Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:07:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây  (Đọc 68713 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2012, 06:35:36 am »

Chừng một tuần trước Tết, ngày 15-1 dương lịch, đúng vào dịp ta và quân Pháp thỏa thuận một cuộc ngừng bắn (tạm thời) để đưa ngoại kiều ra ngoài vùng không có chiến sự, Bộ chỉ thị nhân thời cơ này đưa thương binh ra vùng căn cứ để tiện việc chăm sóc điều trị, đồng thời giảm bớt “quân số” phụ nữ và trẻ em thuộc Trung đoàn Thủ đô để hạn chế những khó khăn về cung cấp. Vòng vây của địch đang dần dần thu hẹp đã tác động trực tiếp đến đường tiếp tế của ta từ ngoài vào nội thành. Trung đoàn Thủ đô đã tổ chức đưa anh em thương binh và hàng ngàn đồng bào ra ngoại thành. Vậy mà đến nay, Phòng Tác chiến nhận được báo cáo cho biết quân số Trung đoàn Thủ đô vẫn còn hơn 1.000 người (với hơn 200 phụ nữ và chừng 100 thiếu niên), chứ không phải tổng quân số 500 người như chỉ thị của Bộ. Sau này, theo báo cáo của Ban Chỉ huy Trung đoàn thì nhiều người cố tính lẩn tránh, không chịu rút ra ngoài. Đúng là một hành động làm trái lệnh trên, nhưng lại mang ý nghĩa và quyết tâm chiến đấu, “sống chết với Thủ đô”. Do số người trong thành phố giảm, những khó khăn về tiếp tế tuy có bớt đi, nhưng cơ bản chưa được khắc phục. Theo tin tức mà tham mưu nắm được thì quân địch mới được tăng viện từ Hải Phòng lên. Trước sau, chúng sẽ tập trung lực lượng đánh mạnh vào Liên khu 1 và đánh rộng ra các vòng cung ngoại vi phía nam Hà Nội. Anh Vũ phán đoán chúng sẽ tập trung lực lượng ở hướng Nhật Tân - Nhật Tảo, vì đây là căn xứ xuất phát và bảo vệ đường dây tiếp tế liên lạc của quân ta trên mạn tây bắc thành phố.

Cơ quan tham mưu đã chuyển đạt lên Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội nhận định của Bộ Tổng chỉ huy: tình hình chiến sự trong mấy ngày sắp tới ở Liên khu 1 sẽ trở nên rất ác liệt. Bộ Chỉ huy mặt trận phải có kế hoạch chỉ đạo đối phó có hiệu quả trước cuộc tiến công mới của địch nhưng vẫn phải nhớ tránh mạnh - đánh yếu, để tiêu hao quân địch, bảo toàn lực lượng ta, không mạo hiểm.

Trước Tết, sau mấy ngày đêm chặn đánh quyết liệt các mũi tiến công của địch ở các cửa ô, quân ta đã chủ động điều chỉnh lại thế bố trí theo kế hoạch đã thống nhất giữ Tổng Tham mưu trưởng và Chỉ huy trưởng mặt trận. Nhiều vị trí địch bị tiến công, nhiều kho tàng địch bị đốt phá ngay đêm 30 Tết. Tuy vậy, dựa vào lực lượng mới được tăng viện, địch tung quân ra quyết lấn chiếm thêm một số vị trí trên đường vòng cung ngoại ô. Tiếp đó, ngay sau Tết, chúng tuyên truyền lực lượng mở cuộc tiến công chiếm Nhật Tân, Nhật Tảo, nhằm hoàn chỉnh việc chiếm đóng vòng cung ngoại thành, cắt đường tiếp tế của ta từ ngoài vào Liên khu 1.

Ngay ngày hôm đó, 25-1-1947, các đồng chí Tổng Chỉ huy và Tổng tham mưu trưởng có mặt ở Sở Chỉ huy mặt trận Hà Nội, đóng tại Tây Mỗ. Hai đồng chí cùng Bộ Chỉ huy đứng trước tấm bản đồ Thủ đô mở rộng. Trên tấm bản đồ đó, như nhận xét của anh Vương Thừa Vũ sau này, “trận địa của Trung đoàn Thủ đô chỉ còn là một mảnh con con tô màu đỏ nằm lọt thỏm giữa vùng địch chiếm đóng khá rộng tô màu xanh. Súng cối 81 mm của địch đã có thể bắn từ bên này sang bên kia, vượt qua đội hình Liên khu 1, cả trên chiều ngang lẫn trên chiều dọc”.

Suy nghĩ hồi lâu, đồng chí Tổng Chỉ huy nhận định:

- Trước tiên, kẻ địch có thể đánh chiếm nhà Xôva và trường Ke(1) là hai vị trí ở phía đông Liên khu 1, có nhà cao tầng, có đường lớn chạy ngang qua trước mặt. Nếu Nhật Tân, Nhật Tảo là căn cứ xuất phát và bảo vệ đường dây tiếp tế thì nhà Xôva và trường Ke là hai vị trí bảo vệ cửa ngõ Liên khu 1. Chiếm được các vị trí này, quân địch hoàn toàn khép kín vòng vây đối với Trung đoàn Thủ đô. Chúng sẽ tập trung lực lượng tiến công chia cắt Liên khu 1 ra từng ô nhằm tiêu diệt quân ta, thẳng tay đàn áp nhân dân còn lại trong đó… Cần bàn kỹ để có kế hoạch đối phó với ý đồ này của địch.

Anh Thái và anh Vũ trao đổi ý kiến rất lâu để thực hiện chỉ thị trên đây của Tổng Chỉ huy. Các anh nhận thấy một mặt cần ra lệnh cho bộ đội phía ngoài (các Liên khu 2 và 3) cho những đơn vị nhỏ, bí mật luồn sâu vào nội thành, thường xuyên quấy rối, tiêu hao địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, giảm bớt sức ép đối với Liên khu 1. Mặt khác, muốn giữ hai vị trí phía đông, cần có những tổ trinh sát liên tục bám địch, có những phân đội tinh nhuệ, được trang bị mìn, lựu đạn, chai xăngcrếp đánh cơ giới, có các tổ bắn tỉa… Bằng những hoạt động nhỏ lẻ, thường xuyên, khiến địch không lường được lực lượng của ta. Phải bố trí những chiến sĩ gan dạ nhất, có quyết tâm bảo vệ hai vị trí nói trên. Phải giữ vững liên lạc với ngoài, bảo đảm tiếp tế và tăng viện cho các chiến sĩ chiến đấu ở nhà Xôva và trường Ke.

Ý kiến trên được Tổng Chỉ huy nhất trí và trở thành cơ sở để Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội đi sâu bàn bạc cụ thể biện pháp tổ chức và chỉ đạo cuộc chiến đấu sắp tới ở phía đông Liên khu 1. Ra về, cả anh Văn và anh Thái thấy yên tâm về những gì đã được thảo luận nhất trí sáng hôm đó. Các anh cũng trao đổi thêm về phương hướng sắp tới của Trung đoàn Thủ đô nên như thế nào, đến lúc nào thì đề nghị với Bác và Thường vụ cho anh em rút ra vùng tự do để bảo toàn và phát triển lực lượng. Anh em đang đứng trước rất nhiều khó khăn thiếu thốn, cả về vật chất trang bị, cả về lương thực và nước uống.


(1) Nhà Xôva (Sauvage) là tên Sở Vận tải đường sông dưới thời Pháp. Sau Cách mạng Thắng Tám, nhân dân vẫn quen gọi theo tên cũ. Hiện nay là Trường Nguyễn Huệ, đường Trần Quang Khải. Cũng dưới thời Pháp, trường Ke là một trường tiểu học, nằm trên đường Quai Clémanceau. Tiếng Pháp, Quai (đọc là Ke) có nghĩa là bến. Nay là Trường Trần Nhật Duật.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2012, 06:37:17 am »

VI

Trở về cơ quan, Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo cho Phòng Tác chiến và Phòng Tình báo tập trung theo dõi tình hình tăng viện của địch, theo dõi cuộc chiến đấu sắp diễn ra ở phía đông Liên khu 1.

Đúng như ta dự đoán, ngày 6-2 địch bắt đầu tiến công vào nhà Xôva và chúng đã bị thất bại. Cả 5 lần xung phong của chúng đều bị quân ta đẩy lui. Hôm sau, 6 lần xung phong của địch vào trường Ke cũng không thành công. Hai vị trí cửa ngõ của Liên khu 1 trông ra sông Hồng vẫn đứng vững. Quân địch chuyển hướng tiến công sang phố Hàng Thiếc. Liên tục 4 ngày, từ ngày 1 đến ngày 13-2, chúng dồn bom, pháo đánh phá dữ dội vào trận địa Trung đoàn Thủ đô. Tiếp đến là trận tiến công vào khu chợ Đồng Xuân. Suốt từ sáng đến trưa ngày 14, những trận đánh ác liệt không chỉ diễn ra bên trong chợ mà cả ở phía nam, trên đường phố Hàng Thiếc, Hàng Mã, Hàng Đường.

Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng dành nhiều thời gian theo sát diễn biến của mặt trận Hà Nội. Nhớ lại hai tuần trước, khi ra làm việc với Bộ Chỉ huy, các anh đã dự kiến những khó khăn mà Trung đoàn Thủ đô sẽ gặp phải trong những ngày chiến đấu tiếp sau đó. Nếu các anh tin tưởng và yên tâm về tinh thần chiến đấu của bộ đội Liên khu 1 thì các anh lại suy nghĩ nhiều về lực lượng so sánh và những thiếu thốn về vật chất mà bộ đội không có khả năng vượt qua. Theo báo cáo, anh em đã phải đào giếng để có nước ăn và tắm giặt, đã cử người ra tận bờ sông Hồng để hái từng ngọn khoai lang, tìm chuối xanh và đu đủ làm rau, đã cho người tiếp cận các phố giáp địch để tìm kiếm lương thực và thực phẩm khô trong những căn nhà bị bom đạn đánh sập.

Sau các trận Xôva và trường Ke, rồi trận đồng Xuân, Hàng Thiếc, quân ta đã giam chân địch trong thành phố gần hai tháng. Anh em đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vượt xa yêu cầu của trên, nhưng rõ ràng là tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Vào buổi tối 14-2, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ nhận được một lệnh của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp: Tổ chức cho Trung đoàn Thủ đô rút ra ngoài. Việc lui quân phải giữ bí mật triệt để đến phút cuối cùng. Kèm theo là một thư riêng của anh Văn gửi các anh trong Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội. Bức thư chuyển lời khen của Bác Hồ, nói rằng Trung đoàn Thủ đô đã giam chân địch được hơn một tháng đã là thắng lợi, đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi.

Au này anh Vũ kể lại rằng: Tay cầm lệnh và bức thư của đồng chí Tổng Chỉ huy, anh rất xúc động. đây không phải là lần đầu tiên Bộ đặt vấn đề này ra với các anh. Tại hội nghị quân sự toàn quốc trung tuần tháng trước cũng như hôm đến Sở Chỉ huy ở Tây Mỗ, anh Văn đã từng hỏi: Quân ta đã kìm chân địch trong thành phố một thời gian vượt yêu cầu ban đầu của Bộ đề ra là một tháng. Anh xem liêu bao giờ thì ta nên rút Trung đoàn Thủ đô ra? Và anh đã trả lời ngay sau khi suy nghĩ: Ta còn khả năng trụ bám trong đó, đề nghị cho tiếp tục giữ Liên khu 1 thêm một thời gian nữa.

Thể theo nguyện vọng của bộ đội và nhất là xét khả năng thực tế lúc đó, Bộ đã chấp nhận lời đề nghị này. Thêm gần ba tuần đã trôi qua, ba tuần nói lên tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội trước những thử thách ngày càng quyết liệt, ba tuần chứng minh quyết định để bộ đội kéo dài cuộc chiến đấu trong lòng Thủ đô là hoàn toàn đúng đắn. Giờ đây, khó khăn nổi lên của chiến sĩ Liên khu 1 là lương thực và đạn dược đã cạn. Bộ đội và đồng bào trong đó có lúc phải nhường nhau từng bát cơm, từng gáo nước. Các đơn vị ở Liên khu 2 và 3 đã đang hoạt động ngày càng xa Liên khu 1, không còn khả năng hỗ trợ và phối hợp đắc lực với Trung đoàn Thủ đô như trước. Mệnh lệnh của trên cho trung đoàn rút ra khỏi thành phố vào thời điểm này là hoàn toàn chính xác.

Sau khi họp bàn thống nhất trong Bộ Chỉ huy, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ trực tiếp về Bộ báo cáo kế hoạch lui quân được anh gọi là “cường công - mật rút”. Anh em cán bộ Bộ tổng tham mưu đã quen nghe những từ Hán Việt thường được anh Vũ dùng để diễn đạt những vấn đề về chiến thuật. Kế hoạch rút quân do Bộ Chỉ huy mặt trận Hà Nội đề nghị được Bộ phê duyệt. Anh Văn, anh Thái cho những ý kiến cụ thể thêm về kế hoạch nghi binh, lừa địch, về các mặt bảo đảm khác và về vị trí tập kết khi ra tới] vùng tự do. Sau này, anh Vũ còn nhớ và kể lại: khi tiễn anh ra về, anh Thái bắt tay anh, cười và nói vui:

- Thằng địch nó thua ta ở keo này là ở chỗ khi công thì ta cườngkhi rút thì ta mật đấy…

Hai anh cùng cười.

Ngay sau khi anh Vũ ra về, một số phái viên tác chiến được cử xuống các Trung đoàn 37 và 80, bàn và đôn đốc việc tiến công, áp sát, thu hút lực lượng địch về hướng các cửa ô Cầu Dền, Cầu Giấy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2012, 06:38:42 am »

Mãi những năm về sau này, qua sách báo Pháp và phương Tây, ta thấy địch thú nhận rằng chúng đã bị lừa. Những tiếng nổ, những đám cháy do ta bố trí nghi binh ngay sát liên khu 1, những mũi tiến công áp sát ngoại vi phía tây và phía nam thành phố, đã khiến địch tin rằng đêm đó, 17-12-1947, quân ta đánh mạnh. Chúng không hề biết rằng, vào khoảng nửa đêm, trung đoàn Thủ đô đã cùng hàng ngàn đồng bào bí mật lọt qua vòng vây, lặng lẽ qua gầm cầu Long Biên, dùng thuyền vượt sông Hồng sang Bắc Biên (Cơ Xá) rồi lên Đông Ngàn (Long Tựu). Mãi mờ sáng hôm sau chúng mới vỡ lẽ, vội vã cho canô chạy ngược sông Hồng đuổi theo, phối hợp với cánh quân từ Yên Phụ, Nhật Tân đánh sang, từ Chèm đánh xuống. Hai chiếc máy bay lồng lộn dọc sông Hồng. Pháo binh từ các trận địa bắn đuổi…

Dựa vào công sự đã được chuẩn bị sẵn trên Bãi Giữa, mép sông Hồng, Tiểu đoàn du kích Hồng Hà do Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy đã anh dũng chiến đấu kìm chân địch, bảo đảm cho toàn trung đoàn vượt sông an toàn cho đến khi chiếc thuyền cuối cùng vượt bến bên kia. Chiến đấu trong điều kiện so sánh lực lượng tuyệt đối chênh lệch, 8 trong số 9 chiến sĩ của Tiểu đội du kích Hồng Hà đã anh dũng hy sinh.

Trong Hồi ký của mình, đồng chí Vương Thừa Vũ viết:

“Trận đánh kéo dài mãi gần trưa. Chúng ta không còn được gặp Nguyễn Ngọc Nại… nhưng chúng ta có đầy đủ bằng chứng để đánh giá tác dụng to lớn của trận này… Các đồng chí đã hy sinh oanh liệt… bảo đảm cho Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội được tuyệt đối an toàn”.

Đêm 22-2, khi lễ tuyên dương công trạng Trung đoàn Thủ đô diễn ra trang nghiêm tại đình làng Thượng Hội, (Đan Phượng - Hà Đông) thì tại thôn Sài Sơn (Quốc Oai - Sơn Tây), mấy cán bộ tác chiến và nhân sự Bộ Tổng tham mưu đang chong đèn nghiên cứu kế hoạch đề đạt lên trên về phương hướng xây dựng và tác chiến sắp tới của trung đoàn. Trải qua 60 ngày thử thách trong khói lửa, Trung đoàn Thủ đô như hạt giống đỏ đã bén rễ, nảy mầm, cứng cây, đứng vững trước phong ba bão táp. Vấn đề đặt ra với cơ quan tham mưu chiến lược lúc này là góp phần vun tưới, làm sao cho nó không ngừng nở hoa, kết trái.

Cũng trong những ngày cuối tháng 2 này, trước yêu cầu của tình hình do chiến sự có chiều hướng mở rộng, Bộ Tổng tham mưu triệu tập hội nghị thông tin liên lạc, họp ở gần Mai Lĩnh. Thành phần về dự gồm các Trưởng ban thông tin từ Khu 4 trở ra. Trong hai tháng qua, ở hầu hết các khu đều có chiến sự diễn ra cho nên các ban thông tin đều có ít nhiều kinh nghiệm bảo đảm thông tin phục vụ chỉ huy tác chiến. Các bản báo cáo, nhất là báo cáo của ngành thông tin khu Đặc khu Hà Nội, được đặc biệt chú ý. Hàng loạt vấn đề được nêu lên để thảo luận trong hội nghị. Bài học nổi lên qua hai tháng chiến đấu vừa qua là làm thế nào bảo đảm phát huy tác dụng của cả ba phương tiện, nhất là tổ chức liên lạc chạy chân, để thông tin chỉ huy luôn thông suốt, khi có rất nhiều phân đội nhỏ chiến đấu phân tán trong thành phố.

Trong báo cáo tổng kết hội nghị, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng biểu dương thành tích các chiến sĩ thông tin đã có nhiều cố gắng bảo đảm thông tin chỉ huy thông suốt trong hai tháng qua, nhất là bảo đảm bí mật giờ nổ súng đêm 19-12. Đồng chí cũng chỉ ra những thiếu sót cần khắc phục, nhất là hiện tượng ỷ lại vào hệ thống thông tin điện thoại của bưu điện. Chính do thiếu sót này mà nhiều tin tức của ngành tình báo ở các địa phương bị ách tắc. Dự kiến chiến sự sẽ lan rộng, chiến trường có thể bị chia cắt, đồng chí phân tích đặc điểm của tình hình sắp tới là chiến sự sẽ không còn thu hẹp trên các địa bàn thành phố mà sẽ lan ra vùng trung du và đồng bằng, tình huống diễn biến sẽ khẩn trương hơn, trên một không gian rộng hơn. Yêu cầu đặt ra ới ngành thông tin quân sự là phải biết phát huy mặt mạnh, mặt thuận lợi của mình, biết dựa vào sự phối hợp chặt chẽ ba phương tiện vô tuyến, điện thoại và liên lạc chạy chân, quyết tâm vượt mọi khó khăn để đảm bảo thông tin luôn thông suốt và bí mật, nhanh chóng, kịp thời. Dẫn chứng điển hình được Tổng Tham mưu trưởng nêu lên trước hội nghị là tinh thần khắc phục khó khăn về thông tin chỉ huy của pháo đài Xuân Canh. Đài quan sát đặt trên một cây gạo cao, xa khẩu pháo chừng 1.000 mét. Máy điện thoại không có. Anh em đã biết dựa vào nhân dân, tổ chức một đường dây “người”, nối liền đài quan sát với trân địa để chỉ huy hiệu chỉnh pháo. Sau đó, đường dây “người” được thay bằng xe đạp. Rõ ràng là kinh nghiệm rất thô sơ, nhưng nhờ biết dựa vào dân, biết suy nghĩ để vượt qua khó khăn mà phó dài Xuân Canh đã góp phần lập thành tích ngay từ những ngày chiến đấu đầu tiên ở Thủ đô.

Cuối bản báo cáo tổng kết, Tổng Tham mưu trưởng căn dặn cán bộ phụ trách thông tin các cấp, các đơn vị phải tranh thủ mọi điều kiện cho phép để đào tạo nhân viên chuyên môn, coi trọng việc chỉ đạo bảo quản sửa chữa và tận dụng mọi phương tiện thông tin, nhất là phương tiện thu được của địch. Phải phấn đấu tiến tới luôn có người và phương tiện thay thế. Muốn vậy, một yêu cầu về kỹ thuật được đặt ra là mỗi nhân viên thông tin phải học tập sử dụng được nhiều loại máy, cả máy ta có và máy chiến lợi phẩm. Đồng chí động viên mọi người trong ngành đoàn kết, khiêm tốn học tập lẫn nhau, nhất là học tập kinh nghiệm kỹ thuật để không ngừng nâng cao tay nghề, cải tiến tổ chức sao cho thích hợp nhất, nắm vững và tôn trọng mọi quy tắc chuyên môn, quy bắc bảo đảm bí mật thông tin chỉ huy trong mọi tình huống.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Mười, 2012, 06:52:52 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:07:42 am »

CHƯƠNG V

CHẶNG ĐƯỜNG LÊN CĂN CỨ ĐỊA

I

Sau hai tháng quân ta chiến đấu trong thành phố, nhất là với việc Trung đoàn Thủ đô hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và giam chân địch ở Hà Nội, thời kỳ chiến đấu đầu tiên đã kết thúc thắng lợi. Trong báo cáo gửi lên Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy cuối tháng 2-1947, Tổng Tham mưu trưởng viết:

“Chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ tổ chức trận tiến công chiến lược từ Đà Nẵng trở ra, tiêu diệt được một số sinh lực địch và thu được một số vũ khí, giam chân quân địch trong các thành phố, thị trấn quan trọng, còn lực lượng ta thì lớn mạnh lên. Trung ương, Chính phủ và quân dân ta có thời gian chuẩn bị lực lượng và thực hiện sơ tán, di chuyển, kể cả tài sản của cải Nhà nước, để giữ gìn lực lượng cho kháng chiến lâu dài”.

Trước đó, kết quả việc di chuyển cơ sở vật chất cho kháng chiến đã được Tổng tham mưu trưởng báo cáo tại hội nghị do Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy triệu tập hồi cuối trung tuần tháng 2-1947, vào dịp Trung đoàn Thủ đô rời khỏi Hà Nội.

Việc chuyển các máy móc và cơ sở vật chất quốc phòng từ các thành phố ra vùng chưa có chiến sự và đưa về các vùng căn cứ là một trong những kỳ công của công nhân và nhân dân trước và trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Trong cuộc họp này, đại biểu Tổng công đoàn Việt Nam cho biết chỉ tính kết quả đợt tổng di chuyển từ cuối năm 1946 đến tháng 1-1947, ta đã chuyển ra khỏi các thành phố và đưa ra vùng tự do khoảng 38.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu, trên một tổng chiều dài khoảng 8.000 kilômét đường bộ và đường sông. Ngoài sự tháo vát của công nhân các nhà máy xí nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định cuộc di chuyển được tiến hành nhanh chóng và an toàn là sự giúp đỡ tận tình, cả về người và phương tiện của nhân dân các địa phương. Toàn bộ tài sản nhỏ bé của quốc gia được bảo toàn trong quá trình di chuyển. trong số tài sản nhỏ bé đó, máy móc và nguyên vật liệu công nghiệp quốc phòng là vốn liếng ban đầu của ngành quân giới Việt Nam trong cuộc đọ sức lâu dài sau này với quân đội viễn chinh Pháp được đế quốc Mỹ viện trợ ngày càng nhiều.

Hội nghị kết thúc, Tổng Tham mưu trưởng đến gặp Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp báo cáo rồi trở về cơ quan chuẩn bị cho việc di chuyển.

Buổi sáng thứ ba, 25-2-1947, toàn cơ quan Bộ Tổng tham mưu được lệnh: mỗi phòng, ban để một người ở nhà thường trực, còn tất cả tập trung tại đình thôn Bùng để nghe nói chuyện. Anh chị em từ Ngọc Thán, Sài Sơn, từ Canh Dậu, Dị Nậu lục tục kéo về nơi tập trung. Dọc đường, người này phán đoán đến nghe thời sự về diễn biến hai tháng chiến đấu, người khách cho rằng đến nghe Tổng Tham mưu trưởng truyền đạt tình hình, nhiệm vụ mới. Cách lập luận nào nghe cũng có vẻ xuôi tai.

Sau này, cùng nhau ngồi ôn lại kỷ niệm Tết kháng chiến đầu tiên, nhiều anh còn nhắc lại không khí đầm ấm trong cuộc họp mặt hôm đó.

Mặc dù hôm đó đã là mùng 5 Tết, Tổng Tham mưu trưởng vẫn vui vẻ mở đầu bằng lời chúc mọi người một năm mới mạnh khỏe, đoàn kết, tiến bộ, cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ… Anh nói lên sự thông cảm của lãnh đạo đối với số đông anh chị em lần đầu xa nhà vào ngày xuân. Rồi anh chuyển sang nói về tình hình, nhiệm vụ và về cuộc hành quân sắp tới.

Quân ta đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và giam chân quân địch dài ngày trong nhiều thành phố, tạo một nguồn động viên chính trị to lớn và những điều kiện thuận lợi cho quân và dân cả nước chủ động chuyển sang thời chiến.

Lúc này, cơ quan tham mưu đã có điều kiện tổng hợp tình hình chiến sự trong cả nước hơn hai tháng qua. Tại Nam Bộ, nổi lên là hoạt động của các đội tự vệ và cảm tử quân trong thành phố Sài Gòn. Ngay mấy ngày đầu kháng chiến toàn quốc, quân ta đã nổ súng đánh địch ở nhiều nơi, gây tiếng vang lớn ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Trên chiến trường Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, từ cuối tháng 12, các trận phục kích, tập kích diễn ra chủ yếu trên đường 19 và trên địa bàn hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận. Nhân dân đang đẩy mạnh việc phá cầu đường, đắp ụ chướng ngại và đánh giao thông để cản trở bước tiến của địch trên con đường chiến lược 19. Quân ta ở Đà Nẵng không chuẩn bị kịp để tiến công địch trước như đã định vào nửa đêm 19. Hôm sau 20-12, địch đánh trước. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trên đường phố, ở sân bay và bến cảng. Cuộc bao vây địch kéo dài một tháng, tiếp đến là các trận đánh địch khi chúng tập trung quân, khai thông đường ra, giải vây cho đồng bọn ở Huế. Nếu lúc đầu việc lập vành đai bao vây địch trong thành phố Đà Nẵng là cách đánh không phù hợp thì sau đó, những trận phục kích địch, nhất là trên đèo Hải Vân là những trận đánh tốt, gây cho địch nhiều thiệt hại. Trung đoàn Cao Vân ở Huế nổ súng tiến công địch lúc 2 giờ 30 sáng 20-12. Do tiến công chậm so với nhiều thành phố ở ngoài Bắc nên địch đã chuẩn bị đối phó. Cuộc chiến đấu trong thành phố kéo dài 50 ngày đêm. Khi địch đưa quân từ Tây Nguyên ra, từ Lào sang, mở cuộc hành quân giải vây Huế đồng thời với Đà Nẵng, quân ta buộc phải rút khỏi cố đô trong thế bị động. Tại Vinh, do lực lượng ta mạnh hơn nên áp đảo địch, buộc chúng phải đầu hàng ngay trong đêm 19-12. Cuộc chiến đấu của bộ đội Vệ quốc đoàn và tự vệ Nam Định bắt đầu từ đêm 19-12 và kéo dài trong thành phố dệt cho đến nay đã hơn hai tháng. Ta đã giành giật với địch từng mục tiêu, đã đánh bại cuộc hành quân giải vây của địch ngày 6-1. Dự kiến rồi đây cuộc hành quân giải vây quy mô lớn hơn sẽ còn diễn ra. Địch quyết tập trung lực lượng đánh lại thành phố mà chúng coi là quan trọng vào hàng thứ ba ở Bắc Bộ. Bộ đội ở thị xã Bắc Ninh và Phủ Lạng Thương nổ súng tiến công địch mở sáng ngày 20-12. Mười ngày sau, địch buộc phải rút khỏi hai thị xã này, kéo về Hà Nội. Ta đã không tranh thủ được cơ hội đánh địch khi chúng rút chạy. Hải Dương là một thành phố có vị trí quan trọng trên đường số 5. Đêm 19, quân ta tiến công địch cùng một lúc ở ba nơi là thị xã, cầu Lai Vu và cầu Phú Lương. Sau đó, khi địch từ Hải Phong theo đường 5 lên giải vây cho Hải Dương và chuẩn bị khai thông với Hà Nội, cuộc chiến đấu diên ra quyết liệt ở nhiều đoạn trên con đường chiến lược này. Rồi đây địch sẽ từng bước rải quân chiếm đóng nhiều vị trí dọc đường 5 hòng đối phó với lực lượng vũ trang các làng hai ven đường. Hà Nội là mặt trận mà cơ quan tham mưu có điều kiện theo sát chiến sự diễn biến ngay từ đầu và trong suốt 60 ngày đêm. Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu tiêu hao và kìm chân địch, trung đoàn Thủ đô đã rút ra vùng tự do với kinh nghiệm khá dày dạn, trước một kẻ địch mạnh hơn mình gấp nhiều lần trên một mặt trận quan trọng vào bậc nhất. Chúng ta đã chuẩn bị kế hoạch đề đạt với trên về phương hướng xây dựng trung đoàn thành một đơn vị chủ lực mạnh của Bộ.

Tổng Tham mưu trưởng cho biết: ta dự kiến sau khi địch được tăng viện, chúng sẽ đánh rộng ra phía nam Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng. một số anh em đã được phái đi tăng cường cho đoàn cán bộ tham mưu mang bí danh “trung đội 13”, giúp các địa phương huấn luyện lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du kích, triển khai việc phá hoại giao thông, tiêu hao lực lượng địch, nhằm làm chậm bước tiến của chúng. Tham mưu cũng đã đề đạt với Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy kế hoạch hoạt động mùa hè của chủ lực cũng như lực lượng vũ trang các khu, tỉnh.

Về hoạt động của cơ quan, Bộ tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng nhận xét: Trong hơn hai tháng qua, kể từ ngày rời Thủ đô, trong điều kiện vừa di chuyển, ổn định nơi ăn ở trên mỗi chặng đường, và tiếp tục làm việc, phục vụ chỉ đạo, chỉ huy, mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ trước hàng loạt công việc mới mẻ trong những ngày đầu kháng chiến, nhưng chúng ta đã làm được nhiều việc, đã bảo đảm thông tin chỉ huy, nắm được diễn biến chiến sự, nhất là ở mặt trận Hà Nội, đã giúp trên chuẩn bị nội dung và tổ chức hội nghị quân sự toàn quốc, đã góp phần giúp đỡ bộ đội Liên khu 1 trong quá trình chiến đấu cũng như chuẩn bị và thực hành lui quân bí mật, an toàn ra vùng tự do, đã góp phần công sức vào việc di chuyển các cơ quan, đoàn thể và Chính phủ… Trong quá trình di chuyển từ ấp Thái Hà về đây, chúng ta đã bảo đảm được bí mật, đã giữ tốt quan hệ quân dân tại nơi đóng quân, nhất là trong dịp Tết vừa qua. Những thành tích trên đây mà cơ quan đạt được là do sự cố gắng chung của toàn thể anh chị em, từ các đồng chí phụ trách các phòng ban đến từng cán bộ, nhân viên, chiến sĩ lần đầu tiên làm việc trong điều kiện không thuận lợi bằng khi còn ở Hà Nội. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng chúng ta còn tỏ ra non kém trong nhiều mặt về nghiệp vụ công tác tham mưu. Đó là điều dễ hiểu khi chúng ta phải vừa làm vừa học ngay trong điều kiện chiến tranh đã lan rộng ra cả nước. Thực tế cuộc sống và chiến đấu sẽ giúp chúng ta khắc phục từng bước, trưởng thành từng bước.

Tổng Tham mưu trưởng cho biết, ngày mai toàn cơ quan sẽ bắt đầu cuộc hành quân đường dài lên vùng căn cứ địa. Cuộc di chuyển sẽ gian lao vất vả, nhất là đối với nhiều anh chị em chưa quen đi bộ đường xa. Cuộc hành quân được chia thành nhiều cung chặng, vừa đi vừa nghỉ, theo kế hoạch của đội công tác tiền trạm, và chuyến đi sẽ kéo dài hàng tháng. Yêu cầu dặt ra là đoàn kết giúp đỡ nhau trong hành quân, nhất là đối với các đồng chí sức khỏe yếu; chúng ta phải vừa di chuyển cơ quan vừa bảo đảm thông tin chỉ huy để việc nắm bắt tình hình chiến sự không bị gián đoạn. Một yêu cầu đặc biệt quan trọng là bảo đảm bí mật cả trong hành quân và trú quân. Máy bay địch sẽ hoạt động trên các trục đường mà chúng nghi là đường hành quân di chuyển của các cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Đối với nhân dân dọc đường hành quân, cần phát huy ưu điểm thời gian trong công tác dân vận, vừa giữ tốt quan hệ quân dân, vừa giữ bí mật công việc và hướng di chuyển…

Ngay sau cộc họp, từng phòng, từng ban lặng lẽ khẩn trương chuẩn bị. Túi vải đựng gạo, thùng sắt tây dựng tài liệu được Ban quản lý phân phối gấp về các bộ phận. Tham mưu chủ nhiệm Phan Tử Lăng chạy đi chạy lại giữa các phòng kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị lên đường.

Sau bữa cơm chiều hôm đó, mồng 5 Tết Đinh Hợi, giữa không khí ấm cúng tình quân dân trong từng gia đình, anh chị em họp mặt thưa chuyện với chủ nhà, nói lên lời cảm ơn đã được gia đình giúp đỡ suốt thời gian trú quân ở đây. Mới qua mấy tuần quen hơi bén tiếng, các em thiếu nhi như ngỡ ngàng, luyến tiếc khi biết các anh chị bộ đội sắp ra đi. Không mấy ai không biết anh Ba Đang Nam Bộ, anh Đôn vui nhộn, anh Nghi cao kều… Biết bao giờ các anh mới trở lại để có những tối học hát những lớp bình dân học vụ, những đêm liên hoan văn nghệ? Cuộc chuyện trò thấm đậm tình quân dân kéo dài tới khuya.

Sáng hôm sau, trong nhà ngoài sân đã được các anh quét sạch, vại nước đã được gánh đầy, sớm hơn thường lệ. Cơm nước xong, các anh chị lên đường. Người lớn bịn rịn chia tay, các em nhỏ tranh nhau khoác bao gạo lên vai, theo các anh ra tận cuối thôn vẫn còn muốn theo các anh đi nữa…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:09:02 am »

II

Với nhiều chàng sĩ quan tham mưu trẻ tuổi, cuộc lên đường sáng 26-2-1947 này được coi là khởi đầu của cả con đường dài chinh chiến. Đã ai hình dung được bàn chân vạn dặm của người lính - dù là lính cơ quan Tổng hành dinh - sẽ đặt trên những nẻo đường nào của đất nước.

Dưới sự chỉ huy chặt chẽ, thống nhất của từng phòng, theo kế hoạch đã được đội công tác vạch ra cho tổ tiền trạm trên từng chặng đường, anh chị em vui vẻ lên đường. Mọi việc liên hệ với Đoàn thể và chính quyền địa phương, thu xếp nơi ăn nghỉ trên từng chặng đường dừng chân, đã được bố trí chu đáo. Trừ một số phương tiện nặng được xếp lên xe bò, tất cả đều hành quân bộ. Ngoài số tư trang ít ỏi, mỗi người vắt vai một bao gạo và khoác một thùng sắt tây đựng tài liệu mà anh em gọi đùa là “thùng pháxa(1)”. Nhờ có chiếc thùng sắt đeo toòng teng bên hông này mà dù trời mưa hay nắng, tài liệu vẫn được giữ gìn chu đáo. Đêm đêm, nó trở thành một cái gối bất đắc dĩ, chẳng êm ái gì nhưng lại rất cần thiết cho việc đảm bảo an toàn tài liệu trong suốt cuộc hành quân.

Ngay từ những ngày đầu, một điều khiến mọi người dễ nhận thấy là, qua một đêm nghỉ ngơi đẫy giấc, tiếp đến là bữa cơm sáng trước khi lên đường, mấy giờ hành quân đầu tiên trong ngày bao giờ cũng là những lúc chuyện trò rôm rả nhất. Hầu như ai cũng có chuyện để kể, từ chuyện thời trẻ nghịch ngợm như thế nào, chuyện anh em cựu binh trong đơn vị của ông Ba Viên đấu tranh với bọn chỉ huy Pháp trong những ngày chạy trốn ở Hoa Nam sau cuộc đảo chính của Nhật, chuyện vừa nhận được thư của người bạn gái viết vội trên đường tản cư, v.v. đến chuyện Xanhtơni từ chối gặp ta hôm 19-12 để rồi chịu đòn tiến công bất ngờ ngay đêm hôm đầu kháng chiến, chuyện về các trận đánh ở Bắc Bộ Phủ, ở nhà Xôva, ở chợ Đồng Xuân… Rôm rả nhất và thu hút sự chú ý của nhiều người vẫn là những câu chuyện tiếu lâm. Tiếng cười cứ vang lên và kéo dài không ngớt.

Nhưng rồi càng về chiều, khi ánh nắng đầu hè đã dịu, cũng là lúc các chàng trai chân đã mỏi, vai đã tê, sự thấm mệt hiện trên nét mặt từng người. Và thế là những câu chuyện và những tiếng cười cứ ít dần, thưa dần. Lúc này, mọi người đều có chung một điều mong đợi là sớm nhìn thấy nhân viên tiền trạm đứng đón ở đâu đây. Cuối cùng, con người mà anh em mong đợi cũng xuất hiện. Tiếng thở phào nhẹ nhõm chỉ thực sự thốt ra khi túi gạo và “thùng pháxa” được hạ xuống thềm nhà, nơi từng bộ phận được phân phối nghỉ lại đêm đó. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của chính quyền và nhân dân địa phương, nhất là của các mẹ, các chị trong đoàn thể phụ nữ, việc thu xếp nơi nghỉ ngơi và bữa ăn tối đã được chuẩn bị nhanh chóng theo yêu cầu của đội tiền trạm.

Lại một ngày mệt nhọc qua đi. Giấc ngủ nhanh chóng bù lại cho những chàng trai sức lực cần thiết để ngày mai lại rong ruổi lên đường.

Chẳng bao lâu, chặng đường dài đầu tiên đã lui dần về phía sau: Quốc Oai, Quang Oai, Hưng Hóa, Lâm Thao… Thông thường, anh chị em qua các thị trấn đó vào ban đêm. Mặc dù vậy, các chàng sĩ quan tham mưu quê Hà Nội vẫn nhanh chóng chứng minh được rằng: người Thủ đô vẫn nhanh chân tỏa đi khắp các nẻo đường kháng chiến.

Trên dọc đường chạy theo chiều dài của huyện lỵ, nhan nhản những người tản cư. Các cô gái, tuy quần áo không còn sặc sỡ như trên đường phố Thủ đô nửa năm về trước, nhưng từ mái tóc đến đôi dép đều nói lên một điều: họ là người thành thị mới về đây. Dưới ánh đèn không đủ sáng, đây đó vẫn khiến cho người ta cảm nhận một phần của Hà Nội đang dừng chân ở nơi này, từ quán phở Lò Đúc, phòng ảnh Hà Nội Photo, đến tiệm Càphê Ly, rồi Phở Tàu bay, Cà phê Nhân… Mặc dù cơ ngơi không thể bề thế bằng ở Thủ đô, nhưng phong cách vẫn rất Hà Nội! Chỉ có những bàn tay quen vẽ tranh quảng cáo, quen với khuôn mẫu của những panô tuyên truyền ở Thủ đô mới dựng được bức tranh hoàn tráng cỡ lớn rất hấp dẫn ngay đường vào phố huyện: bức tranh cổ động toàn dân kháng chiến. Những dòng quảng cáo trên bức tường còn lại của ngôi nhà mới bị “tiêu thổ” cho biết nội dung biểu diễn văn nghệ của đoàn nghệ sĩ Tự do mới từ Hà Nội qua đây và dừng chân dùng tiếng nhạc, lời ca động viên kháng chiến.

Trên đường hành quân lên phía Bắc, mặc dù ngày càng xa Hà Nội, nhưng những cảnh, những người gặp trên mỗi nẻo đường vẫn không khỏi đôi lúc gợi lại cho các chàng trai tham mưu hỉnh ảnh hoặc hương vị nào đó mang dấu ấn Thủ đô.

Sau đúng một tháng hành quân, cuối tháng 3-1947, cơ quan Bộ Tổng tham mưu đến Tiên Kiên (Lâm Thao - Phú Thọ). Theo chỉ thị của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp, anh Thái đã cùng một số cán bộ tham mưu vượt lên, đến thị trấn này trước để chuẩn bị cho hội nghị các khu trưởng (từ Khu 4 trở ra) họp trong các ngày 25 và 26-3. Hội nghị tập trung chủ yếu bàn về cách đánh, đồng thời thảo luận giải quyết những vấn đề nóng bỏng do chiến sự đang mở rộng đặt ra với Tổng hành dinh và cấp chỉ huy các chiến trường.


(1) Pháxa: tên gọi một thứ lạc rang, có mùi húng lìu, đựng trong thùng sắt thường do Hoa kiều bán rong tại các thành phố hồi Pháp thuộc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:10:05 am »

Từ thực tế hơn ba tháng chiến đấu vừa qua, nhất là trong quá trình địch đánh rộng ra ngoài các thành phố và thị xã, hội nghị đi sâu nghiên cứu một số trận điển hình của quân Pháp(1) để thấy đâu là chỗ mạnh và chỗ yếu trong cách đánh của địch, đâu là những tiến bộ và những mặt còn yếu kém của ta. Cứ sau khi phân tích một chiến thuật cụ thể của địch, hội nghị lại bàn cách ứng phó phù hợp với trình độ tổ chức chỉ huy và điều kiện trang bị của ta, đồng thời thảo luận những vấn đề cụ thể cần giải quyết để thực hiện biện pháp đó. Kết luận phần trao đổi về cách đánh của ta và của địch, đồng chí Tổng chỉ huy nói: “Hơn ba tháng chiến đấu chống thực dân phản động Pháp, từ một quân đội còn non kém, chúng ta đã và đang trưởng thành trong những kinh nghiệm bắng sắt và máu. Những thất bại của ta, những chiến thuật của địch đều là những bài học quý báu. Chúng ta phải luôn luôn học tập ở quân địch, học tập trong chiến đấu”.

Sau đó hội nghị bàn và quyết định những vấn đề cấp thiết trước mắt mà chiến trường đặt ra lúc này như các vấn đề nắm vững bộ đội, công tác chính trị, củng cố căn cứ địa, dân quân du kích, quân nhu quân giới…

Như sau này Tổng Tham mưu trưởng và nhiều khu trưởng thường nhắc lại, cuộc hội nghị (mà chúng tôi thường quen gọi là Hội nghị Tiên Kiên) không chỉ là một lớp tập huấn ngắn ngày đối với cấp chỉ huy các chiến trường mà còn gợi mở những vấn đề hết sức thiết thực về phương hướng hoạt động của Bộ Tổng tham mưu trong bối cảnh chiến sự đang ngày càng mở rộng.

Sau một tuần dừng chân lấy sức tại Tiên Kiên, chặng đường hành quân thứ hai của cơ quan Bộ Tổng tham mưu bắt đầu, với Tây Cốc, Đoan Hùng, rồi Bình Ca, Sơn Dương. Vượt Đèo Khế để sang Văn Lãng, vào đất Thái Nguyên, là một trong những thử thách rất đáng ghi nhớ trong cuộc hành quân. Gay go nhất là đoạn từ Đa Năng lên đỉnh đèo. Đối với nhiều anh chị em, lần đầu tiên những bàn chân thư sinh được thực sự rèn luyện và cũng là lần đầu tiên hiểu thế nào là “thở bằng tai”. Dăm bảy năm sau nhớ lại, khi những Pha Đin, Cò Nòi đã rèn cho những cặp giò xông pha ngàn dặm trở thành những “bắp chân đầu gối đã săn gân” thì chặng đường Đa Năng - Đèo Khế chỉ là những thử thách đầu tiên, những bài học vỡ lòng.

Khác với lần tạm nghỉ sau chặng đầu ở Tiên Kiên, trong lần dừng chân thứ hai này ở Văn Lãng, bộ máy chỉ đạo, chỉ huy có thêm điều kiện hoạt động đều đặn hơn. Văn Lãng ở sát chân Núi Hồng, ở phía cửa ngõ tây nam căn cứ địa Việt Bắc, đã rất xa mặt trận. Điện đài có điều kiện hoạt động nhiều hơn mà không ngại bị địch theo dõi và phát hiện hướng di chuyển cơ quan như khi còn ở đồng bằng hay trung du.

Tin tức nhận được hằng ngày cho thấy địch đang dùng xe tăng, cơ giới đánh rộng ra ngoài các thành phố, kết hợp với việc lùng sục cơ quan lãnh đạo kháng chiến trên đường di chuyển. Như tài liệu của địch tiết lộ sau này, bất kỳ một bộ phận nào thuộc cơ quan trung ương của ta cũng đều là mục tiêu lùng sục của quân Pháp. Và kẻ địch đã phải thú nhật rằng chúng không thành công. Trong lúc chúng tập trung theo dõi hướng tây nam Hà Nội thì cơ quan Đảng và Nhà nước đang “thiên đô” lên hướng tây bắc. Tin tức cũng cho thấy địch đang đứng trước những khó khăn mới, trước hết về mặt binh lực. Mặc dù đã có viện binh nhưng do chiến trường đã mở rộng, binh lực lại hạn chế, cho nên nhịp độ tiến công của địch dần dần chậm lại khiến chúng không thực hiện được ý đồ nhanh chóng mở rộng phạm vi chiếm đóng vùng châu thổ sông Hồng. Để che giấu nguyên nhân bước tiến của quân Pháp trên chiến trường Bắc Bộ giảm dần, cơ quan chiến tranh tâm lý của địch gọi đây là “mùa hè yên tĩnh”. Thực chất đó chỉ là quá trình vừa củng cố địa bàn mới chiếm được vừa chờ đợi thêm viện binh để tiếp tục mở rộng thêm phạm vi chiếm đóng. Vào dịp này, cơ quan tham mưu phát hiện một tình hình mới, đó là trong các vùng địch kiểm soát, ngụy quyền dần dần xuất hiện gần như đồng thời với việc bắt lính để bổ sung cho quân đội tay sai. Thực tế sau này đã cho thấy: tất cả những hoạt động trong mùa hè chính là để chuẩn bị cho một ý đồ chiến lược trong thu đông.

Trong vài ngày dừng chân ở Văn Lãng cũng là những ngày vừa thư giãn, lấy lại sức, vừa có dịp kể cho nhau nghe những chuyện được coi là “không bình thường” trong cuộc “thiên đô” vừa qua. Nói “không bình thường” là đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ cơ quan tham mưu chiến lược. Đó là “những việc không tên”, nhưng vì không biết giao cho cơ quan nào hoặc vì quá tin tưởng Bộ Tổng tham mưu nên cấp trên ủy thác cho anh em làm. Có thể kể ra vài ví dụ.

Chỉ một ngày sau khi đặt chân đến Văn Lãng, phòng Quân nhu - Kế toán tổ chức một cuộc họp mặt đặc biệt được gọi là “để mừng tư lệnh kỵ binh mới hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt trở về”. Trong cuộc họp mặt, anh em yêu cầu anh La Tuynh báo cáo về chuyến công tác đột xuất vừa qua.


(1) Ví dụ các trận địch dùng cơ giới để vận động, phối hợp hải - lục - không quân, thực hành các thủ đoạn (mà nghị quyết hội nghị gọi là) chiến thuật bước nhảy, chiến thuật mũi dùi, chiến thuật gọng kìm, chiến thuật toàn diện bao vây, chiến thuật vu hồi. Tất cả đều là những thủ đoạn tác chiến của địch khi đó còn rất mới lạ với nhiều cấp chỉ huy của ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:11:11 am »

Chẳng là từ hồi Tết, trước khi cơ quan lên đường hành quân, anh La Tuynh được Tổng Tham mưu trưởng gọi lên giao nhiệm vụ đi tìm mua chừng 20 con ngựa để Trung đoàn Hà Tuyên thí điểm xây dựng một đội kỵ binh hoạt động ở miền núi. Đó là một nhiệm vụ vừa đột xuất đối với phòng Quân nhu - Kế toán, vừa rất mới mẻ đối với La Tuynh, một người chưa hiểu biết gì về ngựa. Balô trên vai, anh cùng với một cán bộ Ban quản lý lên Thái Nguyên tìm mua ngựa. Phải mất hàng tuần lễ đi tìm tòi, học hỏi những đồng bào có kinh nghiệm để biết thế nào là ngựa tốt, ngựa hay, thế nào là ngựa thồ hàng, ngựa kéo xe và ngựa cưỡi. Được sự giúp đỡ của Ủy ban kháng chiến tỉnh, số ngựa được lần lượt mua về. Ngựa mau được rồi cũng là lúc bắt đầu hàng loạt chuyện rắc rối. Biết bao giai thoại được anh Tuynh kể lại về nỗi vất vả kéo dài hàng tháng trước một bầy ngựa khác giống từ khắp nơi tập trung về thành một bầy. Gian khổ nhất là những ngày chăn dắt chúng “hành quân” trên những quãng đường hai bên là ruộng lúa, quang đãng, rất dễ bị máy bay địch phát hiện. Mãi đến cuối tháng 4, sau khi giao lại một số ngựa cho văn phòng Bộ Quốc phòng và số còn lại giao cho Trung đoàn Hà Tuyên, ngài “tư lệnh kỵ binh” bất đắc dĩ mới thở phào nhẹ nhõm, trở về với công việc của cơ quan, đúng dịp toàn bộ Bộ Tổng tham mưu vừa đặt chân đến vùng cửa ngõ phía tây bắc của căn cứ địa Việt Bắc.

Cũng vào khoảng cuối tháng 2, khi cơ quan bắt đầu lên đường “thiên đô”, trước khả năng địch có thể đánh lan ra các tỉnh quanh Hà Nội, một cơ quan bạn lo cho số phận hơn 200 tấn máy móc, sắt thép, để ở vùng Chèm Vẽ. Chưa biết xử lý thế nào trước nguy cơ số tài sản quý giá đó có thể bị phá hủy hoặc lọt vào tay địch, nên phái cán bộ đến yêu cầu Bộ Tổng tham mưu giúp đỡ chuyển lên hướng Việt Trì. Một cán bộ tham mưu trẻ măng được Tổng Tham mưu trưởng gọi lên giao nhiệm vụ. Là một học sinh vừa tham gia cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, anh chưa hề có kinh nghiệm giao thiệp để giải quyết những công việc vừa nặng nề vừa phức tạp như vậy. Trong tay chỉ có một cái giấy giới thiệu của Bộ Tổng tham mưu, chàng sĩ quan tham mưu trẻ tuổi của chúng ta đã được các phường thuyền mảnh ở Phúc Yên tận tình giúp đỡ. Cả chủ thuyền cũng như anh em phu thuyền không nề hà chọn ngày “xuất hành đầu xuân”, cũng không quan tâm đến một việc “làm không công”, ai nấy hồ hởi bắt tay vào việc. Chỉ trong vòng mươi ngày, hơn 200 tấn hàng đã được chở lên Việt Trì và được chính quyền địa phương giúp đỡ cất giấu vào nơi an toàn. Cám ơn và chia tay những người bạn đường sông nước, chàng cán bộ tham mưu vội vã trở về cơ quan khi đó đang trên đường di chuyển lên hướng Quảng Oai. Trên đường về, suy nghĩ để chuẩn bị báo cáo công tác với Tổng Tham mưu trưởng, mặc dù chưa có lý luận để phân tích vấn đề một cách sâu sắc, nhưng thực tế cũng giúp anh có một suy nghĩ ban đầu về tinh thần và sức mạnh của người dân trong cuộc kháng chiến. Điều đó, như anh tâm sự sau này, càng trưởng thành hơn trong thực tế đấu tranh, anh càng có cơ sở lý luận rành rẽ hơn để hiểu thế nào là vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và kháng chiến.

Chuyện thứ ba cũng khá đặc biệt, xảy ra vào dịp cơ quan tham mưu đang cùng đồng bào vui xuân Đinh Hợi. Đó là chuyện làm sao đưa được hai chiếc máy bay Tiger MothMorane Soulnier ra khỏi vùng sắp có chiến sự. Đề phòng chiến sự lan tới, hai chiếc máy bay có thể rơi vào tay địch, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy giao cho Bộ Tổng tham mưu bàn với anh Phan Phác - Cục trưởng Cục Quân huấn (bên Bộ Quốc phòng) tổ chức một cuộc “hành quân bộ” đưa hai máy bay lên căn cứ địa Việt Bắc. Và một việc hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh đã diễn ra: hai chiếc máy bay được tháo rời thành nhiều bộ phận, khi thì được xếp lên xe bò, khi thì trên thuyền, rong ruổi nhiều ngày, để rồi được đưa lên tận Hang Hùm, giữa ngã ba cây số 5 và đường đi Bình Ca (Sơn Dương - Tuyên Quang)(1).

Cũng trong cuộc di chuyển của các cơ quan Trung ương lên căn cứ địa Việt Bắc, thêm một sự việc nói lên sự tin cậy của các cơ quan nhà nước đối với Bộ Tổng tham mưu. Ban quản lý nội bộ Bộ Tổng tham mưu được giao một nhiệm vụ khá đặc biệt. Hồi đó mấy ai biết rằng, bước vào kháng chiến, kho bạc nhà nước có bao nhiêu tiền. Vào một buổi sáng đầu tháng 12-1946, khi cơ quan Bộ Tổng tham mưu vừa từ phố Nguyễn Du chuyển xuống ấp Thái Hà, một cán bộ Ban quản lý được lệnh dẫn một tiểu đội cảnh vệ lên xe đi nhận một nhiệm vụ mà anh chưa biết là việc gì. Tới Văn phòng Bộ Quốc phòng, người ta giao cho anh hai triệu đồng bạc tiền giấy và một trăm thỏi bạc trắng. Tất cả bỏ vào hai chiếc hòm sắt khóa lại, đưa thẳng về Chương Mỹ (Hà Đông) với lời dặn sẽ hành quân cùng cơ quan trong suốt cuộc di chuyển lên căn cứ địa. Người ta chỉ yêu cầu anh một điều: tuyệt đối không nói với bất cứ ai trong hai hòm sắt có gì. Vì tin cậy hay vì ấu trĩ về mặt hành chính - quản lý, việc bàn giao chẳng qua một thủ tục giấy tờ nào. Suốt chặng đường hành quân từ Chương Mỹ lên Đoan Hùng, đồng chí cán bộ quản lý nọ lo ngay ngáy trong vai trò “thần giữ của”. Mãi đến khi cơ quan tham mưu dừng chân ở Đoan Hùng, hai chiếc hòm sắt mới được chuyển sang cho Ban Kinh Tài trung ương. Người đảm nhiệm vụ việc chuyển hai két bạc này là anh Trần Văn Lư, Trưởng phòng Nhân sự Bộ Tổng tham mưu và anh Vĩnh Thuận (Đinh Văn Nhật) cán bộ Bộ Quốc phòng.


(1) Đây là hai chiếc máy bay của “cựu hoàng” Bảo Đại. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm cố vấn của Chính phủ lâm thời. Bảo Đại đề nghị và được Chính phủ chấp nhận đưa hai chiếc máy bay từ Huế ra Hà Nội, sau đó lên Kim Bái (Tông - Sơn Tây). Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay được đưa lên Hang Hùm (gần Bình Ca - Tuyên Quang) rồi lên Soi Đúng, phía nam huyện lỵ Chiêm Hóa chừng 10 kilômét. Năm 1949, khi Bộ Tổng tham mưu tổ chức Ban Nghiên cứu không quân thì hai chiếc máy bay trở thành “giáo cụ trực quan”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:11:58 am »

III

Từ hạ tuần tháng 2 và trong suốt cuộc di chuyển cơ quan, điều khiến Tổng Tham mưu trưởng suy nghĩ nhiều là những tin tức về các cuộc hành binh bằng xe tăng, cơ giới của địch sau khi chúng đánh rộng ra ngoài các thành phố. Chính vì những cuộc hành binh loại này của quân Pháp mà nơi này nơi kia xảy ra hiện tượng “vỡ mặt trận”. Anh đã nhiều lần trao đổi với bộ phận nghiên cứu của Phòng Tác chiến về biện pháp hạn chế không để cho cơ giới địch tự do hoành hành trên các trục đường, cả trên bộ và trên sông.

Vấn đề này đã từng được đặt ra trong các hội nghị quân sự trước đó, nhất là hội nghị các khu trưởng họp tại Tiên Kiên hạ tuần tháng 3. Ta chưa có đủ súng để diệt xe tăng địch một cách có hiệu quả như trong trận Chùa Trầm. Những ụ chướng ngại đắt trên đường, những hàng rào bằng đường ray đan cánh sẻ, những hố đào sâu trên nhiều đoạn đường dài hàng chục mét, v.v. Tất cả đều không có tác dụng đáng kể để ngăn chặn một kẻ địch được trang bị xe ủi, xe háptơrắc, thuốc nổ… Sau khi quân địch đánh rộng ra vùng xung quanh các thành phố lớn, đài Con Nhạn của quân viễn chinh Pháp nói nhiều về những cuộc hanh binh của các đơn vị cơ giới trên các trục đường lớn ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng gọi đây là những cuộc “dạo mát quân sự trong mùa hè yên tĩnh”.

Không phải bị kích động bởi những lời huênh hoang đó, nhưng thực tế chứng tỏ hoạt động của xe tăng, cơ giới địch đã gây khá nhiều khó khăn cho ta, kể cả đối với những đơn vị chủ lực đã từng kinh qua chiến đấu từ những ngày đầu, như Trung đoàn 66. Trung đoàn này là đơn vị đã tốn khá nhiều công sức trong việc đắp ụ, phá đường.

Vào một buổi chiều đầu tháng 4 khi cơ quan đã vượt Đèo Khế và dừng chân ở Văn Lãng, ba cán bộ Phòng Tác chiến được mời lên gặp Tổng Tham mưu trưởng. trong những ngày qua, các anh đã đôi ba lần được anh Thái gợi ý để suy nghĩ về vấn đề này. Hôm nay, Tổng Tham mưu trưởng nói lại với ba người những điều suy nghĩ trăn trở của mình. Sau hơn một giờ trao đổi thảo luận, cuối cùng anh Thái giao nhiệm vụ:

- Đấy, vấn đề mình đặt ra là như vậy. Ngày mai, các cậu xuống gặp các anh Phùng Thế Tài và Tuấn Kiệt, cùng các anh ấy bàn bạc, tìm cho ra cách ngăn chặn có hiệu quả, không cho cơ giới địch tự do hoành hành như hiện nay.

Với những giấy tờ ủy nhiệm cần thiết, kèm theo một thư riêng của Tổng Tham mưu trưởng gửi Trung đoàn trưởng 66, sáng hôm sau các phái viên tác chiến lên đường. Suốt dọc đường, giữa ba người luôn diễn ra những cuộc trao đổi, có khi khá sôi nổi, vẫn về một chủ đề nóng bỏng: làm thế nào để làm chậm bước tiến của cơ giới địch? Một điều trùng hợp lý thú là các anh đến trung đoàn đúng vào lúc Ban Tham mưu đang chuẩn bị hội nghị chuyên đề bàn về công tác phá hoại giao thông, ngăn chặn địch.

Ngay ngày đầu của cuộc họp, vấn đề được đặt ra là vì sao Trung đoàn bộ 66 phải rút thẳng một mạch vào sâu trong dãy Núi Bà để rồi cuối cùng phải vượt sông Đà sang “lưu vong” trên đất Thanh Thủy, Phú Thọ. Có nhiều lý do, nhưng điều làm cho mọi người quan tâm đi sâu tìm nguyên nhân là vì sao thất bại trong ý định phá hoại giao thông nhằm làm chậm bước tiến của địch? Trong quá trình chuẩn bị hội nghị cũng như mấy buổi thảo luận đầu tiên, người ta dễ nhận thấy Trưởng ban Tham mưu trung đoàn, anh Tuấn Kiệt, đã để nhiều tâm trí vào vấn đề này. Trao đổi ý kiến với Trung đoàn trưởng Phùng Thế Tài và các phái viên của Bộ cũng như phát biểu ở hội nghị, anh tỏ ra rất tự tin vào những nhận xét của mình:

- Ta bỏ nhiều công sức đắp ụ chướng ngại trên đường lớn. Địch chỉ tốn ít công dùng xe ủi phá đi dễ dàng. Cả trên đường Hà Nội - Hà Đông và Hà Nội - Sơn Tây đều như vậy.

- Phải mất 1.400 công mới dựng được một hàng rào bằng đường ray đan chéo cánh sẻ. Địch dùng thuốc nổ cộng với mấy chiếc xe ủi húc đổ toàn bộ trong mấy giờ.

- Phải tốn mấy chục công mới hạ được một cây to vắt ngang đường. địch dùng mìn phá rồi cưa ra rừng đoạn, cuối cùng dùng xe ủi gạt sang lề đường, cũng chỉ mất vài tiếng đồng hồ. Nếu tính toàn bộ số công dùng vào việc ngả cây trên hai con đường từ Ngã Tư Sở và từ Văn Điển vào thị xã Hà Đông, ta tốn dăm ngàn công. Địch chỉ cần vài tiểu đội công binh dùng mìn và xe ủi dọn trong vòng vài ba ngày.

- Cắt một đoạn đường nhựa hay đường đá, dài 15 mét, rộng 8 mét, sâu 3 mét, mất hàng ngàn công. Địch dùng một tiểu đoàn, đánh mìn bạt hai đầu hố, sửa thành dốc thoai thoải cho cơ giới chạy qua được, chỉ mất mấy tiếng đồng hồ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:12:27 am »

Tóm lại, mọi cách đã dùng, tuy có tác dụng gây khó khăn cho cơ giới địch, nhưng hiệu quả rất ít, không tương xứng với công sức bỏ ra. Vấn đề đặt ra để suy nghĩ là làm sao tốn ít sức hơn mà ngăn chặn địch hiệu quả hơn trong điều kiện ta chưa có vũ khí đánh cơ giới địch một cách phổ biến.

Trải qua mấy ngày thảo luận sôi nổi, trí tuệ tập thể đã tìm ra những biện pháp mới được mọi người chấp nhận để đề đạt lên trên. Đó là cách phá đường theo hình cánh hoa mai do anh Tuấn Kiệt vừa thuyết trình vừa vẽ lên bảng. Với cách phá đường này, ta buộc địch phải tốn công sức sửa chữa nhiều hơn, lâu hơn, lại không cản trở việc đi lại của ta, kể cả đi bộ, đi xe đạp hoặc đi ngựa. Cụ thể là:

- Các hố trên mặt đường đào so le (hình cánh hoa mai), mỗi hàng cách nhau 2 - 3 mét, mỗi hố rộng 0,6 mét, dài 1 mét, sâu 0,6 mét (đủ lọt bánh xe cỡ lớn), hố nọ cách hố kia 1,5 - 1,8 mét.

- Mặt đường còn lại (không đào) là 1 mét, chạy chữ chi (Z), cứ khoảng 100 mét mép đường bên phải lại qua 100 mét bên trái. Mặt đường (không đào) có đủ cho người đi bộ hoặc xe đạp.

Cách phá đường như vậy so với trước đây ít tốn công sức hơn mà lại làm cho cơ giới địch không đi được, tránh hố này thì bánh xe sa xuống hố kia. Muốn sửa cho cơ giới địch được, phải san lấp cả một đoạn đường dài. Để gây thêm khó khăn cho địch trong công việc san lấp, đất ta đào lên không để đống cạnh đường như trước mả rải vãi ra khắp mặt ruộng hai bên đường.

Đoạn đường chọn để phá là những nơi bất lợi cho cơ giới địch cơ động cũng như trong việc sửa đường. Đó là những đoạn đường vòng, càng cao hơn mặt ruộng càng tốt, gần nơi có địa hình địa vật thuận lợi cho ta bố trí cá tổ chiến đấu tiêu hao địch khi chúng buộc phải dừng lại để sửa đường. Muốn vậy, cần nghiên cứu kinh nghiệm tác chiến của bộ đội nội thành Hà Nội, huấn luyện và tổ chức các tổ dân quân du kích giỏi bắn tỉa, bố trí sẵn ở các công sự được đào gần đó từ trước.

Trên mặt đê, vì không được đào để bảo đảm sự bền vững của đê nên phải dùng cách đắp những con chạch lớn, dài 3 mét, rộng 1 mét (phổ biến là chiếm một phần tư mặt đê, cao 0,6 mét), xen kẽ bên phải và bên trái mặt đê. Đất đắp các con cạch phải lấy từ xa, cách đê từ 30 mét trở lên, ở phía trong đê, để không ảnh hưởng đến sự an toàn của chân đê.

Riêng các cầu cống cần phá và có thể phá, đề nghị Bộ giao cho công binh đảm nhiệm. Cần phá tới mức buộc địch phải làm đường ngầm hoặc cầu phao, hoặc phải xây lại, tốn công, tốn của, mất nhiều thời gian…

Trải qua mấy ngày thảo luận, sau khi ý kiến đã thống nhất, Ban Tham mưu Trung đoàn 66 phối hợp với địa phương, ra thực địa làm thí nghiệm phân tích lợi hại, bổ sung những điều cần thiết để biện pháp phá hoại được hoàn chỉnh, báo cáo lên trên.

Ba phái viên tham mưu khẩn trương trở về cơ quan. Tổng Tham mưu trưởng dành hẳn một buổi, vừa nghe báo cáo, vừa trao đổi ý kiến, thảo luận, bổ sung cho biện pháp thêm hoàn chỉnh. Cuối cùng, một bức điện được chuyển xuống Trung đoàn 66, phê chuẩn kế hoạch và giao cho Ban Tham mưu trung đoàn cử cán bộ xuống một số địa phương thuộc Hà Đông và Sơn Tây bàn bạc và hướng dẫn thực hiện, làm thí điểm.

Chính quyền và các đoàn thể hai tỉnh đã nhiệt liệt hưởng ứng. Nhờ vậy, chỉ trong vòng vài ba tuần lễ, các trục đường chính thuộc Hà Đông và Sơn Tây cũng như con đường Hưng Hóa - Cẩm Khê đều được phá hoại như phương pháp mới. Trên các mặt đê sông Hồng và sông Đáy, các đoạn xung yếu đều được đắp con chạch theo đúng phương pháp và kích thước đã được thống nhất. Phòng Tác chiến Bộ Tổng tham mưu tập trung theo dõi hoạt động của xe tăng và cơ giới địch. Chừng một tháng sau, thực tế đã cho phép rút ra kết luận: cách phá đường theo kiểu hoa mai và đắp con chạch trên đê tuy không tuyệt đối ngăn chặn bước tiến của địch nhưng đã làm cho chúng tốn nhiều thời gian và công sức mới tiến hành được một cuộc hành binh bằng cơ giới. Kinh nghiệm trên đây được phổ biến xuống các đơn vị và địa phương ở trung du, đồng bằng Bắc Bộ và Khu 4. Chẳng bao lâu, mạng đường giao thông bị phá hoại theo phương pháp mới được nhân lên đã ảnh hưởng lớn đến hình thức của địch. Sau này, trong Hồi ký viết đầu những năm 1970, tướng Pháp Xalăng (Raoul Salan) đã phải than phiền rằng những hố phá hoại “như những phím đàn pianô” trên khắp các nẻo đường “đã gây trở ngại khá nhiều cho các cuộc hành binh bằng cơ giới của chúng ta” (Pháp).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2012, 07:13:33 am »

IV

Chặng đường hành quân cuối cùng của Bộ Tổng tham mưu từ Văn Lãng lên hướng Chợ Chu kết thúc vào thượng tuần tháng 5. Thế là trải qua gần ba tháng vừa di chuyển cơ quan vừa bám sát diễn biến của chiến trường, toàn cơ quan đã hội tụ trong khu vực Quán Ông Già đến Quảng Nạp, Yên Thông. Cuộc hành quân đã qua địa hạt 5 tỉnh: Hà Đông, Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thái Nguyên, từ đồng bằng, trung du, tiến vào vùng rừng núi trung tâm căn cứ địa Việt Bắc.

Cùng với việc tiếp tục nắm tình hình chiến trường, tình hình bộ đội, phục vụ chỉ đạo tác chiến và xây dựng trong mùa hè, hàng loạt công việc được đồng thời đặt ra: ổn định tổ chức nơi ở và làm việc, xây dựng nền nếp công tác sinh hoạt trong điều kiện mới, điều kiện sống và làm việc trong vùng đồng bào thiểu số. Với địa hình núi non hiểm trở mà sau này Tố Hữu khái quát là “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, với lòng người dân vốn có truyền thống gắn bó lâu đời với cách mạng, yêu cầu đặt ra cho mỗi thành viên Bộ Tổng tham mưu là góp phần xây dựng căn cứ địa vững mạnh về mọi mặt, làm nơi đứng chân lâu dài của bộ máy lãnh đạo kháng chiến.

Ngay sau khi tới nơi, một trong những công việc đầu tiên mà Bộ Tổng tham mưu phải quan tâm là xây dựng tổ chức bảo vệ cơ quan Đảng và Chính phủ, từ việc làm nhà, đào công sự tránh máy bay đến việc tổ chức canh gác. Nhiều cán bộ hồi ở Việt Bắc được giao nhiệm vụ xây dựng nơi làm việc cho cơ quan Trung ương vẫn còn nhớ một câu văn vần được đồng chí Phạm Ngũ Kiên (Chính ủy trung đoàn bảo vệ căn cứ địa) và các đồng chí giúp việc Bác Hồ truyền đạt lại cho cơ quan Tổng đội thuộc Bộ Tổng tham mưu. Nó nói lên những điều cần chú ý khi chọn địa điểm xây dựng nơi ở và làm việc của Bác. Đó là:

Trên có núi, dưới có sông,
Có đất ta trồng, có bãi ta chơi.
Tiện đường sang Bộ Tổng,
Thuận lối tới Trung ương
Nhà thoáng, ráo, kín mái,
Gần dân, không gần đường.


Sau này, bác Phạm Ngũ Kiên (chúng tôi vẫn quen gọi là Ké Kiên) có dịp nói lên suy nghĩ của mình về những lời dặn trên đây mấy thập kỷ trước:

- Hồi đó anh em chúng tôi đã phải giảng giải cho bộ đội hiểu hết ý nghĩa mấy câu này khi nhận nhiệm vụ xây dựng chỗ ở và làm việc của Bác Hồ ở Thanh La, gần Tân Trào. Càng về sau, suy sâu nghĩ kỹ càng thấy mấy câu đơn sơ mộc mạc đó chứa đựng phong cách của Người, chứa đựng quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng mà anh em trong Tổng đội chúng tôi phải vận dụng trong việc chọn địa điểm và xây dựng nơi ở và làm việc của Bác Hồ. Bác dạy chúng tôi phải dựa vào dân để được sự che chở, đùm bọc của dân; phải xa đường để tránh con mắt tò mò của kẻ xấu; dựa vào địa hình có núi có sông, làm cho cuộc sống thoải mái, gần gũi với thiên nhiên; lại có đất tăng gia, trồng trọt để cải thiện đời sống, kháng chiến lâu dài; có bãi vui chơi, luyện tập để tăng cường sức khỏe; mọi việc lãnh đạo kháng chiến phải được bàn bạc với tập thể Trung ương để chỉ đạo hoạt động của Bộ Tổng, nên nơi ở của Bác phải tiện đường thuận lối để Bác dễ qua lại các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy…

Về phần mình, nhiều cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu chưa quên những công việc đầu tiên khi cơ quan đến Quảng Nạp, nơi đóng quân đầu tiên ở căn cứ địa Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Quá trình ổn định tổ chức, xây dựng nền nếp làm việc hướng xuống đơn vị, hướng qua chiến trường, cũng là quá trình xây dựng mối tình đoàn kết quân dân trong điều kiện anh em chưa có kinh nghiệm làm công tác quần chúng trên một địa bàn dân tộc thiểu số, có địa phương nhân dân chưa nói thạo tiếng Kinh. Tuy không tiện nói ra nhưng trong suốt thời gian đầu chung sống với đồng bào địa phương, điều khiến anh chị em ngại nhất là việc ăn ở và làm việc trên nhà sàn. Trên nhà mái thấp, ánh sáng thiếu mà lại thường xuyên phải hít mùi phân trâu, phân lợn từ dưới xông lên. Ai cũng biết rằng cuộc vận động vệ sinh là một công việc không thể thực hiện được một sớm một chiều, thế nhưng thích ứng với điều kiện ăn ở và làm việc như vậy là một điều không giản đơn. Bởi vậy về sau, cứ mỗi lần thay đổi địa điểm cơ quan, nhiều phòng, ban tìm tre nứa lá, tự dựng lấy nhà ở và nơi làm việc của mình.

Như sau này anh Thái nói lại, điều này anh suy nghĩ và nhiều lần trao đổi với Tham mưu chủ nhiệm Phan Tử Lăng trong những ngày Bộ Tổng tham mưu mới đặt chân lên căn cứ địa, là nhanh chóng xây dựng cơ quan trưởng thành cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và nghiệp vụ, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Chiến tranh đang mở rộng. Làm thế nào để mọi người trưởng thành, đủ sức đóng góp vào việc hoàn thành chức năng của cơ quan tham mưu chiến lược.

Việc xây dựng cơ quan được đánh dấu bằng một mộc quan trọng, vào trung tuần tháng 5, khi cơ quan còn trú quân ở Quảng Nạp. Đó là một cuộc họp do Tổng Tham mưu trưởng triệu tập và chủ trì, gồm Tham mưu chủ nhiệm, các tổ trưởng Đảng và cán bộ phụ trách các phòng, ban. Yêu cầu đặt ra với cuộc họp là xác định phương hướng xây dựng cơ quan vững mạnh trước khi bước vào mùa khô 1947, mùa khô đầu tiên của cuộc kháng chiến.

Đã xa rồi, cái ngày mà Bộ Tổng tham mưu mới ra đời, với mấy đảng viên sinh hoạt trong một tổ Đảng. Tình hình nay đã khác. Số đảng viên trong cơ quan đã lên đến hơn 30 đồng chí, đạt yêu cầu về tỷ lệ lãnh đạo là 1 trên 3. Tháng trước, đồng chí Hoàng Văn Thái đã đề nghị lên trên cho phép tổ chức một chi bộ trong Bộ Tổng tham mưu, thuộc tổ chức Đảng Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đề nghị chưa được chấp nhận, vù lúc này tổ chức Đảng của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy cũng chưa được xác định. Về mặt chính quyền, với quân số đã lên tới hơn 100 người, tổ chức Bộ Tổng tham mưu lúc này gồm các phòng Nhân sự, Tình báo, Tác chiến, Trang bị - Cấp dưỡng, Văn thư - Hành chính và mấy bộ phận độc lập như Ban quản lý, Ban Bí thư. Vài tháng qua, có đôi chút xáo động về mặt tổ chức của cơ quan tình báo. Sau hội nghị chuyên môn tổ chức ở Chúc Sơn hồi tháng 2-1947, trước yêu cầu nắm địch, cuối tháng 3 Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy quyết định tổ chức Cục Tình báo trực thuộc Bộ, trên cơ sở tổ chức cũ của Phòng Tình báo Bộ Tổng tham mưu. Đồng chí Hoàng Mỹ (Trần Hiệu), Phó Giám đốc Nha Công an Bắc Bộ được điều về làm Cục trưởng. Lớp tình báo do Bộ Tổng tham mưu tổ chức ở Ỷ La (Tuyên Quang) cũng được bàn giao sang cho Cục Tình báo. Suốt gần hai tháng qua, Bộ Tổng tham mưu đứng trước một mâu thuẫn: là cơ quan chỉ đạo, chỉ huy tác chiến nhưng trong tay không có một tổ chức nắm địch. Bộ phận “địch tình” mới từ Phòng Tình báo chuyển sang Phòng Tác chiến, không đủ sức cung cấp những tin tức cấp thiết về địch. Cơ quan tham mưu muốn có tin phải sang liên hệ với Cục Tình báo Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã sớm phát hiện sự bất hợp lý này nên đã đề đạt lên trên giải phóng(1).


(1) Mãi đến ngày 30-5-1947, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy mới ra Nghị định về tổ chức mới của Bộ Tổng tham mưu. Phòng Tình báo lại được tổ chức ở Bộ Tổng tham mưu, tồn tại song song với Cục Tình báo của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM