Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:01:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 94466 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2012, 10:15:52 am »

Tết hòa bình đầu tiên, năm 1955, nhà nào cũng có câu đối mang nội dung hòa bình, mừng thắng lợi Hiệp định Giơnevơ do các chi bộ Đảng phổ biến. Nhân dân tổ chức cầu siêu, dựng đài tử sĩ, tu bổ nghĩa trang, tảo mộ liệt sĩ, lập bàn thờ Tổ quốc, bàn thờ chiến sĩ. Không khí vui tươi, đoàn tụ bao trùm trong ba ngày tết. Ở mỗi xã, hàng trăm binh lính, sĩ quan, công chức về quê ăn tết. Họ đi thăm viếng người thân, gặp gỡ những cán bộ kháng chiến hồi cư, chúc mừng nhau, nói chuyện về Hiệp định Giơnevơ, tổng tuyển cử, hứa hẹn móc nối cách mạng. Nhiều người đã được tổ chức thành cơ sở cách mạng, sau này có đóng góp cho cách mạng. Điển hình như trường hợp của viên Thiếu tá Nguyễn Hữu Hạnh, về quê ăn tết ở quê là xã Phú Phong, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, đến năm 1975 là Chuẩn tướng, phụ tá Tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy có quá trình tham gia đóng góp cho cách mạng và đã góp phần tích cực cho thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh.

Cuộc vận động bầu cử tề xã, ấp phát triển thành phong trào rộng, mạnh ở các tỉnh. Từ những tháng cuối năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm tạm chỉ định những tề cũ, những người gia đình khá giả, thân thuộc với làng lính và đưa một số sĩ quan làm Chủ tịch Hội đồng hương chính, ủy viên cảnh sát, chủ ấp. Các chi bộ Đảng đã lãnh đạo nhiều người trong tề cũ, được chúng chỉ định, từ chối không làm, đấu lý với chúng là “thời thế bây giờ khó lắm, ra làm thì sẽ đụng chạm dân, nên phải hỏi ý dân trước đã”. Những cơ sở nòng cốt của cách mạng ở các thị trấn, khu phố là những người có uy tín, có điều kiện gần quận, tổng cũng tìm cách đưa dư lận của dân đến chúng. Cuối cùng, chúng buộc lòng phải để cho những người này được giới thiệu người ra ứng cử. Bằng cách đó, sau bầu cử, ở nhiều nơi ta nắm được từ 50% đến 80% tề xã, ấp và xã đoàn dân vệ, như ở xã Phú Quý, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, xã đoàn dân vệ có 10 người thì 8 người là đoàn viên thanh niên, 2 người là nòng cốt cách mạng; hội đồng hương chính xã có 4 người thì 2 người là đảng viên, 2 người là quần chúng cảm tình với cách mạng. Hội đồng hương chính và dân vệ các xã An Hòa, Tân Niên Tây, tỉnh Gò Công là cơ sở bảo vệ cơ quan tỉnh ủy. Hội đồng hương chính xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc có 6 người thì 4 là người của cách mạng. Văn phòng Huyện ủy Tân Châu ở cây số 7 xã Long Sơn, sát đồn dân vệ. Văn phòng Tỉnh ủy Châu Đốc, trạm giao liên của Xứ ủy đóng ở cây số 3 Long Sơn, cách thị trấn Tân Châu 3 kilômét dựa vào tề và dân vệ xã. Trạm này đã từng là nơi dừng chân của các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Mai Chí Thọ, Lê Toàn Thư, Phạm Thái Bường trên đường từ Sài Gòn đi về cơ quan Xứ ủy.

Sau Tết hòa bình đầu tiên năm 1955, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ lúc này vẫn ở An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An, phía nam quốc lộ 4, chỉ đạo tổ chức học tập Nghị quyết của Xứ ủy về tình hình và nhiệm vụ cho toàn Đảng bộ và nhân dân.

Lúc này, ở Đồng Tháp Mười địch đánh phá nặng, kìm kẹp chặt. Ở các nơi khác, cán bộ, đảng viên hồi cư chuyển về cơ sở đã tạm ổn định. Trước khí thế của phong trào, anh em tỏ ra an tâm, phấn khởi. Nhưng cũng có người, trước việc địch triển khai chính sách thực dân mới, mị dân, ve vãn, đã tỏ ra chủ quan, thỏa mãn, mơ hồ, mất cảnh giác, có ảo tưởng hòa bình chủ nghĩa.

Nghị quyết của Xứ ủy và Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ nhằm uốn nắn những khuyết điểm trên, xác định rõ kẻ thù trực tiếp, chủ yếu của cách mạng, của nhân dân miền Nam là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước Ngô Đình Diệm, đại diện cho giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản mại bản phản động nhất. Chúng chủ trương phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, thành căn cứ quân sự làm bàn đạp tấn công ra miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam còn gian khổ, ác liệt, hy sinh nhiều hơn nữa, vì thế Đảng bộ phải tích cực chuyển hướng hoạt động, đi sâu vào quần chúng để lãnh đạo quần chúng đấu tranh quyết liệt với địch.

Nội dung nhiệm vụ là đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, để hòa bình thống nhất Tổ quốc; đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ cho quần chúng; lãnh đạo quần chúng chống tăng tô, xáo canh, bảo vệ quyền làm chủ ruộng đất của nông dân; thực hiện tốt công tác binh vận; thực hiện công nông binh liên hiệp. Đối với công tác binh vận, tề vận, Nghị quyết nêu rõ: Gia đình binh sĩ là những gia đình đau khổ, là một thành phần không thể thiếu trong lực lượng xung kích đấu tranh với địch để bảo vệ hòa bình, thống nhất đất nước, chống chiến tranh, chủ yếu là chống đôn quân, bắt lính, vận động con em đào ngũ, chống “Bắc tiến”, tạo thành một mũi tấn công chiến lược. Phân cấp lãnh đạo công tác binh vận, tề vận là: xã nắm tề xã, ấp, dân vệ xã; huyện, tỉnh tổ chức gài người vào đơn vị bảo an, dân vệ ở cấp huyện, tỉnh; khu, tỉnh tổ chức cơ sở trong các đơn vị chủ lực và cơ quan Trung ương của ngụy. Nhưng trong tất cả các cấp, trọng tâm trước mắt là nắm các xã, thực hiện mục tiêu vô hiệu hóa ngụy quyền cơ sở, sử dụng bộ máy của địch để bảo vệ lực lượng cách mạng và hỗ trợ các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi chính trị, kinh tế của quần chúng.

Về công tác dân vận, mặt trận lấy liên minh công nông làm nòng cốt, tập hợp đông đảo quần chúng xung quanh khẩu hiệu trung tâm là đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, hòa bình thống nhất đất nước. Chú trọng vận động đồng bào người dân tộc thiểu số tìm cách xóa bỏ hận thù với đồng bào tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài để đoàn kết chống Mỹ - Diệm. Đối với đồng bào di cư là những người bị bắt buộc, hoặc bị lừa mị vào Nam thì vận động đồng bào vào mặt trận chống Mỹ - Diệm. Đối với các đoàn thể công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ trong kháng chiến thì này trở thành lực lượng nòng cốt cách mạng, tập hợp đông đảo quần chúng trong những tổ chức họp pháp hoặc bán hợp pháp. Đảng viên là hạt nhân lãnh đạo, nắm quần chúng qua nòng cốt, bắt rễ, xâu chuỗi trong xóm ấp phát động đấu tranh.
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Mười, 2012, 10:22:17 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:04:35 am »

Đợt học tập trong toàn Khu đã được tiến hành thuận lợi. Từng cấp sau khi học xong đều ra nghị quyết về chương trình hành động cụ thể. Đảng viên học trước, sau đó mở rộng ra quần chúng. Qua học tập, từ nông thôn đến thành thị, các tầng lớp quần chúng đều hiểu đối tượng của cách mạng là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, đại diện cho giai cấp phong kiến, tư sản mại bản phản động nhất. Mỹ - Diệm đang cố hất cẳng Pháp, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chia cắt đất nước, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ trong chế độ quốc gia giả hiệu, thân Mỹ, thành căn cứ quân sự, tiền đồn chống cộng, gây chiến tranh phá hoại hòa bình.

Cán bộ, đảng viên ngoài học tập nội dung Nghị quyết còn được học tài liệu về năm bước công tác cách mạng, về nhân sinh quan, lập trường, khí tiết cách mạng và phương hướng công tác bí mật của Đảng.

Đi đôi với học tập, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ chỉ đạo tiến hành sắp xếp, bố trí lại đảng viên:

- Những đảng viên hoạt động hợp pháp, không bị lộ được tập hợp thành từng tiểu tổ riêng, có từ 3 đến 5 người. Trước khi học Nghị quyết, chi ủy đã rà xét kỹ quá trình phấn đấu của từng người, người nào đủ tư cách mới được học. Học xong, phân công từng đảng viên phụ trách theo ngành, nghề, xóm ấp. Mỗi đảng viên phải chọn quần chúng tốt ở các giới, bồi dưỡng thành nòng cốt cách mạng rồi hướng dẫn những nòng cốt này tìm từ 3 đến 5 người bè bạn, bà con, anh em để hướng dẫn công việc cách mạng. Số này là quần chúng tích cực, hiểu rõ rằng mình là người trong tổ chức. Mỗi quần chúng tích cực lại hướng dẫn nội dung cách mạng cho những người quen biết cùng giới, cùng ngành nghề, những bà con thân tộc có xu hướng tốt để họ trở thành quần chúng cảm tình. Như vậy, một đảng viên có thể nắm được từ 50 đến 80 quần chúng là nòng cốt, tích cực, cảm tình. Từ đó liên hệ với quần chúng rộng rãi thông qua các tổ chức hợp pháp, bán hợp pháp.

- Đảng viên hoạt động bất hợp pháp, trong kháng chiến là bí thư, chủ tịch, xã đội, công an, du kích là lực lượng trung kiên, nòng cốt của chi bộ, được quần chúng tín nhiệm, kẻ thù kiêng sợ, truy lùng. Những đồng chí này bố trí vào cấp ủy. Nhân dân có yêu cầu cần giải quyết đến xin ý kiến như đối với chính quyền cách mạng trước đây.

- Đảng viên là cán bộ từ các cơ quan kháng chiến tỉnh, huyện trở về, quần chúng ít biết hoặc không biết phải tranh thủ chuyển vào thế công khai hợp pháp. Nếu xét thấy chuyển hợp pháp bí mật lâu dài được thì hoạt động đơn tuyến, cũng bắt rễ, xâu chuỗi quần chúng. Số này phân công phụ trách những quần chúng tầng lớp trên, tề xã, ấp hoặc các tổ chức hợp pháp, bán hợp pháp.

- Đảng viên bố trí nằm trong tề xã, ấp, dân vệ hoặc là cơ sở nội tuyến binh vận thì hoạt động đơn tuyến.

- Đảng viên chỉ lo làm ăn, không dám nhận công tác thì cắt Đảng tịch, xem như quần chúng.

Đối với quần chúng, Liên tỉnh ủy chỉ đạo tập hợp trong ba hình thức: hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp.

- Các tổ chức hợp pháp là: Hội phụ nữ, Liên hiệp nghiệp đoàn, Hiệp hội Nông dân, Hội truyền bá quốc ngữ, Giáo hội tăng già… Hội phụ nữ có Ban Chấp hành ở Sài Gòn. Tổ chức này tập hợp phụ nữ làm công tác xã hội, hạn chế trong một số thị xã, thị trấn. Tổ chức Liên hiệp nghiệp đoàn cấp cao nhất do Trần Quốc Bửu, một tên tay sai của Mỹ nắm. Thông qua tổ chức này, ta có thể tập hợp người lao động vào các nghiệp đoàn xích lô, bán cá, bán hàng bông, khuân vác… lãnh đạo họ đấu tranh chống thuế, phạt vạ, đuổi nhà, cướp đất, bãi công hưởng ứng các đợt đấu tranh chính trị, bảo vệ cán bộ hồi cư.

- Các tổ chức bán hợp pháp được hình thành theo đòi hỏi của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, nhất là ở nông thôn. Loại tổ chức này, mặc cho ngụy quyền có cho phép hay không, quần chúng vẫn thành lập và chúng phải công nhận. Nó phù hợp với yêu cầu bức xúc của quần chúng nên dễ tập hợp được đông đảo quần chúng. Các tổ chức này là: vạn vần đổi công, vạn cấy, vạn phát, vạn cuốc để khôi phục kinh tế, tăng gia sản xuất, khai hoang, phục hóa; hụi không lời để tương trợ vốn sản xuất, chống cho vay nặng lãi. Về văn hóa xã hội, có hội đình, hội chùa, miếu để lo trùng tu đình, chùa, miếu, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chống mê tín dị đoan; hội múa lân, hội đá banh, đội văn nghệ tập họp thanh niên vui chơi, đoàn kết, chống cờ bạc, rượu chè, sa đọa; lớp bình dân, hội truyền bá quốc ngữ, hội phụ huynh học sinh, hội bảo trợ học đường có tác dụng giáo dục thanh thiếu niên, chống giặc dốt cho người lớn, chống văn hóa ngoại lai xâm nhập; hội thanh niên, phụ nữ tương trợ nhau trong đám cưới, đám tang, giúp đỡ những gia đình neo đơn có việc làm ăn, giáo dục nội dung văn hóa mới.

- Các tổ chức bất hợp pháp là lực lượng quần chúng cách mạng trước đây đã ở trong các đoàn thể công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ cứu quốc, nay chuyển thành nòng cốt, quần chúng tích cực, quần chúng cảm tình, trở thành hệ thống rễ, chuỗi của đảng viên trong việc lãnh đạo các tổ chức hợp pháp, bán hợp pháp trong xóm ấp. Về vấn đề này, Trung ương chỉ đạo phương châm chung là hết sức lợi dụng khả năng hợp pháp để tuyên truyền cổ động, tổ chức giáo dục quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Chấp hành sự chỉ đạo của Trung ương và căn cứ vào tình hình thực tế của Liên tỉnh Trung Nam Bộ chủ yếu là vùng nông thôn, Liên tỉnh ủy đề ra phương châm hoạt động cụ thể, sáng tạo của Đảng bộ là kết hợp bán hợp pháp, bất hợp pháp và hợp pháp - lấy bán hợp pháp làm chính, lấy bất hợp pháp làm nòng cốt lãnh đạo và lấy hợp pháp làm nghệ thuật trực diện với địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:05:06 am »

Ngay từ đầu đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm đã có hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ, không chịu thi hành Hiệp định, tức là không có quyền tự do dân chủ nào, cũng có nghĩa là sẽ không có tổ chức hợp pháp nào mang nội dung chính trị tích cực như tổ chức mít tinh mừng hòa bình, nêu khẩu hiệp đòi hiệp thương tổng tuyển cứ cỏ thể tự do hoạt động; muốn hợp pháp thì phải xin phép ngụy quyền. Vì vậy, đấu tranh hợp pháp với địch là một nghệ thuật hết sức mềm dẻo, kết hợp giữa lực lượng quần chúng với tranh thủ nhân viên ngụy quyền để trực tiếp đưa yêu sách trong từng cuộc đấu tranh, từng không gian, thời gian nhất định. Nghị quyết của Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ lấy đấu tranh bán hợp pháp làm chính, vì ngụy quyền cơ sở còn yếu, chưa khống chế được dân. Dùng hình thức đấu tranh bán hợp pháp là để thúc đẩy người tốt, việc tốt, tranh thủ người lưng chừng, cô lập bọn ngoan cố. Đấu tranh bán hợp pháp là yêu cầu thiết thực, bức xúc, phù hợp với quyền lợi nhân dân. Ngụy quyền dù không cho phép cũng không ngăn chặn được vì khẩu hiệu đấu tranh có lý, có tình, hình thức đấu tranh đa dạng, sinh động như tập trung trực diện đưa đơn, đi chợ đông, bãi thị, lãn công, mít tinh, biểu tình, hội thảo, đưa khẩu hiệu tranh thủ sự đồng tình của dư luận…

Quá trình đấu tranh bán hợp pháp là quá trình giáo dục nhân dân về khẩu hiệu đấu tranh, là quá trình nhân dân giúp nhau đi đến đoàn kết nhất trí. Khẩu hiệu đấu tranh trở thành bức thiết, trở thành sức mạnh, qua đó, dẫn dắt quần chúng đến công khai bàn bạc nhiều việc, dám đối chọi với quân thù, vạch mặt bọn ác ôn ngoan cố và có điều kiện tranh thủ sự đồng tình của đa số ngụy quân, ngụy quyền.

Lấy đấu tranh bất hợp pháp làm nòng cốt, vì đa số nhân dân các tỉnh Trung Nam Bộ đã giác ngộ cách mạng, đi theo Đảng từ những năm 1930 - 1945. Nhân dân ở nông thôn hay thành thị đều hiểu Đảng và tin Đảng. Sau ngày bộ đội đi tập kết, Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo. Vì thế, để phát động nhân dân đấu tranh, Đảng vẫn có thể tổ chức những cuộc hội thảo, mít tinh, hiệu triệu, đưa khẩu hiệu, phân phát truyền đơn, áp phích, treo cờ Đảng để dân tin tưởng. Hình thức bất hợp pháp càng nhiều, càng có sức mạnh tinh thần, càng uy hiếp kẻ thù ở cơ sở.

Ba hình thức hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp kết hợp với nhau hình thành phong trào đấu tranh sôi nổi của nhân dân cho từng yêu cầu, từng thời gian.

Trong việc triển khai nghị quyết, đối với công tác quần chúng, Liên tỉnh ủy chú ý đến ba khối quần chúng lớn là các tín đồ Hòa Hảo, đồng bào di cư và người dân tộc Khơme, Chàm, Hoa.

Khi đó ở Khu Trung Nam Bộ có hơn nửa triệu tín đồ Hòa Hảo, chiếm 1/4 dân số toàn khu, sống tập trung chủ yếu ở ba tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc; nhiều nhất là ở Long Xuyên. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp dùng thủ đoạn chia rẽ đạo, đời, tạo ra sự hiểu lầm sâu sắc của Hòa Hảo đối với Việt Minh. Năm 1953, Đảng đưa ra chính sách Hòa Hảo vận, chính quyền kháng chiến đã nhiều lần cho phép một số đơn vị vũ trang Hòa Hảo lấy súng của Pháp đi qua căn cứ địa Đồng Tháp Mười đem về vùng căn cứ của Hòa Hảo. Sự việc này đã làm dịu đi phần nào thành kiến của Hòa Hảo đối với Việt Minh và tạo thuận lợi cho việc vận động tín đồ Hòa Hảo tham gia kháng chiến. Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, tín đồ Hòa Hảo cũng vui mừng vì chiến tranh chấm dứt sẽ tránh được cảnh đôn quân, bắt lính và được yên ổn làm ăn.

Đồng chí Bí thư Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đã nhận định về bản chất của tín đồ tôn giáo Hòa Hảo như sau: đồng bào cũng là những người nông dân đau khổ, bị áp bức bóc lột và có nguyện vọng về ruộng đất, đời sống như những thành phần nông dân khác. Nếu ta biết khéo vận động và đi sâu động viên họ căm thù bọn áp bức, bóc lột, thì họ cũng sẽ nổi dậy đấu tranh như mọi người nông dân khác, cũng sẽ dám hy sinh bảo vệ cách mạng, đào hầm bí mật chứa cán bộ. Thực tế là sau ngày chính quyền và quân đội cách mạng đi tập kết, một số cơ quan Đảng và cán bộ đã dựa vào đồng bào tín đồ mà ăn ở, hoạt động ở nhiều nơi vì quyền lợi cuối cùng của đồng bào vẫn là ruộng đất, đời sống; còn cách mạng thì tôn trọng tự do tín ngưỡng, giúp họ đấu tranh bảo vệ quyền làm chủ ruộng đất, cải thiện đời sống, đòi dân chủ, đối xứ với họ không định kiến, hận thù, trái lại còn tìm cách đoàn kết để chống kẻ thù chung. Đó là thực tế. Qua việc đưa cán bộ hồi cư về cơ sở, nhiều đồng chí cán bộ đã về sống ở vùng có đạo. Nay Liên tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo các Tỉnh ủy Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc đưa thêm nhiều cán bộ có uy tín vào với đồng bào để tăng cường ảnh hưởng của cách mạng.

Địch đưa khá đông đồng bào miền Bắc di cư về các tỉnh Trung Nam Bộ, mỗi tỉnh có từ 15.000 đến 30.000 người. Ở Mỹ Tho, đồng bào tập trung thành khu dọc theo kênh Nguyễn Tấn Thành từ Long Định đến Chùa Phật Đá, từ chợ Xoài Hột, xã Thạnh Phú vào đến xã Bình Đức. Ở Tân An, đồng bào tập trung ở phía bắc kênh Dương Văn Dương, dọc biên giới xã Bình Hiệp và khu vực Gò Măng Đa. Ở Long Xuyên, đồng bào tập trung ở vùng Cái Sắn. Ngoài ra, còn có đồng bào ở Quảng Nam - Đà Nẵng… trước đây bị Mỹ - Diệm cưỡng ép di cư vào Đồng Tháp Mười ở các khu tập trung Sa Rài (Hồng Ngự, Châu Đốc), Bắc Hòa, Giồng Dung (Mộc Hóa, Tân An). Đồng bào là những nạn nhân của chế độ Mỹ - Diệm, hầu hết là những người nông dân nghèo, bị áp bức bóc lột, có tinh thần yêu nước, mong muốn độc lập, thống nhất. Có người đã tham gia kháng chiến. Họ phải rời quê hương, nhà cửa ruộng vườn ra đi là vì bị lừa gạt, bị đe dọa. Vào đây, họ sống rất khổ. Số tiền cung cấp buổi đầu bị bọn ngụy quyền các cấp ăn chặn, chẳng còn lại là bao, lại thêm không hợp khí hậu, bệnh tật phát sinh, không nghề nghiệp, nghèo khổ. Cho nên, cần phải có cách vận động nhân dân, đào tạo cốt cán của Đảng từ đồng bào, phát động đồng bào chống Mỹ - Diệm. Trước mắt, vận động đồng bào phân tán, không nên sống tập trung trong các khu di cư do Diệm tổ chức.

Người Khơme ở Khu Trung Nam Bộ có hơn 4 vạn, sống tập trung ở vùng Bảy Núi thuộc hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên. Người Chăm có vài ngàn, sống ở vùng đối diện với thị xã Châu Đốc. Người Hoa có hơn hai vạn, ở rải rác trong các tỉnh. Họ là những người đã sống hàng trăm năm ở vùng này, đã từng tham gia nổi dậy trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, nên họ hiểu, tin tưởng và ủng hộ Đảng. Nhiều cán bộ, đảng viên của Đảng là người Khơme, người Chăm, người Hoa. Cho nên, việc tập hợp đồng bào vào mặt trận dân tộc yêu nước chống Mỹ - Diệm có nhiều thuận lợi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:05:50 am »

*
*   *

Từ quý III năm 1954 đến năm 1956, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt với chính quyền Mỹ - Diệm, tạo thành phong trào liên tục, hết đợt này đến đợt khác, tập hợp hàng triệu người đấu tranh giữ vững quyền lợi dân sinh, dân chủ và ruộng đất đã có được trong kháng chiến; chống khủng bố và trả thù những người kháng chiến, bảo vệ hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước

Tỉnh ủy Gò Công lãnh đạo Đảng bộ và nhân dân chuyển hướng đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Từ đầu năm 1954, trước khi có Hiệp định Giơnevơ, lực lượng vũ trang và quần chúng ở Gò Công đã nổi dậy tiêu diệt và làm tan rã hàng trăm đồn bốt địch; ngụy quyền nơi đây rất hoang mang, buộc phải co cụm vào cố thủ ở trong thị xã và các đồn bốt vùng ven.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8, toàn tỉnh có nhiều cuộc mít tinh mừng hòa bình ở các xã Bình Công, Tăng Hòa, Hòa Nghị, Tân Thành, Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Tân Niên Trung, Đồng Sơn, Yên Luông Đông, Bình Thành, Long Chánh…

Ngày 16 tháng 8 năm 1954, để biểu dương sức mạnh đoàn kết toàn dân, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, hơn 30.000 đồng bào từ các xã trong toàn tỉnh đã tập trung thành đội ngũ từ bốn hướng lộ chính kéo vào thị xã, mang theo các khẩu hiệu chào mừng hòa bình và hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ được ký kết.

Hoảng sợ trước khí thế mạnh mẽ của nhân dân, ngụy quyền ở tỉnh Gò Công đã huy động quân đội và cảnh sát ngăn chặn, đe dọa. Khi không giải tán được, chúng dùng súng đạn tấn công vào đoàn biểu tình tay không. Như vậy là, Mỹ - Diệm đã ngang nhiên vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơnevơ và lệnh ngừng bắn, gây tội ác cực kìm nghiêm trọng. Chúng dùng súng trung liên, súng tromblon và súng trường bắn vào đoàn biểu tình; đuổi bắt 3 phụ nữ rồi xé áo quần, dùng dao găm đâm vào thân thể giết chết tại chỗ; đánh chết một cụ già và một em bé. Tên quan hai Điển dùng súng lục bắn chết hai người, nắm giò một em bé bị thương liệng vào xe chữ thập đỏ. Tổng cộng địch bắn chết 8 người, làm bị thương 162 người.

Ngay từ tháng 8 năm 1954, ở Tân An đã có cuộc đấu tranh của 30.000 người, thuộc 10 xã của huyện Bến Lức, Thủ Thừa, Tân Trụ, Cần Đước kéo đến đồn Bình Chánh chống vụ bắt 5 người kháng chiến cũ. Sau đó, đoàn người kéo về thị xã Tân An đấu tranh liên tục trong 10 ngày cho đến khi thắng lợi.

Tháng 9 năm 1954, hơn 2 vạn nhân dân các xã trong huyện Mỏ Cày bao vây bọn lính ở bốt xã Khánh Thạnh Tân, buộc chúng phải khiêng người bị chúng đánh bị thương lên quận, phải bồi thường.

Trong tháng 11 năm 1954, ở Bình Thành, Long Xuyên, hàng trăm người mang đơn đến tổ Ủy hội quốc tế ở Tân Châu tố cáo vụ thảm sát của bọn lính đồn Thầy Ba Dĩ, đòi bồi thường nhân mạng, tai sản của những người bị chúng giết, đòi phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Khi tàu của Ủy hội quốc tế tới điều tra, đồng bào kéo ra yêu cầu quyết liệt, mặc dầu địch ra sức ngăn trở.

Ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc, hàng trăm đồng bào, học sinh đấu tranh chống ngụy quyền đập phá đài liệt sĩ và mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đấu tranh rất quyết liệt, dư luận vang đến tận Sài Gòn, nhiều tờ báo ở Sài Gòn cũng lên tiếng phản đối, ngụy quyền buộc phải ngừng việc đập phá mộ. Trong tháng 12 năm 1954, ở Tân An, hơn 3.000 người kéo vào các thị trấn Mộc Hóa, Kiến Bình đấu tranh chống khủng bố, chống tề xã, ấp kìm kẹp, ức hiếp dân; 2.000 người ở Tuyên Thạnh đấu tranh đòi bồi thường cầu cống của dân bị địch phá; hơn 500 ngươi ở xã Nhơn Hòa Lập đấu tranh đòi chấp nhận đại diện của dân cử vào chính quyền.





Đài liệt sĩ (ảnh trên) và mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc do bộ đội và nhân dân
xây dựng ở quận lỵ Cao Lãnh trong thời gian 100 ngày tập kết chuyển quân (năm 1954)

Tháng 5 năm 1955, dân ở Cả Cái, xã Tân Thành, huyện Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc kéo tới tổ Ủy hội quốc tế ở Tân Châu phản đối Tiểu đoàn 508 ngụy bắt người trái phép. Tổ Ủy hội quốc tế can thiệp, chúng phải thả. Cùng trong tháng, 500 người ở Thới Sơn, Nhơn Hưng, An Cư kéo tới quận lỵ Tịnh Biên đòi chính quyền ngụy thả những người đấu tranh đòi hòa bình bị bắt; 500 người ở Vĩnh Xương, huyện Phú Châu kéo đến đồn đòi bồi thường sinh mạng ông Hồi là cán bộ kháng chiến hồi cư bị lính đồn vô cớ bắn chết. Trưởng đồn phải hứa bồi thường, nhưng chúng bắt 4 người trong đoàn đấu tranh. Cuộc đấu tranh tiếp tục kéo dài hàng tháng cho đến khi chúng phải thả. Ở Tịnh Biên, Tri Tôn, hàng ngàn đồng bào Khơme, có cả sư sãi, đấu tranh đòi trả chính quyền Việt Minh về cho họ, đòi không được trả thù những người kháng chiến.

Tháng 7 năm 1955, nổ ra cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân hai tỉnh Mỹ Tho, Gò Công sau vụ địch bắt giam 400 cán bộ kháng chiến hồi cư. Đơn từ, kiến nghị được trực tiếp đưa tới các cấp ngụy quyền, đến Ủy hội quốc tế ở Sài Gòn, tới tổ Ủy hội quốc tế ở Tân Châu, tố cáo Mỹ - Diệm vi phạm Điều 14C của Hiệp định Giơnevơ. Cuối cùng, địch phải thả những người bị bắt.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Ba, 2017, 11:01:00 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:07:08 am »

Trước tình hình địch khủng bố, bắt bớ những người kháng chiến hồi cư ở khắp các tỉnh, Thường trực Liên tỉnh ủy chỉ thị các tỉnh phát động phong trào đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ trong toàn dân. Ở nhiều xã, ấp thuộc các tỉnh Đồng Tháp Mười và vùng ven đã dấy lên phong trào chống cướp, rào nhà, làm cửa ngõ, rào xóm, sửa đường đi. Thanh niên được tổ chức thành đội chống cướp có gậy, roi, mõ, đuốc. Phụ nữ làm nhiệm vụ thông báo tin tức đấu tranh để giải thoát cán bộ bị bắt. Buộc bọn lính muốn vào nhà phải gọi cửa, có chủ ấp đi theo, muốn bắt ai phải có giấy của quận trưởng. Nhờ có tổ chức đó mà hạn chế được hoạt động của bọn biệt kích, chúng lẻn vào nhà nào cũng bị lộ, có nơi chúng còn bị dân bắt trói giải lên đồn.

Sau khi Diệm cho ban hành các chỉ dụ số 2 và số 7, thì trên tất cả các xã Khu Trung Nam Bộ xuất hiện từng đoàn người nhà địa chủ cùng với tề, dân vệ, tay thước, tay súng, đi đo lại đất để lập khế ước tính tô. Ở Tân An, bọn địa chủ ác ôn như Hội đồng Ngãi, Cai tổng Thân, Cai tổng Oai cướp lại của nông dân hàng ngàn hécta ruộng. Ở Mỹ Tho, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, những tên địa chủ lớn như Cai tổng Hường, Hai Xíu, Bang Sang, Nguyễn Ngọc Thơ sử dụng bộ máy chính quyền đi đòi nợ, thu tô, cướp đất, xáo canh cho chúng.

Trước tình hình này, Liên tỉnh ủy đã vận dụng sự chỉ đạo của Xứ ủy là lãnh đạo nông dân đấu tranh giữ nguyên canh, giảm tô thành yêu cầu phát động phong trào nông dân đấu tranh chống lập khế ước, đòi giảm tô và giữ nguyên canh. Sách lược đấu tranh là đoàn kết trung, bần, cố nông; liên hiệp với phú nông; tranh thủ địa chủ nhỏ; trung lập địa chủ vừa; cô lập địa chủ ác ôn. Tùy tương quan mà đấu tranh không đóng tô, hẹn nợ, hoặc đóng tô theo mức kháng chiến quy định, nhưng nhất quyết không làm khế ước, không để bị xáo canh.

Các cuộc đấu tranh diễn ra hết sức gay gắt. Nông dân sôi sục căm thù. Những cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra ở các tỉnh:

Ở Sa Đéc, phong trào đấu tranh rất sôi động, mạnh nhất ở vùng ven Đồng Tháp Mười, có cả gia đình binh sĩ, gia đình dân vệ tham gia, đồng tình ủng hộ, có nơi ngả hẳn về phía quần chúng, lôi cuốn của tề, dân vệ. Vì là quyền lợi thiết thân nhất, nên nông dân đấu tranh rất mạnh, có nơi như ở Bình Thạnh, Mỹ Tho, huyện Cao Lãnh, Phú Hựu, huyện Châu Thành giết cả địa chủ đi thu tô. Trên 200 nông dân xã Phong Mỹ và Bình Thành (thuộc Long Xuyên giáp ranh) kéo đi ngăn cản, rượt chém bọn đi đo đất.

Ở Châu Đốc, tên địa chủ On có 200 hécta đất, phần lớn là đất hoang hóa. Hắn cho tay chân đi đòi đất. Anh Cù Giáo là nông dân nghèo ở xã Vĩnh Hòa phục hóa được 20 công ruộng bị hắn lấy 10 công. Anh ức quá, đâm chết tên “cặp rằn” Sáu Đức là tay chân của tên On. On phải bỏ trốn.

Ở các huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc, Núi Sập, tỉnh Long Xuyên, địa chủ cho máy cày (có dân vệ đi theo) vào cày đất. Hàng trăm nông dân rượt đuổi, bọn lái máy cày và dân vệ phải bỏ chạy.

Ở xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc, tên Chỉnh, tay chân của tên địa chủ Phán Nhơn, đi cướp đất của nông dân bị bắn chết. Phán Nhơn hoảng sợ, không dám cướp đất nữa.

Ở Long Xuyên, tên đại địa chủ Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng trong chính phủ Diệm, hứa thưởng cho ai chỉ trụ đá ranh giới đất của hắn, nhưng không ai thèm chỉ.

Ở các xã Tân Thạnh, Tân Phú, Bình Thành, tổng Phong Thạnh Thượng, tỉnh Long Xuyên và xã Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc, hàng 50 - 70 người dùng gậy gộc, dao búa ngăn cản hoặc rượt chém bọn cướp đất.

Ở huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, anh Chà nông dân xã Đạo Thạnh bị cướp đất, anh chém tên địa chủ rồi tự sát. Một nông dân ở xã Bình Đức chém chết tên địa chủ cướp bốn phần đất của bốn hộ nông dân, anh bị chúng bắt nhưng bốn hộ nông dân giữ được đất.

Cuộc đấu tranh diễn ra suốt trong hai năm 1955 - 1956. Kết quả nông dân giữ được nguyên canh, chừng 50% phải đóng tô ở mức thấp và khoảng 30% phải lập khế ước. Có nơi địa chủ phải trả lại đất và lúa tô mà chúng đã cướp của nông dân.

Tháng 10 năm 1956, Ngô Đình Diệm ra chỉ dụ số 57, tiếp tục đánh vào quyền sở hữu ruộng đất do cách mạng mang lại cho nông dân. Chúng quy định truất hữu ruộng đất đối với địa chủ chiếm hữu trên 100 héc ta. Ngụy quyền đã mua đất truất hữu, trong đó bao gồm cả đất của nông dân đã được cách mạng cấp, và bán lại cho chính họ. Ai không mua được thì nhường cho người khác. Ý đồ của chúng là xóa bỏ hoàn toàn chủ quyền ruộng đất do cách mạng đem lại, xáo trộn ruộng đất, gây mất đoàn kết trong nông dân, và sâu xa hơn là chúng biến địa chủ thành tầng lớp tư sản mới làm chỗ dựa chính trị cho chế độ phản động.

Nông dân lại đấu tranh quyết liệt để giữ cho được ruộng đất. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, nông dân phải chịu bị cướp mất đất, phải lo tiền mua để có đất, coi như số tiền đó bị Mỹ - Diệm ăn cướp. Kẻ thù đánh vào quyền lợi ruộng đất của nông dân là đánh vào chỗ dựa sống còn của cách mạng. Đảng bộ đã nỗ lực lãnh đạo nông dân kiên trì giữ đất.

Đi đôi với việc cướp đất, truy tô, xáo canh, ngụy quyền còn đưa ra chủ trương “hữu sản hóa nông dân”. Chúng nhận định là thực dân Pháp trước kia nắm nông dân bằng bần cùng hóa nên nông dân theo cộng sản. Vì vậy, chúng thực hiện âm mưu đẩy mạnh phong trào nông nghiệp, truất hữu đất của địa chủ bán cho nông dân, đầu tư vốn, kỹ thuật để tạo ra một tầng lớp tư sản ở nông thôn. Nông dân bị ràng buộc với chúng, chúng sẽ nắm được nông dân, tách nông dân ra khỏi cách mạng, nông dân sẽ chống cộng. Đây là một chủ trương rất thâm độc nằm trong chính sách thực dân mới của Mỹ.

Ở Mỹ Tho, khi nghe tin ngụy quyền sẽ cho nông dân vay bạc, vay phân, vay trâu, quần chúng rất xôn xao. Thường vụ huyện ủy Châu Thành họp bàn đối phó với việc này, chủ trương tẩy chay việc Mỹ viện trợ. Nhưng nông dân ở nhiều nơi đã phát biểu ý kiến: Nông dân đang thiếu vốn, thiếu trâu, thiếu phân, nhân dịp này, cứ để dân lấy để phát triển sản xuất, tăng gia thêm được tiền bạc ủng hộ cách mạng. Đảng cần để cho nông dân lấy và còn phải lãnh đạo họ đấu tranh đòi nhiều hơn nữa, lãnh đạo họ chống bọn ăn xén ăn bớt, chống những điều kiện ràng buộc, dấy lên thành phong trào đấu tranh vạch trần sự giả nhân, giả nghĩa của chúng. Các ý kiến này được báo cáo, phản ánh lên tỉnh, lên Khu và được Liên tỉnh ủy đồng tình, chỉ đạo biến thành chủ trương chung.

Ở An Giang, lúc đầu tỉnh cũng chủ trương vận động quần chúng tẩy chay, nhưng sau đã được sự chỉ đạo của Liên tỉnh ủy uốn nắn lại.

Cuộc đấu tranh đòi vay bạc, vay phân, vay trâu đã diễn ra sôi nổi khắp các tỉnh Khu Trung Nam Bộ, kéo theo cả những nông dân tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài, Công giáo di cư cũng tham gia.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:08:05 am »

2. Phong trào đấu tranh đòi Mỹ - Diệm hiệp thương tổng tuyển cử

Thi hành chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ, Thường trực Liên tỉnh ủy ra văn bản chỉ đạo mở đợt đấu tranh thống nhất toàn Khu Trung Nam Bộ từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 7 năm 1955.

Văn bản chỉ đạo của Thường trực Liên tỉnh ủy đã vượt qua hàng trăm đồn bốt địch, đến các tỉnh ủy, huyện ủy và được hàng ngàn cán bộ, đảng viên truyền đạt tới quần chúng. Vậy là có hàng triệu người xuống đường, bất chấp khủng bố, chết chóc, tù đày, đã sáng tạo ra nhiều biện pháp đấu tranh với kẻ thù thâm độc, tàn ác.

Ở Mỹ Tho trong đợt này, có hai cuộc biểu tình trực diện, có hàng ngàn người tham gia, hàng ngàn cuộc mít tinh, họp xóm ấp, hội thảo, ký kiến nghị, hô khẩu hiệu. Hàng trăm người có thân nhân bị bắt cùng dân trong xã đi gặp quận, tỉnh, tổ Ủy hội quốc tế Tân Châu, Ủy hội quốc tế ở Sài Gòn để đấu tranh. Trên quốc lộ 4, đồng bào chặn xe để treo băng, khẩu hiệu, biểu ngữ, đưa dư luận tới Sài Gòn. Trên sông, đồng bào thả các bè chuối mang biểu ngữ. Ở các phường, khóm trong thị xã, thị trấn cũng có những cuộc mít tinh, hội họp, ký kiến nghị, treo băng, biểu ngữ, rải truyền đơn.

Ở Châu Đốc đợt này có cuộc đấu tranh trực diện với tỉnh trưởng của 3.000 người. Hình thức tập hợp rất khôn khéo. Lúc đầu chỉ có 7 chị mang kiến nghị hiệp thương tổng tuyển cử đến xin gặp tỉnh trưởng. Lính gác không cho vào. Lát sau, hàng trăm người tụ tập trước dinh. Có tin tung ra tỉnh trưởng hứa đổi bạc, tin này làm số người kéo đến càng đông, cả khách vãng lai cũng đến. Họ la vang đòi gặp tỉnh trưởng. Tên tỉnh trưởng phải ra tiếp và nhận kiến nghị.

Sau đấu tranh trực diện là bãi thị. Hơn 40% tiệm lớn và 60% tiệm nhỏ đóng cửa. Dân không đi chợ. Mua bán đình trệ; phố xá thưa thớt. Ngụy quyền cho gọi loa và cho lính đi từng nhà ra lệnh phải mở cửa. Các chủ tiệm từ chối với lý do chợ vắng mở cửa bán không ai mua. Chúng phải chấp nhận cuộc bãi thị.

Sáng ngày 20 tháng 7 năm 1955, chợ Tân Châu trở nên tấp nập bởi người đi chợ đông hơn bình thường, từ phía Thường Phước qua, An Hòa Xương xuống, Long Sơn, Long Thuận lên,… Đến giờ hành động, đoàn Long Phú rút băng và khẩu hiệu ra, lấy mía cây trương lên rồi kéo đến Ủy hội quốc tế. Lực lượng các xã nhập lại lên đến 2.000 người. Bà con đi chợ và dân phố cũng hưởng ứng nên càng thêm đông. Nội dung các khẩu hiệu là đòi chính quyền ngụy lập lại quan hệ bình thường giữa Nam và Bắc, tổ chức hiệp thương, tổng tuyển cử, thả những người bị bắt, không trả thù người kháng chiến, thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, đòi đổi bạc…

Ở tỉnh Sa Đéc, khắp các địa phương, quần chúng rầm rộ biểu tình, mang băng rôn, biểu ngữ đến quận, tỉnh, đòi chính quyền ngụy hiệp thương với miền Bắc.

Sau đợt đấu tranh này, các tỉnh Khu Trung Nam Bộ còn tiến hành hai đợt đấu tranh thống nhất chống trưng cầu dân ý, phế truất Bảo Đại và chống tuyển cử riêng rẽ ở miền Nam. Liên tỉnh ủy chủ trương phát động quần chúng tẩy chay không đi bỏ phiếu, ai bị bắt ép thì vào phòng phiếu gạch mặt, gạch tên Diệm, làm cho phiếu không hợp lệ. Hơn 50% số cử tri không đi bỏ phiếu, lính ngụy phải vào xóm ấp lùa từng người.

Ở một số nơi như xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, các xã Mỹ Long, Mỹ Hiệp tỉnh Sa Đéc, đồng bào cướp cả thùng phiếu. Tại thị xã Cao Lãnh, học sinh vẽ khẩu hiệu trên đường phố, phân phát truyền đơn, tờ bướm. Ở các xã vùng ven Cao Lãnh, đồng bào viết khẩu hiệu phản đối, dán trước các ngõ. Ở Châu Đốc và ở huyện Mộc Hóa, tỉnh Tân An, nhiều điểm bỏ phiếu bị đập phá.

*
*   *

Từ sau ngày Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, Đảng bộ Khu Trung Nam Bộ đã rút vào hoạt động bí mật. Đảng vẫn bảo tồn được lực lượng và lãnh đạo các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng, làm thất bại một bước ý đồ dùng chính sách thực dân kiểu mới giành dân của địch. Trong những năm 1954 - 1956, công tác tổ chức và vận động quần chúng của Đảng bộ Khu Trung Nam Bộ rất chặt chẽ, đảng viên và lãnh đạo đều ở trong dân nên đã nắm được hơn 90% quần chúng nông thôn và hơn 50% quần chúng ở đô thị. Trong nội bộ địch thì phần lớn tề xã, ấp, dân vệ, một số lớn binh sĩ, bảo an, chủ lực là người của cách mạng.

Trước bản chất độc tài, phát xít và hành động khủng bố, trả thù của địch, từ năm 1954 đến năm 1956, cao trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp quần chúng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp và mạnh mẽ trong các tỉnh Khu Trung Nam Bộ. Cao trào đã vô hiệu hóa phần lớn các âm mưu bắt lính, cướp ruộng đất, khủng bố tiêu diệt cơ sở cách mạng của kẻ thù.

Đấu tranh chính trị ở Khu Trung Nam Bộ là quá trình vận động sáng tạo đường lối, chủ trương của Trung ương từ chiến tranh chuyển sang đấu tranh hòa bình trong điều kiện của địa phương và trong bối cảnh Mỹ - Diệm còn đang phải đối phó với các lực lượng thân Pháp trong nội bộ chúng.

Đấu tranh chính trị là một sáng tạo trong chỉ đạo phong trào cách mạng quần chúng ở Trung Nam Bộ trong điều kiện địch áp dụng chính sách thực dân kiểu mới kết hợp ve vãn, mua chuộc, lừa mị với khủng bố, đánh phá, bắn giết, bắt bớ, giam cầm ở khắp nơi. Đảng bộ đã biết khai thác nhược điểm của chính sách hai mặt của địch để tấn công chúng.

Đấu tranh chính trị ở các tỉnh Trung Nam Bộ là cuộc tập dượt quy mô lớn của quần chúng, tạo tiền đề cho thời kỳ cách mạng tiến công nổi dậy đồng loạt trong toàn Khu sau này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:09:29 am »

CHƯƠNG II

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG, TIẾN HÀNH ĐỒNG KHỞI
(1955 - 1960)

I - NHỮNG TIỀN ĐÈ CỦA NỔI DẬY

1. Lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ địch

Từ cuối năm 1954 đến hết năm 1955, cơ quan Liên tỉnh ủy đóng ở Rạch Tràm, thuộc xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An và huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho, thuộc phía nam lộ 4. Thời gian này, nội bộ địch đang có những diễn biến phức tạp, bọn tay sai của Pháp và của Mỹ có khả năng sẽ xung đột với nhau. Bọn thân Mỹ đã mạnh lên, hơn hẳn bọn thân Pháp. Nhưng bọn thân Pháp cũng không dễ dàng đầu hàng, vì chúng có vũ trang khá mạnh, lại chiếm cứ những vùng đông dân. Chắc chắn bọn chúng sẽ đánh nhau và điều này có lợi cho cách mạng, ta cần phải lợi dụng tình hình. Trong khi chờ chỉ đạo của Trung ương và Xứ ủy, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ chỉ thị cho các tỉnh theo dõi chặt chẽ tình hình và cử cán bộ đi sâu tuyên truyền, vận động đồng bào tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo, vạch trần âm mưu muốn tiêu diệt giáo phái của Mỹ - Diệm, đồng thời cho đồng bào thấy rõ chính sách tốt đẹp của cách mạng, giải tỏa được những hiểu lầm, hiềm khích trước đây.

Ở Sài Gòn, ngày 28 tháng 4 năm 1955, quân Diệm tấn công lực lượng Bình Xuyên. Quân Bình Xuyên thua to phải rút vào Rừng Sác. Lực lượng Cao Đài ly khai của Trịnh Minh Thế, rồi tiếp theo là nhóm của Nguyễn Thành Phương, Văn Thành Cao đầu hàng Diệm. Tòa thánh Cao Đài ở Tây Ninh bị chiếm đóng. Hộ pháp Phạm Công Tắc bỏ chạy sang Phnômpênh. Một số lực lượng Cao Đài trung thành với Phạm Công Tắc do các tên đại tá Khiêm, đại tá Phụng cầm đầu phải rút vào Mộc Hóa, Đồng Tháp Mười.

Ngày 5 tháng 6 năm 1955, Diệm mở chiến dịch Đinh Tiên Hoàng I, huy động 20 tiểu đoàn vây đánh quân Hòa Hảo của Năm Lửa (Trần Văn Soái) ở Cái Vồn, Cần Thơ và quân Hòa Hảo của Hai Ngoán (Lâm Thành Nguyên) ở Cái Dầu, Châu Đốc. Năm Lửa bị mất phần lớn lực lượng, số còn lại phải rút chạy vào Đồng Tháp Mười.

Ngày 13 tháng 6 năm 1955, Hai Ngoán đầu hàng Diệm. Một số tay chân của Ngoán do Lê Hồng Tươi, Trần Thanh Hồng cầm đầu không chịu đầu hàng, tách ra đóng ở vùng An Hòa Xương.

Quân Hòa Hảo của Ngộ (Nguyễn Giác Ngộ) vội vã đầu hàng Diệm, trở thành lực lượng bảo an đồng hóa. Dân xã Đảng Ba Cụt (Lê Quang Vinh) được sự giúp đỡ của bọn tay sai Pháp, chống Diệm.

Một tuần sau khi quân Diệm và quân Bình Xuyên đánh nhau, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ được Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ đạo: “tìm cách duy trì lực lượng giáo phái ly khai để gây khó khăn cho Mỹ - Diệm”. Đồng chí Tư Long, Liên tỉnh ủy viên, được chỉ thị thôi làm Bí thư Tỉnh ủy Long Xuyên để về cơ quan liên tỉnh ủy, đặc trách công tác Hòa Hảo vận, binh, chánh vận.

Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ ra chỉ thị về phương hướng hành động đối với lực lượng giáo phái ly khai. Chỉ thị nêu rõ: Lực lượng giáo phái ly khai chống Diệm là dựa vào Pháp. Bản chất của họ là ham quyền, ham lợi, nếu Diệm đánh mạnh và bỏ ra nhiều tiền để mua chuộc thì có khả năng họ sẽ tan rã, đầu hàng. Ta cần đưa người vào giúp họ đánh Diệm, thuyết phục họ phải biết dựa vào dân, không đụng chạm đến quyền lợi, tính mạng, tài sản của dân để được dân ủng hộ; vừa tranh thủ bọn chỉ huy, vừa vận động binh lính.

Trước mắt, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ chỉ thị cho đồng chí Chín Còn - Bí thư Tỉnh ủy Gò Công rút một số cán bộ, chiến sĩ còn lại đưa sang Rừng Sác thâm nhập vào lực lượng Bình Xuyên.

Đến tháng 6 năm 1955, tình hình giáo phái chống Diệm phát triển ở Đồng Tháp Mười. Nhận thấy cần phải theo sát để chỉ đạo, cơ quan Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ chuyển căn cứ vùng ven thị xã Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc, từ Hòa An lên Phong Mỹ qua Mỹ Ngãi, Mỹ Trà và xuống phía nam huyện Cao Lãnh. Căn cứ được xây dựng ở xã Long Hiệp và bám trụ ở đây đến cuối năm 1955 thì chuyển xuống các xã Mỹ Phong, Thanh Bình, huyện Chợ Gạo và một số xã ven thị xã Mỹ Tho.

Liên tỉnh ủy đã chỉ đạo các Tỉnh ủy Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Mỹ Tho, Tân An bố trí cán bộ, chiến sĩ hồi cư giúp lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo và vận động họ lập các ủy ban quân chính giáo phái, tự vệ, du kích, giáo phái các xã, rồi bí mật đưa người của ta vào. Các tổ chức này mang danh nghĩa giáo phái nhưng đấu tranh phá thế kìm kẹp, trừng trị ác ôn, trấn áp tề xã, ấp, liên gia, chỉ điểm…, giúp đồng bào đấu tranh bảo vệ quyền lợi ruộng đất, chống bắt lính… giống như chính quyền cách mạng ở xã, ấp. Tỉnh ủy các tỉnh Đồng Tháp Mười đã thi hành triệt để chỉ thị của Liên tỉnh ủy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:10:14 am »

Đối với khối Hòa Hảo ly khai, Tỉnh ủy Châu Đốc đưa các đồng chí Lê Trung Cang, Hồng Việt, Tư Sâm, Mười Dân, Năm Phàn, Huỳnh Văn Tụi bám theo cánh quân của Năm Lửa. Huyện ủy Tân Châu, An Phú đưa người vào lực lượng của Lê Hồng Tươi, Trần Thanh Hồng. Lực lượng này xưng là Tiểu đoàn Lê Văn Duyệt, đồng thời là Bộ Tư lệnh Lâm Thành Nguyên. Đồng chí Lê Văn Khoái, Huyện ủy viên, Bí thư xã Vĩnh Xương, đồng hương với Tươi, làm cố vấn cho Tươi. Đồng chí Sáu Tố, cán bộ tuyên huấn Tỉnh ủy Châu Đốc được Tươi cử làm Chính trị viên Tiểu đoàn. Đồng chí đã tổ chức dạy văn hóa cho binh sĩ Hòa Hảo, giáo dục họ không hà hiếp dân. Tươi là dân anh chị, chẳng hề phục ai nhưng lại rất nể đồng chí Sáu Tố. Trong số những đồng chí vào đơn vị của Tươi có người trước đây là y tá, đã sử dụng nghề nghiệp của mình để chữa bệnh cho tín đồ và quần chúng ở những vùng đóng quân, qua đó làm công tác dân vân, tuyên truyền cách mạng. Đến đầu năm 1956, đơn vị của Hồng tan rã, số đồng chí ở đây nhập sang đơn vị của Tươi. Các đồng chí vận động Tươi cho tách ra thành lập đơn vị riêng, lấy phiên hiệu là Đại đội 4. Đại đội này cùng hoạt động với Tiểu đoàn của Tươi, đánh quân Diệm và trừng trị ác ôn.

Tỉnh ủy Long Xuyên đưa các đồng chí Võ Văn Tôn, Văn Thông, Tư Bình, Ba Tính, Tư Việt Sinh vào lực lượng Dân xã Đảng Ba Cụt. Một thời gian sau khi các cán bộ, chiến sĩ của Đảng bộ Long Xuyên, Châu Đốc thâm nhập vào giáo phái Hòa Hảo, nhiều tín đồ và binh sĩ Hòa Hảo đã được giác ngộ cách mạng, trở thành đảng viên, như các đồng chí Bảy Tỉnh, Tám Sái, Mười Tôn, Tư Rô, Mười Chải. Đây là những vốn quý của cách mạng ở một vùng mà tín đồ Hòa Hảo chiếm số lượng lớn, đòi hỏi những người làm cách mạng là những tín đồ Hòa Hảo.

Ở tỉnh Tân An, Huyện ủy Mộc Hóa rất vui mừng khi nhận được chỉ đạo của Khu. Huyện ủy lựa chọn, đưa ngay 37 người vào quân Hào Hảo của Năm Lửa, trong đó có những đồng chí như Hai Trải, Tư Phong, Hai Trung, Sáu Nhỏ, Huỳnh Nho,… Huyện ủy còn liên lạc với Tiểu đoàn 65 Hòa Hảo để xin súng, trang bị cho một trung đội và hai tiểu đội do ta thành lập. Đơn vị này hoạt động song song với Tiểu đoàn 65 Hòa Hảo, cùng phục kích diệt 2 trung đội lính Diệm ở ngã ba Đốc Vàng, Tân Phú.

Ở tỉnh Sa Đéc, khi lực lượng Hòa Hảo ly khai kéo vào Đồng Tháp Mười, Huyện ủy Cao Lãnh phân công đồng chí Tư Tiến, Huyện ủy viên cùng 20 cán bộ quân sự và du kích hồi cư gặp Năm Lửa vận động hắn nhận các đồng chí làm cố vấn. Đang lúc lúng túng, hắn chấp nhận và đồng ý cho tổ chức Ủy ban giáo phái và tự vệ Hòa Hảo ở xã. Tất cả các xã dọc lộ 30 đều thành lập Ủy ban giáo phái và tự vệ Hòa Hảo, ta dùng hình thức này để đưa người vào hoạt động ở xã, ấp. Từ những việc mà Huyện ủy Cao Lãnh đã làm được, Tỉnh ủy chỉ thị các huyện ủy khác trong tỉnh chọn cán bộ, đảng viên hoạt động bất hợp pháp tổ chức các Ủy ban giáo phái và tự vệ Hòa Hảo ở các nơi trong tỉnh.

Tỉnh Mỹ Tho cũng đưa người vào lực lượng giáo phái Hòa Hỏa nhưng chỉ có mấy người, vì lúc này ở Mỹ Tho phong trào đấu tranh chính trị đang mạnh, chính quyền ấp, xã đều do chi bộ nắm, không cần đến lực lượng vũ trang phá kìm kẹp, giải tán bộ máy chính quyền ở xã, ấp.

Đầu năm 1956, cơ quan Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đóng ở vùng kênh Ba Tháp. Trước việc Diệm đánh ngày càng mạnh vào các đơn vị giáo phái ly khai, Liên tỉnh ủy đã chỉ thị cho cơ quan tổ chức cho một bà má xuống Chợ Gạo tìm Văn Phú, là người của phòng nhị Pháp, nguyên là cố vấn chính trị của Năm Lửa, đang trốn tránh ở đó. Ý định là thông qua Văn Phú nối liên lạc với Pháp tranh thủ tiếp tế cho Năm Lửa. Nhưng trong khi Văn Phú đang trên đường từ cơ quan Liên tỉnh ủy đi gặp Năm Lửa, thì ngày mồng 2 tết năm 1956, Năm Lửa đã đưa 600 quân ra hàng, tập kết ở Đốc Vàng, Tân Phú và Voi Me, Mỹ Thọ, Cao Lãnh.

Với khối Cao Đài ly khai, địa bàn hoạt động của họ nằm chủ yếu trong tỉnh Tân An. Huyện ủy Mộc Hóa đã cử các đồng chí Sáu Thảo - Bí thư xã Phong Phú, Bảy Thới - tiểu đội trưởng Vệ quốc đoàn, và đồng chí Tư Dẫn vào đơn vị Cao Đài của Khiêm đóng ở biên giới Campuchia, các đồng chí Tư Đúng, Mười Xưởng, Bảy Xứng vào hoạt động trong lực lượng Cao Đài của Thái Khai. Các đồng chí này được họ đồng ý cho tổ chức các đơn vị tự vệ mang danh nghĩa giáo phái Cao Đài và trang bị cho những người của cách mạng đưa vào. Từ Bình Hiệp đến Bình Hòa, Phong Phú, Thủy Đông, Thuận Nghĩa, Tân Đông, dọc biên giới và theo sông Vàm Cỏ Tây, nơi nào cũng có các đội tự vệ giáo phái hoạt động.

Tháng 7 năm 1955, Diệm mở chiến dịch đánh vào lực lượng Cao Đài của Khiêm. Lực lượng của Khiêm tan rã. Các đồng chí trong lực lượng của Khiêm tách ra, được đồng chí Võ Văn Tăng, - Huyện ủy viên phụ trách vùng, đưa nhập vào đơn vị Cao Đài của Phụng đang chiếm đóng từ Vàm Cỏ Đông qua Giồng Dinh, Giồng Lức, thuộc các xã của huyện Thủ Thừa, Tân An. Phụng đưa khung tiểu đoàn của hắn sang lập một tiểu đoàn mới, lấy tên là Tiểu đoàn Văn Kia, đóng ở Trắp Tre. Đồng chí Sáu Thảo được cử làm Chính trị viên tiểu đoàn, đồng chí Bảy Ngôn làm cố vấn cho tiểu đoàn trưởng, đồng chí Bảy Thới làm Đại đội phó, đồng chí Tư Dẫn phụ trách văn phòng đại đội. Tiểu đoàn này hoạt động từ xã Bình Hiệp tới xã Bình Hòa, Bình Thành, Thủy Đông dọc biên giới Campuchia. Tỉnh ủy Tân An còn rút một số cán bộ ở các huyện cài vào lực lượng giáo phái Cao Đài ly khai này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:10:54 am »

Đến tháng 7 năm 1956, các nhóm Cao Đài ly khai tan rã. Như vậy chỉ còn hai đơn vị nhỏ giáo phái ly khai là đơn vị Dân xã Đảng của Bảy Ớt, em của Ba Cụt và đơn vị Hòa Hảo của Lê Hồng Tươi.

Từ tháng 3 năm 1956, trước tình hình các lực lượng giáo phái ly khai hầu hết khai tan rã, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đã chỉ thị cho các tỉnh thành lập các lực lượng vũ trang cách mạng mang danh nghĩa giáo phái, tiếp tục hoạt động để giữ thế cách mạng vừa tạo được ở Đồng Tháp Mười.

Thực hiện chỉ đạo này, ở Sa Đéc, Huyện ủy Cao Lãnh cử đồng chí Mười Ái - Ủy viên Thường vụ Huyện ủy tập hợp chiến sĩ, gom súng của Hòa Hảo để lại thành lập hai phân đội 210 và 401. Đồng chí Nguyễn Văn Phối - Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp xây dựng một đơn vị lấy từ cán bộ, đảng viên hoạt động bất hợp pháp, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh Hòa Hảo, đưa đồng chí Tư Tiến - Huyện ủy viên Cao Lãnh làm Chính trị viên và dùng đại úy Hồng - tín đồ Hòa Hảo ở lại làm Tiểu đoàn trưởng, trang bị lấy từ số súng của tỉnh cất giấu. Ở phía nam sông Tiền, các đồng chí Việt Châu, Mai Xuân Quảng tổ chức lực lượng xây dựng đơn vị, lấy tên là Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt. Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh từ ba phân đội, 100 người ban đầu về sau phát triển thành chín đại đội quân số lên đến 300 người. Cán bộ, chiến sĩ đều là người của cách mạng, không có một người lính Hòa Hảo nào. Các đại đội chia ra bảo vệ các vùng, bảo vệ cơ quan Tỉnh ủy, đánh càn, phục kích bọn lính Diệm đi lùng sục, hỗ trợ cho lực lượng tự vệ xã trấn áp ngụy quyền xã, ấp, chống bắt lính, chống cướp ruộng đất cách mạng đã cấp cho nông dân, chống phá các cuộc bầu cử của ngụy quyền, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân.

Ở tỉnh Tân An, cán bộ, chiến sĩ do Huyện ủy Mộc Hóa đưa vào lực lượng Cao Đài đã rút ra thành lập một đơn vị gồm 6 tiểu đội, lấy danh nghĩa Tiểu đoàn Phước Dư - Cao Đài, do đồng chí Bảy Thới làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thông làm Chính trị viên.

Cho đến năm 1956, Đảng bộ tỉnh Chợ Lớn bị địch đánh phá ác liệt nhưng còn thuộc Liên tỉnh ủy miền Đông đang tuyệt đối không hoạt động vũ trang để giữ gìn lực lượng. Đồng chí Sáu Đường - Bí thư Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ cho tập hợp số cán bộ hồi cư hoạt động bất hợp pháp từ Chợ Lớn tránh về Đồng Tháp Mười thành lập ba trung đội 29, 30, 31. Vùng Rừng Sác thành lập Đại đội 12, gồm 12 chiến sĩ vượt ngục ở Biên Hòa. Các đồng chí Mười Xưởng, Tư Đúng, Bảy Xứng diệt tên Thái Khai, tách ra thành lập đơn vị lấy tên là Tiểu đoàn Quang Huy - Cao Đài. Sau đó. đồng chí Ba Du lại thành lập đơn vị lấy tên là Tiểu đoàn Lê Quang - Bình Xuyên. Các đơn vị trên là tiền thân của hai tiểu đoàn 506, 508 lực lượng vũ trang Long An tiến công đánh tan tàn quân Cao Đài của Phụng.

Tháng 6 năm 1956, Tiểu đoàn Phước Dư về vùng kênh Bùi xã Tân Ninh khai hầm lấy lên 60 khẩu súng đã cất giấu từ trước cộng với số súng lấy được của giáo phái trang bị và phát triển lực lượng thành ba trung đội, mang danh nghĩa ba đại đội, hoạt động ở các vùng, là tiền thân của Tiểu đoàn 504 lực lượng vũ trang Kiến Tường.

Đối với những đồng chí được Tỉnh ủy Gò Công đưa ra Rừng Sác giúp lực lượng Bình Xuyên, sau khi Bình Xuyên tan rã, Liên tỉnh ủy cho hai đồng chí Đào Kim Sơn và Tám Dần sang tìm được mấy chục người, thành lập đơn vị mang danh Bình Xuyên kéo về Đồng Tháp Mười. Liên tỉnh ủy rút thêm cán bộ, chiến sĩ của Tân An, Mỹ Tho bổ sung vào rồi đặt phiên hiệu là Tiểu đoàn 2 Bình Xuyên, trực thuộc Khu Trung Nam Bộ, do đồng chí Sáu Thanh (Trần Hữu Danh) làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đào Kim Sơn làm Tiểu đoàn phó, đồng chí Tám Dần làm Chính trị viên. Một thời gian sau Tiểu đoàn này giao lại cho tỉnh ủy Sa Đéc nhập với Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh của tỉnh, là tiền thân của Tiểu đoàn 502 lực lượng vũ trang Kiến Phong.

Ở Mỹ Tho, hàng chục cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên ở Cái Bè, Cai Lậy tạm lánh vào vùng Tân Ninh, Nhơn Ninh, Tân Hòa, Mộc Hóa, Tân An. Không có súng, các đồng chí lấy khúc trâm bầu làm vũ khí, đêm về diệt ác ôn, vận động quần chúng, ngày trở lại vùng trong, trú dưới rặng trâm bầu. Dân gọi là “bộ đội trâm bầu”. Một số cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương, xã đội, du kích ở các xã vùng ven Đồng Tháp Mười như Cai Lậy, Châu Thành bị ngụy quyền truy nã, đã tạm lánh vào Tân Hòa Đông, căn cứ cũ của hai huyện, sông bằng nghề nhổ bàng, cắt đưng, bắt cá. Ở đây, các đồng chí kết hợp với đồng chí Năm Chi - Bí thư chi bộ xã Tân Hòa Đông, đào được hầm súng của tỉnh Gò Công chôn ở Tràm Mù liền tổ chức lực lượng vũ trang hoạt động trấn áp ngụy quyền xã, ấp vùng kênh Nguyễn Văn Tiếp A.

Như vậy là lực lượng vũ trang các tỉnh Đồng Tháp Mười đã được thành lập. Tuy còn ít, nhưng ảnh hưởng của hoạt động vũ trang đã làm cho ngụy quyền cơ sở ở những nơi này giảm uy thế, bớt hống hách, đồng bào dễ thở hơn, đã có thể chống lại ách kìm kẹp và tham gia ủng hộc cách mạng. Gặp mặt bọn tề và lính, đồng bào đã nói thẳng: Tình thế bây giờ đã khác trước, mấy ông phải liệu lấy thân, gian ác làm khổ dân sẽ bị trừng trị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 18 Tháng Mười, 2012, 08:11:39 am »

Đã có lực lượng vũ trang, Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ cho thành lập cơ quan chỉ huy quân sự cấp Khu của các tỉnh Đồng Tháp Mười, đóng ở Trắp Tre gắn liền với biên giới Campuchia, với danh nghĩa Bộ tư lệnh lực lượng vũ trang giáo phái giải phóng, do đồng chí Lê Văn Khuyên (Tám Dần) xưng danh Trung tá Lưu Phước Nam làm Tư lệnh, đồng chí Quốc Hùng - Phó bí thư Huyện ủy Mộc Hóa, làm Phó tư lệnh. Các đơn vị vũ trang gọi tên chung là lực lượng Cao Thiên Hòa Bình, lấy cờ đỏ có ngôi sao xanh làm quân kỳ. Đồng chí Bí thư Liên tỉnh ủy giải thích về ý nghĩa lá cờ: “Màu đỏ là tượng trưng cho cách mạng, còn ngôi sao xanh tượng trưng cho hòa bình cách mạng trong đường lối đấu tranh chính trị hòa bình”. Bắt đầu từ đây cho đến ngày Đồng khởi năm 1960, lá cờ đỏ ngôi sao xanh đã trở thành biểu tượng cho cách mạng ở Khu VIII. Để phối hợp giữa chính trị và quân sự trong tình hình đã có lực lượng vũ trang cách mạng, ở Đồng Tháp Mười đã thành lập các ban quân chính các cấp, là tiền thân các tỉnh đội, huyện đội sau này.

Như vậy, là từ những tháng đầu năm 1956, qua việc Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ tổ chức lực lượng vũ trang ở các tỉnh để hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh bảo vệ cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng, cục diện đấu tranh cách mạng của Khu Trung Nam Bộ đã chuyển sang một hình thái mới. Trên một địa bàn rộng là Đồng Tháp Mười vốn là căn cứ địa trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước kia đã tạo nên một thế mới, quần chúng đã nổi dậy phá kìm kẹp, tấn công địch từng bước, làm chủ từng phần ở xã, ấp vùng nông thôn. Đây là nơi cán bộ, đảng viên đã có thể bám dân hoạt động cách mạng, địch không dễ dàng lùng bắt, tàn sát, đồng thời cũng là nơi những cán bộ, đảng viên bị địch lùng bắt ở các vùng đến trú chân. Những người này sẽ là nguồn bổ sung quan trọng cho lực lượng cách mạng phát triển vượt bậc khi thời cơ đến sau này.

Lúc đầu lấy danh nghĩa đội tự vệ giáo phái gồm 3-4 người, đến năm 1956 ta đã có tới trung đội gồm hàng chục người, mang danh hiệu tiểu đoàn, có thanh thế. Có tỉnh có tới hai tiểu đoàn, như Long An có Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 8, có tỉnh có một tiểu đoàn, như Kiến Phong có Tiểu đoàn 2, Kiến Tường có Tiểu đoàn 4.

Riêng Tiểu đoàn 2 Bình Xuyên được thành lập từ những cán bộ, chiến sĩ của Gò Công được phái đi giúp Bình Xuyên trở về, có bổ sung thêm cán bộ, chiến sĩ của các tỉnh vùng trên. Tiểu đoàn này lúc mới thành lập trực thuộc Khu bộ, sau nhập với Tiểu đoàn 2 của tỉnh Kiến Phong.

Với người dân Đồng Tháp Mười, dầu các tiểu đoàn mới thành lập mang tên Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên nhưng họ hiểu ngay đó là lực lượng vũ trang của cách mạng. Vì nhìn mặt cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị chẳng ai lạ, toàn là con em của họ trong kháng chiến chống Pháp.

Đồng bào các tỉnh Đồng Tháp Mười đã không bỏ lỡ cơ hội, lấy lại thế tấn công chính trị của mình. Việc quan trọng nhất đối với đồng bào là đấu tranh trực diện kết hợp bạo lực vũ trang đòi lại quyền làm chủ ruộng đất.

Sau Hiệp định Giơnevơ người dân thực hiện khẩu hiệu đấu tranh mà Xứ ủy đề ra là đòi giữ nguyên canh, giảm tô. Nhưng khi đã có lực lượng vũ trang thì thế của dân lên, không phải chỉ đấu tranh đòi giảm tô mà đòi bỏ tô và đòi trả lại quyền làm chủ ruộng đất cách mạng đã cấp. Thí dụ như sự kiện đấu tranh với địa chủ Lý Thị Hường, con gái của địa chủ Lý Văn Mạnh, một địa chủ lớn, có hàng ngàn mẫu đất trồng dừa và lúa, có cả con kênh mang tên Lý Văn Mạnh trên đất tỉnh Chợ Lớn. Thị Hường lại là chị vợ tướng Trần Văn Đôn, một viên tướng có thế lực trong chính quyền Diệm; bọn địch ở tỉnh, quận chỉ là đàn em của Đôn và tay chân của Hường. Lý Thị Hường đã cướp lại tất cả số ruộng đất mà cách mạng đã cấp cho nông dân, truy tô, hống hách, sỉ nhục nông dân. Nông dân đã đấu tranh chính trị vơi Lý Thị Hường, nhưng không thu được kết quả. Khi có lực lượng vũ trang, tuy mang danh nghĩa giáo phái, thì tình hình đã khác. Ta tổ chức phục kích bắt Lý Thị Hường, ra lệnh cho thị phải trả đất lại cho dân, ngoài ra còn phải nộp phạt 500.000 đồng (số tiền này thời điểm đó trị giá hàng ngàn giạ lúa) nếu không thì sẽ bị tử hình. Lý Thị Hường khóc lóc, lạy lục xin trả lại đất, nộp phạt, sau đó trốn về Sài Gòn không dám xuống nữa.

Ở trong các ấp cũng vậy. Nhiều tề xã, tề ấp hôm trước còn đi quát nạt, hà hiếp dân chúng. Sáng hôm sau, cũng chính những tên tề đó, khăn đóng, áo dài, bưng khay trầu, rượu đến quỳ lạy những người chúng vừa hà hiếp, nạt nộ. Bà con ngỡ ngàng, lúng túng, không dám nhận lạy nhưng chúng một mực xin được lạy, còn hứa từ nay sống lương thiện, tử tế, không hà hiếp bà con lối xóm. Mọi người ngạc nhiên. Chỉ có chúng và một số người biết tại sao có chuyện lạ đời như vậy. Đó là vì, chúng vừa nhận được thư của lực lượng cách mạng kể tội chúng, buộc chúng phải mang trầu, rượu đi xin lỗi người dân, nếu dân không tha tội thì cách mạng sẽ không tha, tức là sẽ tử hình như những tên chủ ấp ác ôn khác. Những tên này không thể bỏ nhà cửa, ruộng vườn, vợ con chạy ra đồn bốt hay đi ở nơi khác như những tên có nhiều tiền của, nên chúng phải chấp nhận xin lỗi bà con.

Đó là cách hạ uy thế của bọn tề ấp, xã mà các chi bộ đã làm. Ở những nơi lực lượng vũ trang chưa đủ mạnh hoặc chưa có lực lượng vũ trang thì mượn uy thế lực lượng vũ trang nơi khác tác động vào địa phương mình. Rồi từ đó phát động quần chúng đứng lên hạ uy thế địch, tấn công bằng cả chính trị, quân sự và binh vận để vô hiệu hóa bộ máy kìm kẹp của địch, làm chủ xã, ấp từng bước. Nhờ cách này, đã lấy lại uy thế của cách mạng, xây dựng được cơ sở, bồi dưỡng phát triển chi bộ, du kích, đoàn thể, từng bước đứng lên làm chủ xóm làng.

Ngay ở những xóm, ấp địch đưa đồng bào di cư, di dân vào Đồng Tháp Mười sau năm 1954 ta cũng vận dụng được cách hạ uy thế của bọn ác ôn như vậy.

Trước tình thế địch đang chủ trương xây dựng chính quyền cơ sở, ráo riết kìm kẹp dân, thì việc người dân Đồng Tháp Mười lấy lại được uy thế của cách mạng có ý nghĩa rất lớn. Từ đó, Đồng Tháp Mười lại trở thành biểu tượng của vùng đất cách mạng, nơi mà các vùng ngoài đông dân lại bị địch kìm kẹp hướng đến, đặt niềm tin, là nơi tích tụ, bảo tồn lực lượng dự trữ của cách mạng để khi thời cơ đến, mở rộng ra các vùng địch kiểm soát. Nhưng từ lúc này cho đến khi cách mạng tạo được thời cơ để đồng bào nổi dậy tấn công địch bằng hai chân; chính trị, vũ trang và ba mũi: chính trị, quân sự, binh vận để từng bước giành được quyền làm chủ ở cơ sở, chưa phải đã suôn sẻ, mà còn nhiều quanh co, rất nhiều khó khăn quyết liệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM