểm, bộ đội tỉnh được củng cố lại thành hai đại đội bộ binh mạnh, quân số chung tới 800 người. Các đơn vị huyện và du kích xã đều được củng cố khá mạnh, lại còn thêm tổ chức du kích liên xã. Ngoài ra, còn có 2 đại đội đặc công, các đại đội trinh sát, công binh thủy, trung đội thông tin.

Tháng 10 năm 1963, bộ đội địa phương Đức Hòa đánh trận Giồng Lớn, diệt được địch, trụ lại; quần chúng nổi dậy tấn công ba mũi, phá bộ máy kìm kẹp, giải tán thanh niên chiến đấu, phá ấp chiến lược. Đây là trận đánh thí điểm vận dụng phương châm, phương thức tấn công mới.

Trong khi đó, trên lộ 10 sau khi diệt đồn Hòa Khánh ta rút đi, 2 tên địch còn sống sót vẫn khống chế được dân, bắt dân làm lại ấp chiến lược.

Rút kinh nghiệm từ đây, bộ đội địa phương các huyện Bến Lức, Thủ Thừa và nam lộ 4 hạ quyết tâm đánh đồn xong bám trụ lại đánh càn, quyết giữ thế cho quần chúng nổi dậy. Tỉnh theo dõi chỉ đạo rút kinh nghiệm từng trận. Nhờ vậy, Long An bước đầu đã phá được 20 ấp chiến lược, giải tán được 2.800 thanh niên chiến đấu.

Sang tháng 11 năm 1963, xảy ra vụ đảo chính Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn. Địch đang rối rắm, tỉnh tổ chức đánh diệt căn cứ Hiệp Hòa. Đây là căn cứ huấn luyện lực lượng đặc biệt của Mỹ. Địch dùng bọn này để đánh phá, ngăn chặn ta dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia, đã gây cho ta không ít khó khăn. Căn cứ nằm bên bờ phía trái sông Vàm Cỏ Đông, án ngữ một góc của Đồng Tháp Mười, rộng 15.000 mét vuông, là cụm công sự và lô cốt kiên cố, khống chế hành lang từ Miền xuống Khu VIII và Khu IX, trực tiếp uy hiếp hành lang từ Long An đi Sài Gòn và vùng bắc lộ 4 Long An. Ở đây, địch có 12 cố vấn Mỹ, khung chỉ huy, khung huấn luyện, 9 trung đội học viên biệt kích và lực lượng bảo vệ. Ta có 3 nội tuyến, trong đó có một đảng viên.

Trận đánh diễn ra trong đêm 22 rạng ngày 23 tháng 11 năm 1963. Chỉ trong 30 phút, ta đã làm chủ căn cứ, diệt 70 tên, trong đó có 8 tên Mỹ; bắn sống 100 tên, trong đó có 4 tên Mỹ, thu trên 500 súng, trong đó có 13 cối 81 và đại liên, 18 trung liên. Đây là trận đánh đầu tiên ta bắt sống được nhiều cố vấn Mỹ ở miền Nam.

Sáng ngày 23 tháng 11 năm 1968, địch tung ra 1 trung đoàn bộ binh với 18 xe M113, có máy bay và pháo binh yểm trợ, đánh vào các xã An Ninh, Bình Hòa Bắc truy kích lực lượng ta. Chị em đội quân tóc dài, trong đó có nhiều gia đình binh sĩ, chít khăn tang xông ra chặn xe địch, kêu khóc, đòi trả con em và hù dọa bọn chúng. Đoàn xe M113 bị chặn lại, không tiến lên được, chúng phải rút. Lực lượng ta trở về căn cứ an toàn.



Bắt sống cố vấn Mỹ tại căn cứ huấn luyện biệt kích ở Hiệp Hòa - Long An (23/11/1963)

Phối hợp với trận đánh, hàng chục ngàn đồng bào trong các ấp chiến lược nổi dậy phá đồn bốt, phá rào, bờ tường, dỡ nhà, chở đồ đạc trở về ấp cũ. Địch không sao ngăn chặn được.

Chỉ trong ba ngày, cả một vùng Đức Hòa, Hòa Khánh, Sò Đo, Mỹ Hạnh, sạch đồn bốt và ấp chiến lược. Một loạt đồn bốt trên lộ 10, trong khoảng dài 10 kilômét, bị bức rút.

Với vũ khí thu được, tỉnh thành lập thêm hai trung đội đặc công bộ và thủy, bổ sung trang bị đầy đủ cho các đại đội cơ động.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Ba, 2017, 09:30:13 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2013, 06:45:50 am »

Trận Hiệp Hòa là trận đánh địch trong công sự vững chắc mà thắng lớn đầu tiên của bộ đội Long An cũng là trận đánh thắng lớn đầu tiên thuộc loại này trong toàn Khu Trung Nam Bộ. Thắng lợi này chứng tỏ khả năng kết hợp đặc công, bộ binh, nội tuyến kỳ tập diệt căn cứ có công sự vững chắc của địch là loại hình chiến thuật thích hợp trên chiến trường trong lúc bộ đội ta chưa đủ hỏa lực diệt đồn kiên cố.

Đầu tháng 12 năm 1963, Long An mở đợt tấn công nổi dậy đồng loạt hai chân, ba mũi theo phương thức và kinh nghiệm mà Khu ủy đã tổng kết. Bộ đội tỉnh, huyện kết hợp với ba mũi của quần chúng tấn công liên tục, bức rút, bức hàng 12 đồn trên các lộ 9, 16, 31 và ven sông Vàm Cỏ Đông. Hàng vạn quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, dỡ nhà về nơi ở cũ. Vùng giải phóng được mở rộng từ Đức Huệ qua Đức Hòa xuống giáp lộ 4. Có nơi có bộ đội hỗ trợ, có nơi chỉ có quần chúng nổi dậy cướp bốt, có nơi quần chúng hù dọa, địch sợ phải bỏ ấp chiến lược chạy.

Chỉ trong tháng 12 năm 1963, toàn tỉnh đã diệt, bức rút 60 đồn bốt, giải tán 20.000 thanh niên chiến đấu, phá 193 trong số 273 ấp chiến lược, giải phóng 23 xã.

Đến hết năm 1963, việc lập ấp chiến lược của địch ở Long An đã bị thất bại nặng nề.

Ở Bến Tre, cho đến cuối năm 1962, địch đã khoanh được hàng vạn dân, lập được 115 ấp chiến lược.

Đầu năm 1963, ở Bến Lức nổ ra cuộc tấn công chính trị lớn, đội quân tóc dài kéo vào thị xã đấu tranh trực diện với tỉnh trưởng, chống rải chất độc hóa học. Nguyên nhân thực tiếp là do máy bay Mỹ rải chất độc hóa học xuống các xã Nhơn Thạnh, Thuận Điền, Mỹ Thạnh, Lương Phú huyện Giồng Trôm làm cho một em bé bị chết, nhiều người bị sưng mắt; trâu, bò, heo, gà, vịt bị chết. Tại nhà của em bé bị chết, quần chúng tụ tập rất đông, cấp ủy địa phương phát động lòng căm thù giặc Mỹ dã man rải chất độc hủy diệt xóm làng, đồng bào xác định phải kéo lên tỉnh đấu tranh. Đội quân tóc dài ở Nhơn Thạnh và các xã lân cận gồm hơn 200 người, đi trên 60 xuồng máy, đưa xác em bé lên tỉnh. Ban đầu, tỉnh trưởng đổ trách nhiệm cho Mỹ, sau vì áp lực của quần chúng mạnh, có cả đồng bào thị xã ráp lại, hắn phải xoa dịu, nhận sẽ chuyển ý kiến lên cấp trên.

Cuộc đấu tranh biến thành cuộc biểu tình công khai đả đảo Mỹ rải chất độc hóa học, kéo đi suốt dọc theo con đường chính trong thị xã. Về tới xã, cuộc biểu tình vẫn tiếp tục, kéo theo hàng ngàn người tham dự, biến thành cuộc mít tinh tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy.

Trong tình hình sôi sục đó, Tỉnh ủy chỉ đạo tổ chức cuộc đấu tranh trực diện lớn của lực lượng tấn công chính trị các huyện Châu Thành, Ba Tri, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Chợ Lách và thị xã, lên tới hơn 20.000 người, nhằm gây áp lực buộc địch phải ngừng hẳn việc rải chất độc hóa học.

Ngày 16 tháng 1 năm 1963, đoàn đấu tranh, bằng nhiều cách, đã tiến vào thị xã. Phát hiện có quần chúng đấu tranh, địch cho cảnh sát ngăn chặn, nhưng đồng bào cứ giương băng tràn tới. Tiếng kêu khóc thảm thiết vang vậy: “Cứu dân với, chính phủ ơi!”. Những tiếng kêu cứu thảm thiết của hàng vạn con người đã gây xúc động lớn đến mọi người dân ở thị xã, kể cả binh lính. Đồng bào tràn tới trước dinh tỉnh. Tên đại úy Tuyết, sĩ quan trong dinh, ra gặp đoàn biểu tình. Hắn hăm dọa: “Mấy bà bị Việt cộng xúi giục làm loạn phải không? Trở về liền, bằng không thì chúng tôi cho bắt hết xử tử!”. Bà Sáu vợ ông Phán Tố, sống ở thị xã, rất có uy tín với bọn sĩ quan, từ trong hàng ngũ biểu tình đứng lên gọi tên Tuyết: “Ông Tuyết, tôi đây nè! Ông có bắt thì bắt tôi đi!”. Tên Tuyết bối rối: “Bác Phán mà cũng đi đấu tranh nữa sao?”. “Mấy ông rải chất độc hóa học chết dân, nhà cửa, ruộng vườn người ta không còn gì hết thì người ta đến đòi hỏi. Chớ Việt cộng nào xúi giục? Oan ức cho người ta quá, bây giờ người ta đòi mấy ông trả lời”. Tên Tuyết xuống giọng bảo tỉnh trưởng không có nhà, xin bà con cứ đưa đơn, tỉnh trưởng sẽ về giải quyết. Giằng co mãi, cuối cùng hắn đề nghị đồng bào tập trung ra sân vận động để tỉnh trưởng nói chuyện. Đoàn đấu tranh tập trung tại sân vận động hơn 5.000 người, còn thì rải khắp thị xã. Tỉnh trưởng cũng chẳng giải quyết được gì. Chúng giam chân đoàn đấu tranh tại chỗ, cho bọn cảnh sát và chiêu hồi vào hăm he, nhìn mặt. Nhưng đây lại là dịp để đồng bào vạch mặt chúng. Qua đấu lý, nhiều tên phải nhìn nhận sự thật. Suốt đêm, trong sân vận động và trong thị xã, đồng bào đấu tranh thật sôi nổi. Đến sáng, lực lượng đấu tranh chính trị đội quân tóc dài từ bên ngoài vào tiếp viện, nâng con số lực lượng đấu tranh lên đến 25.000 người. Bọn lính được tuyên truyền suốt một ngày đêm, chúng chẳng còn muốn đàn áp. Tỉnh trưởng đành phải nhận đơn và hứa sẽ báo cáo lên cấp trên, dứt khoát không rải chất độc hóa học nữa. Đoàn đấu tranh thắng lợi kéo về rầm rộ. Trên bộ, dưới sông, xe, tàu chạy nối đuôi hàng trăm chiếc. Dân thị xã đứng xem rất động ở hai bên đường, hai bên bờ sông, địch không tài nào cản nổi, đành để mặc.

Sau cuộc đấu tranh, địch phải ngừng rải chất độc hóa học ở Bến Tre một thời gian dài.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2013, 06:46:20 am »

Tuy nhiên, đến giữa năm 1963, tình hình chung vẫn chưa được cải thiện. Vùng giải phóng vẫn tiếp tục bị thu hép. Cuộc đấu tranh giành dân, chống càn quét, phá ấp chiến lược vẫn diễn ra hết sức căng thẳng.

Nghiên cứu tình hình thực tế chiến trường Bến Tre, Thường vụ Khu ủy chỉ ra cho tỉnh thấy địch tích cực càn quét, gom dân, ta không tích cực đánh càn quét là sai. Trong chiến tranh, nếu mũi quân sự của ta không mạnh thì mũi đấu tranh chính trị và binh vận cũng không thể triệt để phát huy được tác dụng. Tư tưởng co thủ, hữu khuynh, né tránh, sợ ác liệt, gian khổ trong cán bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng khí thế cách mạng của quần chúng. Phải nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang tập trung. Cần cấp tốc mở các lớp huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật bắn trực thăng, đánh xe M113,… theo kinh nghiệm của trận Ấp Bắc, để tổ chức cho được những trận đánh tiêu diệt lớn, làm đòn bẩy cho quần chúng nổi dậy thành cao trào phá ấp chiến lược.

Mở đầu, tỉnh đưa lực lượng cơ động đứng chân tại địa bàn Giồng Trôm. Ngày 5 tháng 7 năm 1963, lực lượng vũ trang tỉnh và huyện diệt đồn Cả Mít, xã Thạnh Phú Đông. Đây là chốt của địch nhằm ngăn chặn hành lang giao thông thủy, bộ của ta. Địch điều Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 ngụy đến đối phó, hành quân bằng trực thăng. Bộ đội bắn rơi trực thăng, diệt 1 đại đội, tiêu hao nặng Tiểu đoàn 3. Địch không vào được đồn Cả Mít. Nhân dân trong ấp chiến lược nổi dậy phá banh ấp, giải phóng xã Thạnh Phú Đông.

Phối hợp với mũi quân sự, từ ngày 10 đến 15 tháng 7 năm 1963, 2.000 người của đội quân tóc dài, trong đó có nhiều gia đình binh sĩ, từ các xã Thạnh Phú Đông, Hiệp Hưng, Tân Hào, Phước Long kéo đến thị trấn Giồng Trôm đấu tranh đòi bồi thường thiệt hại tài sản, đòi chấm dứt bắn phá, càn quét, bồi thường tính mạng con em đi lính bị chết, vận động binh lính trở về với cách mạng. Cuộc đấu tranh đã bồi thêm một đòn nặng vào tinh thần bọn địch sau thiệt hại ở trận Cả Mít, Thạnh Phú Đông.

Từ kinh nghiệm đánh trận Cả Mít, lực lượng vũ trang tỉnh và huyện liên tiếp tiến công địch, giải phóng được nhiều xã, ấp, mở rộng địa bàn làm chủ. Từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 9 năm 1963, lực lượng vũ trang tỉnh và huyện đánh đồn Sơn Phú, phục kích đánh tiêu hao nặng Đại đội bảo an 232; tiếp đến đánh đồn Lương Phú, chặn đánh quân địch tiếp viện bằng tàu, bắn chìm và cháy 2 tàu, diệt đại đội bảo an Giồng Trôm và tên quận trưởng.

Ngày 9 tháng 9 năm 1963, bộ đội địa phương huyện Ba Tri diệt đồn Mỹ Nhơn, 2 đại đội 1 và 2 của tỉnh phục kích, vận động ngoài đồng trống, diệt hoàn toàn Đại đội bảo an 907 khét tiếng ác ôn ở Ba Tri. Cùng lúc, Đại đội 3 của tỉnh (mới thành lập ở Thạnh Phú) đánh đồn, diệt viện, tiêu hao nặng Đại đội bảo an 854 ở Cầu Ván, xã Giao Thạnh.

Chiến trường Bến Tre đã chuyển biến tốt.

Ở Kiến Tường, những tháng cuối năm 196 đầu năm 1963, địch đã lập được 45 ấp chiến lược. Mùa nước năm 1963 là mùa tỉnh phá ấp chiến lược, đưa dân về vùng giải phóng với khí thế Ấp Bắc.

Các lực lượng vũ trang của tỉnh được tập huấn về các phương thức tiến công, phòng ngự, trụ chắc bằng chông, mìn, lựu đạn, tập kích địch đóng dã ngoại kết hợp với đánh đồn bốt và bọn bình định, tề điệp trong ấp chiến lược, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược.

Mũi binh vận tổ chức các gia đình binh sĩ vận động con em bỏ ngũ hoặc làm nội ứng cho cách mạng.

Khi tỉnh phát động những tín đồ Công giáo di cư và những người di dân trong các khu ấp thì gặp khó khăn. Ở những nơi này, địch tổ chức kìm kẹp rất chặt, chúng buộc dân khi gặp người lạ phải báo cáo và dọa họ là cộng sản rất tàn ác, nếu gặp thì sẽ giết họ. Đồng chí Bí thư, Thường vụ Khu ủy nghe báo cáo về tình hình này đã động viên, thúc đẩy quyết tâm của các đồng chí cấp ủy Kiến Tường: “Nhiệm vụ tự giải phóng đứng lên giành quyền làm chủ của nhân dân Kiến Tường không thể thiếu những người di dân, di cư. Bà con từ lâu đã làm một thành phần quan trọng, chiếm một số lượng đáng kể trong quần chúng cư dân của tỉnh. Đồng bào cũng là những người nông dân bị áp bức, bóc lột. Họ cũng căm thù bọn ác ôn kìm kẹp, khủng bố họ. Họ cũng có nguyện vọng đứng lên tự giải phóng khỏi ngục từ “ấp chiến lược”. Dứt khoát bằng mọi giá ta phải nghĩ ra cách tiếp xúc với họ, tuyên truyền giáo dục phát động họ nổi dậy phá khu gom dân như những người nông dân khác để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng, giành quyền làm chủ của tỉnh nhà”.

Trên cơ sở nhận thức đó, các đồng chí cấp ủy ở cơ sở đã kiên trì bố trí người bám, tìm đủ mọi cách để gặp cho được đồng bào di cư. Khi đã tiếp xúc được rồi, được giáo dục, họ trở về nói lại với người trong khu ấp. Cuối cùng, đồng bào trong khu di dân, di cư đã làm lỏng kìm kẹp, bung ra sản xuất và phối hợp với lực lượng bên ngoài tấn công và nổi dậy. Các khu ấp di dân, di cư cũng được phá sạch như các ấp chiến lược ở các vùng khác.

Nhiều người trong đồng bào di dân, di cư đã trở thành đảng viên, cán bộ nòng cốt, là cấp ủy viên, cán bộ tỉnh, huyện, xã trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.

Tháng 9 năm 1963, Kiến Tường thắng lớn: đặc công tỉnh đánh chìm chiếc tàu chở 227 sĩ quan trường võ bị Đà Lạt trên đường đi thực tập về, chỉ còn 17 tên sống sót, trên kênh Dương Văn Dương. Trận đánh đã gây tác động lớn trong đồng bào và trong hàng ngũ địch.

Cùng thời gian đó, trên tuyến kênh Năm Ngàn, lực lượng vũ trang kết hợp binh vận gỡ 13 đồn bốt, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, phá bung hàng loạt ấp chiến lược, giải phóng các xã Tân Ninh, Tân Hòa, Nhơn Ninh, buộc địch ở đồn Cà Nhíp phải co lại. Vùng 4 được giải phóng lần thứ 2.

Tại vùng 6, ta diệt 3 đồn Bến Bùi, Rau Má, An Đông 1. Tại vùng 8, ta diệt đồn Cà Rưng, Vàm Dưng. Tại vùng 2, ta diệt đồn Cái Đôi, Tầm Đuông và bức địch ở đồn Tân Thiết rút chạy về Tuyên Nhơn. Quần chúng các vùng nổi dậy phối hợp với lực lượng vũ trang phá ấp, diệt bọn kìm kẹp, đồng bào trở về nhà và ruộng vườn cũ. Kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược của địch ở Kiến Tường đến cuối mùa nước năm 1963 cơ bản đã bị phá sản.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2013, 06:46:49 am »

Ở Kiến Phong, đến đầu năm 1963 tình hình địch lập ấp chiến lược và ta phá ấp chiến lược diễn ra khá gay gắt. Ở huyện Hồng Ngự, địch xây dựng 2 yếu khu Đôn Phục và Bản Đô ở Tân Công Chí và Thường Thới Tiền. Đây là hai trung tâm biệt kích chịu sự chỉ huy của biệt khu 44 biên phòng của địch đóng ở thị xã Cao Lãnh. Đặc biệt trung tâm biệt kích Bản Đô nằm cách căn cứ của Khu ủy chỉ hơn 10 kilômét. Mỗi yếu khu của chúng là một hệ thống cứ điểm, gồm nhiều lô cốt, tháp canh, sân bay lên thẳng, cụm pháo.

Cùng với chi khu Hồng Ngự, hai trung tâm tạo thành khu tam giác mạnh, làm bàn đạp cho các cuộc hành quân càn quét, đánh phá gom dân. Hơn 200 cố vẫn Mỹ đã lần lượt về ở các trung tâm này.

Tuy nhiên, đến mùa khô năm 1963, hầu hết các ấp chiến lược địch lập được ở Hồng Ngự đều bị phá. Ta đã diệt hơn 30 tên công an, do thám, tề xã và san bằng, bức rút 10 đồn bốt. Ở các xã An Bình, Tân Hội, Thường Lạc và các xã ven Đồng Tháp Mười, bọn chủ ấp, công an ban đêm phải lánh vào thị trấn. Hầu hết dân bị gom đã trở về nơi ở cũ.

Để đối phó lại, địch tổ chức đánh phá, bao vây ngăn chặn các ghe xuồng không cho đi vào vùng giải phóng và bắt buộc một số dân vùng chúng tạm chiếm phải đi theo các cuộc hành quân của chúng vào cướp lúa. Bị lực lượng vũ trang giải phóng chặn đánh, chúng gọi máy bay ném bom xăng để đốt. Chúng đánh ban ngày, dân tổ chức gặt ban đêm. Đồng bào vùng tạm chiếm vẫn tìm cách đưa được hàng ngàn giạ lúa vào vùng giải phóng ủng hộ cách mạng.

Mũi tấn công chính trị của đội quân tóc dài các xã Thường Thới, Tân Thành, Bình Thạnh kéo hàng trăm người vào thị trấn Hồng Ngự đấu tranh đòi chấm dứt bắn phá, càn quét, đòi bồi thường thiệt hại nhân mạng, tài sản, dần dần việc phong tỏa mất hiệu lực, địch phải bỏ.

Tháng 6 năm 1963, bộ đội huyện Hồng Ngự san bằng đồn Ụ Cờ Đen. Du kích các xã hoạt động mạnh đánh cả bảo an, diệt được cố vấn Mỹ. Các đồn kênh Kháng Chiến, Bình Phú, Cả Sơ, Sâm Hai bị diệt, xã Bình Thạnh được giải phóng.

Cùng với Hồng Ngự, ở những nơi khác của Kiến Phong diễn ra sự giằng co rất quyết liệt. Khu vực Nam Cao Lãnh là trọng điểm xây dựng ấp chiến lược của địch, đồng thời cũng là trọng điểm chỉ đạo phá ấp chiến lược của tỉnh. Ở đây, bước sang năm 1963, địch xây lại một số ấp chiến lược đã bị ta phá trong năm 1962 kiên cố hơn. Do vậy, ta đột nhập vào khó khăn hơn.

Rút kinh nghiệm phá ấp chiến lược ở các nơi, tháng 3 năm 1963, lực lượng vũ trang tỉnh bao vây, tấn công các đồn và các chòi canh ở Long Hiệp, hỗ trợ quần chúng phá các bờ rào. Ta phá, địch làm lại, ta lại phá tiếp, phá đi phá lại nhiều lần. Cuối cùng, ta diệt đồn Long Hiệp và gỡ bỏ các ụ gác của thanh niên chiến đấu, đứng lại đánh bọn giải tỏa, địch mới chịu thua. Từ kinh nghiệm ở Long Hiệp, tỉnh đưa lực lượng địa phương quân Kiến Văn, du kích Bình Hàng Trung đánh địch, hỗ trợ quần chúng phá ấp chiến lược trong khu vực rạch Chùa Tổ. Vùng này sát chi khu Kiến Văn nên địch cố bám. Ta đánh thiệt hại nặng lực lượng địch đóng dã ngoại, 2 lần diệt đồn Chàu Tổ và diệt đồn cầu Bốn Miệng, huy động quần chúng phá hẳn từng đoạn bờ thành, biến nơi đây thành ấp chiến đấu, du kích đánh liên tục. Cuối cùng chúng phải bỏ.

Cũng từ tháng 3 năm 1963, bộ đội tỉnh và huyện tích cực tổ chức đánh tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, phá vỡ đồn, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược. Ta đã bao vây, cường tập kết hợp kỳ tập 2 đồn Cái Bèo, Bà Vẹn thuộc xã Mỹ Quý, phục kích diệt địch ở rạch Tân Trường, xã Mỹ Hội, tập kích địch đóng dã ngoại ở xã Tân An, chống địch càn ở Cả Cải, Xẻo Quít, xã Long Hiệp, huyện Cao Lãnh.

Kết thúc năm 1963, Kiến Phong đã giải phóng được nhiều vùng nông thôn ở Cao Lãnh, Mỹ An, Hồng Ngự, Thanh Bình, nhiều ấp chiến lược bị phá lỏng, phá rã. Ở vùng nam Cao Lãnh, ta lấn ra sát lộ 30, vùng bắc Cao Lãnh, ta làm chủ sát thị xã, địa bàn du kích mở rộng ra ở các xã An Bình, Mỹ Trà, Mỹ Ngãi, Tân An.

Ở An Giang, bước sang năm 1963, ngoài việc triển khai nhiệm vụ của Khu giao là giác ngộ cách mạng trong đồng bào theo đạo và đồng bào thiểu số chống địch xây dựng ấp chiến lược, bình định trên địa bàn của mình, tỉnh vẫn thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo đảm hành lang tiếp viện từ miền Đông xuống Khu IX đi qua vùng đất An Giang.

Cuộc chiến đấu hết sức gian khổ. Địch huy động Sư đoàn 21 ngụy và lực lượng bảo an, có sự yểm trợ của xe M113 và phải đánh liên miên vào vùng Bảy Núi. Hơn 200 gia đình người Việt - Khơ me bị gom vào ấp chiến lược Ô Lâm.

Cuộc chiến đấu tại Núi Tô, Núi Dài giằng co, kéo dài suốt 4 tháng. Cuối cùng, Tỉnh ủy phải chuyển từ Núi Dài sang Núi Cấm, lương thực khô cạn. Đơn vị vũ trang tỉnh phải phân tán vào dân để sống, phải ăn củ chuối, củ mì, rau rừng… Tỉnh phải xin Khu tiền để nuôi bộ đội. Khó khăn, gian khổ nhưng cán bộ, chiến sĩ không nản chí, vẫn thực hiện những trận đánh gây thiệt hại nặng cho địch: Trận càn của Tiểu đoàn 2 Sư đoàn 21 có xe M113 yểm trợ vào Ô Cạn ngày 2 tháng 1 năm 1963 bị bộ đội tỉnh đánh thiệt hại nặng 2 đại đội. Bộ đội địa phương Tịnh Biên chống càn ở Núi Phú Cường và Núi Dài diệt 2 trung đội, 1 xe M113. Bộ đội tỉnh tấn công ấp chiến lược Ba Chúc, diệt 2 đại đội. Bộ đội địa phương Châu Thành - Huệ Đức đánh chìm tàu địch trên kênh 200, diệt 2 trung đội địch bình định đưa đến yểm trợ cho việc xây dựng ấp chiến lược Núi Trọi và Vọng Thê.

Cùng thời gian đó, ở Chợ Mới, Tân Châu là nơi có đông đảo tín đồ Hòa Hảo, tình hình cũng rất căng thẳng. Địch ra sức truy bắt, tiêu diệt cán bộ cách mạng. Bọn bảo an, biệt kích ngày đêm rình rập tìm hầm bí mật ở các xã Tấn Mỹ, Hội An, Mỹ Hiệp, Bình Phước Xuân, Phú Lâm,… giết hơn 20 cán bộ. Các đồng chí này đã chiến đấu với chúng và hy sinh oanh liệt. Liên tiếp, hai đồng chí Bí thư Huyện ủy hy sinh.

Tháng 7 năm 1963, tỉnh đưa lực lượng hỗ trợ phá các ấp chiến lược dọc biên giới. Các ấp chiến lược Sân Trâu, xã Nhơn Hưng, Bắc Đai, xã Phú Hội, ấp chiến lược Chà Ly, Chà Xanh, xã Khánh Bình vùng dân tộc Chăm đều bị phá. Đối phó lại, địch chủ trương dời dân vào trong biên giới 800 mét. Quần chúng phản ứng quyết liệt.

Tháng 8 năm 1963, ở Tri Tôn, lực lượng vũ trang tỉnh và quân địa phương hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá bung nhiều ấp chiến lược, trong đó có ấp chiến lược Lương An Trà là điểm ngăn chặn đường liên lạc giữa Núi Dài và Đồng Tràm.

Tháng 9 năm 1963, ở Châu Phú, lực lượng vũ trang tỉnh và quân địa phương đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 21 và bảo an vào 3 xã Bình Mỹ, Bình Long và Thạnh Mỹ Tây.

Ở Chợ Mới, 2 xã Hội An và Mỹ Hiệp sau khi củng cố lại, được sự hỗ trợ của quân địa phương và du kích, quần chúng đã nổi dậy phá ấp chiến lược. Trong tháng 9 năm 1963, du kích đánh đồn kênh Cựu Hội, phá ấp chiến lược An Phú. Quần chúng xã Long Điền đấu tranh chống địch bắt đào kênh làm hào bảo vệ quận lỵ. Chúng phải nhượng bộ.

Tháng 11 năm 1963, lực lượng vũ trang tỉnh phục kích đánh 3 trung đội bảo an mở đường Tịnh Biên - Nhà Bàng có xe M113 yểm trợ và phục kích trung tâm huấn luyện Chi Lăng. Tháng 12 năm 1963, du kích Thới Sơn đánh mìn diệt bọn bảo an đi từ Chi Lăng đến Lạc Quới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:30:06 am »

V - THỰC HIỆN NHIỆM VỤ MỞ ĐƯỜNG TRÊN BIỂN,
ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT”

1. Mở đường trên biển, tiếp nhận trang bị vũ khí của Trung ương chi viện cho chiến trường miền Nam

Từ sau Nghị quyết 15 năm 1959, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ đạo xúc tiến mở hành lang giao thông quân sự đặc biệt trên bộ và trên biển để chi viện người và của từ hậu phương lớn miền Bắc cho cách mạng miền Nam. Trong khi Đoàn 559 đang phát cây, mở đường, đặt trạm dọc theo dãy Trường Sơn thì ngày 20 tháng 7 năm 1959, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Đoàn 559 tìm đường đi vào miền Nam trên biển.

Giữa năm 1961 Trung ương Cục chỉ đạo Khu ủy giao nhiệm vụ cho các tỉnh ven biển nghiên cứu luồng lạch, bến bãi, tình hình hoạt động của địch, chuẩn bị tàu thuyền và cử cán bộ ra Bắc liên lạc và báo cáo.

Thường vụ Khu ủy triển khai công tác này, giao nhiệm vụ cho tỉnh Bến Tre. Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre đã tổ chức một chiếc ghe máy có cả buồm vượt biển ra Bắc. Đoàn gồm 4 đồng chí, do đồng chí Sáu Giáo phụ trách, ra đến Hà Nội an toàn. Tại Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ kính yêu đã gặp những người con của quê hương Đồng khởi. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ trong Bộ Chính trị là những đồng chí đã từng sống và chiến đấu ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đã trực tiếp nghe các đoàn của Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre báo cáo trong 4 ngày liền về việc chấp hành Nghị quyết 15; về phong trào tấn công, nổi dậy đồng loạt ở nông thôn; về việc tiến công, nổi dậy bằng hai chân, ba mũi; về xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, binh vận, vũ trang; chia lại ruộng đất cho nông dân; đặc biệt về đội quân chính trị tóc dài, về đời sống nhân dân và chính quyền tự quản của nhân dân trong vùng mới giải phóng và nhất là về sự thiếu thốn vũ khí, đạn dược.

Gần hai năm sau, việc tổ chức đường vận chuyển trên biển của Trung ương vào được đến Nam Bộ.

Ngày 2 tháng 12 năm 1963, bến Khâu Băng, Thạnh Phú, Bến Tre, gọi tắt là M3, được chuẩn bị xong.

Ngày 17 tháng 12 năm 1963, chuyến tàu sắt đầu tiên chở hơn 44 tấn hàng do đồng chí Bình Đạt chỉ huy cập bến an toàn. Từ sau đó, những chuyến hàng vào liên tục cập bến.

Việc tiếp hàng vào các bến, tổ chức chuyển về Miền và phân phối cho các khu là nhiệm vụ của Đoàn 962 do Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập, trực thuộc Bộ chỉ huy Miền. Đồng chí Nguyễn Văn Phối, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu VIII, Phó chính ủy Bộ Tư lệnh Quân khu VIII được chỉ định làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 962.

Bến M1 ở Cà Mau có luồng lạch sâu, kín đáo nên tàu thường gặp ở bến giao hàng. Đoàn 962 tổ chức một hành lang đi ghe máy trên biển qua chốt M2. Từ M2 phân phối vũ khí cho Trà Vinh, Vĩnh Long và đẩy hàng qua cửa sông Cỏ Chiên bằng ghe máy giao cho M3. Từ M3 giao hàng cho Khu VIII, rồi Khu VIII đẩy hàng qua Long An, lên Tây Ninh và Miền rồi tiếp tục vượt biển đẩy hàng qua Rừng Sác, Bà Rịa để giao hàng cho Sài Gòn - Chợ Lớn và cho Miền.



Một kho “gửi dân” ở Khu VIII (Cai Lậy)
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Tư, 2017, 09:57:43 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:30:41 am »

Mở được hành lang trên biển đã là việc rất khó, nhưng mở hành lang trên bộ, chuyển súng đạn về đến nơi quy định, đến tận người cần nó lại còn khó hơn nhiều. Vì biển cả mênh mông, dễ ngụy trang, luồn tránh, còn trên đất liền thì kho tàng của ta phải cố định trong một vùng, phải chống càn quét liên tục để bảo vệ kho tàng. Đường hành lang cũng phải đi theo một trục nhất định giữa vòng bao vây, phong tỏa suốt ngày đêm của địch. Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu đặc biệt coi trọng công tác này, đã cử nhiều cán bộ quân sự, chính trị đi lo tổ chức, giao cho các tỉnh ủy, tỉnh đội cử người có năng lực, có kinh nghiệm đến tăng cường cho Đoàn 962, trực tiếp xây dựng căn cứ địa bàn, mở các trục hành lang, tổ chức lực lượng vận tải trên bộ, trên sông, trên biển, lựa chọn những người dân chí cốt, những cán bộ trung kiên trực tiếp điều khiển tàu, ghe vận tải. Đây là một công việc lãnh đạo và tổ chức rất quy mô, rất phức tạp, đòi hỏi Đoàn 962 và các Đảng bộ, địa phương phải tập trung trí tuệ và kinh nghiệm của những người dân chí cốt, của cán bộ, chiến sĩ, địa phương để thực hiện.

Trên hướng sông Tiền, theo chỉ thị của Trung ương Cục, Thường vụ Khu ủy Khu VIII đã cử đồng chí Nguyễn Văn Phối, Tư lệnh Đoàn ra lo chung cho Miền vừa lo cho đầu cầu M3 của Khu VIII. Ngoài ra, Khu VIII tập trung cán bộ khu, tỉnh thành lập trạm tiếp nhận tại đầu cầu M3, tổ chức vận tải đưa đi các hướng, lấy tên là đơn vị X15.

X15 đứng chân hoạt động tại vùng Khâu Băng, Giao Thạnh, Thạnh Phong, Thạnh Phú, Bến Tre, vừa là lực lượng của bến M3 để tiếp nhận, cất giữ hàng của Trung ương, vừa tổ chức lực lượng vận tải thủy đưa đi các hướng.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, trong cao trào phá ấp chiến lược năm 1963, Khu VIII đã sử dụng lực lượng đánh phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, nối liền hành lang vận tải Thạnh Phú - Giồng Trôm - Châu Thành, Bến Tre, Mỹ Tho, lên Kiến Tường, qua Đức Huệ, Long An đưa hàng lên miền Đông. Mở rộng vùng giải phóng và hành lang vận tải từ Cửa Tiểu, Gò Công lên Chợ Gạo lên Châu Thành, Mỹ Tho, vượt qua sông Soài Rạp đến Rừng Sác. Lực lượng vận tải được thành lập tại mỗi tỉnh từ 1 đến 2 tiểu đoàn; lấy cán bộ, bộ đội địa phương tỉnh, huyện làm nòng cốt chỉ huy, bổ sung dân quân, du kích cả nam lẫn nữ được chọn lọc, được hướng dẫn công tác bí mật, nhiệm vụ tải hàng chiến lược và chiến đấu bảo vệ hàng. Trên trục hành lang, các chi bộ Đảng giáo dục nhân dân ủng hộ và bảo vệ bí mật cho lực lượng vận tải, chuẩn bị sẵn các hầm bí mật để cất giấu vũ khí khi cần thiết. Các ấp, xã chiến đấu được thiết lập rộng, vững mạnh suốt dọc hành lang. Khó khăn và nguy hiểm nhất là việc qua sông, qua lộ. Đó là những nơi địch chú ý ngăn chặn ta bằng tàu chiến, xe thiết giáp với vũ khí hiện đại. Phải nắm quy luật hoạt động của địch, tình hình ở hai bên để tổ chức chuyển hàng đi được an toàn.

Khi qua sông Cửu Long thường phải tiến hành vào ban ngày để quan sát tàu địch từ xa. Hàng tập kết xuống ghe lớn đậu sẵn trong con rạch kín đáo gần bờ sông. Bên ngoài trông giống như chiếc ghe buôn bình thường. Ghe có gắn máy Kôle 10 sức ngựa, tư thế sẵn sàng. Có một chiếc xuồng máy nhỏ ở giữa sông để quan sát tàu tuần tiễu của địch, nếu có ám hiệu “nón lá giơ cao” thì lập tức ghe nổ máy băng ngang sông với tốc độ tối đa. Việc vượt sông phải gọn trong vòng 7 phút vì cứ 15 phút thì tàu tuần tiễn của địch chạy qua một lần.

Việc vượt qua lộ 4 thì đơn giản hơn và thường là vào ban đêm. Ngoài hệ thống đồn bốt đặt cách nhau 1-2 kilômét, cứ 15 phút thì có một đoàn xe M113 chạy tuần tiễu trên lộ. Khi đoàn xe vừa đi khuất, phải tiếp cận ngay mé lộ để nắm tình hình bọn nằm đường phục kích. Đợi vắng xe chạy thì cho đoàn vận tải vượt qua lộ, tiếp tục đi đến nơi an toàn. Cũng có nơi khó hơn vì địch rải bùng nhùng kẽm gai dọc theo hai bờ mương lộ, giao liên phải mang theo tấm ván, đặt lên trên kẽm gai để người đi qua được an toàn, khi vượt qua lộ phải trải nylông để không có vết chân in trên mặt lộ.

Mùa nước nổi việc đi lại thuận lợi hơn. Đồng Tháp Mười ngập mênh mông như biển cả. Xuồng gắn máy chạy suốt từ biên giới tới kênh Nguyễn Văn Tiếp - lộ 4 chỉ trong một đêm. Nhưng mùa khô thì phải qua nhiều trạm, trong nhiều ngày. Đêm đi ngày nghỉ, giữa đồng trống phải phân tán mỏng ra, trú ẩn trong các đám cỏ để tránh trực thăng chụp.

Ngoài ra, ta còn vận chuyển bằng ghe buôn công khai hợp pháp qua đồn bốt, súng đạn để dưới, hàng nông sản để lên trên, khi qua đồn bốt trình giấy tờ, khéo léo, mưu trí lo lót bọn lính gác. Cũng có lúc ta dùng ghe hai đáy để chuyên chở. Ở một số vùng địch kiểm soát, ta phải tổ chức các đội nữ vận chuyển bằng cách hợp pháp để đưa hàng hóa đi qua lộ 4 vào ban ngày. Đồng bào đặt tên cho lực lượng này là “đội quân hai màu áo”.

Từ những năm ấy, hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, phương tiện quân sự từ đường Hồ Chí Minh trên biển nhập vào đất liền miền Nam đã tăng thêm khối lượng hàng chiến lược vận chuyển cho miền Nam, đẩy nhanh nhịp độ phát triển của cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:31:21 am »

2. Bẻ gãy kế hoạch bình định trọng điểm - nỗ lực cuối cùng của địch trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”

Chế độ thống trị của Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Diệm, Nhu bị giết, tiếp theo là những cuộc đảo chính liên miên ở Sài Gòn. Còn phía ta, sự viện trợ vũ khí trang bị đều, kịp thời của Trung ương đã giúp cho việc xây dựng, phát triển nhanh lực lượng vũ trang tập trung là điều kiện ngàn vàng cho toàn miền Nam nói chung và Khu VIII nói riêng đánh bại hoàn toàn quốc sách “ấp chiến lược” của địch.

Khí thế rầm rộ của phong trào nổi dậy ba mũi giáp công ở xã, ấp, cộng với tinh thần hoang mang, dao động của ngụy quân, ngụy quyền ở các địa phương đã dẫn đến việc ngụy quyền trung ương để mất những gì mà bộ máy của chế độ Ngô Đình Diệm đã xây dựng lên trong chín năm cầm quyền. Phong trào quần chúng tấn công chính trị và nổi dậy phá ấp chiến lược, tiêu diệt và làm tan rã địch đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng vũ trang cách mạng đã đánh bại các chiến thuật mới của địch, diệt những cứ điểm kiên cố, đánh bại các cuộc càn quét, giải tỏa của chủ lực ngụy.

Tình hình và thời cơ thuận lợi xuất hiện, tạo ra khí thế mới cho quần chúng nổi dậy bằng hai chân, ba mũi, phá banh phá rã, phá dứt điểm từng mảng lớn các ấp chiến lược và làm chủ khắp nơi.

Quốc sách “ấp chiến lược” - xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy, đã bị phá sản.

Tháng 12 năm 1963, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (khóa III) ra Nghị quyết đánh giá tình hình đấu tranh cách mạng ở miền Nam trong giai đoạn mới và đề ra chủ trương: Phải nỗ lực vượt bậc để nhanh chóng tăng cường lực lượng quân sự, tạo ra một chuyển biến căn bản về so sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam… Đồng thời chỉ rõ phương châm chiến lược ở miền Nam là: Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hai hình thức đấu tranh này đều cơ bản, có vai trò quyết định, trong đó đấu tranh vũ trang có vai trò quyết định trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân địch. Cuộc chiến tranh sẽ kéo dài nhưng phương hướng phấn đấu là tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Trong chỉ đạo cần tìm mọi cách kiểm chế và thắng địch trong cuộc “chiến tranh đặc biệt”, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh trên quy mô lớn của đế quốc Mỹ.

Để thực hiện chủ trương của Nghị quyết Trung ương, trên cơ sở tình hình thực tế của Khu VIII, Khu ủy xác định: Điều quan trọng quyết định nhất, trong bất cứ trường hợp nào, là vẫn phải nỗ lực tăng cường lực lượng của ta về mọi mặt, đặc biệt là ra sức sử dụng lực lượng vũ trang lớn mạnh. Đánh lâu dài, đồng thời tích cực tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn.

Triển khai chủ trương này của Khu ủy, Thường vụ Khu ủy đã đề ra một số công việc cấp bách:

- Xây dựng lực lượng vũ trang tập trung lớn mạnh, tăng cường công tác binh vận.

- Mở rộng hành lang biên giới.

- Tích cực tranh thủ thời cơ giành thắng lợi tối đa.

Về phía địch, sau thất bại của chương trình bình định toàn miền Nam với quốc sách lập ấp chiến lược, chúng vẫn chưa cam chịu thất bại. Ngày 17 tháng 3 năm 1964, địch triển khai thực hiện kế hoạch Johnson - Mac Namara: dùng lực lượng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc; ở miền Nam: tăng viện trợ vũ khí, trang bị kỹ thuật, tăng cường bắt lính, tăng quân số quân đội ngụy, tăng thêm yểm trợ hỏa lực, hậu cần của Mỹ, tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của Mỹ, đồng thời thu hẹp phạm vi, tập trung lực lượng bình định 7 tỉnh trọng điểm là Long An, Định Tường, Kiến Hòa, Kiến Phong, Hậu Nghĩa, Bình Dương… Như vậy là trong 7 tỉnh bình định trọng điểm của địch đã có 5 tỉnh thuộc địa bàn Khu VIII. Đó cũng là điều dễ hiểu, vì Khu VIII có vị trí bản lề giữa hai khu Đông và Tây Nam Bộ, tiếp giáp và nối Sài Gòn - nơi đầu não của địch với đồng bằng sông Cửu Long - nơi đông dân, nhiều của và là nơi quần chúng đang ở thế chủ động nổi dậy tấn công rộng, mạnh, đều khắp.

Để thực hiện âm mưu mới, kẻ thù tập trung nhiều quân nhất, sử dụng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, để đánh phá các tỉnh chúng bình định trọng điểm, hòng thực hiện âm mưu giành dân, chiếm đất. Vì vậy, cường độ chiến tranh ở những nơi này trở nên vô cùng ác liệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:31:50 am »

Một lần nữa, Thường vụ Khu ủy lại tập trung chỉ đạo các đơn vị, địa phương khắc phục mọi khó khăn, tổ chức thực hiện cho được những nhiệm vụ cấp bách, kiên quyết đánh bại âm mưu bình định mới của địch, giành thắng lợi trọng ven.

Những kinh nghiệm đấu tranh với địch đã cho thấy vấn đề tiêu diệt và làm tan rã lực lượng địch, đưa chiến tranh vào sào huyệt của địch kết hợp với ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận giáp công ở cơ sở, từng bước mở rộng vùng giải phóng, ngày càng trở thành quy luật tất yếu.

Khu ủy và Quân khu ủy quyết định xây dựng tiếp các đơn vị bộ binh chủ lực và trợ chiến: Tiểu đoàn 263 bộ binh, Tiểu đoàn pháo cối 120-H12, Tiểu đoàn công binh, Đại đội đặc công thủy. Sau khi thành lập Tiểu đoàn 263 bộ binh không lâu, Thường vụ Khu ủy chỉ đạo xây dựng tiếp các đơn vị bộ binh chủ lực lớn trợ chiến cho khu, tỉnh, huyện. Các tỉnh thành lập thêm các đại đội công binh. Trong điều kiện trang bị được tăng cường do sự chi viện của Trung ương, cơ quan tác huấn triển khai tập huấn ngay cho các đơn vị vũ trang tập trung của khu, tỉnh về chiến thuật, kỹ thuật đánh địch trong công sự vững chắc, hợp đồng binh chủng bộ binh, đặc công, pháo binh để đưa chất lượng tiến công của mũi quân sự lên một bước cao hơn, đủ sức làm mũi nhọn quyết định trực tiếp trong ba mũi trong điều kiện địch cũng ráo riết tăng cường mũi quân sự của chúng.

Để khắc phục việc hợp đồng chỉ huy trong những trận đánh lớn mà Khu đã sử dụng lực lượng tập trung cao hơn tiểu đoàn, Khu dùng hình thức chiến đoàn. Các chiến đoàn 1 và 2 của Khu ra đời trong hoàn cảnh ấy. Chiến đoàn 1 được thành lập, do các đồng chí Lê Văn Nhỏ, Vũ Mạnh và Châu Hoàng Nam chỉ huy.

Trong các tỉnh của Khu VIII, tỉnh Mỹ Tho có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Địa bàn của tỉnh ôm gọn lộ 4 và kênh Chợ Gạo là hai đường giao thông thủy, bộ chiến lược, là yết hầu nối liền Sài Gòn với miền Tây Nam Bộ. Chỉ cần cắt đứt lộ 4 và kênh Chợ Gạo thì Sài Gòn sẽ lao đao, rối loạn vì thiếu lương thực, thực phẩm. Vì thế, sau Long An, Mỹ Tho là trọng điểm bình định và là nơi tập trung hoạt động của phần lớn quân chủ lực ở khu chiến thuật Tiền Giang của địch. Cũng vì thế, đối với cách mạng, đây là nơi cần tập trung tấn công mạnh, khống chế địch để có tác động có tính chất chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam chứ không chỉ riêng ở Khu VIII. Do đó, từ khi chiến tranh chống Mỹ bùng nổ, Mỹ Tho trở thành chiến trường trọng điểm, quyết chiến giữa ta và địch. Khu đã cắm Tiểu đoàn 261 - tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Khu ngay từ khi thành lập, thường trực cơ động ở Mỹ Tho để tác chiến hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng tấn công nổi dậy ba mũi quân sự, chính trị, binh vận trên địa bàn trọng điểm này.

Trước mắt cần phải giải quyết các chốt địch nằm án ngữ trên đường hành lang đi xuyên qua Khu và dọc theo biên giới để bảo đảm nguồn tiếp vận được đều đặn chuyển xuống các chiến trường và bảo đảm chỉ đạo thông suốt từ Khu, từ Miền xuống.

Sau đợt huấn luyện, Tiểu đoàn 261 với quân số trên 800 chiến sĩ, được trang bị DK75, ra quân trận đầu đánh địch trong công sự vững chắc, diệt ngay cứ điểm chùa Phật Đá, xã Mỹ Phước, huyện Châu Thành; đánh sập cầu sắt bắc ngang kênh Nguyễn Văn Tiến.

Tiếp sau, tiểu đoàn tiêu diệt căn cứ Thiên Hộ, phá khu trù mật Hậu Mỹ, huyện Cái Bè, Mỹ Tho. Căn cứ này chiếm một góc ngã ba về phía tây bắc nơi gặp nhau giữa kênh Hàm Vồ và kênh Nguyễn Văn Tiếp, án ngữ một trong những hành lang lớn của ta từ miền Đông xuống miền Tây. Thiên Hộ là căn cứ hành quân của Sư đoàn 7 ngụy đánh vào Đồng Tháp Mười. Toàn bộ căn cứ là một cụm cấu trúc kiên cố với nhiều lô cốt, hầm ngầm bê tông, nằm trong tầm bắn yểm trợ của 6 cụm pháo chung quanh. Nếu kể cả 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 vừa tăng thêm trước trận đánh cộng với bọn thám báo, tề điệp, cố vấn Mỹ, thì số địch trong căn cứ lên đến 700-800 tên.

Từ vùng 20-7, Tiểu đoàn 261 hành quân lên phía bắc lộ 4, ém quân ở kênh 10, xã Thạnh Phú, huyện Cai Lậy. Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 4 năm 1964, ta nổ súng. Căn cứ bị tiêu diệt hoàn toàn. Địch bị thương vong 500 tên, bị bắt 25 tên. Trong số địch bị chết cố 4 tên cố vấn Mỹ. Tên chỉ huy phó, 1 tên cố vấn Mỹ và nhiều tên ác ôn, bình định bị bắt. Toàn bộ đồn bốt địch trên lộ 20 nối từ lộ 4 vào Hậu Mỹ tháo chạy.

Cùng lúc, Tiểu đoàn 514 tỉnh Mỹ Tho, quân địa phương, du kích và quần chúng nổi dậy bao vây, đánh chiếm yếu khu Vĩnh Kim.

Từ trận đánh diệt khu trù mật Hậu Mỹ, giải phóng trục lộ 20 ta đã hình thành một vùng giải phóng rộng nối liền các xã dọc kênh Nguyễn Văn Tiếp thuộc Bắc Cai Lậy - Cái Bè với vùng 4 Kiến Tường thành vùng giải phóng liên hoàn giữa 3 tỉnh Mỹ Tho - Kiến Tường - Kiến Phong, đồng thời cũng là căn cứ vùng ruột Đồng Tháp Mười của Khu VIII.

Sau trận Thiên Hộ, Thường vụ Khu ủy chỉ đạo tiếp hướng mở ra là phía nam lộ 4 Cái Bè, diệt chi khu Cái Bè kết hợp phát động quần chúng nổi dậy mở thế làm chủ của nhân dân các xã vùng chung quanh thị trấn. Lực lượng sử dụng gồm có 3 tiểu đoàn: 261, 263, 514. Đại đội pháo, Đại đội đặc công, Đại đội trinh sát, quân địa phương huyện Cái Bè và du kích các xã nam lộ 4.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:32:14 am »

Đêm 20 tháng 7 năm 1964, sau gần 1 giờ chiến đấu, ta đã đánh chiếm và làm chủ toàn bộ chi khu Cái Bè, diệt gần 200 tên địch, phá hủy 2 pháo 105. Sáng ngày 21 tháng 7 năm 1964, ta diệt thêm 100 tên địch từ thị xã Mỹ Tho hành quân lên giải tỏa ở khu vực sông Cái Thia.

Đây là trận đánh tiêu diệt chi khu đầu tiên trên chiến trường Khu VIII. Từ trận đánh thọc sâu vùng yếu nam Cái Bè, ta tìm ra được những quy luật trong phòng thủ của địch, tiếp tục mở ra khả năng đánh đồn bốt bằng hợp đồng giữa đặc công - hỏa lực - bộ binh trên chiến trường.

Cũng trong tháng 7 năm 1964, Tiểu đoàn 514 bao vây chi khu Long Định, đánh tan 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến đến giải tỏa.

Từ tháng 4 năm 1964, địch triển khai kế hoạch Johnson-Mac Namara. Chúng tập trung lực lượng đánh vào các vùng căn cứ giải phóng, khôi phục các đường giao thông, củng cố vành đai, chia cắt chiến trường hòng xoay chuyển tình thế.

Những hoạt động chống phá bình định giữa ta và địch trở nên gay gắt.

Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 và 3 tiểu đoàn thủy quân lục chiến của địch liên tiếp càn quét 2 huyện Gò Công và Hòa Đồng để tiến tới thành lập đặc khu Gò Công, tiến hành bình định tuyến lộ Phú Kiết - Chợ Gạo, nhằm ngăn cắt chiến trường Gò Công với các huyện vùng trên. Chúng cho trực thăng rải chất độc hóa học kết hợp bom pháo và bộ binh hủy diệt địa hình Gia Thuận, Cồn Chim, Cồn Cống là những căn cứ lâu đời của Gò Công. Công trường và bệnh xá của Gò Công đóng tại Cồn Cống phải chuyển lên Tân Hòa Đông - Đồng Tháp Mười. Chúng càn dài ngày vào xóm Dinh, căn cứ của cơ quan thị trấn Gò Công, đóng vào Xóm Dinh, căn cứ của cơ quan thị trấn Gò Công, đóng lại 1 tuần, hù dọa: “Việt cộng sẽ chết đói dưới hầm, chỗ nào nghe thối đào lên sẽ gặp”. Đồng bào phải đánh lạc hướng chúng, lợi dụng đêm tối đưa các cán bộ thoát khỏi vòng vây. Sau khi Đại đội 206 và du kích tập kích diệt 1 trung đội địch tại đồn Tân Bình Điền, chúng mới chấm dứt trận càn.

Tiến công lại địch, tổ đặc công Chợ Gạo gài mìn diệt tên Trung tá Trần Hoàng Quân, Tỉnh trưởng Định Tường và tên cố vấn Mỹ trên lộ Phú Kiết khi chúng đi khánh thành sân banh Phú Kiết trở về. Tiểu đoàn 514 tập kích diệt 1 đại đội địch tại Đạo Thành, đánh càn trên lộ Ông Văn diệt 30 tên, trong đó có 2 tên Mỹ, bắn rơi 3 máy bay. Sau hơn một năm ta giải phóng Ba Dừa, ngày 19 tháng 11 năm 1964, địch đưa quân chiếm lại yếu khu này. Tiểu đoàn 514 đánh càn diệt 100 tên, ngày hôm sau lại diệt thêm 1 đại đội bảo an tại chợ Long Tiên.

Ở Gò Công, Đại đội 206 tập kích diệt đồn Bình Xuân, Cầu Nổi, Bến Phà, Xóm Sọc, Tăng Hòa, Phước Trung. Quần chúng nổi dậy trừng trị ác ôn. Nhưng đội du kích xã Tân Niên Tây đánh với một tiểu đoàn thủy quân lục chiến càn vào xã bị hy sinh gần hết.

Địch càn vào vùng 20-7, Tiểu đoàn 514 đánh diệt 100 tên, phá gãy một cuộc càn của địch ở ấp Long Điền, xã Mỹ Long. Nhưng sau đó Tiểu đoàn bị tổn thất nặng trong trận Bầu Chảo.

Trên chiến trường Long An, trong năm 1963, kế hoạch lập ấp chiến lược của địch đã bị thất bại nghiêm trọng. Chúng chuyển sang tập trung thực hiện chương trình bình định trọng điểm. Chúng đánh giá Long An là trọng điểm số 1 vì đây là tuyến phòng thủ phía tây nam Sài Gòn. Từ năm 1964, hoạt động của địch trên chiến trường Long An đặt trực tiếp dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh hỗn hợp Mỹ - ngụy ở Sài Gòn, thay vì Bộ tư lệnh khu chiến thuật 31 vùng 3 chiến thuật như trước.

Kế hoạch của địch là trong 6 tháng đầu năm 1964, chậm nhất là đến cuối năm, chúng phải bình định xong Long An.

Địch mở hàng loạt cuộc càn quét, tập trung bom, pháo, chất độc hóa học, trực thăng, xe M113 đánh phá ác liệt vào vùng giải phóng bắc lộ 4, phá trụi cây cối, hoa màu, vườn tược, biến thôn xóm thành vùng trắng. Bộ binh địch đi tới đâu, bắn giết, đốt sạch đến đó, gây tâm lý khủng khiếp, hòng bắt dân ra vùng chúng. Chiến trường Long An trở nên ác liệt, gian khổ chưa từng thấy. Đêm đêm, bom pháo thay nhau dội xuống. Nhà cửa, vườn tược tan nát, đồng bào phải đào hầm, dựng chòi để ở ngoài đồng trống.

Song, tình hình đó vẫn không làm cán bộ, chiến sĩ Long An nao núng. Cấp ủy tăng cường lãnh đạo Đảng bộ, cán bộ, chiến sĩ kiên quyết bám trụ, chấp nhận gian khổ, tìm mọi cách diệt địch, hỗ trợ quần chúng đứng dậy phá tan âm mưu của địch, giành chiến thắng.

Ngày 2 tháng 5 năm 1964, Đại đội 4 của tỉnh cơ động lên xã Đức Hòa Hạ, phục kích vận động diệt 1 đại đội biệt động quân của địch. Địch liền huy động Trung đoàn 46 Sư đoàn 25 phối hợp với biệt động quân mở cuộc càn quét lớn ở vùng Đức Hòa. Tỉnh để một bộ phận của Đại đội 2 ở lại cùng quân địa phương, du kích kết hợp với lực lượng ba mũi chiến đấu tiêu hao địch, chống địch cướp bóc, đốt phá, còn đại bộ phận lực lượng nhanh chóng cơ động xuống phía nam lộ 4.

Đêm 5 tháng 5 năm 1964, Đại đội 1 diệt đồn đại đội bảo an ở Chợ Núi, xã Phước Vĩnh và đồn 2 trung đội dân vệ xã Long Phụng vùng hạ Cần Giuộc. Quân địa phương Cần Đước tập kích diệt đại đội bảo an đóng dã ngoại ở xã Long Cang, chúng phải rút chạy. Các xã Phước Vĩnh Tây, Long Phụng - hạ Cần Giuộc lên đến sát lộ 5A và xã Long Cang - Cần Đước được giải phóng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2013, 06:32:42 am »

Trong khi đó thì ở Đức Hòa, bọn địch hành quân bị du kích bám đánh liên miên suốt ngày đêm, đội quân tóc dài bám sát tấn công binh vận, làm cho tinh thần binh lính sa sút. Đến ngày 6 tháng 5 năm 1964, chúng buộc phải ngưng cuộc càn, cụm quân lại để củng cố. Thời cơ rất thuận lợi, Ban chỉ huy thống nhất tỉnh quyết định chuyển sang thực hiện cao điểm 2.

Đêm 6 tháng 5 năm 1964, Đại đội 1 được lệnh quay về bắc lộ 4. Đêm 7 tháng 5, Đại đội tập kích tiêu diệt tiểu đoàn 4 Trung đoàn 46 Sư đoàn 25 ngụy tại cầu Láng Ven ngã ba Hòa Khánh. Bộ đội địa phương Bến Lức, quần chúng chiến đấu và du kích bao vây căn cứ Lương Hòa, địch phải đưa Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 46 đến giải tỏa. Tiểu đoàn này bị Đại đội 1 và Đại đội 2 của tỉnh và bộ đội huyện Đức Hòa phục kích tiêu diệt tại cầu Tàu. Sau 2 trận này, Trung đoàn 46 của địch phải rút về căn cứ để củng cố, bỏ dở cuộc càn.

Chỉ một đợt tấn công trong một thời gian, Long An với lực lượng địa phương không lớn, nhưng với nghệ thuật chỉ huy và sử dụng lực lượng hết sức linh hoạt, kết hợp tốt ba thứ quân với lực lượng ba mũi tấn công, đã giành quyền làm chủ trên chiến trường, tiêu diệt hơn 2.000 tên địch, diệt 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 46, 3 đại đội, 6 trung đội khác, bức rút 20 đồn tua, giải phóng 18 xã. Đó là chưa kể trận đánh tiêu diệt căn cứ biệt kích Gò Đen ở sát nách Sài Gòn trong tháng 4 năm 1964, diệt hàng chục tên địch, thu 120 khẩu súng, khiến cho các đồn bốt trong vùng hết sức hoang mang, buộc địch phải rút bỏ những nơi chúng thấy không thể giữ nổi.

Như vậy, bằng sức mạnh tổng hợp ba mũi quân sự - chính trị - binh vận của địa phương, chỉ huy linh hoạt, khả năng tác chiến hiệu suất cao, cơ động giỏi, chuẩn bị chiến trường chu đáo, Long An đã đánh bại các cuộc càn quét quy mô lớn của Sư đoàn 25 ngụy, giải phóng phần lớn vùng nông thôn nam - bắc Long An.

Sau khi củng cố lực lượng và rút kinh nghiệm đợt hoạt động, được Khu chấp nhận, tỉnh thành lập Tiểu đoàn 1. Sang tháng 8 năm 1964, tỉnh lại mở tiếp đợt tiến công. Tiểu đoàn 1 tiến công đồn chợ Rạch Kiến, đồn Long Sơn, Long Khê; Đại đội 2 độc lập diệt 1 số đồn ở Thuận Mỹ - Châu Thành. Tiểu đoàn 1 lại diệt tiếp đồn ngã tư Chợ Trạm Mỹ Lộc, bộ đội địa phương huyện diệt đồn Phước Hậu. Trong tháng 8 năm 1964, Long An đã mở được một vùng giải phóng nối liền trên trục lộ 15 lên giáp tỉnh lộ 18, phát triển thành một hệ thống các đồn giải phóng liên hoàn trên các trục lộ 15, 18 giữa Vàm Cỏ Đông với Cần Đước.

Bước sang tháng 9 năm 1964, địch đưa Trung đoàn 50 Sư đoàn 25 ngụy đến càn quét, bình định vùng Bến Lức. Trước tình hình căn cứ Lương Hòa thuộc khu tập trung dân theo đạo Thiên Chúa bị ta uy hiếp mạnh, chúng phải điều 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 50 đến tăng cường phòng thủ. Bộ đội địa phương, dân quân du kích ngày đêm xiết chặt vòng vây, liên tục tiêu hao, ngăn chặn đường bộ. Địch phải tiếp tế bằng máy bay và đưa 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 46 Sư đoàn 25 đến giải tỏa.

Tiểu đoàn 263 của Khu được điều lên bổ sung cho Miền. Trên đường đi, tiểu đoàn được lệnh dừng lại phối hợp tác chiến với Long An. Cùng với Tiểu đoàn 1 của Long An, Tiểu đoàn 263 đã tổ chức trận phục kích vận động và đã tiêu diệt 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 46 ngụy.

Giữa tháng 10 năm 1964, 1 đại đội của Tiểu đoàn 263 đơn vị pháo cối, cao xạ 12,8 ly của Khu cùng bộ đội huyện và du kích tiêu diệt chi khu Đức Huệ thuộc tiểu khu Hậu Nghĩa, giải phóng hoàn toàn huyện Đức Huệ.

Tiểu khu Hậu Nghĩa của địch đóng ở Bầu Trai (Đức Hòa) bị thế chiến tranh du kích của các xã giải phóng bao vây, cô lập. Sư đoàn 25 ngụy không đủ sức giữ Hậu Nghĩa, địch phải tăng cường thêm 2 tiểu đoàn biệt động quân về Đức Lập để giữ đường Hậu Nghĩa - Củ Chi.

Tại vùng nam lộ 4 địch phải vội vã điều Trung đoàn 46 Sư đoàn 25 về Cần Giuộc để đối phó với phong trào chiến tranh du kích đang ngày càng mở rộng tại đây. Nhưng trung đoàn này bị du kích các xã Cần Giuộc, Cần Đước bám đánh quyết liệt, liên tục bị tiêu hao, không bung ra được, phải co cụm về công sự.

Địch thừa nhận rằng với những trận phục kích và tấn công đêm của quân du kích Long An, Sư đoàn 25 mất trung bình mỗi tháng 1 đại đội.

Đặc biệt nổi bật trên chiến trường Long An trong năm 1964 là lực lượng vũ trang ba thứ quân đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng tấn công chính trị, binh vận, có quần chúng nổi dậy trên từng cao điểm, tấn công tại từng khu vực trọng điểm và trên diện rộng. Ta đã đánh địch trên 16.000 trận lớn, nhỏ, phần lớn là do lực lượng du kích xã, ấp và quần chúng thực hiện; diệt và làm tan rã trên 29.000 tên địch, 54 đồn, diệt 4 tiểu đoàn chủ lực ngụy, đánh quỵ Trung đoàn 46, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 50 làm cho Sư đoàn 25 ngụy mất sức cơ động phải lùi về củng cố; giải phóng hoàn toàn 57 xã, làm chủ cơ bản 50 xã khác, giải phóng hoàn toàn huyện Đức Huệ.

Về nghệ thuật chỉ huy tác chiến và sử dụng lực lượng, ta đã sử dụng các đánh nghi binh và cơ động lực lượng hết sức linh hoạt. Hiệu suất tác chiến tập trung cao, cấp tiểu đoàn tăng cường hoặc 2 tiểu đoàn tăng cường, tiêu diệt được từng đại đội, từng tiểu đoàn hoặc 2 tiểu đoàn chủ lực địch, kể cả diệt chi khu căn cứ có phòng thủ mạnh.

Từ kinh nghiệm của chiến dịch tiến công tổng hợp bằng ba mũi giải phóng vùng 20-7 trên chiến trường Mỹ Tho, Long An đã vận dụng và phát triển cách đánh của loại hình chiến dịch tiến công và nổi dậy tổng hợp bàng lực lượng của địa phương khá linh hoạt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM