Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:32:46 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây  (Đọc 68705 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:48:55 pm »

VI

Đến cuối tháng 10, guồng máy của bộ phận A đã hoạt động bình thường nhưng khẩn trương theo nhịp độ sôi động của chiến trường. Sự liên lạc hằng ngày với bộ phận B cũng như với ba mặt trận đã dần dần đều đặn. Các phái viện mặt trận đã lần lượt gửi báo cáo hoặc “thư công tác” về cơ quan. Nhờ đó, các phòng nghiệp vụ nắm được tình hình khá chặt.

Để phát huy vai trò nghi binh, bộ phận B (C.101) vẫn nhận tin tức và chuyển thông báo chiến sự cho Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam (khi đó ở Kim Sơn). Trạm liên lạc ở Yên Thông vẫn là nơi đón tiếp cán bộ từ các nơi về làm việc với Bộ Tổng tham mưu. Trong khi đó, bộ phận A mới là cơ quan trung tâm chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy đối với các đơn vị, các địa phương. Từ những ngày đi kiểm tra mặt trận đường số 4, đồng chí Võ Nguyên Giáp thường có mặt ở Tràng Xá để chỉ huy chung ba mặt trận và chiến trường toàn quốc. Đồng chí Hoàng Văn Thái dành nhiều thời gian đi thị sát mặt trận đường số 3.

Do nhiều phái viên tham mưu được cử đi các chiến trường chuyển báo cáo về nên công việc ở bộ phận A rất bận rộn và khẩn trương. Máy thông tin vô tuyến điện hạn chế, đường liên lạc quá xa, dây không đủ để triển khai đường điện thoại, cho nên cơ quan tác chiến và tình báo nắm tin tức các đơn vị Việt Bắc qua báo cáo của cấp chỉ huy đơn vị và thư công tác của các phái viên bằng đường liên lạc chạy chân là chủ yếu. Báo cáo và thư công tác qua trạm liên lạc C.101 ở Yên Thông rồi mới chuyển tiếp sang bộ phận A ở Tràng Xá (qua trạm liên lạc đặt ở Võ Nhai) nên thường chậm. Có ý kiến đề nghị cho liên lạc chạy thẳng đến trạm liên lạc của bộ phận A ở Võ Nhai. Đề nghị đó không được chấp nhận vì phải bảo đảm bí mật tuyệt đối cho bộ phận chỉ huy nhẹ của bộ ở phía trước. Trước yêu cầu bức thiết về máy vô tuyến điện, bộ phận kỹ thuật của Phòng Thông tin liên lạc đã cố điều chỉnh và chắp vá sửa chữa, bảo đảm cho mỗi mặt trận có một máy vô tuyến liên lạc thẳng về Bộ. Từ khoảng trung tuần tháng 11, các báo cáo của chỉ huy các khu và trung đoàn cũng như thư công tác của phái viên tham mưu (mà Bộ nhận được qua liên lạc chạy chân) chỉ nhằm phục vụ cho việc tổng hợp tình hình hằng tuần hơn là chỉ đạo tác chiến. Mặc dù vậy, rõ ràng là các phái viên đã phát huy vai trò của mình là cái cầu nối liền Bộ với các đơn vị, các mặt trận. Sự có mặt của các anh đã giúp cho các khu và nhất là trung đoàn yên tâm hơn trong việc thực hiện chủ trương tác chiến của Bộ. Ngược lại, chình nhờ có thư công tác và báo cáo của các anh mà cơ quan tham mưu ở phía sau nắm được cụ thể hơn tình hình địa phương, tình hình đơn vị và gợi ra nhiều việc bổ ích cho sự chỉ đạo của trên.

Trong các buổi giao ban hằng ngày, các đồng chí chủ trì các phòng nghiệp vụ đều có một suy nghĩ chung là là thế nào để tạo thêm điều kiện cho chiến trường đánh địch tốt hơn. Các mặt trận đã hình thành, với binh lực chừng 8 trung đoàn, kể cả lực lượng tập trung (các tiểu đoàn tập trung - lưu động) và tại chỗ (các đại đội độc lập tại chỗ). Lực lượng như vậy là không quá ít so với điều kiện của ta, nhưng trang bị còn quá kém. Mỗi tiểu đoàn trung bình có 150 súng trường với chừng 30 viên đạn mỗi khẩu, 1 - 2 đại liên, 5 - 7 trung liên, 1 - 2 súng cối 60mm. Số đơn vị được trang bị súng máy 13,2mm, 12,7mm và súng cối 81mm không nhiều. Toàn bộ pháo ta có đều dồn sang mặt trận sông Lô, gồm 5 khẩu, cả sơn pháo và cao pháo, cỡ từ 37 đến 75mm, với nhiệm vụ đánh địch hành quân trên sông. Đó là mấy khẩu pháo cũ, theo bộ đội từ các trận địa xung quanh Thủ đô ra. Mặc dù đã được tu sửa nhưng kỹ thuật vẫn còn là vấn đề khó khăn. Đi đôi với trang bị hạn chế là tình độ không đồng đều của bộ đội. Nhiều đơn vị mới thành lập, tuy đã trải huấn luyện mùa hè nhưng chưa qua chiến đấu. Cán bộ sơ cấp tuy đã được bổ sung (từ các khóa 2 và 3 của Trường võ bị Trần Quốc Tuấn), nhưng trình độ chung còn hạn chế, nhất là kinh nghiệm chiến đấu. Số đông cán bộ trung cấp chưa qua chỉ huy tác chiến tập trung quy mô tiểu đoàn.

Một mối lo khác, thường được nêu lên để giải quyết trong các buổi giao ban là phương tiện thông tin chỉ huy quá thiếu, không những giữa Bộ và chiến trường toàn quốc mà riêng với Việt Bắc cũng không đủ. Làm sao bảo đảm thông tin liên lạc đều đặn kịp thời như Tổng Chỉ huy đã chỉ thị? Ở khu B, thiết bị liên lạc với các chiến trường xa trong toàn quốc là một máy công suất 50w, đặt sâu ở chân Núi Hồng. Đài ở Tràng Xá chỉ đủ công suất liên lạc chỉ huy chiến trường miền Bắc, trước hết là Việt Bắc, với các đài nhỏ cơ động của ba mặt trận. Máy trục trặc là nỗi lo cho cả bộ phận kỹ thuật thông tin. Do công suất máy và thời gian lên máy có hạn nên những bức thư công tác của các phái viên tham mưu gửi về luôn là một nguồn vui cũng là nguồn cung cấp tình hình cho các phòng nghiệp vụ trong các buổi giao ban.

Thư công tác của các phái viên được cử xuống các địa phương nói nhiều về hoạt động của các đại đội độc lập ở Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn. Các anh không chỉ dùng bộ đội đánh địch mà còn tham gia sơ tán kho tàng công xưởng, giúp chính quyền và đoàn thể từ tỉnh đến xã làm công tác động viên nhân dân tham gia mọi công tác khác như phá hoại, “tiêu thổ kháng chiến”, làm vườn không nhà trống, tiễu phỉ trừ gian, duy trì an ninh trật tự. Các anh giúp địa phương tổ chức cho bộ đội và dân quân du kích gặt hái và cất giấu thóc lúa, trâu bò, nông cụ. Nơi nào chưa có địch thì công tác huấn luyện cho đại đội độc lập cũng như dân quân du kích được triển khai khẩn trương. Những bức thư công tác và báo cáo ít nhiều đã nói lên kinh nghiệm trên từng mặt cụ thể về hoạt động của đại đội độc lập. Nơi nào cũng nhận xét rằng, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, các đại đội sau khi được cử về đã “nhanh chóng bén rễ vào địa phương”. Và bài học nổi lên là muốn phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng rãi, muốn động viên mọi người tham gia đánh địch thì phải dựa vào dân, dựa vào sự giúp đỡ của các đoàn thể quần chúng cách mạng, nhất là thanh niên và phụ nữ trong Mặt trận Liên Việt.

Các phái viên đi theo các đơn vị chủ lực trên các thường nói nhiều đến các trận đánh của tiểu đoàn tập trung. Trên đường số 3, vì sao những ngày đầu mấy trận tập kích quân địch ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Phủ Thông không thành công. Địch đã củng cố vị trí. Vũ khí công đồn của ta lại thiếu. Ta cũng thiếu cả kinh nghiệm tập kích quân địch cổ thủ trong đồn. Ngược lại, hình thức phục kích có tác dụng lớn, tiêu hao tiêu diệt địch khi chúng tiếp tế tăng viện trên đường Bắc Kạn - Cao Bằng, nổi lên là các trận Đèo Cả, Đèo Giàng. Vấn đề các anh đặt ra để nghiên cứu tìm hiểu vì sao quân Pháp phải bỏ kế hoạch tiến quân từ Bắc Kạn qua Chợ Đồn để hợp điểm với cánh quân phía tây ở phía trên Chiêm Hóa. Có nhiều lý do nhưng phải chăng chủ yếu là do những trận đánh phục kích của ta ở Đoan Hùng, Bình Ca, ở ngã ba sông Lô - sông Gâm và trên đường Tuyên Quang - Chiêm Hóa đã gây cho chúng những tổn thất quá nặng nề.

Trên đường số 4 nổi lên là trận Bông Lau cuối tháng 10 của bộ đội Lạng Sơn. Anh Đặng Văn Việt, phái viên tham mưu, không được chứng kiến trận này, nhưng đã tìm hiểu trận đánh và biên thư về, giúp cho cơ quan ở phía sau hiểu rõ về địa điểm phục kích lý tưởng này trên đường số 4, về quá trình chuẩn bị và thực hành trận đánh của Tiểu đoàn 374, Trung đoàn 11 Lạng Sơn. Đơn vị đã vừa huấn luyện vừa thực hành trinh sát chiến trường chọn vị trí phục kích. Anh em phải nghiên cứu khắc phục một mâu thuẫn là vừa dựa vào dân để làm công tác chuẩn bị nhưng làm thế nào vẫn giữ được bí mật, bất ngờ. Nhiều vấn đề mới lần đầu phải giải quyết như chuẩn bị về tư tưởng, về tổ chức chỉ huy, kể cả việc quy định giờ nổ súng. Với một quân đội như sau này đã được tôi luyện trong “trận đánh ba mươi năm”, những vấn đề trên không có gì là mới lạ. Nhưng với một “đội quân thơ ấu” như cách nói của Bác Hồ, vào thời điểm thu đông 1947, những vấn đề trên đều phải qua những bước mò mẫm. Và cuối cùng trận phục kích địch ở đèo Bông Lau đã thắng lợi giòn giã. Hồi đó, nhiều người dường như đã thấy trước rằng trên đoạn đường rừng hiểm trở dài chừng 10 kilômét, từ Bông Lau đến Lũng Phầy, địch sẽ còn tiếp tục bị nhiều đòn đau. Nhưng hồi đó chưa ai nghĩ rằng một phái viên tham mưu như Đặng Văn Việt sẽ trở thành một trung đoàn trưởng nổi danh trên con đường số 4 này.

Những bức thư và báo cáo từ hướng sông Lô cho biết vì sao mấy trận đầu tiên của pháo binh không đạt kết quả. Ở Việt Trì, pháo cơ động ra chậm, tàu địch qua rồi, pháo bắn vuốt đuôi. Ở Lã Hoàng, hai phát đạn đầu không trúng, phát thứ ba đạn hóc. Ở Bình Ca, mới bắn được một phát, pháo đã hỏng. Nhưng rồi pháo binh sông Lô đã kịp thời khắc phục khó khăn, thiếu sót về kỹ thuật và tổ chức chỉ huy để có những chiến công ở Khoan Bộ (23-10), Đoan Hùng (24-10), rồi Khe Lau (10-11) mà kinh nghiệm thành công đã bí mật phục kích, đặt pháo gần bắn thắng vào mục tiêu di động trên sông.

Những “trường ca sông Lô” bắt nguồn từ đó và âm vang cho mãi đến ngày nay trong lịch sử pháo binh Việt Nam anh hùng, trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:49:41 pm »

VII

Khoảng đầu tháng 11, anh Thái từ mặt trận đường số 3 về đến cơ quan. Sau một ngày làm việc với đồng chí Tổng Chỉ huy, anh tổ chức họp các cán bộ phòng, ban, phụ trách theo dõi các mặt tác chiến, tình báo, nhân sự, trang bị cấp dưỡng dùng với một số phái viên từ các địa phương, các mặt trận mới được triệu tập về. Sau khi nghe hai phòng Tác chiến và Tình báo báo cáo tổng hợp tình hình diễn biến trên các mặt trận trong cả nước một tháng qua, Tổng Tham mưu trưởng rút ra mấy nhận xét:

1. Do chủ quan trong việc phá đoán âm mưu và khả năng của địch, những ngày đầu ta bị bất ngờ lúng túng, bị động đối phó. Địch thực hiện được những ý định chiếm đóng một số thị xã, thị trấn trên cả hai hướng Cao Bằng Bắc Kạn và Tuyên Quang. Chúng cũng phá được một số kho tàng công xưởng của ta ở phía trên Bắc Kạn và Thái Nguyên.

2. Do bị động nên việc điều động lực lượng đánh một số vị trí mới chiếm đóng, không thực hiện được. Ta chuyển quân chậm, tới nơi thì địch đã củng cố vị trí, kể cả những mục tiêu có lệnh tiêu diệt ngay từ những ngày đầu, nhHuấn lệnh để phát động chiến tranh du kích đã được đồng chí Tổng Chỉ huy gợi ý phác thảo. Yêu cầu đối với cán bộ tham mưu có mặt trong cuộc họp hôm nay là bổ sung ý kiến và quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ để cùng các địa phương triển khai thực hiện.

Về mặt nhận thức, cần khẳng định cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh của toàn dân. Trên chiến trường toàn quốc, ngoài Vệ quốc đoàn còn có lực lượng vũ trang địa phương, cùng toàn thể nhân dân tham gia vào công cuộc giết giặc, cứu nước bằng cách này hay cách khác. Muốn thực hiện toàn dân kháng chiến, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.

Trong giai đoạn hiện nay, khi mà khoảng cách về trang bị kỹ thuật giữa ta và địch còn quá lớn, việc phát động chiến tranh du kích phải là nhiệm vụ quân sự căn bản. Lúc này, khi chiến sự đã lan rộng đến hậu phương và hậu phương đã nhanh chóng trở thành tiền tuyến, địch đã kiểm soát nhiều thị xã, thị trấn và đường giao thông chính ngay trong căn cứ địa, thì chỉ có phát động chiến tranh du kích mạnh mẽ mới đảo ngược được thế trận. “Cơ sở toàn dân vũ trang của ta sẽ dìm các đô thị và đường giao thông do địch kiểm soát trong vòng vây của ta, từ thế bị bao vây, ta chuyển sang thế bao vây quân địch; từ thế bị động, ta chuyển dần sang thế chủ động”. Đó là lời khẳng định của đồng chí Tổng Chỉ huy, khi gợi ý dự thảo bản huấn lệnh này.

Vấn đề phát động chiến tranh du kích đã được đề cập từ lâu, trong các hội nghị của Đảng và hội nghị quân sự. Phong trào chiến tranh ở một số nơi đã khá mạnh, nhưng chưa đều, chưa rộng khắp. Về nhận thức, không ít địa phương chưa quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân, chưa biết dựa vào dân, động viên và tổ chức nhân dân đánh giặc. Về trang bị, nhiều nơi chưa chú trọng mở rộng phong trào sản xuất vũ khí thô sơ để trang bị phổ cập cho dân quân du kích. Về cách đánh, nhiều địa phương chưa biết vận dụng chiến thuật du kích, còn hiện tượng thích đánh quy mô lớn, chưa coi trọng những hoạt động quấy rối, những trận lẻ tẻ; chưa biết tổ chức làng chiến đấu một cách phổ biến, nên kết quả tiêu hao địch, bảo vệ địa phương còn hạn chế. Nhiều đơn vị Vệ quốc đoàn chưa có kế hoạch cụ thể và tích cực giúp đỡ lực lượng vũ trang địa phương, phát động chiến tranh du kích, cả về mặt tổ chức, trang bị, huấn luyện và dìu dắt trong chiến đấu.

Do những thiếu sót về phát động chiến tranh du kích, do phong trào chiến tranh du kích chưa mạnh nên bộ đội chính quy (cụ thể là các tiểu đoàn tập trung) khó hoàn thành nhiệm vụ của mình là tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của địch; còn lực lượng vũ trang địa phương cũng không đủ sức bảo vệ nhân dân, bảo vệ làng bản, khi bộ đội tập trung lưu động đi tác chiến ở nơi khác. Rõ ràng là “phát triển chiến tranh du kích tức là tạo điều kiện thuận lợi cho vận động chiến; du kích chiến và vận động chiến cần phải kết hợp với nhau”.

Khắc phục những thiếu sót hiện nay của phong trào chiến tranh du kích là yêu cầu cấp bách đặt ra với ủy ban kháng chiến các cấp, với bộ đội Vệ quốc đoàn và dân quân du kích, mà trực tiếp là các đại đội độc lập được phái về các địa phương mà phong trào chiến tranh du kích còn yếu kém. Yêu cầu trước mắt là một đại đội độc lập phải giúp đỡ cho một trung đội du kích tập trung của địa phương trưởng thành.

Được giao nhiệm vụ góp ý vào bản dự thảo Huấn lệnh của Bộ về phát động chiến tranh du kích, các phái viên dựa vào những việc đã làm được và chưa làm được ở địa phương, bổ sung những thực tế sinh động, chứng minh tính đúng đắn của phương châm đại đội độc lập trong chỉ đạo phát động chiến tranh du kích. Các anh cũng nêu lên những biện pháp cụ thể cần vận dụng cho phù hợp với đặc điểm từng địa phương, từng chiến trường. Tất cả đều nhất trí rằng trước hết cần giải quyết tư tưởng và nhận thức của cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền và chỉ huy quân sự các cấp, nhất là ở cơ sở. Vấn đề là biết dựa vào dân, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Đó là biện pháp bao trùm nhất để làm chuyển biến tình hình hiện nay ở các địa phương mà phong trào chiến tranh du kích chưa mạnh, chưa cao. Hội nghị nhất trí đề nghị lấy tên bản huấn lệnh là Huấn lệnh về phát động du kích chiến tranh - Nhiệm vụ quân sự căn bản trong giai đoạn này.

Một vài cán bộ tham mưu được chỉ định hoàn chỉnh bản huấn lệnh để anh Thái thông qua rồi đưa sang Văn phòng, đệ trình Tổng Chỉ huy phê duyệt. Các phái viên đợi mang về ngay các địa phương để cùng triển khai thực hiện.

Trước khi hội nghị bế mạc, Tổng Tham mưu trưởng hỏi mọi người:

- Các cậu có biết hôm nay là ngày gì không?

Mọi người im lặng, như chưa hiểu ý anh Thái hỏi gì. Rồi có tiếng ai đó trả lời:

- Hôm nay là ngày thứ sáu.

Tiếp đến là tiếng một người khác:

- Ngày 7-11…

- Đúng, Tổng Tham mưu trưởng nói tiếp. Hôm nay là kỷ niệm 30 năm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga. Chúng ta đã thảo luận và góp ý vào bản dự thảo huân lệnh đúng vào ngày lịch sử này. Tôi mong rằng, cũng với tinh thần ấy, tinh thần Cách mạng Tháng Mười, các đồng chí mang về quán triệt ở các địa phương, các đơn vị, biến chủ trương chiến lược của trên thành hiện thực phong trào chiến tranh du kích rộng rãi khắp cả nước… Chúc các đồng chí thắng lợi.

Một tuần sau, bản huấn lệnh đã được chính thức thông qua, đề ngày 14-11-1947. Các phái viên tham mưu lần lượt lên đường. Sau này nhiều anh vẫn chưa quên buổi sáng hôm đó. Mọi người háo hức mong chóng về tới địa phương với lòng tin sâu sắc rằng mình đang đem về cho cơ sở một cẩm nang thúc đẩy phong trào dân quân du kích, đáp ứng yêu cầu của phương châm chiến lược lúc này là: Du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:54:46 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:52:13 pm »

VIII

Trước khi trở lại mặt trận đường số 3, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đến thăm mấy phòng, ban thuộc bộ phận A đang có mặt ở Tràng Xá. Đúng là anh em phải vượt nhiều khó khăn để bảo đảm guồng máy công tác chạy đều trong những ngày trú quân ở Nà Chế - Tràng Xá. Bộ phận quản lý của anh Nguyễn Văn Trang phải cố gắng lắm mới bảo đảm mức sinh hoạt cần thiết cho toàn cơ quan trên một địa bàn hẻo lánh, xa chợ, trong thời chiến. Anh Thái động viên mọi người cùng nhau đoàn kết khắc phục khó khăn trước mắt trong những ngày trú quân ở đây. Anh cùng anh Trang và bộ phận quản lý bàn những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục hiện tượng thiếu thốn hiện nay về lương thực, thực phẩm, đảm bảo mức sinh hoạt của anh em, kể cả việc bồi dưỡng sức khỏe những cán bộ trực ban tác chiến. Trước khi lên đường, anh Thái dành một buổi cùng các đồng chí phụ trách tác chiến và tình báo soát xét lại tình hình chiến sự chung trong cả nước và trước hết là trên chiến trường Việt Bắc.

Những ngày hành quân ồ ạt ban đầu của địch đã kết thúc. Cuộc hội quân của chúng ở Đài Thị không thực hiện được. Sắp tới, địch sẽ làm gì? Chúng không gặp chủ lực của ta ở quy mô lớn, cũng chưa thực hiện được ý đồ “chộp bắt” Chính phủ kháng chiến. Việc lùng sục sâu vào căn cứ địa của ta vẫn còn là một mục tiêu quan trọng của cuộc hành binh. Nhưng yếu tố bất ngờ đã không còn. Chúng có thể dựa vào tin tức gián điệp, cho quân nhảy dù xuống phía đông đường số 3 - vùng Võ Nhai, cũng có thể từ hướng Bắc Kạn, Chợ Mới lùng sục xuống phía nam Chợ Chu. Các đơn vị bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ sẵn sàng cơ động chiến đấu hơn lúc nào hết. Cơ quan tham mưu cần bám sát mọi tin tức, kịp thời phán đoán, kịp thời cơ động di chuyển để tránh tổn thất. Các mặt trận đường số 4 và nhất là hướng sông Lô - đường số 2 cần đánh mạnh để tiếp tục kéo căng lực lượng địch; mặt trận đường số 3 phải kịp thời cơ động lực lượng đánh địch, làm thất bại các mũi hành quân càn quét của chúng tiến sâu vào vùng có các cơ quan lãnh đạo.

Thực tế những ngày sau đó đã chứng minh những phán đoán trên đây là chính xác.

Từ đầu tháng 11, tướng Pháp Xalăng đã thấy cần chuyển hướng cuộc tiến công mà Bộ Chỉ huy Pháp gọi là bước thứ hai của cuộc hành binh. Quân Pháp bị đánh ở nhiều nơi, nhất là trên các trục đường cơ động tiếp tế và đều chưa đạt được, vậy mà quân Pháp đang làm cho tình thế khó khăn cả về tiếp tế, về sức khỏe và binh lực bị dàn mỏng. Kế hoạch “Lêa” đã không thành công. Bộ Chỉ huy Pháp quyết định thu hẹp đội hình chiến dịch, bỏ bản Thi, Yên Thịnh, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn. Địch chuyển dần quân xuống phía nam, lùng sục trong vùng “hình quả trám” Tuyên Quang, Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương. Chúng phán đoán chủ lực của ta và bộ máy lãnh đạo kháng chiến đã lui về vùng Đại Từ - Tam Đảo, trung tâm của khu tứ giác nói trên. Thực tế, đây là cuộc hành binh vừa lùng sục, vừa thu quân, lui dần xuống phía dưới, phía Bắc Ninh - Hà Nội.

Trước những triệu chứng mới của địch, ta phán đoán chúng sẽ tiến quân và càn quét phía tây đường số 3 trước, sau đó sẽ chuyển sang phía đông con đường này, đi đôi với nhảy dù xuống Đại Từ, Võ Nhai và Thái Nguyên. Do phán đoán đúng, nên không những ta cơ động kịp thời cả hai bộ phận A và B tránh các mũi lùng sục của địch(1) mà còn ra lệnh cho bộ đội chặn đánh địch trên đường chúng cơ động lùng sục. Riêng trên trục Bắc Kạn - Thái Nguyên, do phán đoán sai hướng lui quân của địch (cho rằng địch từ Bắc Kạn sẽ chuyển lên hướng Cao Bằng) nên ta bỏ nhiều cơ hội diệt địch khi chúng chuyển từ Bắc Kạn xuống Thái Nguyên hay từ Phú Minh qua Đèo Khế sang Thiện Kế. Điều đáng tiếc là, từ trung tuần tháng 11, trên các hướng Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, kể cả trên những trục đường có nhiều khả năng địch hành quân qua như Bình Ca - Đèo Khế - Văn Lãng hay Chợ Chu - Phú Minh, các đơn vị đều đã được lệnh bám đánh địch trên đường chúng càn quét lùng sục. Mệnh lệnh của Bộ nhấn mạnh: Chống khuynh hướng “tham ăn to”; phải đánh địch rộng khắp, khiến chúng một bước lui quân là một bước bị tiêu hao. Nhưng do phương tiện thông tin hạn chế và thiếu kinh nghiệm bám và phán đoán địch, cơ động lực lượng chậm chạp trong khi địch lại rất xảo quyệt trong hành động nghi binh, nên rất nhiều cơ hội diệt địch bị bỏ qua.

Một ngày sau khi bộ phận A rời Tràng Xá trở về phía tây đường số 3, địch nhảy dù xuống Võ Nhai. Chúng sục vào Nà Chế, nơi có một số tài liệu chưa kịp di chuyển. Sợ tài liệu lọt vào tay địch, một cán bộ Ban quản lý đã đốt lán. Nhiều tài liệu quý bị thiêu hủy.

Cơ quan trở về khu vực đóng quân cũ ở tây nam Chợ Chu chỉ ít ngày trước khi địch từ Bắc Kạn tiến về Chợ Chu và từ Chợ Đồn tiến xuống Chợ Chu, Quán Vuông về hướng Đại Từ - Thái Nguyên. Khi địch lùng sục vào phía trong Quán Vuông, cơ quan phải phân tán sâu vào chân Núi Hồng, tổ chức lực lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ người và tài liệu đề phòng trường hợp địch vượt Đèo De sang Tân Trào. Suốt mấy ngày, từ 25 đến 28-11, chúng bắn nhiều pháo và súng cối vào hướng Yên Thông, bản Bắc, Lục Rã và chân Đèo De. Một chiến sĩ liên lạc của Bộ Tổng tham mưu, em Ma Khánh Vàng đã hy sinh vì đạn súng cối của địch, khi đang chuyển công văn trong khu căn cứ. Nhưng rồi địch cũng không dám tiến sâu vào khu vực Núi Hồng mà tiến dần xuống phía nam. Ngày 1-12, một bộ phận đã lọt vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 103 ở Quán Ông Già(2). Sau này qua tài liệu của đối phương chúng ta được biết, hoạt động của cánh quân địch dọc trục đường Chợ Chu - Quán Vuông - Phú Minh - Đại Từ cũng chỉ nhằm bảo vệ sườn cho cánh quân Bôphrơ (Beaufre) từ Bắc Kạn theo đường số 3 rút về Thái Nguyên.

Cơ quan đã ổn định nơi ở và làm việc quanh khu vực Lục Rã, vào những ngày cuối của chiến dịch Việt Bắc. Trung tuần tháng 12, anh Thái đã trở về cơ quan, sau trận Đèo Giàng ngày 15-12. Anh cùng một số cán bộ chủ chốt của Bộ Tổng tham mưu kiểm điểm lại những diễn biến lớn và mấy bài học đầu tiên rút ra từ thu đông 1947 - đồng thời nghiên cứu khả năng và phương hướng hoạt động sắp tới của địch sau khi chúng lui quân khỏi Việt Bắc. Khu 4 là một hướng đáng chú ý. Những kinh nghiệm đầu tiên của Việt Bắc được tóm tắt và chuyển cho Khu 4 vận dụng chuẩn bị đánh địch. Đó cũng là những kinh nghiệm đã được anh Thái báo cáo tại Hội nghị 16-12-1947, trước một số cán bộ chủ chốt của Bộ và các đồng chí chỉ huy các khu 1, 10, 12, 2 và 11, chuẩn bị cho cuộc họp của Tổng Quân ủy đầu năm 1948.


(1) Bộ phận B lui sâu hẳn vào sát chân Núi Hồng trong khi địch lùng sục ở phía ngoài Yên Thông, Đồng Đau; bộ phận A kịp thời cơ động từ phía đông sang phía tây đường số 3 trước khi địch nhảy dù xuống Võ Nhai.
(2) Quán Ông Già là một địa danh xuất hiện từ mùa hè năm 1947, sau khi các cơ quan Trung ương lên Việt Bắc. Nơi này - giữa đường Phú Minh lên Quảng Nạp - có một cái quán của một ông già người địa phương, bán nước và những thứ lặt vặt như chuối, kẹo vừng… Chẳng bao lâu thành một cái tên quen thuộc đối với những ai qua lại con đường này thời kháng chiến chống Pháp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:54:00 pm »

Tại Hội nghị ngày 16-2(1), đồng chí Tổng Chỉ huy vạch rõ hai khuyết điểm lớn nhất của ta trong chỉ đạo và thực hành chiến dịch thu đông. Đó là: 1 - Chủ quan trong phán đoán địch nên chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến đấu và bố trí binh lực sơ sài, nhất là ở Bắc Kạn; 2 - Việc chỉ đạo phối hợp giữa chủ lực với địa phương trước khi bước vào mùa khô cũng như trong bước 1 cuộc hành binh của địch thiếu chặt chẽ. Sau khi biểu dương thành tích chiến đấu của bộ đội từng khu, của lực lượng vũ trang trên từng mặt trận, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã chỉ ra những yếu kém về mặt tổ chức chỉ huy của cán bộ: sử dụng binh lực (phân tán hay tập trung lúc nào cho phù hợp với điều kiện cụ thể), công tác quân báo, trinh sát, liên lạc, trình độ sử dụng vũ khí kỹ thuật của bộ đội, v.v.

Báo cáo về công tác tham mưu trong hội nghị quân sự đặc biệt này, trước hết Tổng Tham mưu trưởng đi sâu phân tích công tác nắm địch và nghiên cứu về địch, những bài học rút ra từ công tác tình báo trinh sát. Anh Thái nói về kế hoạch hành quân và sự hoạt động của ăn khớp giữa các cánh quân của địch, cách đánh táo bạo bất ngờ, kế hợp hành quân với hoạt động nghi binh đánh lừa đối phương. Điểm yếu nổi lên về phía địch là chủ quan, đánh giá thấp đối phương nên mạo hiểm; binh lực và phương tiện không đủ cho một cuộc hành binh trên một chiến trường rừng núi quá rộng; điều kiện tiếp tế khó khăn và thời tiết thượng du khiến cho tinh thần binh sĩ sớm sa sút… Nhận xét về ta, báo cáo của Tổng Tham mưu trưởng nêu rõ thuận lợi của ta là tinh thần, truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc Việt Bắc, là địa hình rừng núi thuận lợi cho cách đánh của ta, là bước tiến bộ của cán bộ và bộ đội ta trong thực tế chiến đấu. Bài học đối với ta là đánh giá địch, do chủ quan nên kế hoạch tác chiến và cách bố trí binh lực không phù hợp; hậu phương chuẩn bị sơ khoáng. Trong quá trình chiến đấu, xuất hiện những yếu kém và tinh thần chấp hành mệnh lệnh (chủ nghĩa địa phương và ý thức kỷ luật trong việc điều động lực lượng). Quá trình diễn biến chiến dịch cũng là quá trình cơ quan Bộ cố gắng khắc phục những khó khăn và nhược điểm về trinh sát, thông tin liên lạc (tin tức và mệnh lệnh chuyển đạt chậm), về chỉ đạo phối hợp giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương, về sức khỏe bộ đội…

Khác với hội nghị quân sự đặc biệt, hội nghị Tổng Quân ủy họp mấy ngày đầu tháng 1-1948 đã đi sâu phân tích cụ thể hơn sự lãnh đạo của Tổng Quân ủy và của Bộ Tổng chỉ huy. Những bài học rút ra từ hội nghị này có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược toàn quốc. Trong bản báo cáo trình bày tại hội nghị Tổng Quân ủy, đồng chí Bí thư Võ Nguyên Giáp lược lại mục đích cuộc hành binh của địch, lực lượng sử dụng, kế hoạch từng bước của cuộc hành binh, những điểm đạt được và không đạt được của địch và nguyên nhân thành bại từng mặt của chúng.

Nhận xét về ta, sau khi nêu lên bước tiến bộ và phán đoán địch (trong bước 2 của cuộc hành binh), về kế hoạch bảo vệ cơ quan lãnh đạo, sự trưởng thành của bộ đội, sự phát triển bước đầu của phong trào chiến tranh du kích ở một số địa phương… dẫn đến thắng lợi sau hơn hai tháng chiến đấu, đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy đã nghiêm khắc kiểm điểm những thiếu sót trong lãnh đạo của Bộ.

Lúc đầu ta bị thất bại ở Bắc Kạn vì chủ quan trong phán đoán khả năng của địch, cho rằng chúng không dám mạo hiểm đánh sâu vào căn cứ địa. Trong các hội nghị quân sự, chúng ta nêu “du kích chiến là chính” nhưng không đề ra biện pháp cụ thể để phát động chiến tranh du kích, do đó khi địch nhảy vào căn cứ địa, hậu phương nhanh chóng biến thành tiền phương thì ta lúng túng (hồi cuối tháng 5), khi bàn kế hoạch, do chưa đánh giá đúng trình độ bộ đội, nên nhấn mạnh nhiều về tập trung, khi mà trình độ cơ động và khả năng tác chiến tập trung của bộ đội còn hạn chế. Khi bước vào chiến dịch, điều đáng quan tâm là ở một số đơn vị xuất hiện hiện tượng chấp hành mệnh lệnh không triệt để, không khẩn trương (như những mệnh lệnh đầu tiên điều động binh lực lên tác chiến ở Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn và mệnh lệnh về công tác phá hoại). Thực tế chiến đấu cho thấy tổ chức chỉ huy còn nặng về hình thức, quan liêu, phương tiện thông tin liên lạc lại thiếu, nên mệnh lệnh, chỉ thị, báo cáo không thông suốt kịp thời từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Công tác chính trị không kịp nhiệm vụ quân sự, không biết kịp thời phát huy chiến quả về mặt quân sự.

Hàng loạt vấn đề được đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy đặt ra nhằm củng cố và phát huy thắng lợi chiến dịch Việt Bắc: kiện toàn cơ quan tình báo, trinh sát; bồi dưỡng cán bộ về phương châm chiến lược và tư tưởng chiến thuật, về tinh thần trách nhiệm và kỷ luật quân đội, củng cố về tổ chức và cán bộ đại đội; tổ chức lại bộ đội cho gọn nhẹ; tiến hành luyện quân lập công nhằm trước hết vào ba kỹ thuật lớn; cải tiến phương pháp công tác chính trị sao cho thiết thực, kịp thời thích ứng với trình độ bộ đội; có kế hoạch cụ thể phát động chiến tranh du kích rộng rãi; quân sự hóa các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy, tổ chức lại hệ thống chỉ huy cấp khu, chống bệnh quan liêu giấy tờ.

Sau khi nêu lên phán đoán về âm mưu sắp tới của địch, đồng chí Bí thư nêu lên mấy nhiệm vụ cấp bách trước mặt để Tổng Quân ủy thảo luận như củng cố căn cứ địa Việt Bắc (trước hết là về mặt chính trị); tác chiến đi đôi với vũ trang tuyên truyền; địch vận ở vùng địch mới chiếm đóng; đối phó với các cuộc càn quét của địch ở đồng bằng và với chiến thuật vết dầu loang của chúng; đẩy mạnh vận động gia đình có con em đi lính địch, hạn chế khả năng phát triển ngụy binh..

Theo chỉ thị của đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy, Tổng Tham mưu trưởng sẽ dựa vào báo cáo và kết luận của hội nghị quân sự đặc biệt vừa qua, hội nghị Tổng Quân ủy hôm nay và các hội nghị tổng kết chiến dịch Việt Bắc và hội nghị Trung ương sẽ họp trung tuần tháng 1, để chỉ đạo biên soạn thành bản dự thảo Huấn thị Vận dụng kinh nghiệm chiến dịch Việt Bắc để gửi đi các địa phương, nhất là Bình - Trị - Thiên, Khu 5 và Nam Bộ.

Với các chiến trường, bản huấn thị sẽ giúp cho các cấp hiểu biết thêm về địch, về cách phán đoán và đối phó với các hình thức chiến thuật của chúng, đánh giá chỗ mạnh và chỗ yếu của quân đội Pháp trong một cuộc hành binh quy mô lớn. Bản huấn thị cần phân tích mặt mạnh, mặt yếu của bộ đội ta và phương hướng bổ khuyết về cách đánh, về kỷ luật, về công tác chính trị và các tổ chức bảo đảm chỉ huy (trinh sát, thông tin liên lạc). Cũng từ kinh nghiệm Việt Bắc, bản huấn thị cần nêu lên những kinh nghiệm về công tác chỉ đạo chuẩn bị chiến đấu của ủy ban kháng chiến các cấp, trong đó nổi lên là những việc mà các cấp chính quyền và đoàn thể cần làm là chỉ đạo dân quân du kích, nhất là ở cơ sở. Hội nghị Trung ương sắp tới sẽ chỉ ra phương hướng chiến lược chung sau chiến thắng Việt Bắc. Theo phương hướng đó, bản huấn thị cần cụ thể hóa thêm một bước đối với các chiến trường.


(1) Hồi đó gọi cuộc họp này là hội nghị quân sự đặc biệt, họp ít ngày trước khi những đơn vị cuối cùng của Pháp rút khỏi Việt Trì - Vĩnh Yên (ngày 22-2-1947 - ngày được coi là chiến dịch kết thúc) nhằm đánh giá sơ bộ chiến dịch Việt Bắc, chuẩn bị cho cuộc họp của Tổng Quân ủy sắp tới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:55:30 pm »

CHƯƠNG VIII

THÊM MỘT BƯỚC TRƯỞNG THÀNH

I

Chiến dịch Việt Bắc vừa kết thúc, anh Thái nhắc anh Trường và các đồng chí phụ trách tổ học tập nghiên cứu một chương trình học tập mới cho cán bộ trong cơ quan. Các phái viên ở các địa phương, các đơn vị đang lần lượt trở về. Ta có điều kiện để học tập trở lại bình thường, đều đặn. Vấn đề đặt ra là học cái gì? Theo Tổng Tham mưu trưởng, trước mặt cần làm cho anh em nắm được những bài học sốt dẻo rút ra từ thu đông vừa qua. Ta chưa có điều kiện để tổ chức tổng kết chiến dịch một cách đầy đủ, nhưng không nên chờ đợi.

Anh Thái định dành một ngày để nói lại với một số cán bộ và với tổ học tập những vấn đề cơ bản đã được khẳng định mà anh tiếp thu trong các cuộc họp vừa qua của Tổng Quân ủy. Anh quyết định làm việc này vào ngày 4-1-1948.

Mở đầu cuộc họp, Tổng Tham mưu trưởng nói ngay:

- Hôm nay là chủ nhật. Làm việc thế này là “du kích”. Nhưng công việc nhiều quá, không thể lui sang ngày khác được. Dự hôm họp nay có các đồng chí phụ trách các phòng Tác chiến và Tình báo, các tổ trưởng các tổ nghiệp vụ của Phòng Tác chiến và các thành viên tổ học tập. Tôi sẽ nói lại những vấn đề chính thức được nêu lên và kết luận trong hội nghị quân sự đặc biệt họp vào những ngày chót của chiến dịch Việt Bắc và hội nghị Quân ủy Trung ương mới họp hôm vừa qua. Phòng Tác chiến sẽ dựa vào những vấn đề tôi sắp nêu lên hôm nay và nội dung hội nghị tổng kết chiến dịch Việt Bắc và hội nghị Trung ương sắp tới để biên soạn thành tài liệu chính thức, thành một bản huấn thị, do đồng chí Tổng Chỉ huy duyệt rồi gửi đi các đơn vị, các địa phương. Trước khi diễn ra các hội nghị tổng kết chiến dịch và hội nghị Trung ương, chúng ta tranh thủ nghiên cứu trước.

Rồi Tổng Tham mưu trưởng lần lượt phát biểu về mấy vấn đề lớn.

1. Trước hết là vấn đề nắm địch. Chúng ta đã phán đoán âm mưu và khả năng của địch như thế nào?

Bước vào mùa khô, ta phán đoán Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính; rằng nếu địch không mạo hiểm thì chúng sẽ tiến công ở đồng bằng, nếu mạo hiểm chúng sẽ mở cuộc hành binh lên Việt Bắc. Chính vì phán đoán chủ quan như vậy nên việc chỉ đạo chiến đấu ở căn cứ địa sơ sài, nhất là phía trên các thị xã Tuyên Quang, Bắc Kạn và Thái Nguyên.

Sau khi có trong tay bản kế hoạch của địch, ta nắm vững các bước hành binh của chúng và chủ động đối phó, chủ động đánh địch.

Tại hội nghị quân sự đặc biệt (họp ngày 16-12-1947), Tham mưu có nêu lên ba ưu điểm của địch: 1- Kế hoạch sâu, hoạt động của các cánh quân của chúng được thống nhất và ăn khớp; 2- Đánh táo bạo bất ngờ; 3- Biết nghi binh, làm ta khó phán đoán, nhằm cô lập và kiềm chế các đơn vị của ta.

Nhìn lại kết quả thực hiện kế hoạch của địch, ta thấy: 1- Mặt Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, về cơ bản địch thực hiện được kế hoạch đã vạch ra; 2- Bên hướng Tuyên Quang, do cánh quân Commuynan (Commnal) bị đánh mạnh trên sông Lô, nên việc gặp gỡ ở Đài Thị và cánh quân từ hướng Chợ Đồn sang không thực hiện được; 3- việc càn quét vùng Chợ Chu dự định vào ngày 15-10 cũng chỉ thực hiện được chậm hơn một tháng so với kế hoạch.

Cũng tại hội nghị quân sự đặc biệt, báo cáo của Tham mưu nhận xét rằng địch chủ quan, đánh giá thấp lực lượng của ta; quân số và phương tiện của chúng (kể cả lực lượng mặt đất - bộ binh cơ giới - và máy bay vận tải) không đủ để mở một cuộc tiến công trên một chiến trường quá rộng. Vì vậy, trên hướng Chợ Mới, Bắc Kạn, Nguyên Bình, Cao Bằng, địch phải nhảy dù đánh chiếm từng bước trên hướng sông Lô, ngày 12-10-1947 chúng mới tiến lên được Tuyên Quang.

Đánh giá kết quả cuộc hành binh của địch trên Việt Bắc, báo cáo của đồng chí Tổng Chỉ huy tại hội nghị Tổng Quân ủy nhận xét rằng: địch đã cắt đường tiếp tế của ta ở biên giới, đã phá được một số kho tàng, đã chiếm đóng một số nơi (ngoài thị xã Bắc Kạn, Cao Bằng, còn một số vùng đồng bào người Dao đỏ ở Nguyên Bình, Lào Cai, người Nùng ở Lạng Giai…). Chúng đạt được kết quả đó là vì có mạng lưới gián điệp giúp chúng nắm tương đối chính xác và nhằm thẳng vào chỗ yếu và sơ hở của ta. Chúng dùng chiến thuật táo bạo, nhảy sâu vào hậu phương ta và đạt được yếu tố bất ngờ

Nhưng địch không đạt được những mục tiêu chủ yếu của chiến dịch, nhất là không phá được bộ máy đầu não kháng chiến. Nói chung chúng không có cơ sở trong nhân dân; chiến thuật càn quét của địch ở vùng rừng núi không đạt được kết quả. Ngoài nguyên nhân quan trọng là tính chủ quan của tướng lĩnh Pháp, địch thất bại vì: 1- Ý thức cách mạng và tinh thần căm thù địch của đồng bào Việt Bắc; 2- Tuy kế hoạch của ta chưa cụ thể, có mặt chưa sát, nhưng các cơ quan kháng chiến, bộ đội và nhân dân đã được chuẩn bị tư tưởng đầy đủ; 3- Địch đưa một lực lượng lớn lên một chiến trường xa căn cứ ở đồng bằng, nên việc tiếp tế khó khăn; chủ trương thực hiện “vườn không nhà trống” đã góp phần khoét sâu khó khăn này của địch. Cần nói thêm rằng, sau những ngày đầu bất ngờ và bị động, ta đã chọn được cách đánh phù hợp với lực lượng so sánh, với trình độ tác chiến của bộ đội, phù hợp với điều kiện địa hình Việt Bắc; một địa hình có lợi cho ta, không lợi cho địch.

Bài học rút ra về công tác tình báo, về nắm và phán đoán địch, là bài học quan trọng đầu tiên đối với tham mưu. Chúng ta cần chú ý kết luận của đồng chí Tổng Chỉ huy là ta có nhiều điểm phán đoán sai vì còn thiếu hiểu biết đầy đủ. Nhưng có một điều cần phải chú ý là khi chưa biết địch thì phải cho là chúng hết sức mạnh và mạo hiểm, hoặc phải có nhiều giả thuyết để chủ động đối phó.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:56:03 pm »

2. Chúng ta đánh giá cán bộ và bộ đội ta như thế nào qua chiến dịch mùa khô vừa qua?

Một điều nổi lên trong thời gian qua là sự tiến bộ của bộ đội, cả về kỹ thuật và tinh thần chiến đấu. Nhưng rõ ràng là chiến dịch Việt Bắc cũng chứng minh những nhược điểm mà ta cần khắc phục. Ví dụ: do thiếu phương tiện thông tin liên lạc nên tin tức và mệnh lệnh đến chậm; bộ đội đau yếu, thiếu thốn cả về thuốc chữa bệnh và quân trang, cán bộ trung đội, tiểu đội kém về kỹ thuật và bỏ lỡ nhiều thời cơ xung phong diệt địch.

Cấp khu cũng bộc lộ những điểm yếu kém cần khắc phục. Trong hội nghị quân sự đặc biệt, đồng chí Tổng Chỉ huy đã dẫn ra một ví dụ: “Khu 1 không nắm chắc được tình hình của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Phúc Yên. Do đó các tỉnh không được sự chỉ đạo giúp đỡ của khu… Việc báo cáo, thỉnh thị từ tỉnh lên khu, khu về Bộ cũng không làm được, chứng tỏ ý thức tổ chức kỷ luật còn lỏng lẻo, nên xảy ra tình trạng từng địa phương tự động làm theo chủ quan của mình, thiếu sự thống nhất lãnh đạo chung. Ví dụ: Phúc Yên có đài mà địch đến không báo cáo; khi khu biết, cho người đi tìm bộ đội thì không tìm được, v.v.”.

Trong tài liệu viết về khởi nghĩa Việt Bắc gửi cho các đơn vị, cần nói rõ mấy điểm yếu kém dưới đây của cán bộ chỉ huy và của bộ đội mà đồng chí Tổng Chỉ huy đã kết luận: 1- Không biết địch: không biết rõ vị trí, số lượng, vũ khí, tinh thần, ý định, v.v. của chúng. Chúng ta thiếu những trinh sát viên giỏi. Cần nói thêm rằng yếu kém đó thuộc trách nhiệm của ngành tham mưu chúng ta. 2- Không biết mình: Chưa biết rõ khả năng của bộ đội và vũ khí của mình; không hiểu rõ ưu điểm nào cần phát huy; khuyết điểm nào cần bổ cứu; 3- Bộ đội còn non kém về mọi mặt: liên lạc, trinh sát kém, kỹ thuật kém, không biết tiết kiệm đạn dược, không biết thu vũ khí của địch…; 4- Cán bộ thiếu kế hoạch, thiếu quyết tâm, thiếu bình tĩnh.

Về phương hướng khắc phục; cần chú ý kết luận của đồng chí Bí thư Tổng Quân ủy trong hội nghị đầu tháng 1 vừa qua, trong đó có những điểm sau đây trực tiếp quan hệ đến chức năng của Bộ Tổng tham mưu:

a) Nắm chắc địch: Cần khẩn trương kiện toàn cơ quan tình báo, trinh sát, tăng cường chất lượng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ và nhân viên để giúp cho các cấp chỉ huy nắm địch và phán đoán đúng;

b) Về tư tưởng chiến lược, chiến thuật: Tiến hành học tập về phương châm du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ, nâng cao tư tưởng của cán bộ về tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta…

c) Về cán bộ: Để khắc phục trình độ cán bộ còn non kém, ý thức tổ chức kỷ luật còn lỏng lẻo, cần phải chỉnh đốn trường lục quân, mở trường bổ túc cho cán bộ đại đội về chiến thuật, kỹ thuật; kiên quyết loại trừ những cán bộ xấu và tiêu cực, mạnh dạn đề bạt cán bộ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm; giáo dục cán bộ về ý thức trách nhiệm và tinh thần kỷ luật, duy trì một kỷ luật nghiêm minh trong quân đội.

d) Về bộ đội: Tiến hành huấn luyện theo chương trình luyện quân lập công nhằm vào ba kỹ thuật lớn để nâng cao trình độ kỹ thuật cho bộ đội; tổ chức biên chế phải gọn nhẹ, điều động một số nhân viên không cần thiết tăng chường cho thành phần chiến đấu…

e) Về công tác dân quân: Phát động du kích chiến tranh rộng rãi (Cục Dân quân phải có kế hoạch tích cực hơn); có kế hoạch phá hoại đầy đủ, tiến hành đôn đốc và kiểm tra việc thực được tốt, có kết quả.

Về phương hướng tác chiến sắp tới, đồng chí Tổng Chỉ huy đã chỉ thị nghiên cứu âm mưu mới của địch hướng vào chiến trường nào. Khu 4 hay trung châu Bắc bộ; theo dõi kế hoạch càn quét của chúng ở Nam Bộ; kế hoạch mở rộng vùng kiểm soát bằng chiến thuật “vết dầu loang” nhằm phục vụ chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh - dùng người Việt đánh người Việt”. Tham mưu phải nghiên cứu phương sách đối phó nhằm làm thất bại âm mưu chiến lược mới của địch. Đồng chí Tổng Chỉ huy cho biết những vấn đề trên đây sẽ được đem ra thảo luận tại hội nghị Trung ương dự kiến họp vào trung tuần tháng này.

Trả lời câu hỏi về “tham mưu phải đi bằng hai chân”, anh Thái nói:

- Đó là tham mưu phải quan tâm chỉ đạo cả hai lực lượng, hai phương thức tác chiến du kích và chính quy. Chức năng và nhiệm vụ của tham mưu chúng ta là phải luôn nhớ hai mặt đó, cả trong chỉ đạo xây dựng và chỉ đạo tác chiến. Do trình độ của bộ đội hiện nay và cả trong mấy năm tới, chúng ta phải nắm vững phương châm du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ, phải luôn quan tâm đến cả hai lực lượng: lực lượng vũ trang tại chỗ, gồm dân quân du kích và một số đại đội độc lập (mới được phái về một số châu, huyện trong chiến dịch Việt Bắc và đang hoạt động ở các địa phương) và lực lượng cơ động (tức là các tiểu đoàn tập trung hiện nay. Cho đến khi dân quân du kích trưởng thành, các đại đội độc lập được tập trung về và bộ đội chủ lực được xây dựng lớn mạnh hơn, hai lực lượng tại chỗ và cơ động vẫn cùng tồn tại. Tham mưu phải coi trọng cả hai lực lượng này trong chỉ đạo xây dựng và tác chiến của mình…

Suốt tháng 1-1948, các vấn đề trên đây trở thành nội dung học tập chủ yếu mà tổ học tập hướng dẫn cho cán bộ Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu, thảo luận. Các phái viên từ các đơn vị trở về cơ quan, với thực tế chiến trường mà các anh thu hoạch được trong suốt mùa khô vừa qua, đã phát huy tác dụng tốt, giúp đỡ cho các anh em khác tiếp thu những vấn đề học tập dễ dàng hơn bằng những điều tai nghe mắt thấy ở địa phương, đơn vị.

Đầu tháng 2, sau khi đã bổ sung những kết luận trong hội nghị tổng kết chiến dịch Việt Bắc và nhất là tinh thần cơ bản của hội nghị Trung ương (trong đó nổi lên là nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích), cơ quan tham mưu đã hoàn thất bản huấn thị theo sự hướng dẫn của Tổng tham mưu trưởng. Bản huấn thị nhan đề Về việc củng cố bộ đội và học tập kinh nghiệm của chiến dịch Việt Bắc được Tổng Chỉ huy cho ý kiến bổ sung, sửa chữa và cuối cùng được phê duyệt và gửi xuống các địa phương, đơn vị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:57:02 pm »

II

Sau chiến thắng Việt Bắc, cơ quan Bộ Tổng tham mưu lui xuống đóng ở Lưu Quang, sát đường Phú Minh lên Quán Vuông.

Vào khoảng giữa tháng 1, mỗi khi có việc ra đường, điều khiến anh em chú ý là thường gặp nhiều cán bộ từ phía Quán Ông Già đi ngược lên hướng Quảng Nạp, Yên Thông. Số đông là đi xe đạp, nhưng cũng có người đi bộ hay đi ngựa. Khá nhiều người bận áo bludông chiến lợi phẩm. Với con mắt nhạy bén của người cán bộ làm việc trong cơ quan Tổng hành dinh, anh em biết đó là những cán bộ ở các địa phương, các chiến trường, được triệu tập về. Anh em rỉ tai nhau: chắc có cuộc họp quan trọng ở Bộ hoặc bên Trung ương.

Mấy hôm nay anh Thái thường vắng mặt ở cơ quan khiến anh em càng khẳng định là có cuộc họp quân sự hơn là cuộc họp về Đảng. Có người tỏ ra am tường, nói rõ thêm: anh Thái chưa phải là ủy viên Trung ương, nên chắc chỉ là hội nghị quân sự. Một người bác đi, giọng quả quyết:

- Mình cho rằng Trung ương họp, anh Thái có thể được mời dự một hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương mở rộng bàn về phương hướng nhiệm vụ quân sự sau một thắng lợi quan trọng như Việt Bắc…

Câu chuyện rỉ tai nhau đến cuối cùng rồi cũng lắng xuống. Lúc này, vấn đề “bem” (tức là nguyên tắc giữ bí mật) được mọi người tuân thủ nghiêm túc.

Cho đến một ngày hạ tuần tháng 1, sau khi trở về cơ quan được vài hôm, Tổng Tham mưu trưởng triệu tập cuộc họp các cán bộ đầu ngành. Anh muốn truyền đạt lại một số nội dung của hội nghị Trung ương có liên quan đến nhiệm vụ trước mắt của Bộ Tổng tham mưu(1).

Sau khi nhắc lại sự phân tích của Hội nghị Trung ương về tình hình thế giới và trong nước bước vào năm 1948, anh Thái nói rõ sự đánh giá của hội nghị về cục diện chiến trường sau chiến dịch Việt Bắc. Lực lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến và còn chuyển biến ngày càng sâu sắc hơn. Đã đến lúc địch không thể tự do tung lực lượng ra chiếm đất của ta một cách dễ dàng như trong những tháng hè 1947, hay trong mùa khô vừa qua. Sự đánh giá này rất quan trọng. Nó nói lên thế và lực của địch đã giảm sút, sau thất bại ở Việt Bắc. Nếu ta tích cực và mau lẹ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược điểm và khuyết điểm thì chiến thắng Việt Bắc là một cái đà để cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Trung ương nhận định rằng, năm 1948 là một năm có nhiều triển vọng nhưng cũng là một năm cuộc kháng chiến sẽ rất gay go, gian khổ…

Rồi Tổng Tham mưu trưởng nói về chủ trương chiến lược của Trung ương: mở rộng phong trào dân quân, phát triển chiến tranh du kích khắp nơi trong vùng địch kiểm soát đi đôi với tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, quét những đồn lẻ của chúng, buộc địch phải thu hẹp địa bàn chiếm đóng… Mùa khô tới, nếu địch tiến công lên Việt Bắc một lần nữa, hoặc tiến công vào Khu 4, ta phải chuẩn bị chu đáo để phá tan các cuộc hành binh của chúng, đồng thời phá kế hoạch càn quét của chúng ở Nam Bộ. Phải đuổi địch ra khỏi Việt Bắc, trước hết ra khỏi Bắc Kạn, Cao Bằng và Lào Cai. Để nâng cao trình độ của bộ đội, bảo đảm cho bộ đội thực hiện tốt chủ trương chiến lược trên đây, Trung ương quyết định phát động phong trào luyện quân lập công, gây một phong trào học tập kinh nghiệm chiến đấu của Việt Bắc trong bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Về mặt trang bị, trong chiến dịch Việt Bắc, súng badôca và súng cối cỡ nhỏ đã phát huy tác dụng tốt. Trung ương nhận thấy cần có kế hoạch tích cực sản xuất lựu đạn và các loại vũ khí thô sơ để trang bị rộng rãi cho dân quân du kích, đi đôi với sản xuất vũ khí cải tiến, kể cả badôca, súng cối cỡ lớn và các loại vũ khí công đồn để trang bị cho các tiểu đoàn tập trung tiến công vào vị trí địch. Tham mưu sẽ cùng các đồng chí bên quân giới bàn cụ thể vấn đề này.

Một vấn đề quan trọng đối với Bộ Tổng tham mưu là làm thế nào thực hiện tốt một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong năm 1948 là phát động chiến tranh du kích rộng rãi. Vấn đề đặt ra là tìm nguyên nhân vì sao trong cả năm 1947, kể cả trong thu đông vừa qua, chiến tranh du kích ở nhiều nơi chưa được đẩy mạnh? Ai cũng thấy huấn lệnh về phát động chiến tranh du kích ban hành ngày 14-11 chưa phát huy tác dụng thì chiến dịch Việt Bắc đã kết thúc. Và ai cũng thấy phương hướng đề ra trong huấn lệnh đó và chủ trương sử dụng hai lực lượng (đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung) là chủ trương đúng đắn, nhằm thúc đẩy cả chiến tranh du kích và tác chiến tập trung quy mô nhỏ cùng phát triển.

Trở lại vấn đề phát triển chiến tranh du kích trong năm 1948, anh Thái cho biết Trung ương đã chấp thuận đề nghị của Quân ủy Trung ương, đó là đề nghị về một biện pháp chiến lược bắt nguồn từ kết quả và kinh nghiệm sử dụng đại đội độc lập trên chiến trường Việt Bắc trong thu đông 1947. Bộ quyết định sẽ phân tán khoảng một phần ba bộ đội chủ lực trong toàn quốc thành các đại đội độc lập, làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh du kích, nhằm thực hiện một chủ trương chiến lược được gọi là biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta. Các đại đội độc lập sau này không chỉ hoạt động trong và giáp vùng địch tạm chiếm mà cả trong vùng tự do, nhất là ở những huyện miền núi mà cơ sở chính trị chưa thật mạnh, cần được củng cố vững chắc, như Đồng Văn (Hà Giang), Chiêm Hóa (Tuyên Quang)…


(1) Sau này được biết, đây là hội nghị Trung ương mở rộng, họp từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948, bản về phương hướng lãnh đạo khi cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới, sau chiến thắng Việt Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 20 Tháng Mười Một, 2012, 05:58:22 pm »

Phát động chiến tranh du kích, biến hậu phương địch thành tiền phương ta, nhằm làm thất bại chiến lược bình định của địch, là một trong những chủ trương lớn đã được ghi thành nghị quyết hội nghị Trung ương. Phòng Nhân sự cùng với Phòng Tác chiến rà soát lại các đơn vị chủ lực, làm bản kế hoạch đề đạt chuyển thêm những đơn vị vào thành đại đội độc lập và đưa về những địa phương nào, trước hết là các địa phương trong vùng địch tạm chiếm. Phương hướng chung là chừng 1/3 tổng số các đại đội (gồm cả những đại đội đã về các địa phương trong thời kỳ đang diễn ra chiến dịch Việt Bắc). Về phạm vi địa bàn hoạt động, lấy huyện (châu, phủ) làm đơn vị cho từng đại đội. Phương thức hoạt động như trong thu đông vừa qua nhưng tùy tình hình cụ thể từng địa bàn mà xác định hình thức và quy mô hoạt động cho phù hợp. Nơi phong trào còn yếu thì lấy hình thức ban xung phong công tác (hoặc đội vũ trang tuyên truyền) nhằm xây dựng cơ sở chính trị vững chắc làm nền tảng tiến lên xây dựng các đội vũ trang bí mật. Nói nào cơ sở chính trị đã tương đối vững, có thể lấy quy mô đại đội để hoạt động, nhằm hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích và chuẩn bị chiến trường cho các tiểu đoàn tập trung về tác chiến. Ở các huyện trong vùng tự do mà cơ sở chính trị chưa mạnh, lấy việc động viên chính trị đi đôi với tổ chức huấn luyện dân quân du kích làm nhiệm vụ chính trong hoạt động của đại đội độc lập…

Trong giờ giải lao, có đồng chí hỏi anh Thái về việc còn được coi là “bem”, chưa công bố mà cũng có thể là không công bố. đó là việc Chính phủ quyết định phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao cấp trong quân đội, trong đó có Tổng Tham mưu trưởng. Anh Thái có phần ngạc nhiên, không hiểu vì sao mà anh em biết được tin này. Và anh em đã hỏi, anh thấy cũng không nên giấu, nhưng anh chỉ nói qua loa rồi vui vẻ thêm: Trên đã có chủ trương sau khi phong quân hàm cấp tướng, sẽ lần lượt phong tiếp cho cán bộ các cấp dưới, ở cơ quan là cấp cục, cấp phòng… Nhưng không được vì có quân hàm mà quên phương châm du kích chiến là căn bản đấy…

Mọi người cười, và cuộc họp tiếp tục. Anh Thái nghe các phòng báo cáo về tình hình chuẩn bị triển khai cuộc vận động “Luyện quân đội - Lập chiến công”, gọi tắt là “Luyện quân - lập công”.

Sau khi có chỉ thị của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, đã có cuộc họp liên tịch giữa các phòng nghiệp vụ của Bộ Tổng tham mưu với bên quân huấn(1). Hai bên đã cùng nhau thống nhất về nội dung huấn luyện, về tổ chức ban luyện quân ở bộ và khu. Một kế hoạch đã được xây dựng và đã được Bộ thông qua, bao gồm:

- Đợt 1 của cuộc vận động sẽ diễn ra trong xuân hè năm 1948 và kết thúc vào trung tuần tháng 6 nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến. Do có thêm thực tế chiến đấu cuối năm 1947 nên nội dung huấn luyện cũng được điểu chỉnh và bổ sung cho sát với yêu cầu chiến đấu, sát với trình độ bộ đội. Nội dung tập trung vào những vấn đề kỹ thuật chiến đấu cơ bản của chiến sĩ, các chiến thuật đánh phục kích, đánh giao thông và chiến thuật công đồn các tiểu đoàn tập trung.

- Đợt 2 dự tính sẽ chia làm hai bước: hè thu 1948 và xuân 1949. Hai bước này có thể sẽ xê dịch, tùy theo diễn biến của tình hình mùa khô 1948 này.

Để hướng dẫn anh em thảo luận và vận dụng vào nghiệp vụ cụ thể, Tổng Tham mưu trưởng nhấn mạnh: Cần gắn cuộc vận động luyện quân lập công với việc triển khai các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung. Hai phòng Nhân sự và Tác chiến cần phối hợp chặt chẽ để sau khi danh sách các đại đội độc lập được thông qua, việc huấn luyện các đại đội này phải được tiến hành khẩn trương để kịp đưa về các địa phương trước mùa hè. Tổng Tham mưu trưởng còn lưu ý các phòng cần vận dụng chế độ phái viên vào việc giúp đỡ các đơn vị triển khai cuộc vận động luyện quân như đã làm trong tác chiến mùa khô vừa qua. Khi nghe báo cáo dự kiến cử những phái viên nào xuống các đơn vị, anh Thái nhắc các phòng nên tập trung trước hết vào các khu có những trung đoàn trình độ tổ chức huấn luyện tương đối yếu, đồng thời cũng cần có những phái viên đi sát giúp đỡ mấy đơn vị chủ lực của Bộ. Rồi anh cho ý kiến về chế độ báo cáo của các phái viên. Từ kinh nghiệm chiến dịch Việt Bắc, anh nhắc các phòng nên xác định trách nhiệm của anh em phái viên trong việc phát hiện vấn đề cần được giải quyết kịp thời trong quá trình theo dõi triển khai cuộc vận động.

Trả lời một vấn đề được nêu lên về tổ chức huấn luyện chiến thuật đánh đồn, Tổng Tham mưu trưởng chỉ rõ: Cá tiểu đoàn chủ lực của ta hiện nay có ít nhiều kinh nghiệm đánh phục kích, đánh giao thông, nhưng kinh nghiệm đánh đồn còn rất hạn chế. Phòng Tác chiến cần bàn với các phòng nghiệp vụ bên Cục Quân huấn và anh Trương Cao Phong nên tổ chức huấn luyện một tiểu đoàn chủ lực mẫu của Bộ để rút kinh nghiệm. Mục tiêu là một vị trí do một trung đội tăng cường hoặc nhiều nhất là một đại đội địch chiếm giữ. Cần xây dựng một đồn với những kiến trúc, những chướng ngại và mạng lưới hỏa lực như thật. Nên dùng một số binh sĩ (vốn là tù - hàng binh người nước ngoài) trong đơn vị đặc biệt của anh Trương Cao Phong đóng vai đối kháng(2) để bộ đội luyện tập cho sát thực tế.

Do muốn hoàn tất việc thảo luận các nội dung đề ra nên cuộc họp kết thúc hơi muộn. Hôm nay lại gần ngay Ông Táo về chầu Ngọc hoàng nên trời tối sớm, nhất là thời tiết Việt Bắc. Năm Đinh Hợi sắp qua, xuân Mậu Tý sắp tới. Dưới ánh đèn dầu mới được thắp lên, anh Thái nói kết thúc một ngày làm việc khẩn trương.

- Trách nhiệm của Bộ Tổng tham mưu chúng ta triển khai nghị quyết của hội nghị Trung ương là rất nặng nề. Chúng ta mới bàn được hai việc lớn nhất và cũng là quan trọng nhất đối với chúng ta trong năm nay là giúp trên chỉ đạo phát động phong trào chiến tranh du kích và cuộc vận động huấn luyện quân đội. Như vậy là chúng ta đã đi đúng hướng, là quan tâm cả chiến tranh du kích và xây dựng bộ đội chủ lực, chuẩn bị cho những trận đánh tập trung ở quy mô nhỏ. Sắp tới, còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu tiếp, trong đó có vấn đề rất quan trọng mà hai phòng Tình báo và Tác chiến cần hợp lực cùng làm, đó là nghiên cứu về âm mưu chiến lược sắp tới của địch, về dự kiến kế hoạch tác chiến mùa khô này của chúng. Trước mắt, chúng ta cần tập trung theo dõi sự chuyển biến của phong trào chiến tranh du kích, nhất là sau khi các đại đội độc lập đã bén rễ ở các địa phương. Chiến tranh du kích là vấn đề có tầm quan trọng lớn lao về chiến lược, nhất là trong năm nay, năm thực hiện chủ trương biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta


(1) Lúc này cơ quan quân huấn vẫn là một cục trong Bộ Quốc Phòng - Tổng Chỉ huy. Mãi đến hội nghị tham mưu - quân huấn (tháng 2-1950) ta mới có điều kiện khắc phục những điều bất hợp lý khi hai cơ quan tham mưu và quân huấn tách biệt nhau. Tuy nhiên, phải 5 tháng sau, khi có Sắc lệnh 121 (ngày 11-7-1950) đổi Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam, Cục Quân huấn mới chính thức trở thành một cục trong Bộ Tổng tham mưu.
(2) Sau này, trong huấn luyện diễn tập, ta quen gọi là “quân xanh”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:21:05 am »

III

Gần đến ngày Tết, hai cán bộ tham mưu được cử đi theo đồng chí Tổng chỉ huy xuống Liên khu 10(1). Anh Văn muốn xuống thăm hỏi và trực tiếp kiểm tra việc chuẩn bị lên đường của các đội vũ trang tuyên truyền xung phong Tây Bắc. Được phân công theo dõi vùng Tây Bắc từ lâu, hai cán bộ tham mưu của chúng ta rất am tường địa bàn chiến lược quan trọng này ở miền Tây Tổ quốc.

Chiến trường Tây Bắc đã được Tổng Quân ủy quan tâm từ những ngày trước kháng chiến toàn quốc.

Nhớ lại hồi tháng 8-1945, lá cờ cách mạng như ánh sáng mặt trời xua tan bòng tối bao phủ trên mảnh đất miền Tây Bắc thì kẻ thù từ nhiều hướng đã ập tới. Quân Tưởng kéo vào Lai Châu, Thuận Châu, Điện Biên Phủ. Quân Pháp (thất trận và tháo chạy từ hồi đảo chánh của Nhật) từ phía Côn Minh - Trung Quốc, vượt qua biên giới vào Sơn La, Mộc Châu, Nghĩa Lộ, tới giáp sông Hồng. Chính quyền thổ ty, tay sai của Pháp lần lượt mọc lên, núp dưới chiêu bài xứ Thái tự trị, xứ Mường tự trị, với những Đèo Văn Long ở Lai Châu, những Bạc Cầm Quý ở Sơn La… Các cứ điểm của quân Pháp, như vết dầu, cứ loang rộng mãi ra. Cuộc đời người dân Tây Bắc trở lại tăm tối hơn những ngày trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.

Phải tiến lên giải phóng Tây Bắc! Tây Bắc đau thương đang mong chờ quân cách mạng! Theo tiếng gọi đó, mùa xuân năm 1947 Trung đoàn Tây tiến lên đường.

Trong thư đề ngày 1-2-1947 gửi bộ đội Tây tiến, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết:

“… Miền Việt - Tây đối với nước ta có một vị trí chiến lược rất quan trọng. Hùng cứ được vùng đó, không những quân địch ở vào thế cứ cao lâm hạ, có thể uy hiếp hậu phương của chúng ta, mà chúng lại mong thực hiện âm mưu độc ác dĩ Việt chế Việt, chia rẽ các anh em thiểu số, lập bộ đội người Việt thiểu số để tiến đánh chúng ta…

… Mỗi một tấc đất miền Tây là một tấc đất của Tổ quốc Việt Nam, chúng ta không thể để cho địch dễ dàng giẫm lên được. Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt, chúng ta không thể không bảo vệ quyền lợi của đồng bào, không thể để đồng bào ta bị quân địch giày xéo hay lung lạc. Hơn nữa, bảo vệ được lãnh thổ và nhân dân miền Tây, tức là gián tiếp bảo vệ được đại hậu phương của chúng ta, giúp một phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng…”.

Trung đoàn Tây tiến, với Tiểu đoàn 212, gồm những chàng trai Hà Nội, ra đi từ ngày đó. Vượt sông Mã xong, bước đường vạn dặm đầy gian lao cuối cùng cũng đưa các anh đến được mảnh đất miền Tây trùng điệp của Tổ quốc. Những khó khăn thử thách không ngừng tăng lên: địch, đói, rách, sốt rét… Bệnh binh nhiều hơn thương binh. Thiếu súng đạn, thiếu gạo muối, thiếu thuốc chữa bệnh. Những chàng trai tráng kiện buổi lên đường nay chỉ còn là một “đoàn quân không mọc tóc”. Mỗi khi tiếng cồng quân y vang lên, nhân dân địa phương biết đó là tin báo một chiến sĩ vừa qua đời, thường là sau một cơn sốt ác tính. Cuối cùng, toàn trung đoàn được lệnh trở lại đất Hòa Bình.

Nếu Trung đoàn Tây tiến không đủ sức vượt qua khó khăn để bám trụ trên địa bàn miền Tây thì Trung đoàn Sơn La lại bất khỏi mảnh đất này vì những sai lầm về chính sách dân vận.

Đến cuối năm 1947, không còn một đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng nào bám trụ được trên địa bàn rừng núi Tây Bắc rộng lớn. “Phó vương” họ Bạc, “vương” họ Đèo, dựa vào quân Pháp, mặc sức lộng hành. Sĩ quan Pháp nói thạo tiếng Thái cùng với bọn tay sai thạo tiếng Pháp câu kết với nhau củng cố bộ máy thống trị hà khắc chưa từng thấy.

Hạ tuần tháng 1-1948, vào dịp Liên khu 10 được thành lập, Bộ Tổng chỉ huy ra chỉ thị về việc xây dựng căn cứ địa Tây Bắc. Sau khi khẳng định vùng rừng núi Tây Bắc “là một địa vực hết sức quan trọng về chiến lược trong thời kỳ kháng chiến cũng như về sau này…, vì vậy vấn đề giải phóng cho đồng bào Tây Bắc và xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là một vấn đề quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc”, bản chỉ thị đã nêu lên phương châm và nguyên tắc chính như sau: 1- Phải mở rộng và củng cố cơ sở nhân dân; 2- Phải biết vận dụng vũ trang tuyên truyền; 3- Về quân sự, phải giúp đỡ xây dựng các tổ chức du kích người địa phương, giúp đỡ các đội du kích trưởng thành, tiến dần lên thành những đại đội độc lập; 4- Phải coi trọng việc đào tạo và sử dụng cán bộ người địa phương…

Khi hai cán bộ tham mưu theo Tổng Chỉ huy xuống Liên khu 10 thì hai ban xung phong Tây Bắc đang chuẩn bị lên đường, lấy mục tiêu là tiến vào Điện Biên Phủ. Ban Xung phong Quyết tiến, do đồng chí Bạch Luân và đồng chí Hồng Quân chỉ huy, tiến theo hướng Quang Huy; Ban Xung phong Trung dũng, do các đồng chí Lê Thanh và Xích Vân chỉ huy, tiến theo hướng Xiêng Khương. Tiếp theo sẽ là các ban xung phong Quyết Thắng, Tây Bắc, Tây tiến (Tiểu đoàn 212 cũ) lần lượt lên đường.

Nói chuyện với cán bộ các ban xung phong Quyết tiến và Trung Dũng, đồng chí Tổng Chỉ huy chỉ rõ những gian nan, thử thách đang chờ đợi anh em. Nhưng “sự hiểm nghèo, khổ sở không thể chinh phục được lòng dũng cảm của những thanh niên hăng hái, không thể chinh phục được ý chí của mỗi dân tộc… Chỉ một việc cất chân lên đường xung phong tiến về hướng tây đã chứng tỏ chí hy sinh và lòng kiên nghị của các đồng chí”… Chỉ vẽ cho anh em về phương hướng hoạt động, đồng chí Tổng Chỉ huy nói: “Các đồng chí cần phải ăn ở rất tốt, lấy nói năng, cử chỉ, giúp đỡ hằng ngày mà chứng minh rằng chúng ta là đồng bào một nước, bao giờ cũng thương yêu nhau như anh em ruột thịt… Phải có sáng kiến và kiêm tâm trong việc vận động nhân dân cũng như trong việc tiến đánh địch… Phải ra sức giữ gìn sức khỏe, không bao giờ quên những nguyên tắc vệ sinh thường thức, không ăn quả xanh, không uống nước lã, phải luôn luôn vận động, luôn luôn vui vẻ…”.

Khi các phái viên về báo cáo lại buổi lên đường của hai ban xung phong Quyết tiến và Trung dũng, Tổng tham mưu trưởng rất xúc động. Từ kinh nghiệm bản thân hoạt động trong đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân năm xưa, anh Thái hiểu rất rõ: các chiến sĩ Tây tiến đang vượt hàng trăm kilômét đường rừng, qua những vùng trắng do địch kiểm soát. Anh em đang và sẽ còn phải đương đầu với những khó khăn thử thách trong những ngày sống và chiến đấu gian khổ, hiểm nghèo sắp tới, những thử thách mà lúc này anh em chưa hình dung hết…

Tổng Tham mưu trưởng dặn Phòng Tác chiến theo sát diễn biến sắp tới trên hướng Tây Bắc. Công việc Tây tiến về lâu dài vẫn là một cuộc đấu tranh gay gắt giữa ta và địch nhằm giành đất, giành dân. Trước hết, trong năm 1948 này, các đội Tây tiến đi đến đích và bước đầu bám trụ được đã là thành công quan trọng bước đầu của chủ trương chiến lược: Biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.


(1) Ngày 25-1-1948, Chính phủ ra sắc lệnh sáp nhập các khu lại thành các liên khu như đã dự kiến hồi đầu tháng 10-1947. Liên khu 10 gồm hai khu cũ: 10 và 14.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2012, 09:21:34 am »

IV

Bộ Tổng chỉ huy quyết định triệu tập hội nghị dân quân toàn quốc vào tháng 4. Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ phối hợp với Phòng Dân quân Cục Chính trị chuẩn bị nội dung. Việc nắm lại tình hình phong trào chiến tranh du kích trong phạm vi cả nước là một việc các anh Hoàng Văn Thái và Lê Liêm đề ra cho các phòng chuẩn bị từ hồi đầu năm.

Chiến tranh du kích mới được phát động. Nhiều đại đội độc lập mới bắt đầu về bám đất, bám dân trên các địa bàn được phân công. Tổng hợp tình hình dân quân du kích trong toàn quốc không những có tác dụng giúp Tổng Quân ủy xác định trọng tâm chỉ đạo hội nghị, mà qua thực tế tình hình, Bộ tổng tham mưu còn thấy rõ hơn hướng hoạt động cụ thể cần chú ý trong chỉ đạo các đại đội độc lập trên từng địa bàn cho sát đúng hơn.

Liền trong mấy ngày hạ tuần tháng 3, đồng chí Lê Liêm và một số cán bộ Phòng Dân quân sang làm việc với Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và mấy trưởng phòng thuộc Bộ Tổng tham mưu. Đây là lần đầu tiên có cuộc họp liên tịch, với thành phần rộng rãi giữa tham mưu và dân quân, cũng là lần đầu tiên cán bộ hai cơ quan cùng nhau nghe tình hình cụ thể của phong trào dân quân trong cả nước để thống nhất đánh giá tình hình. Chuẩn bị cho mấy cuộc họp liên tịch hôm nay, cán bộ hai cơ quan đã cùng nhau làm việc nhiều ngày để tổng hợp tình hình, làm cơ sở cho các đồng chí lãnh đạo rút ra những bài học chỉ đạo phong trào. Cuộc họp liên tịch đã rà soát lại phong trào từng địa phương.

Tại Nam Bộ: Sau chiến thắng Việt Bắc, đồng chí Lê Duẩn đánh giá rằng Bắc Bộ đang trở thành chiến trường chủ yếu thu hút lực lượng địch. Vì vậy, ở Nam Bộ, quân địch khó tránh khỏi bị sơ hở. Nếu ta biết triệt để ấp dụng chiến lược, chiến thuật du một cách có hiệu quả hơn để căng kéo địch ra, giam chân và uy hiếp chúng khắp nơi, thì khả năng giành lại quyền chủ động sẽ sớm xuất hiện và duy trì được.

Đặc điểm nổi lên ở Nam Bộ trong thời gian qua là phong trào đấu tranh ở đô thị, trước hết là ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

Âm mưu của địch là xây dựng thành phố thành hậu phương an toàn của chúng. Chúng củng cố chính quyền tay sai xuống tận khóm, phường; tăng cường lực lượng cảnh sát mật vụ; áp dụng mọi biện pháp an ninh hòng đè bẹp mọi tổ chức chống đối. Chúng tìm mọi thủ đoạn hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến, triệt phá cơ sở chính trị và vũ trang ở cả nội và ngoại thành.

Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Xứ ủy Nam Bộ coi việc duy trì và phát triển phong trào đấu tranh ở đô thị là một công tác hàng đầu. Các tổ chức mang nhiều tên khác nhau (ban trinh sát, ban quân báo, ban hành động, ban công tác, công an xung phong, v.v.) trong các thành phố đều được kiện toàn. Từ đầu năm 1948, các lực lượng này được thống nhất thành 10 ban công tác thành. Riêng ở vùng ven đô, các mặt hoạt động đều được phân công theo dõi từng địa bàn, nhằm xây dựng dân quân, phát triển cơ sở kháng chiến trong các tổ chức quần chúng bí mật sát đô thành. Các hoạt động vũ trang của các ban công tác thành làm cho địch luôn không ổn định. Chúng phải thường xuyên đối phó, hòng hạn chế ảnh hưởng của kháng chiến đang không ngừng lan rộng trong nội thành.

Tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Bằng biện pháp càn quét, bình định, phát triển mạng đồn bốt, nhất là ở vùng giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, đi đôi với chính sách chia rẽ gây hằn thù dân tộc, khủng bố đi đôi với mua chuộc bằng kinh tế, địch ra sức củng cố vùng tạm chiếm và chia cắt giữa các chiến trường rừng núi phía tây với đồng bằng ven biển.

Từ cuối năm 1947 đầu năm 1948, bộ đội chủ lực các khu 5 và 6 đã sớm phân tán thành các đội vũ trang tuyên truyền, tỏa về hoạt động ở các địa phương. Việc xây dựng cơ sở tại vùng ven biển và hai bên các đường 19, 7 và 21 đã tạo điều kiện tác chiến cho bộ đội chủ lực, trong đó nổi lên là các trận đánh của chủ lực và dân quân du kích Hòa Vang và Điện Bàn đầu năm 1948 vừa qua.

Một điểm đáng chú ý ở Liên khu 5 là lãnh đạo đã sớm nghĩ đến việc đưa lực lượng đi gây cơ sở, mở đường phát triển sang vùng rừng núi phía tây, trên nhiều hướng. Hướng nam Tây Nguyên, ngược sông Ba, phát triển lên Cheo Reo, Buôn Hồ, hướng nữa là sang Măng Đen, Đắc Đoa; hướng bắc thọc một mũi lên phía núi Ngọc Linh, vào rừng Mường Hoong, Đắc Lây, nhằm bắt liên lạc với cánh quân từ Quảng Nam - Đà Nẵng đang phát triển lên hướng tây, tới biên giới Việt - Lào.

Như vậy, việc phát triển cơ sở trên vùng rừng núi miền Tây đang được coi trọng, đang được xúc tiến khẩn trương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM