Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:47:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 94485 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:12:27 am »

2. Dự thảo đề cương đường lối cách mạng miền Nam, đề án tổ chức hoạt động vũ trang tuyên truyền của Xứ ủy

Tháng 11 năm 1955, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy, đến Bến Tre khảo sát tình hình, biện soạn dự thảo Đề cương đường lối cách mạng miền Nam.

Đồng chí Ba Chim, Liên tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho được đồng chí Bí thư Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ cử đến gặp đồng chí Bí thư Xứ ủy để báo cáo tình hình. Đồng chí Bí thư Xứ ủy đánh giá cao Đảng bộ Khu Trung Nam Bộ đã chuyển hướng nắm dân, phát động nhân dân đấu tranh trong những năm vừa qua.

Tháng 10 năm 1956, đồng chí Sáu Đường, Bí thư Liên tỉnh ủy được triệu tập đi dự Hội nghị lần thứ nhất của Xứ ủy Nam Bộ, họp tại Phnômpênh, thủ đô Campuchia. Khi đến cơ quan Xứ ủy, đồng chí Sáu Đường được đưa về trong dãy nhà mà nhân dân gọi là dãy nhà Mỹ (Xứ ủy thuê bao luôn cả dãy nhà Mỹ), cách nhà đồng chí Lê Duẩn một căn. Trước ngày vào Hội nghị, đồng chí Sáu Đường có nhiều thời gian tiếp xúc với đồng chí Bí thư Xứ ủy.

Là Bí thư Xứ ủy đã trải qua thời gian hai năm sống trong dân từ sau Hiệp định Giơnevơ, đồng chí Lê Duẩn cũng đã từng nghe tâm sự của đảng viên, quần chúng và hiểu tình hình, nên đồng chí nhấn mạnh với đồng chí Sáu Đường: “Cách mạng miền Nam phải giải quyết bằng con đường bạo lực của nhân dân miền Nam, lật đổ Mỹ - Diệm mới có hòa bình”. Đồng chí nói để mấy hôm nữa họp Xứ ủy, Bản đề cương sẽ được xây dựng thành nghị quyết chính thức phổ biến trong Đảng bộ. Đồng chí Sáu Đường thay mặt Liên tỉnh ủy báo cáo với đồng chí Lê Duẩn tình hình ở Đồng Tháp Mười và các tỉnh Khu Trung Nam Bộ trong hai năm qua. Đồng chí trình bày cụ thể những khó khăn, nguyện vọng của người dân Đồng Tháp Mười khi địch kìm kẹp, áp bức; mong muốn có bạo lực vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh quần chúng của người dân Đồng Tháp Mười và cán bộ, đảng viên nói chung; những cuộc đấu tranh đòi giữ chủ quyền ruộng đất của nông dân; việc thành lập các tiểu đoàn giáo phái, liên lạc với bọn Mặt trận quốc gia thân Pháp có đại diện ở Phnômpênh nhận viện trợ; lấy cờ đỏ ngôi sao xanh tượng trưng cho Mặt trận Cao Thiên Hòa Bình. Từ khi có những tiểu đoàn mang danh nghĩa giáo phái hoạt động ở Đồng Tháp Mười dùng bạo lực vũ trang để trừng trị bọn ác ôn, phá thế kìm kẹp ở cơ sơ xã, ấp thì cơ sở Đảng đã được bảo vệ, khí thế cách mạng của quần chúng lên cao, tình hình có nhiều đổi khác.



Đồng chí Nguyễn Minh Đường
Nguyên Bí thư Khu ủy - Chính ủy Quân khu VIII

Đồng chí Lê Duẩn lắng nghe, nhiều điểm tỏ ra tâm đắc; đồng thời còn phân tích thêm: Người nông dân theo cách mạng là vì ruộng đất, lợi ích thiết thân của họ. Khi chính quyền mình còn, người nông dân thấy sau lưng của họ có Đảng, có bộ đội, có chính quyền, nên họ hăng hái theo Đảng đấu tranh, cho con em vào bộ đội để bảo vệ quyền lợi của mình. Nay chính quyền ở miền Nam nằm trong tay địch, bộ đội tập kết ra Bắc, Đảng rút vào hoạt động bí mật, thì người nông dân cảm thấy không có chỗ dựa. Chính quyền miền Nam độc tài phát xít, đồng bào đấu tranh chính trị đơn thuần với địch ít kết quả, nhân dân, nhất là nông dân đòi hỏi phải có lực lượng vũ trang, đó là tất yếu. Vì vậy, chủ trương phải giải quyết cách mạng miền Nam bằng bạo lực của quần chúng là điểm chính quan trọng của bản Đề cương đường lối cách mạng miền Nam sẽ được họp thảo luận để Xứ ủy thông qua. Khu Trung Nam Bộ đã có những hoạt động vũ trang bước đầu có những kinh nghiệm và kết quả tốt. Đồng chí chỉ thị cho đồng chí Sáu Đường soạn thảo một bản đề án về tổ chức và hoạt động vũ trang tuyên truyền để đưa ra thảo luận trong Hội nghị Xứ ủy lần này. Đồng chí Lê Duẩn còn góp một số ý về quan điểm và cách thức hoạt động như: tổ chức những đội quân ngầm, huấn luyện cho thanh niên biết sử dụng vũ khí, để khi cần có thể cầm súng chiến đấu; việc giáo phái ra hàng cả rồi, nếu cứ giữ tên vũ trang giáo phái thì không phù hợp, việc liên lạc với bọn thân Pháp rất phức tạp, nên cắt quan hệ với chúng; ta cứ làm vũ trang tuyên truyền, coi như người đảng viên cầm súng đi phát động quần chúng, xây dựng cơ sở. Sau khi soạn xong bản đề án về tổ chức và hoạt động vũ trang tuyên truyền, đồng chí Sáu Đường chuyển tới đồng chí Lê Duẩn xem trước ngày họp Hội nghị Xứ ủy.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Ba, 2017, 11:02:16 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:14:18 am »

Khi họp Hội nghị Xứ ủy, đồng chí Lê Duẩn đưa ra bản Đề cương đường lối cách mạng miền Nam được mọi người nhất trí. Đồng chí Lê Duẩn phân tích: Bản chất của địch là phát xít, khi chống lại nó thì dù bằng chính trị hay vũ trang, nó cũng giết, thẳng tay tiêu diệt Đảng mà thôi. Tuy nhiên, ta cứ làm thử, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm… nếu có gì thì ta tính nữa…

Bản đề án tổ chức và hoạt động vũ trang tuyên truyền năm 1956 có những nội dung chủ yếu như sau:

Một là, vũ trang tuyên truyền là để hỗ trợ thế đấu tranh chính trị của dân, để giữ thế chủ động tiến công của quần chúng, giữ vững vùng căn cứ, bảo vệ cơ sở Đảng và quần chúng, làm cơ sở cho những thắng lợi từng bước của cách mạng, đánh đổ địch từng phần, tiến lên làm thất bại quốc sách “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm.

Hai là, hoạt động vũ trang tuyên truyền phải bí mật, được dân ủng hộ, giúp đỡ, vì dân biết đó là lực lượng vũ trang của Đảng. Mặt khác, cố gắng tranh thủ thế công khai hợp pháp để chủ động tấn công chính trị, tranh thủ làm công tác binh vận, cô lập, trung lập, hạn chế, vô hiệu hóa, làm tan rã chính quyền quân đội địch ở cơ sở xã, ấp tạo thế có lợi cho ta.

Những yếu tố này không chỉ phù hợp với tình hình lúc đó mà sau này phát triển thành phương châm chiến lược chủ động giữ thế công khai hợp pháp đấu tranh chống Mỹ - ngụy với thế hai chân, ba mũi tấn công địch, có lực lượng quân sự, đội quân tóc dài và lực lượng binh vận kết hợp tiêu diệt, làm tan rã địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Khu Trung Nam Bộ.



Đội quân tóc dài ở Bến Tre chống Mỹ - Diệm

Bản đề án vũ trang tuyên truyền quy định tổ chức hoạt động là trung đội, tiểu đội và tổ. Nhưng ở Khu Trung Nam Bộ lúc ấy đã tổ chức tới đại đội, tiểu đoàn nên khu, tỉnh chỉ linh hoạt, phân tán hoạt động cho phù hợp.

Sau Hội nghị Xứ ủy, Liên tỉnh ủy tiến hành phổ biến, học tập Đề cương đường lối cách mạng miền Nam và đưa ra thảo luận triển khai đề án vũ trang tuyên truyền mà Xứ ủy đã thông qua. Liên tỉnh ủy nhấn mạnh với các đồng chí trong Đảng bộ ý của đồng chí Lê Duẩn là Khu Trung Nam Bộ đã có hoạt động vũ trang tuyên truyền từ trước, nay có đề án vũ trang tuyên truyền tức là có đường lối phương châm, phương thức cụ thể để được cấp trên thông qua, lại là cách làm thí điểm để các nơi khác rút kinh nghiệm.

Lúc này, địch đẩy mạnh các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” đánh phá cơ sở rất tàn bạo và dã man. Có nơi chi bộ bị chà xát nhiều lần. Địch tung thám báo, biệt kích, chỉ điểm đi lùng bắt cán bộ khắp các thôn xóm. Trong nội bộ nông dân, công nhân, trí thức, tôn giáo, kể cả công chức, giáo viên, các thành phần xã hội đều có bọn ác ôn kìm kẹp, đánh phá ác liệt.

Vì vậy, các đơn vị vũ trang tuyên truyền được lệnh trừng trị bọn này. Khi những tên này bị trừng trị, địch la lối trên báo, trên đài phát thanh là ta giết hại dân lành và chúng trả thù rất tàn ác. Nhưng thực tế là nơi nào ta trừng trị được bọn thám báo, chỉ điểm, ác ôn thì nơi đó ta giữ được ổn định cơ sở, địch phải co lại hoặc tan rã.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Ba, 2017, 11:03:22 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:29:05 pm »

II - SỰ BÙNG NỔ CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
TRƯỚC QUỐC SÁCH “TỐ CỘNG, DIỆT CỘNG” CỦA MỸ - DIỆM

Trong thời gian Xứ ủy đang họp ở Phnômpênh, tình hình miền Nam diễn ra ngày càng phức tạp. Quốc hội ngụy quyền đã thông qua luật “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành một loạt điều chỉnh địa giới hành chính và nhân sự; tổ chức lại các tỉnh, bố trí lại các tỉnh trưởng, quận trưởng. Ở Khu Trung Nam Bộ nhiều tỉnh mới được thành lập như tỉnh Mộc Hóa thành lập trên cơ sở quận Mộc Hóa của tỉnh Tân An rồi sau đổi thành tỉnh Kiến Tường, nằm trọn trên khu vực trung tâm Đồng Tháp Mười, tỉnh trưởng, quận trưởng đều là sĩ quan. Tỉnh Sa Đéc giải thể, thành lập tỉnh Phong Thạnh rồi đổi thành tỉnh Kiến Phong gồm các quận Cao Lãnh (của tỉnh Sa Đéc cũ), quận Hồng Ngự (của tỉnh Châu Đốc cũ), quận Thanh Bình (vốn là tổng Phong Thanh Thượng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên cũ), quận Mỹ An (gồm một số xã của quận Cao Lãnh và một số xã của quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). Phần còn lại của tỉnh Tân An (sau khi đã tách quận Mộc Hóa ra lập tỉnh Kiến Tường) và tỉnh Chợ Lớn nhập thành tinh Long An. Hai tỉnh Mỹ Tho, Gò Công nhập thành tỉnh Định Tường. Phần còn lại của hai tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc nhập thành tỉnh An Giang. Tỉnh An Giang, tỉnh trưởng cũng là sĩ quan. Tỉnh Bến Tre cộng thêm quận An Hóa và hai xã Phú Đức, Phú Túc của tỉnh Mỹ Tho đổi thành tỉnh Kiến Hòa.

Tỉnh Định Tường được ngụy quyền chọn làm thí điểm cho cuộc triển khai quy mô quốc sách “tố cộng, diệt cộng”. Tên Nguyễn Trân, một tên chống cộng khét tiếng, từ Miền Trung Trung Bộ được đưa vào làm tỉnh trưởng. Tên Nguyễn Trung Long, tay chân tích cực của Diệm, từ Vĩnh Long về làm quận trưởng Châu Thành.

Đáng chú ý là quận Châu Thành có xã Long Hưng là cái nôi của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ và hiện đang là căn cứ của Tỉnh ủy Mỹ Tho. Bước đầu, địch ra thông báo kêu gọi các cán bộ kháng chiến hồi cư ra trình diện. Ngay từ sau cuộc đình chiến, chúng đã nắm được danh sách từng người. Lời lẽ kêu gọi của chúng rất mị dân: “Những người kháng chiến là những người có công với Tổ quốc, là những tài năng hữu ích. Chính phủ mời anh em ra trình diện để cộng tác với chính phủ”. Ở Mỹ Tho đã có hơn 700 cán bộ kháng chiến hồi cư ra trình diện. Chúng liền gom số đồng chí này lại học tập. Đích thân tên Nguyễn Trân đứng lớp, giảng tài liệu về chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cộng sản do hắn soạn thảo. Hắn tuyên bố: “Các anh ở lại miền Nam là đã bỏ cộng sản. Các anh cần phải học để hiểu rõ chủ nghĩa quốc gia khác với chủ nghĩa cộng sản như thế nào để có nhận thức tư tưởng, góp sức vào xây dựng đất nước”. Người học phải ở nội trú. Học xong, chúng phát bản tình nguyện ly khai cộng sản.

Tình hình trở nên rất phức tạp. Một số đảng viên biết mình bị địch lừa gạt đã bỏ trốn. Đảng viên ở các địa phương suy tính không biết có nên ra trình diện hay không? Chúng tiếp tục kêu gọi và nói là học xong thì được tự do làm ăn, không ra sẽ bị bắt. Một số người tự động ra. Nhưng khi chúng bắt tố cộng, ly khai cộng sản thì bỏ trốn. Tỉnh ủy họp và quyết định không để đảng viên ra trình diện. Ai lỡ ra thì trong lúc học phải đấu lý. Ai đã lỡ học rồi thì “điều lắng”. Sở dĩ, có tình trạng này là do một số cán bộ, đảng viên ở Mỹ Tho trong hai năm sống khá yên ổn đã lơ là, mất cảnh giác và có phần mơ hồ đối với địch. Tình hình trên của Đảng bộ Mỹ Tho đã làm sâu sắc thêm nhận thức: “Đối với kẻ thù giai cấp thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào người cách mạng cũng không thể lơi lỏng, mất cảnh giác. Bản chất phản động của chúng là không thay đổi”. Hậu quả là có mấy trăm người phải bỏ cơ sở chạy vào rừng tràm Tân Hòa Đông và phải “điều lắng” đi nơi khác. Một số cam tâm ly khai, hàng tuần đến trình diện để được yên thân. Lại có những tên phản bội như tên Ba Bửu ở Phước Thạnh, Châu Thành; tên Sáu Ý ở Cai Lậy nhập bọn với vợ chồng tên Sở, tên Bê đi tuyên truyền tố cộng, dụ dỗ cán bộ đầu hàng và chỉ điểm cho địch đánh phá cơ sở cách mạng. Bọn này gây ra khá nhiều rắc rối. Tỉnh ủy Mỹ Tho phải vất vả uốn nắn, củng cố, đến đầu năm 1957 mới ổn định dần.

Cơ quan Liên tỉnh ủy đến cuối năm 1957 đã đóng ổn định ở căn cứ Long Thường (gồm các xã Thường Phước, Thường Thới, Thường Lạc), huyện Hồng Ngự, giáp biên giới Campuchia. Như vậy là trong ba năm 1954 - 1956 Liên tỉnh ủy đã mấy lần phải thay đổi nơi đóng cơ quan, từ Đồng Tháp Mười xuống hai huyện Châu Thành, Tân An và Chợ Gạo, Mỹ Tho, rồi trở lên Đồng Tháp Mười rồi lại chở xuống Chợ Gạo và ven thị xã Mỹ Tho. Bị địch phát hiện, phải dời lên ở Long Hưng, căn cứ của Tỉnh ủy Mỹ Tho. Đến đầu năm 1956, cơ quan chuyển trở lại Đồng Tháp Mười và ở kênh ba và dần dần chuyên lên hướng Campuchia về ở căn cứ Tam Thường, Hồng Ngự, Châu Đốc. Đây là căn cứ được xây dựng vững chắc về quân sự và cả về chính trị, có lực lượng vũ trang mạnh để bảo vệ, có thể dựa lưng vào biên giới để phòng ngự, cơ sở nhân dân sâu rộng, phòng chống gián điệp ở các xã chung quanh. Căn cứ này về sau phát triển, có cả cơ quan Bộ tư lệnh quân khu. Tạo được căn cứ tại chỗ ổn định cho cơ quan đầu não là một thắng lợi lớn của phong trào cách mạng Trung Nam Bộ. Căn cứ này đã tồn tại trong suốt 13 năm cho đến năm 1970.

Đầu năm 1957, đồng chí Sáu Đường đi dự Hội nghị Xứ ủy về, Liên tỉnh ủy tổ chức họp Hội nghị mở rộng triển khai học tập Đề cương đường lối cách mạng miền Nam và đề án vũ trang tuyên truyền, sắp xếp lại các tỉnh và chỉ đạo công tác sắp tới.

Trong Hội nghị, đồng chí Ba Chim tự kiểm điểm việc để cho cán bộ, đảng viên Mỹ Tho ra trình diện. Đồng chí rút khỏi Tỉnh ủy Mỹ Tho về Liên Tỉnh ủy. Liên tỉnh ủy được bổ sung thêm hai đồng chí: Hai Phối, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc; Bảy Ruộng, Bí thư Tỉnh ủy Châu Đốc đồng chí Bảy Ruộng vẫn kiêm nhiệm Bí thư.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:29:36 pm »

Các tỉnh được tổ chức lại như sau: tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công nhập thành tỉnh Mỹ Tho. Bí thư Tỉnh ủy là đồng chí Tư Việt Thắng (Lê Văn Nhung), Phó bí thư là đồng chí Chín Đẳng, Ủy viên Thường vụ là đồng chí Chín Công (Đoàn Văn Dư).

Tỉnh Kiến Tường được thành lập theo ranh giới tỉnh Kiến Tường của ngụy quyền, do đồng chí Thái Bình làm Bí thư, đồng chí Tư Quốc làm Phó bí thư. Tỉnh Kiến Tường không chia huyện mà chia thành bốn vùng: 2, 4, 6, 8.

Tỉnh Kiến Phong được thành lập theo ranh giới tỉnh Kiến Phong của ngụy quyền, do đồng chí Hai Nha (Nguyễn Kim Nha) làm Bí thư, đồng chí Tám Thử (Lê Văn Thử) làm Phó bí thư, đồng chí Hai Minh, Ủy viên Thường vụ.

Tỉnh An Giang được thành lập theo ranh giới tỉnh An Giang của ngụy quyền, do đồng chí Bảy Ruộng làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Chuẩn, làm Phó bí thư, đồng chí Tư An (Nguyễn Văn Náo), Ủy viên Thường vụ.

Hai tỉnh Bến Tre (Liên tỉnh ủy miền Tây) và Chợ Lớn (Liên tỉnh ủy miền Đông) được giao về cho Liên tỉnh Khu Trung Nam Bộ. Tỉnh Bến Tre theo ranh giới tỉnh Kiến Hòa của ngụy quyền, do đồng chí Năm Chung (Nguyễn Văn Khước) làm Bí thư. Tỉnh Chợ Lớn và phần còn lại của tỉnh Tân An lập thành tỉnh Long An theo ranh giới tỉnh Long An của ngụy quyền, do đồng chí Năm Bê làm Bí thư, đồng chí Chín Cần (Nguyễn Văn Chín) làm Phó bí thư.

Đồng chí Sáu Đường - Bí thư Liên tỉnh ủy phổ biến dự thảo Đề cương đường lối cách mạng miền Nam và đề án vũ trang tuyên truyền được Hội nghị Xứ ủy thông qua cho hội nghị. Đề cương đường lối cách mạng miền Nam được tiếp thu thuận lợi vì nó đáp ứng đúng suy nghĩ và nguyện vọng của cán bộ, đảng viên trong tình hình thực tế ở Khu. Về đề án vũ trang tuyên truyền, đồng chí Sáu Đường nêu cụ thể: bỏ tên gọi giáo phái mà gọi là lực lượng vũ trang tuyên truyền, vẫn tạm dùng cờ đỏ ngôi sao xanh làm hiệu kỳ. Nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền thực chất là đảng viên cầm súng đi phát động quần chúng làm cách mạng, hỗ trợ cho cơ sở phá kìm kẹp, làm chủ xã, ấp. Kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng, tác chiến khi phải tự vệ, hoạt động sâu vào vùng đông dân. Không đề cập đến trong đề án chỉ cho các đơn vị vũ trang tồn tại đến mức trung đội. Vì thực tế, ở các tỉnh trong Khu đã có các tiểu đoàn, đại đội có Ban chỉ huy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ cấp ủy. Để tạo uy thế cho lực lượng vũ trang tuyên truyền, đồng chí Bí thư quyết định cho lấy danh nghĩa mỗi tỉnh có từ một đến hai tiểu đoàn: Kiến Phong có Tiểu đoàn 504; Long An có 2 Tiểu đoàn 506 và 508; An Giang có 2 Tiểu đoàn 510, 512; Mỹ Tho có Tiểu đoàn 514; Bến Tre có Tiểu đoàn 516. Kiến Phong giao cho Mỹ Tho một trung đội, Kiến Tường đưa lên Xứ ủy hai trung đội.

Hội nghị thao luận quán triệt Đề cương đường lối cách mạng miền Nam, về phần đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm bằng bạo lực, đại biểu ai cũng nhất trí. Nhưng khi bàn tới phương pháp cách mạng nêu ra vẫn là bạo lực chính trị thì nhiều đồng chí chưa thông. Đồng chí Sáu Đường phải giải thích, đây là phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn ở lại miền Nam tổng kết từ thực tiễn mà đề ra để giải đáp cho tư tưởng Đảng bộ miền Nam đang bế tắc trước việc Mỹ - Diệm gây ra chiến tranh, không chịu hiệp thương tổng tuyển cử. Trung ương chưa chuyển hướng chỉ đạo mới, đường lối chung cả nước Việt Nam vẫn là đấu tranh chính trị, thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc đang cần có thời gian hòa bình để củng cố, xây dựng vững mạnh. Đồng chí Lê Duẩn đề ra như thế là rất táo bạo nhưng cũng rất thận trọng vì phải có sự nhất trí chung của toàn Đảng, không thể đơn giản địa phương tự đề xuất rồi tự làm. Kết luận chung về phương hướng của cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn đề ra được toàn thể nhất trí. Nhưng khi triển khai đề án hoạt động vũ trang tuyên truyền, còn có một số ít đại biểu chưa hẳn đã hoàn toàn chấp nhận. Hội nghị hình thành hai luồng tư tưởng ở những tỉnh có liên quan đến Đồng Tháp Mười đã thấy tác dụng của lực lượng vũ trang tạo điều kiện cho cơ sở Đảng được tồn tại, củng cố vững mạnh, quần chúng có thế và giữ được chủ quyền ruộng đất thì có xu hướng muốn làm mạnh hơn. Ngược lại, ở những tỉnh ta vẫn còn giữ được thế đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình, tổ chức nắm được tề hai mặt ở xã, ấp thì lo nếu đấu tranh vũ trang địch sẽ có cớ khủng bố phong trào.

Nhưng ngay sau đó, thực tế đã trả lời ảo tưởng hòa bình, mất cảnh giác với kẻ địch là không đúng. Vì trong những tỉnh chưa có hoạt động vũ trang, địch đã đẩy mạnh thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, dùng khủng bố, đàn áp dìm phong trào cách mạng trong biển máu. Ở những xã, ấp vùng yếu, địch kìm kẹp chặt quần chúng bằng hình thức “đoàn ngũ hóa”, dồn quần chúng vào các tổ chức thanh niên, phụ nữ cộng hòa, phong trào cách mạng quốc gia, ép phải trang bị dây, roi, rượt bắt nếu “Việt cộng” vào ấp mình… Ai không thi hành thì bị đánh đập, tù đày. Hành động của Mỹ - Diệm đã làm tan rã gần như hầu hết tổ chức Đảng vào cơ sở quần chúng cách mạng ở những vùng đông dân nông thôn ngoài Đồng Tháp Mười. Quần chúng bị áp bức, đau khổ không sao kể xiết, nhưng tình hình đó cũng đẩy họ tới mức tận cùng của sự sống còn, trở thành ngòi nổ của một sự bùng nổ mãnh liệt, khi có lực lượng vũ trang của Đảng phát động. Tình hình diễn ra ở Mỹ Tho, Bến Tre và An Giang là những điển hình.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:29:58 pm »

Mỹ Tho tổ chức xong tỉnh mới, gồm cả huyện Gò Công và Hòa Đồng thuộc tỉnh Gò Công cũ, vào tháng 1 năm 1957. Sau khi đã giải quyết hậu quả việc địch dụ dỗ cán bộ kháng chiến ra trình diện, Tỉnh ủy vẫn ở trong dân tại xã Long Hưng, tổ chức học tập Đề cương đường lối cách mạng miền Nam. Tỉnh ủy học xong thì tổ chức cho các Huyện ủy học, rồi đến xã, chi bộ, chuỗi rễ học. Ở cấp xã vừa học vừa củng cố tổ chức, sắp xếp lại cấp ủy, tổ Đảng. Những người đi “điều lắng” thì học đơn tuyến hoặc học ở rừng tràm Tân Hòa Đông. Học tập xong, Tỉnh ủy nghiên cứu lại việc tổ chức. Tỉnh ủy đóng cơ quan tại Long Hưng đã hai năm, một số cán bộ căn cứ, giao liên bị bắt, nên cần phải cảnh giác. Vì thế các đồng chí quyết định dời trụ sở lên Hội Cư, Cái Bè để phân tán trong dân.

Tháng 4 năm 1957, địch chuyển sang tố cộng bước hai. Mục tiêu đầu tiên của chúng là huyện Châu Thành. Địch đánh vào cơ quan Thường vụ Huyện ủy, đóng tại nhà má Hai ở ấp Phú Thuận, xã Phú Phong.

Trong hai tháng, Huyện ủy Châu Thành bị bắt bốn huyện ủy viên, một số cán bộ huyện ủy và bí thư xã. Chúng tập trung đánh vào cơ sở Đảng và quần chúng nòng cốt. đến tháng 1 nam 1958, chúng đánh tan rã hầu hết các chi bộ Đảng, bắt hơn 1.000 cán bộ, đảng viên, quần chúng; đánh tan vỡ huyện ủy, bắt 9 huyện ủy viên và cán bộ huyện ủy, trong đó có cả Bí thư, bắt cả Tỉnh ủy viên phụ trách huyện. Huyện ủy Châu Thành phải tạm phân tán.

Song song với đánh Châu Thành, địch đánh vào Chợ Gạo và thị xã Mỹ Tho. Chúng bắt được Tỉnh ủy viên phụ trách huyện. Hầu hết cán bộ huyện ủy và ngót một ngàn cán bộ, đảng viên nòng cốt, quần chúng tích cực bị bắt. Cơ sở Đảng ở Chợ Gạo bị đánh tan rã. Ở thị xã Mỹ Tho, thị ủy chỉ còn hai đồng chí. Thị xã bị đánh mạnh nhưng chưa tan rã, còn cố móc nối sinh hoạt được.

Trong Hội nghị Liên tỉnh ủy triển khai đề án vũ trang tuyên truyền của Xứ ủy đã thông qua, Mỹ Tho là tỉnh không mặn mà với vũ trang. Sau Hội nghị, Kiến Phong nhận lệnh của Liên tỉnh ủy, giao về cho Mỹ Tho một trung đội. Tỉnh ủy không quan tâm, đã để trung đội này ở lại đất Kiến Phong, sau đó trung đội tan rã, chỉ còn một tiểu đội.

Sau Châu Thành, thị xã Mỹ Tho và Chợ Gạo, địch chuyển sang đánh Cai Lậy. Chúng bắt được 6 huyện ủy viên và 300 cán bộ, đảng viên cơ sở. Sau Cai Lậy, địch đánh Cái Bè. Cái Bè có thời gian chuẩn bị đối phó nên đã sắp xếp cho cán bộ, đảng viên rút vào Đồng Tháp Mười. Nhưng địch cũng bắt được hai huyện ủy viên, Tỉnh ủy viên phụ trách huyện và một số đảng viên, cán bộ cơ sở.

Tháng 7 năm 1957, Tỉnh ủy Mỹ Tho đang ở Hội Cư, ấp Chợ Mới, cách Cái Nứa một kilômét, cách lộ 4 ba kilômét. Ở Hội Cư không được bao lâu thì bị lộ, do cán bộ căn cứ bị bắt, khai báo. Địch đánh, mỗi người phải chạy tản một nơi. Đồng chí Việt Thắng cho dời cơ quan vào phía bắc lộ 4 ở Mỹ Lợi, ven Đồng Tháp Mười. Ở Mỹ Lợi được hơn một tháng, Tỉnh ủy mới liên lạc được với Liên tỉnh ủy và các huyện. Công việc lúc này chỉ xoay quanh việc móc nối liên lạc củng cố tổ chức. Cán bộ bị bắt thì điều cán bộ khác tới thay, cán bộ bị lộ thì điều đi nơi khác.

Tháng 5 năm 1958, Tỉnh ủy họp tại xã Thạnh Mỹ, trong một cái chòi trâu ở giữa đồng, để xem xét, đánh giá tình hình, bàn cách đối phó với cuốc sách “tố cộng, diệt cộng” của địch. Lúc này ở huyện Châu Thành xuất hiện mô hình của đồng chí Tý, đảng viên chi bộ xã Long An sử dụng vũ trang phát động quần chúng đứng dậy đánh địch. Đồng chí Tý mượn súng của lực lượng vũ trang Kiến Tường về xã cùng quần chúng cảnh cáo, giáo dục chủ ấp, liên gia. Quần chúng tin tưởng, đóng góp tiền bạc cho cách mạng, bảo vệ đồng chí ở lại hoạt động. Chủ ấp, liên gia bị khống chế. Khi diệt được tên ác ôn Của, có cả chủ ấp, liên gia đều đồng tình nên hạn chế được sự khủng bố của địch. Phong trào được duy trì, cơ sở được giữ vững và phát triển. Liên tỉnh ủy tống kết hoạt động của đồng chí Tý, gợi ý cho tỉnh lối ra trong tình hình đang khó khăn, ác liệt. Việc sử dụng vũ trang cần phải có tổ chức chu đáo và phải liên kết chặt chẽ với việc xây dựng thế chính trị của quần chúng. Kinh nghiệm cho thấy mỗi xã cần có cán bộ chí cốt bám trụ trong dân, có vũ khí làm công tác vũ trang tuyên truyền, thì quần chúng mới tin tưởng và dám đứng dậy chống địch. Đây là vấn đề mới. Sau cuộc họp, Tỉnh ủy đã có chuyển biến, tuy vẫn chủ trương các cơ quan lãnh đạo Đảng phải bí mật bám trong dân, nhưng chuẩn bị sẵn sàng căn cứ có vũ trang bảo vệ như ở các tỉnh, huyện, xã Đồng Tháp Mười đã làm.

Sau khi họp, đang triển khai thì hai Tỉnh ủy viên trên đường về bị địch bắt và có tin báo Huyện ủy Hòa Đồng, Gò Công bị đánh nặng. Tỉnh ủy cấp tốc dời về Bằng Lăng, thuộc vùng hậu kênh Nguyễn Văn Tiếp. Chuyển về Bằng Lăng còn chưa ổn định thì cán bộ căn cứ bị bắt, phải chuyển sang kênh Nguyễn Văn Tiếp B, thuộc đất Kiến Tường, để dựa vào thế vũ trang của Đồng Tháp Mười. Ở kênh Bùi chưa được bao lâu thì cán bộ giao liên bị bắt, Tỉnh ủy lại phải di chuyển. Lần này, cơ quan phải ở giữa đồng nước. Tình hình các huyện vẫn rất khó khăn. Chợ Gạo lại bị đánh. Cai Lậy bị đánh. Tỉnh ủy viên kiêm Bí thư bị bắn chết, hai huyện ủy viên bị bắt. Ở Châu Thành, một huyện ủy viên bị bắt, một số cơ sở bị phá.

Đến đầu năm 1959, trước sự lùng sục ráo riết của địch, cơ quan Tỉnh ủy không ở trong dân được nữa phải lùi vào ở trong đám chàng cuối kênh Ba, thuộc đất Kiến Phong.

Như vậy là từ đầu năm 1957 cho đến đầu năm 1959, địch triển khai quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, Tỉnh ủy Mỹ Tho bị bắt, bị giết 5 tỉnh ủy viên. Trong 6 huyện của tỉnh thì 3 huyện ủy bị đánh tan rã, phải thay huyện ủy viên nhiều lần; 3 huyện ủy viên bị tiêu hao nặng, tất cả bí thư 6 huyện đều bị bắt hoặc bị giết. Sau năm 1954, Mỹ Tho - Gò Công có hơn 5.000 cán bộ, đảng viên ở lại thì hầu hết đã bị bắt, bị giết, tù đày. Chỉ riêng năm 1958, con số thiệt hại đã lên đến 3.000 người. Đảng viên ở cơ sở chỉ còn 92 đồng chí, phần lớn mới phát triển, cán bộ còn được hơn 100 người, đang phải tạm lánh trong Đồng Tháp Mười.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:30:19 pm »

Tại Bến Tre, trong khi đang tiến hành thí điểm quốc sách “tố cộng, diệt cộng” ở Mỹ Tho thì ở đây địch rà nắm danh sách cán bộ, đảng viên, bố trí lại cảnh sát xã, chủ ấp, liên gia, tiến hành do thám.

Khởi đầu, chúng dụ dỗ cán bộ kháng chiến hồi cư ra trình diện, nhưng được sự chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy nên không ai ra. Tháng 4 năm 1958, một tiểu đoàn công an Ngô Quyền của địch từ Sài Gòn đến Bến Tre. Chúng đóng tại thị xã một đại đội, tại Giồng Trôm một đại đội, tại Mỏ Cày một đại đội. Bọn này hầu hết là dân công giáo di cư và người Nùng. Chúng phối hợp với công an tỉnh bắt cán bộ, đảng viên theo danh sách đã nắm, bắt thân nhân cán bộ đi tập kết và đang hoạt động bí mật đem về đình Hội Yên (Mỏ Cày), đình Bình Hòa (Giồng Trôm), đình Phước Tuy (Ba Tri), đình Thới Lai (Bình Đại), mỗi nơi 200 người rồi tiến hành tra tấn, đánh đập tàn nhẫn, bắt tố cộng, ly khai Đảng. Đây là chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” rất man rợ. Nhiều cán bộ lãnh đạo bị giết, hàng trăm đảng viên, đoàn viên nòng cốt bị tù, bị tra tấn dã man. Nhiều người giữ vững khí tiết bị tra tấn đến chết như các đồng chí Bùi Ngọc Nghị - Tỉnh ủy viên, đồng chí Võ Tấn Nhứt, đồng chí Lộ ở Giồng Trôm, đồng chí Trần Hoàng Võ ở Bình Đại. Nhiều cuộc đấu tranh giành giật, bảo vệ cán bộ đã diễn ra quyết liệt, nhiều người dân chịu chết để bảo vệ cán bộ của Đảng.

Huyện ủy Bình Đại, Châu Thành ba lần bị bắt gần hết. Huyện ủy Sóc Sải bị bắt hết, kể cả Tỉnh ủy viên phụ trách. Hầu hết, các chi bộ trong tỉnh tan rã. Ngành binh vận tỉnh vốn rất mạnh, từ 50 cán bộ chỉ còn lại 3 người. Ban Chấp hành Tỉnh ủy bị bắt 2 người, có một Ủy viên Thường vụ khai báo nên hầm súng chôn giấu lại sau tập kết bị địch phát hiện, khui lấy hết.

Cơ quan Tỉnh ủy bị đánh hụt nhiều lần, phải di chuyển luôn. Từ Thạnh Phú Đông, Giồng Trôm, Tỉnh ủy phải chuyên lên Châu Thành, rồi xuống Tân Xuân, Ba Tri qua Bình Đại, đến Mỏ Cày, xuống Minh Đức, qua Hương Mỹ rồi trở lại Bình Khánh, lên Tân Thành Bình, rồi đi Hòa Lộc.

Ở một số nơi do căm thù những hành động khủng bố dã man của địch nên đảng viên, quần chúng lén diệt bọn ác ôn, do thám, chỉ điểm. Địch đối phó lại bằng khủng bố tàn bạo. Năm 1957, khi được giao về Liên tỉnh Khu Trung Nam Bộ, Bến Tre có tiếp nhận chủ trương thành lập lực lượng vũ trang tuyên truyền của Liên tỉnh ủy nhưng vì số súng chôn giấu bị địch lấy mất nên không thực hiện được. Phong trào sa sút, tổ chức Đảng bị thiệt hại nặng nề, một số cán bộ, đảng viên chao đảo chịu học tập tố cộng, ly khai. Số các đồng chí cốt cán còn lại tuy ít nhưng quyết bám dân, lãnh đạo dân, củng cố tinh thần quần chúng. Có người làm chỗ ở trên ngọn dừa để hoạt động. Phần lớn những đồng chí bị bắt, bị tù đày đều giữ được khí tiết.

Liên tỉnh ủy chỉ đạo củng cố. Đồng chí Năm Chung chuyển về Liên tỉnh ủy. Đồng chí Võ Văn Phẩm (Tám Chừ) làm Bí thư, nữ đồng chí Nguyễn Thị Định (Ba Định) - Phó bí thư, đồng chí Hai Thủy - Ủy viên Thường vụ. Tỉnh ủy tổ chức cho Đảng bộ học tập củng cố lập trường, khí tiết, nhân sinh quan cách mạng và triển khai tinh thần chỉ đạo của Xứ ủy và Liên tỉnh ủy về quan điểm cách mạng miền Nam, đồng thời đưa bớt cán bộ đi “điều lắng”.

Đến năm 1959, Đảng bộ Bến Tre chỉ còn 16 chi bộ ở trên 100 xã của toàn tỉnh; mỗi chi bộ còn từ 3 đến 5 đảng viên.



Bọn địch đàn áp, cướp bóc đã bị sức chống trả quyết liệt của nhân dân (Bến Tre - 1959)
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Ba, 2017, 11:04:25 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:30:42 pm »

An Giang, đầu năm 1957, địch triển khai quốc sách “tố cộng, diệt cộng” song song với chiêu hồi đám giáo phái ly khai còn lại. Các chi bộ Đảng ở thị xã Long Xuyên, Chợ Mới, Châu Phú bị đánh vỡ. Tỉnh ủy Long Xuyên phải dời căn cứ từ Bình Thủy, Châu Thành về Tân Thạnh Trung, Bình Thạnh Đông, Lấp Vò. Tỉnh ủy Châu Đốc ở Long Sơn, Tân Châu phải chuyển sang Mỹ Đức, Khánh Hòa. Nhiều cán bộ hồi cư lâu này sống hợp pháp phải tạm lánh.

Ngày 10 tháng 2 năm 1957, đồng chí Lê Văn Khoái, Huyện ủy viên Tân Châu và đồng chí Ba Khành, Bí thư Vĩnh Hòa bị lực lượng Ba Cụt giết hại tại Vĩnh Xương. Tiếp đến đồng chí Út Cốc, Bí thư Núi Sập bỏ việc. Địch xiết chặt kìm kẹp, người dám nuôi giấu cán bộ giảm dần.

Tháng 3 năm 1957, hai Tỉnh ủy Long Xuyên và Châu Đốc họp tại Gò Tre, xã Thường Thới, huyện Hồng Ngự thành lập Tỉnh ủy An Giang, đặt căn cứ ở các xã Hội An, Bình Phước Xuân, Tân Mỹ thuộc cù lao Giêng, Chợ Mới.

Tỉnh ủy An Giang tổ chức học Đề cương đường lối cách mạng miền Nam trong toàn Đảng bộ và tuyên truyền ra nhân dân. Sau khi học, xác định nhiệm vụ công tác: đẩy mạnh công tác vận động cách mạng trong tín đồ tôn giáo Hòa Hảo, tổ chức đi sâu vào tín đồ, hướng dẫn đấu tranh giữ ruộng đất, đòi tự do tín ngưỡng, chống càn quét, chống quân địch, duy trì lực lượng Hòa Hảo ly khai chống Diệm, xây dựng căn cứ dự bị ở Mỹ Đức, Khánh Hòa, Vĩnh Thạnh Trung (Châu Phú), Phú Hữu, Vĩnh Hậu, Châu Phong, An Phú, Long Sơn (Tân Châu).

Tổ chức Đảng ở cơ sở từng bước được củng cố. Châu Phú lập được một số chi bộ bí mật. Tỉnh ủy điều động đồng chí Tư Bình đang ở trong lực lượng Hòa Hảo ly khai của Bảy Ớt về làm Trưởng ban Cán sự Chợ Mới. Lập lại Ban Cán sự Núi Sập, chỉ định đồng chí Hồ Chí Sơn làm Trưởng ban. Lập Ban Cán sự An Phú, đồng chí Lê Chánh làm Trưởng ban. Tuy cũng còn hạn chế nhưng các phong trào đấu tranh của quần chúng liên tiếp diễn ra.

Ở địa bàn An Giang, việc duy trì phong trào không đơn giản. Đây là vùng tạm chiếm từ lâu, bị ngụy quyền và quân đội giáo phái Hòa Hảo kìm kẹp nặng nề. Quần chúng căm thù Mỹ - Diệm, nhưng lo sợ. Chính sách Hòa Hỏa vận của Đảng bộ thực hiện trong mấy năm qua có đem lại một số kết quả nhưng chưa đủ sức phá thế kìm kẹp của các chức sắc đối với tín đồ.

Tháng 7 năm 1958, lực lượng Hòa Hảo ly khai của Lê Hồng Tươi ra hàng Diệm. Số cán bộ, đảng viên đưa vào đơn vị Tươi trở về, lên ở với các cán bộ ở Pẹt Chạy. Sau khi Lê Hồng Tươi ra hàng Diệm, ở An Giang vẫn còn các đơn vị Hòa Hỏa ly khai của Bảy Ớt, Bảy Đởm, Huỳnh Trung Hiếu, Huỳnh Công Cứng. Bọn này phá cách mạng không ít cho đến mãi sau năm 1964, nhiều đảng viên chi bộ Vĩnh Hòa bị chúng giết. Huyện ủy Tân Châu, Phú Châu bị thiệt hại, một số cán bộ bị tróc địa bàn

Tháng 9 năm 1958, đồng chí Lê Tín Đôn, Tỉnh ủy viên phụ trách binh vận trên đường đi vào thị xã Long Xuyên bị bắt. Đây là một tổn thất đáng kể.

Tháng 11 năm 1958, một đại đội bảo an, biệt kích, đánh vào căn cứ Tỉnh ủy ở ấp Bình Tân, xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới. Các đồng chí trong Ban Thường vụ thoát được về Long Sơn, Tân Châu, ba đồng chí giao liên bị bắt. Một số tài liệu bị mất. Cuộc vây ráp kéo dài năm ngày. Chúng dồn dân từng khu nhà lại để nhìn mặt. Chi bộ Bình Phước Xuân bị bắt gần hết. Cán bộ Chợ Mới được lệnh “điều lắng”.

Tỉnh ủy ở Long Sơn một thời gian ngắn rồi chuyển về Khánh Hòa, Mỹ Đức, Châu Phú ở trong đồng bào Hòa Hảo.

Đồng chí Phạm Ngọc Bính, Bí thư Tỉnh ủy chuyển về Liên tỉnh ủy, đồng chí Chuẩn, Quyền Bí thư. Tình hình hết sức căng thẳng. Các huyện ủy ở phân tán trong dân, nằm hầm bí mật. Ở vùng Bảy Núi, đồng chí Nguyễn Văn Náo (Tư An) - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy và đồng chí Mười Đức - Tỉnh ủy viên, thực hiện chủ trương của hội nghị binh chánh vận liên tỉnh, cho tổ chức lực lượng vũ trang liên huyện Tri Tôn - Tịnh Biên hoạt động, hạn chế được địch lùng sục. Nhưng đơn vị này chỉ tồn tại được vài tháng thì bị giải tán. Nội bộ Tỉnh ủy hình thành hai quan điểm: một là, muốn tổ chức vũ trang; còn quan điểm khác là không tán thành. Tỉnh ủy không có biện pháp hữu hiệu đối phó với tình hình, tư tưởng sợ khó khăn nảy sinh…

Liên tỉnh ủy phải chỉ đạo củng cố lại: đồng chí Tư An - Bí thư, đồng chí Tám Sử - Phó bí thư. Các đồng chí Ba Lũy, Mười Đức - Ủy viên Thường vụ. Đội vũ trang tuyên truyền Bảy Núi được lập lại, Bảy Núi được xây dựng thành căn cứ dự bị của tỉnh.

Tỉnh ủy vẫn bám dân. Nhưng căn cứ ở Khánh Hòa, Mỹ Đức không ổn. Tỉnh ủy dời về Vĩnh Thạnh Trung, Châu Phú. Lúc này, địch xiết chặt bộ máy kìm kẹp ở cơ sở, tai mắt, do thám của chúng dày đặc. Tỉnh ủy về đây ít hôm thì bị lộ, phải dời về Long Sơn, Tân Châu, nơi ở của Huyện ủy Tân Châu trước đây, đào hầm bí mật ở trong nhà dân. Nhưng Tỉnh ủy cũng không ở đây được bao lâu. Đến tháng 9 năm 1959, cơ quan Tỉnh ủy chuyển sang Thường Thới, Hồng Ngự thuộc đất Kiến Phong, dựa vào thế vũ trang của Kiến Phong.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:31:03 pm »

Trong khi ở Mỹ Tho, Bến Tre, An Giang địch dồn sức đánh phá ác liệt gây cho tỉnh những thiệt hại nghiêm trọng thì ở các tỉnh còn lại thuộc Đồng Tháp Mười, phong trào do có lực lượng vũ trang nên có phần thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cũng không phải không có khó khăn, phức tạp. Thí dụ như ở Kiến Phong.

Ở Kiến Phong, đến đầu năm 1957, sau khi địch tổ chức lại địa giới hành chính, thành lập hai tỉnh Kiến Phong và Kiến Tường thì phân khu Đồng Tháp Mười được hình thành. Phân khu này do Ngô Đình Diệm phê chuẩn dự án từ năm 1955, với ý đồ là tiến hành bình định Đồng Tháp Mười bằng quân sự. Vì Đồng Tháp Mười ngay từ năm 1955 đã có lực lượng cách mạng hoạt động. Địch muốn tiêu diệt lực lượng cách mạng, kìm kẹp dân, nhưng chúng không thể làm được dễ dàng như ở Mỹ Tho, Bến Tre, An Giang. Chúng bố trí ở đây 2 trung đoàn chính quy của Sư đoàn 23. Ngoài ra, còn nhiều tiểu đoàn bảo an, tổng quân số lên tới 5.000, đóng 38 đồn trong căn cứ. Tại Bắc Dụng, xã Bình Thạnh, huyện Hồng Ngự chúng thành lập nông trường Bảo An trên một diện tích có chiều dài là 15 kilômét, chiều rộng là 4 kilômét, ở sát biên giới, quy tập các gia đình binh sĩ bảo an và trang bị vũ khí. Thực chất đây là căn cứ quân sự, khống chế biên giới thuộc chi khu Hồng Ngự.

Tháng 6 năm 1957, chúng xây tháp mười tầng, cao 36 mét ở đầu kênh Ba Tháp, Mỹ An, bố trí một trung đội bảo an đóng giữ, lợi dụng điểm cao để quan sát, khống chế một vùng rộng lớn giữa trung tâm Đồng Tháp Mười.

Từ năm 1957, chúng triển khai chương trình “dinh điền”, đưa dân vào sửa chữa lộ 30, thông suốt từ Hồng Ngự đến Cao Lãnh tới quốc lộ 4 ở An Thái Chung, Cái Bè, Mỹ Tho và đào các con kênh mới như kênh Phước Xuyên, kênh An Long để khống chế và chia cắt Đồng Tháp Mười.

Kiến Phong là tỉnh mà ngay từ đầu, hầu hết Đảng bộ và cấp ủy đã nhiệt liệt hưởng ứng tổ chức vũ trang. Nhờ có lực lượng vũ trang hỗ trợ nên các phong trào quần chúng nổi dậy chống các quốc sách phản động của địch diễn ra liên tục và quyết liệt. Thí dụ như chống các chỉ dụ số 2, số 7 và 57 về ruộng đất, uy hiếp bọn tề điệp, đi đôi với cảnh cáo, giáo dục bọn địa chủ. Cho đến năm 1958, ở vùng căn cứ du kích cũ của tỉnh, nằm ở khu vực bờ bắc sông Tiền, hầu hết ruộng đất mà chính quyền cách mạng tạm cấp cho nông dân vẫn giữ được nguyên canh và quyền làm chủ, không phải nộp tô. Ở vùng tôn giáo, tá điền cũng chỉ nộp từ 10 đến 15 giạ một mẫu, bằng một phần sáu mức tô trước kia. Phong trào chống bắt lính trong các vùng địch tạm chiếm phát triển mạnh, như ở thị xã Cao Lãnh và quận Thanh Bình, khi địch bắt 200 thanh niên đi lính, hàng trăm đồng bào đã kéo đến dinh tỉnh trưởng đòi trả chồng, con em; học sinh Cao Lãnh rải truyền đơn, nêu khẩu hiệu phản đối quân địch. Cuộc đấu tranh kéo dài hai ngày, tỉnh trưởng phải thả hết số thanh niên bị bắt.

Ở Mỹ An, chúng bắt 100 thanh niên đưa xuống tàu định chở đi, đồng bào tràn xuống giành giật. Tàu chìm, số thanh niên trốn thoát. Ở Hồng Ngự dũng diễn ra những sự kiện tương tự. Phong trào chống khủng bố, chống tố cộng khá rộng. Các đội tự vệ được tổ chức ở nhiều nơi, đánh đuổi bọn đi bắt cóc cán bộ ban đêm. Ở những vùng có lực lượng vũ trang hoạt động, các chi bộ và cơ sở nòng cốt khống chế diệt ác ôn, tề xã, ấp, liên gia, hạ uy thế địch. Quần chúng tẩy chay không học tập, không treo băng tố cộng, không treo hình Diệm, chống khủng bố, chống cô lập các gia đình cách mạng. Ở Mỹ An, tên quận trưởng Hồ Châu và tay chân uy hiếp các gia đình cách mạng đã nhận được thư cảnh cáo. Ở các huyện khác cũng vậy, địch phải lùi bước. Ở Kiến Phong, chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” của địch rất hạn chế. Nói chung, các phong trào đã hình thành ba lực lượng chính trị, binh vận, vũ trang cùng kết hợp, phối hợp khá tốt, không chỉ bảo tồn mà còn phát triển lực lượng cách mạng. Ngay trong việc chống phá các trò hề bầu cử quốc hội và trưng cầu dân ý của địch, lực lượng vũ trang cũng được sử dụng đánh địch và phá thùng phiếu.

Trong năm 1957, tỉnh đã có những hoạt động vũ trang như đặt mìn, diệt trung đội bảo an ở Giồng Sa Rài, đánh một đại đội bảo an hành quân vào xã Thiện Mỹ, đánh chìm chiếc tàu đang nạo vét kênh Nguyễn Văn Tiếp và đánh phá nông trường Bắc Dung.

Tháng 9 năm 1957, đồng chí Hai Phối đã về Liên tỉnh ủy, đồng chí Hai Nha, Bí thư tỉnh ủy, dựa vào uốn nắn của Xứ ủy sau vụ Mỹ Tho giết Quận Long, đã chỉ đạo giảm bớt lực lượng vũ trang, không được chủ động nổ súng. Bộ đội Kiến Phong phải tự động xây dựng các địa bàn phòng ngự, làm hầm chông, gài lựu đạn, treo, dán khẩu hiệu binh vận để giữ gìn lực lượng. Một số khác phải phân tán thành những đơn vị nhỏ, bám trong dân ở vùng ven. Về sau, do tình hình thực tế hoạt động của địch, đồng chí Hai Nha cho phép được nổ súng để tự vệ trong trường hợp bất đắc dĩ. Trong mùa nước năm 1957, ở Đồng Tháp Mười, phần lớn cán bộ Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 2 của Kiến Phong, có cả đồng chí Hoàng Thái Ân, Tiểu đoàn trưởng và đồng chí Đặng Tám Quảng, Chính trị viên và gần chục đồng chí khác đã bị địch đánh úp và bị bắt, bị tù đày chục năm liền ở Phú Quốc và Côn Đảo.

Tháng 10 năm 1958, Liên tỉnh ủy chuyển chỉ thị của Xứ ủy xuống các tỉnh giảm bớt lực lượng vũ trang và tổ chức chi bộ bí mật để bảo đảm gọn nhẹ, bí mật. Tổng số đảng viên của Kiến Phong đến lúc này là 933, sau khi sắp xếp lại là 358, tập hợp vào 14 chi bộ. Sau sắp xếp, tổ chức Đảng có gọn hơn nhưng hoạt động hạn chế.

Từ năm 1958, địch sử dụng Sư đoàn 21 chủ lực ngụy làm nòng cốt cho các lực lượng bảo an, dân vệ có máy bay yểm trợ càn quét liên miên, đánh sâu vào Đồng Tháp Mười, ném bom kênh Kỳ Sơn… nhằm truy diệt lực lượng vũ trang cách mạng. Chúng ra sức bắt lính, đôn quân với quy mô chưa từng có, gom dân vào khu trù mật ở mương Cây Sung, An Bình, Hồng Ngự, sân bay kênh An Long, ngã ba Phú Thành, Thanh Bình, ngã tư Phong Mỹ, ngã tư Kênh Số Một, Mỹ Hội, ngã tư chùa Long Hiệp, Cao Lãnh, Đốc Binh Kiều, Mỹ An. Khoảng giữa tháng 10 năm 1959, sau khi đào xong con kênh An Long, địch đưa dân Hòa Hảo miền Tây và dân miền Trung đến lập các khu dinh điền dọc theo bờ nam kênh, gồm các Khu II An Long, Khu III Phú Thành, Khu IV Tràm Chim, Khu V Bình Thành, Thanh Bình, Khu VI Phong Mỹ, Cao Lãnh, Khu VII Gãy Cờ Đen, Thạnh Lợi, Mỹ An; tạo thành hệ thống dinh điền, kể cả khu dinh điền Sa Rài, triển khai mạnh chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” thi hành luật 10/59 đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật. Tình hình trở nên gay go, quyết liệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:31:25 pm »

Kiến Tường, ngay từ ngày địch tiếp quản (năm 1954) chúng đã đánh ác liệt. Kiến Tường thưa dân, chỉ có khoảng 50 ngàn người. Địch đưa đồng bào miền Bắc di cư và đồng bào từ miền Trung đến thành lập 17 dinh điền và khu trù mật, tất cả có đến 20.000 người ở Thạnh Trị, Long Khốt, Gò Cát, Chắc Rùm, Thái Trị, Gãy Cờ Đen, Gò Dung, Bắc Hòa, Thạnh Cần, nhà thờ Lá Nhơn Hòa Lập… các dinh điền và khu trù mật đều ở những vị trí trọng yếu, hình thành tuyến ngăn chặn dọc biên giới.

Nhiều con kênh ngang dọc, trên bờ là lộ xe, được đào đắp, chia cắt Đồng Tháp Mười, như kênh Bến Kè qua chùa Phật Đá, kênh Mười Hai, Cai Lậy qua Bắc Chiên thị xã Mộc Hóa, kênh Nhơn Xuyên, kênh xáng Bà Cạp, kênh Bảy Thước.

Địch dùng lực lượng quân sự, kết hợp với bộ máy kìm kẹp ở xã, ấp tiến hành càn quét khủng bố trắng. Dân bị buộc phải đi học tố cộng, làm tờ ly khai cộng sản, xé cờ Đảng, và ảnh Bác Hồ, thân nhân cán bộ cách mạng phải quỳ hương, sám hối. Ai cưỡng lại thì bị đánh đập, bỏ tù. Mỗi nhà dân phải sắm đèn, dây, roi, trống, mõ, hễ thấy người lạ thì nổi trống, mõ và rượt bắt. Việc địch đánh vào Đảng và dân ở Kiến Tường khi mới tiếp quản là tương đối dễ vì lúc đó, cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng tay không, khó chống lại. Còn từ năm 1955, Kiến Tường đã có lực lượng vũ trang. Dù địch có làm quyết liệt vẫn không đạt được điều chúng mong muốn. Tỉnh không những có vũ trang mà điều hết sức quan trọng là Tỉnh ủy ở bất cứ tình huống nào cũng không dao động trong vấn đề duy trì và sử dụng lực lượng vũ trang hỗ trợ cơ sở quần chúng. Vì vậy ở Kiến Tường không có những bước thăng trầm, khó khăn như ở Mỹ Tho, Bến Tre, An Giang và Kiến Phong.

Lực lượng vũ trang của tỉnh đã hộ trợ cho đồng bào bị gom ở khu vàm xáng Tuyên Nhơn, phá khu trở về nơi ở cũ. Khu này, chúng tập trung những gia đình cán bộ kháng chiến ở các xã Tân Đông, Thủy Đông, Thuận Nghĩa Hòa, Thạnh Phước. Tiếp đó, đặc công tỉnh kết hợp với lực lượng nội tuyến phá khám Mộc Hóa, diệt một tiểu đội lính gác, thu súng, giải thoát tù chính trị. Lực lượng vũ trang tuyên truyền ở các vùng bám dân, tổ chức dân đấu tranh, xây dựng nòng cốt, tự vệ mật. Các đồng chí đột nhập nhà các tên hội đồng xã, trưởng ấp, địa chủ, thầu đìa, cảnh cáo không cho thu tô, cướp ruộng, đìa, rạch của dân, buộc chúng phải nộp thuế cho cách mạng. Tên nào ngoan cố chống lại thì bị lên án, trừng trị. Các xã Tân Ninh, Tân Hòa diệt 13 ác ôn, trong đó có 2 tên là mật vụ tỉnh; hỗ trợ quần chúng đấu tranh làm thất bại kế hoạch lập khu trù mật. Nhơn Hòa Lập diệt tên Lạc, địa chủ ác ôn. Những tên địa chủ khác phải co lại, không dám hung hăng. Hàng trăm đồng bào các xã Tân Đông, Long Ngãi Thuận kéo đến dinh tỉnh trưởng tố cáo tên trung úy Thuận, trường đồn Trà Cú ức hiếp dân, ăn hối lộ, tỉnh trưởng phải điều tên này đi nơi khác. Cuộc đấu tranh thắng lợi đã lan sang các xã khác.

Long An, khi tỉnh Chợ Lớn còn thuộc Liên tỉnh miền Đông, địch đã làm thí điểm quốc sách “tố cộng, diệt cộng” ở các huyện Đức Hòa, Trung Huyện, Cần Đước, Cần Giuộc ngay từ năm 1955. Tên Y, Tỉnh trưởng Chợ Lớn lệnh cho bộ hạ thẳng tay khủng bố cán bộ kháng chiến hồi cư. Đến cuối năm 1956, có hàng người bị bắt bớ, tù đày, giết hại. Các tổ chức Đảng bị phá vỡ hầu hết. Cần Đước, Cần Giuộc mỗi huyện chỉ còn 2 đến 3 chi bộ, nhiều xã trắng. Ở Đức Hòa khi mới hòa bình, mỗi xã trung bình có 40-50 đảng viên, có xã đến 150 đảng viên, đến cuối năm 1956, mỗi xã chỉ còn 5-7 đảng viên. Tỉnh ủy Chợ Lớn năm 1954 có 7 ủy viên, đến cuối năm 1956 chỉ còn 4 đồng chí mà cũng không liên lạc với nhau được thường xuyên. Ở Tân An, giữa năm 1955 có những cuộc khủng bố, bắt bớ ở những huyện dưới nhưng do phong trào quần chúng đang ở thế đấu tranh nên địch tạm thời để yên. Chúng đang tập trung vào Mộc Hóa, Thủ Thừa. Khi giáo phái ly khai tràn vào Đồng Tháp Mười, cục diện của các huyện này thay đổi, bắt đầu có lực lượng vũ trang hoạt động tạo thế cho nhân dân chống lại có hiệu quả quốc sách “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm.

Ngay từ năm 1955, khi Ngô Đình Diệm có chương trình tố cộng, đã có một số cán bộ, đảng viên bất hợp pháp với địch ở Tân An, Chợ Lớn chạy lên biên giới Campuchia vùng Trắp Tre, Ba Thu sống theo từng khóm quen biết, đồng hương. Ở đây có khó khăn về vật chất nhưng tương đối an toàn. Các đồng chí tự kiếm súng để tự vệ và đã trừng trị một số tên mật vụ, do thám của địch. Đây là cơ sở để Tỉnh ủy điều những cán bộ bị lộ lên. Đến giữa năm 1956, vùng này trở thành nơi tập trung cán bộ từ các nơi đến.

Đầu năm 1957, Chợ Lớn được đưa về Liên tỉnh miền Trung Nam Bộ nhập với Tân An thành tỉnh Long An. Tỉnh ủy Long An ngay từ đầu đã thấy cần sử dụng lực lượng vũ trang hỗ trợ cho phong trào đấu tranh, nên ưu tiên cho tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang. Long An là tỉnh duy nhất ở Trung Nam Bộ thành lập Đảng ủy quân sự để đi sâu lãnh đạo vũ trang. Sau khi được Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ cho phiên hiệu, Tỉnh ủy dựa vào các đơn vị có sẵn thành lập 2 Tiểu đoàn 506 và 508; một tiểu đoàn chịu trách nhiệm hoạt động từ biên giới xuống phía bắc lộ 4 và một tiểu đoàn phụ trách từ Rừng Sác lên phía nam lộ. Hoạt động vũ trang của tỉnh hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng, giữ gìn lực lượng ở cơ sở rất có hiệu quả.

Lực lượng vũ trang hoạt động ra tới lộ 4, sát ngoại ô Sài Gòn, tới cầu Nhị Thiên Đường, vũ trang tuyên truyền, cảnh cáo tề điệp, ác ôn, giác ngộ nhân dân tham gia cách mạng. Đến cuối năm 1958, tiếp nhận Đề cương đường lối cách mạng miền Nam, Tỉnh ủy Long An đã linh hoạt chuyển hoạt động vũ trang của tỉnh đi sâu vào tổ chức, xây dựng cơ sở quần chúng, phân tán, bám chặt dân. Các hành động diệt ác được cân nhắc kỹ, để vừa trấn áp được địch, vừa thể hiện chính sách của cách mạng, phân hóa kẻ thù, nhân dân tin tưởng mà vẫn không bị lộ.

Long An phát triển vững chắc về chính trị, vũ trang, đối phó có hiệu quả với quốc sách “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm. Đảng viên, cán bộ ít bị thiệt hại, cơ sở Đảng, quần chúng ít bị phá vỡ, mà còn được củng cố phát triển, kể cả những vùng của Chợ Lớn cũ đã bị đánh nặng, thế đấu tranh chính trị của quần chúng vẫn được giữ vững.

Như diễn biến tình hình ở các tỉnh Trung Nam Bộ đã nêu, sau Hiệp định Giơnevơ, trong những năm từ năm 1954 đến năm 1959, con đường dẫn đến nhận thức thống nhất với phương châm hành động thích hợp co cách mạng phát triển một khó khăn: Tiếp tục đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình đơn thuần hay có kết hợp vũ trang. Đây là câu hỏi day dứt trong đầu những người lãnh đạo Đảng cấp từ liên tỉnh, tỉnh, huyện đến xã, ấp, đến đảng viên, cán bộ và quần chúng cách mạng. Nhất là từ sau ngày 20 tháng 7 năm 1956, địch ra sức phá hoại tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ráo riết tiến hành “tố cộng, diệt cộng”, sử dụng lực lượng lớn đánh phá ác liệt vào Đảng và quần chúng cách mạng. Nơi bị đàn áp, tàn sát, giết chóc, ngay từ khi địch tiếp quản như ở Đồng Tháp Mười thì sớm có ý muốn hoạt động vũ trang. Nơi được chỉ đạo của cấp ủy, thấm nhuần ý nghĩa của hoạt động vũ trang là phục vụ tạo thế cho đấu tranh của quần chúng theo chỉ đạo của Liên tỉnh ủy thì vũ trang hoạt động có bài bản, phong trào được giữ vững. Nơi nào cứ máy móc thực hiện đấu tranh chính trị đơn thuần bằng phương pháp hòa bình, khi bị sức ép của địch mà manh động vũ trang, địch phản ứng lại tàn bạo thì hoang mang, lúng túng, để cho địch tự do khủng bố thì phong trào càng xuống thấp, cơ sở tan rã thêm, quần chúng hoang mang.

Đầu năm 1958, Xứ ủy triệu tập Hội nghị Xứ ủy lần thứ hai ở Phnômpênh. Mục đích là để các Xứ ủy viên, Bí thư các Liên tỉnh ủy thông suốt về việc giữ vững đường lối đấu tranh chính trị bằng phương pháp hòa bình. Sau Hội nghị, Liên tỉnh ủy đã chuyển nội dung hỉ đạo mới của Xứ ủy tới các tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2012, 08:31:51 pm »

III - NGHỊ QUYẾT 15 CỦA TRUNG ƯONG,
TRẬN GIỒNG THỊ ĐAM VÀ GÒ QUẢN CUNG - PHÁT PHÁO LỆNH CHO ĐỒNG KHỞI

Đầu năm 1959 trong tình hình phong trào cách mạng đang sôi sục, Khu VIII - Trung Nam Bộ đã chỉ đạo cho các tỉnh ủy có một bước chuẩn bị đẩy mạnh hoạt động tiến công phá thế kìm kẹp xã, ấp bằng ba mũi chính trị, vũ trang và binh vận.

Tháng 1 năm 1959, tại Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua Nghị quyết 15. Tháng 8 năm 1959, Khu nhận được nội dung ngắn gọn của Nghị quyết và đến cuối năm các khu được Xứ ủy triệu tập Hội nghị triển khai toàn bộ nội dung Nghị quyết.

Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng cho phép hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, để bảo vệ cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng.

Được soi sáng bởi Nghị quyết 15, các tỉnh Đồng Tháp Mười yên tâm hơn, phấn khởi hơn. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đã tạo thế và lực mới cho phong trào cách mạng miền Nam.

Tình thế Khu Trung Nam Bộ trong những ngày đầu năm 1959 đặt ra yêu cầu phải xác định rõ hơn thực chất của chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ - Diệm và đưa ra những giải pháp để chống lại chính sách này có kết quả. Chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ - Diệm chủ yếu là nắm dân, tranh thủ trái tim, khối óc của dân để tiêu diệt cách mạng. Đảng ta cũng phải dựa vào dân, giành dân với địch. Ai nắm được dân thì có lực lượng, có thế mạnh tiến công để giành thắng lợi cuối cùng.

Tuy nhiên, cách nắm dân của ta và địch hoàn toàn khác nhau. Địch dùng lừa mị, dùng vật chất để mua chuộc, tìm cách làm cho tư tưởng tư sản thống soái trong dân chúng để dân chúng dần dần xa rời tư tưởng cách mạng. Đó là đường lối thực dân kiểu mới. Còn ta chăm lo cho lợi ích của dân bằng thực tế hành động, lãnh đạo nhân dân đứng dậy lật đổ ngụy quyền các cấp, trước hết là ngụy quyền cơ sở, để làm chủ cuộc sống của mình.

Chính sách thực dân kiểu mới của địch là kìm kẹp để nắm dân, giành dân. Cho nên, ta chống chính sách thực dân kiểu mới của địch phải bằng cách phá kìm kẹp, đưa dân lên thế làm chủ xã, ấp. Điều này ta đã làm ngay từ năm 1955 nhưng ở mức thấp và cứ nâng dần lên cho đến khi nổ ra Đồng Khởi (tấn công và nổi dậy đồng loạt toàn Khu năm 1959).

Ở các xã Đồng Tháp Mười, sau các đợt khủng bố, tố cộng ác liệt, người dân phải chịu bao khó khăn gian khổ. Với thế công khai hợp pháp cách mạng (chứ không phải hợp pháp khuất phục) đồng bào đã chuyển từ người kháng chiến đánh Tây thành người đứng lên tấn công địch bằng ba mũi quân sự, chính trị, binh vận, diệt ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở xã, ấp.

Chỗ mạnh của người dân Đồng Tháp Mười là ở chỗ họ đã hiểu biết cách mạng, đã quen với các hoạt động vũ trang của Đảng. Cho nên khi có lực lượng giáo phái ly khai tràn vào thì họ có ngay những tổ tự vệ giáo phái, dùng những tổ tự vệ đó diệt ác ôn, phá kìm kẹp. Sau khi lực lượng giáo phái ly khai tan rã, những đơn vị giáo phái do cách mạng thành lập đã cầm súng đánh địch.

Đến năm 1958, phong trào cách mạng ở đây đã mạnh lên. Nhiều xóm ấp địch công nhận là vùng quốc gia kiểm soát nhưng chỉ trên danh nghĩa, còn quần chúng cách mạng đã thật sự làm chủ. Bọn mật vụ, tình báo, chỉ điểm của địch đã bị trừng trị, cảnh cáo, co lại, không dám hoạt động, chỉ ở trong đồn bốt… Vì vậy, trong nông thôn không còn bọn tay sai, tề, điệp… người dân đoàn kết giúp đỡ nhau sản xuất và đấu tranh với địch.

Đầu năm 1958, ở Đồng Tháp Mười, các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, Long An đều có tiểu đoàn tập trung hoạt động. Nhưng không phải chỉ có các chiến sĩ của tiểu đoàn đi phá kìm kẹp mà những đảng viên trong chi bộ các xã cũng đóng góp vai trò lực lượng vũ trang đi diệt ác ôn, phá kìm kẹp.

Từ trước khi nổi dậy, việc phá kìm kẹp ở vùng Đồng Tháp Mười đã được đúc kết thành kinh nghiệm, sau đó nhân rộng ra toàn khu. Phá kìm kẹp của địch đối với dân không phải là làm tràn lan mà phải phân hóa chung, phân biệt tên nào ác ôn nhiều, tên nào ác ôn ít, tên nào cần trừng trị ngay, tên nào chỉ cần cảnh cáo, rồi tranh thủ trung lập, cô lập, làm cho chúng tê liệt, không phát huy được tác dụng, buộc đầu hàng, thực hiện công tác cách mạng giao, buộc phải im lặng không được tố cáo những việc quần chúng cách mạng làm, án binh bật động, tiến tới không đồng tình với việc làm của bọn ngụy quyền và cao hơn làm tham gia công việc cách mạng, trở thành người kháng chiến… Tóm lại, lấy mục đích giáo dục là chính để cảm hóa, còn trừng phạt chỉ trong trường hợp rất cần thiết. Nhờ đó mà thêm bạn, bớt thù, lực lượng cách mạng ngày càng đông, lực lượng theo địch ngày càng bị cô lập.

Về việc này, có lần đồng chí Bí thư Liên tỉnh ủy nói chuyện trực tiếp với cán bộ, uốn nắn hiện tượng anh em chỉ nặng về trửng trị. Đồng chí giải thích cho anh em hiểu là đằng sau mỗi người mà ta trừng trị, có thể đi tới một trăm người là người thân ruột thịt, bạn bè thân thiết và họ hàng của họ. Do đó, có khả năng vì một người bị giết mà có tới một trăm người chồng lại hoặc mất cảm tình với cách mạng. Như vậy, việc trừng trị một người là phải hết sức thận trọng, phải là cần thiết đối với việc bảo vệ cơ sở, phát triển phong trào và không thể dừng lại được. Việc trừng trị không phải chỉ đơn giản là giết tên đó là xong, mà còn phải vạch rõ tội ác của hắn để cho mọi người, kể cả gia đình, họ hàng, bạn bè hắn biết hắn phải đền tội là phải lẽ. Do vậy, ở cơ sở, điều quan trọng là phải nắm vững lực lượng đối nghịch, hiểu rõ cặn kẽ từng tên tay sai của địch. Đây là điểm mấu chốt cho việc lên phương án phá kìm kẹp thành công.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM