Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:52:02 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây  (Đọc 68856 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:46:47 am »

Bọn chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương càng hy vọng sau khi nhận được tin tức từ Pari cho biết đầu tháng 5-1946, do hoạt động ráo riết của lực lượng phản động Pháp và của Đờ Gôn, bản Dự thảo hiến pháp mới của nước Pháp (chứa đựng nhiều điểm dân chủ và tiến bộ) đã bị bác tỏ trong cuộc trưng cầu ý dân. Tiếp đến là nội các Phêlích Goanh bị đổ (12-6). Một tuần sau, nội các mới được thành lập, do Biđôn (Georges Bidault) làm Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng. Mariuyt Mutê làm Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại. Phái hữu đã giành được một thắng lợi. Chính quyền mới tỏ ra không tán thành bản Hiệp định sơ bộ.

Với nguồn hy vọng tự do hành động bằng những “việc đã rồi”, trung tuần tháng 5, Đácgiăngliơ bay ra Hà Nội với ý đồ ép ta hoãn cuộc đàm phán chính thức ở Pháp. Viên cao ủy đã vấp phải thái độ kiên quyết của ta, đòi phải tôn trọng những gì hai bên đã thỏa thuận ngày 24-3 tại Vịnh Hạ Long. Lập trường của ta đã rõ ràng. Dù sao, Hội nghị trù bị Đà Lạt cũng chỉ mới là một cuộc đàm phán tại chỗ, còn chưa bị cắt đứt. Cuộc đàm phán chính thức phải được tiến hành ở Pari càng sớm càng tốt. Chậm một ngày là thêm một ngày để bọn phản động Pháp ở đây thực hành “chính sách việc đã rồi”.

Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị cho Phòng Tình báo phối hợp với công an tăng cường bám sát mọi âm mưu và hành động của quân Pháp và bọn tay sai. Anh Thái mới được trên nêu lên những nhận định mới: do không trì hoãn được cuộc đàm phán, phái Pháp sẽ có thể tiến hành đồng thời hai nước cờ. Tại Pháp, giới phản động sẽ tìm mọi cách gây khó dễ và làm cho cuộc đàm phán đi đến thất bại. Trong khi đó, tại Việt Nam, theo chủ trương đã vạch sẵn của Đácgiăngliơ, các tướng lĩnh Pháp sẽ đẩy mạnh các hành động vi phạm hiệp định hòng đặt trước cuộc đàm phán và trước Chính phủ Pháp những việc đã rồi.

Dự kiến của trên sớm được thực tế chứng minh là đúng. Từ đâu tháng 6, qua báo cáo từ các nơi gửi về và những tin tức đăng công khai trên báo chí, mọi hoạt động vi phạm của phía Pháp đã diễn ra liên tiếp ở nhiều nơi, kể cả ở Thủ đô Hà Nội.

Chỉ một ngày sau khi phái đoàn ta lên đường sang Pháp, Phủ Cao ủy Sài Gòn cho ra đời cái gọi là “Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Nam Kỳ”. Tiếp đến là việc quân Pháp đánh lên Tây Nguyên và liền sau đó, chúng chiếm Phủ Toàn quyền cũ ở Hà Nội. Tháng 7, chúng định giật dây cho bọn tay sai Quốc dân Đảng gây rối trong cuộc duyệt binh mà Pháp đề nghị tổ chức chung với ta nhân dịp Quốc khánh Pháp (14-7) hòng lấy cớ đánh úp, lật đổ chính quyền ta ở ngay Hà Nội. Tình báo ta đã phối hợp với công an khám phá và đưa ra ánh sáng âm mưu đảo chính của chúng. Giữa tháng 7, tướng Lơcle bị triệu hồi về nước Pháp. Quyền chỉ huy quân viễn chinh chuyển sang tay tướng Valuy. Cũng từ đó hành động vi phạm của Pháp trắng trợn và liên tục hơn. Tháng 8, sau việc tổ chức ở Đà Lạt cái gọi là Hội nghị Liên bang Đông Dương gồm những tên tay sai bản sứ, phía Pháp liên tiếp gây ra những vụ va chạm trên đường Hà Nội - Lạng Sơn và những vụ rắc rối đầu tiên xung quanh vấn đề thuế quan ở Hải Phòng.

Khác với cuộc Hội nghị trù bị ở Đà Lạt, lần này Bộ Tổng tham mưu không có điều kiện cử thông tin và mật mã theo phái đoàn đàm phán ở Pháp. Mọi việc liên lạc giữa phái đoàn ta ở Pari về nước đều qua phía Pháp chuyển. tin tức tuy rất chậm nhưng qua báo chí công khai vẫn luôn được Phòng Tình báo báo cáo với Tổng Tham mưu trưởng. Ngược lại anh Thái cũng thông báo cho các cán bộ chủ trì các phòng nắm được những bước đi chậm chạp của cuộc đàm phán do những khó khăn bắt nguồn từ thái độ ngoan cố của phái đoàn Pháp. Lập trường của họ không những không tiến bộ hơn mà còn thụt lùi trên nhiều điểm so với Hội nghị trù bị Đà Lạt và kém xa những gì hai bên đã thỏa thuận hồi ký Hiệp định sơ bộ.

Chỉ mấy ngày sau kỷ niệm Quốc khánh 2-9, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh cho mời Tổng Tham mưu trưởng sang làm việc. Anh Nhân - bí danh của đồng chí Trường Chinh hồi đó - muốn trực tiếp nghe báo cáo cụ thể cục diện chiến trường miền Nam trong thời gian qua. Anh đang chuẩn bị triệu tập hội nghị quân sự toàn quốc bởi những gì diễn ra trong cuộc đàm phán tại Pháp cho thấy khả năng hòa hoãn giảm dần, khả năng nổ ra chiến tranh toàn cục tăng lên.

Khi anh Thái đến thì anh Văn đã có mặt và đang làm việc với anh Nhân. Hai anh cùng nghe báo cáo của tham mưu, vừa nghe vừa trao đổi ý kiến.

Nửa năm qua, kể từ sau hiệp định, cùng với phong trào nổi dậy diệt tề trừ gian, lập lại chính quyền ở nhiều vùng nông thôn miền Nam, ta đã xây dựng lại nhiều chi đội, kể cả ngay cửa ngõ Sài Gòn, như Chi đội 12 ở Gia Định, Chi đội 15 ở Chợ Lớn, Chi đội 13 ở khu Rừng Sát, Chi đội 6 lưu động ở Củ Chi, nam Trảng Bàng sang Đức Hòa, Trung Quận v.v. Có chi đội được trang bị hàng trăm cây súng, phần lớn là cướp của địch. Tình hình Nam Trung Bộ cũng đã thay đổi. Một số trung đoàn đã ra đời. Ở Tây Nguyễn đã hình thành một trung đoàn chủ lực, trong đó có Tiểu đoàn M’Trang Lơng, gồm toàn anh em người dân tộc thiểu số. Do lực lượng địch thiếu lại bị căng mỏng, quân cơ động không còn, nên thế của địch yếu đi nhiều so với hồi trước hiệp định. Điểm nổi lên hiện nay là cuộc tranh chấp giữa ta và địch ở vùng ven. Bộ đội và du kích phối hợp chống địch càn quét và phá hoại giao thông. Lực lượng vũ trang phối hợp với thanh niên tiến hành vũ trang tuyên truyền rộng khắp. Những căn cứ lớn của ta vẫn tồn tại và được củng cố. Chiến khu Tân Uyên hồi phục. Chiến khu Đồng Tháp mở rộng. Chiến khu U Minh đứng vững. Từ Mộc Hóa xuống Hồng Ngự đã trở thành vùng giải phóng rộng lớn. Các căn cứ du kích nhỏ tiếp tục mọc lên, trải rộng trên trên địa bàn 5 - 6 xã, có nơi vài ba huyện, đang dần dần móc nối lại với nhau, cả ở Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Lực lượng du kích tuy chưa lớn, vũ trang còn thô sơ, nhưng mỗi xã có từ 1 đến 2 tiểu đội. Quanh Sài Gòn cũng đã hình thành một số đội du kích khá mạnh, như ấp số 4 (Gia Định), Hòa Lân (Thủ Dầu Một), Bình Đa (Biên Hòa).

Từ kinh nghiệm bản thân, cả chủ lực và du kích, sau khi củng cố lại, đã tìm ra phương thức hoạt động phù hợp, bảo vệ được mình, tiêu diệt được địch. Ở hầu hết mọi nơi đã chấm dứt tình trạng, chỉ một tiểu đội, địch cũng có thể đi nghênh ngang trên được hoặc sục vào làng cướp phá mà không bị trừng trị.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:47:51 am »

Một đồng chí mới ở trong ra cho biết, anh Nguyễn Văn Kỉnh được Xứ ủy phái vào lãnh đạo phong trào Sài Gòn từ sau hiệp định. Trong một cuộc họp với anh Phạm Hùng, anh Kỉnh nói:

- Lòng đồng bào Sài Gòn luôn hướng cả về kháng chiến. Sài Gòn ban đêm yên tĩnh, nhưng xung quanh thành phố, đêm nào cũng có tiếng súng nổ. Còn về chính trị thì không khí Sài Gòn “hệt như một nồi hơi đang sôi”. Địch đã nhiều lần tung quân càn quét vùng căn cứ, nhưng không sao hạn chế được cái mạnh của ta là thế chính trị, một thế vượt hẳn lên so với địch. Không chỉ quần chúng lao động mà giới trí thức cũng hướng về kháng chiến ngày càng đông…

Anh Thái kể lại một câu chuyện mà anh mới được nghe. Bác sĩ Tung là người lúc đầu tán thành khuynh hướng “tự trị”. Nhưng rồi dần dần thấy bộ mặt thật của bọn thân Pháp, ông ta thay đổi thái đội. Chính ông ta đã dùng xe riêng đưa anh Phạm Ngọc Thạch ra khỏi vùng kiểm soát của địch và đưa lên tận Đà Lạt đến dự Hội nghị trù bị Việt - Pháp.

Sau khi nghe báo cáo tóm tắt tình hình quân Pháp ở miền Bắc, tình hình truy quét bọn tay sai của Tưởng trong quá trình quân Trung Hoa dân quốc rút đi và tình hình xây dựng lực lượng, các anh ngồi cùng nhau tiếp tục trao đổi ý kiến về tình hình, về quyết tâm chiến lược của những người đại diện cho ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân mà đây còn là những lời nói mang nặng tình nghĩa Bắc Nam trước một bước ngoặt của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những lời tâm huyết mà anh Nhân, anh Văn nói trong cuộc họp ngày ấy vẫn thường được anh Thái nhắc lại mỗi khi nói chuyện với cán bộ làm công tác tổng kết và biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu những năm sau này.

Cám ơn đồng bào và chiến sĩ miền Nam, đồng bào và chiến sĩ cả nước. Chính quyền mới vừa tròn một tuổi và miền Nam của đất nước cũng vừa trải qua một năm chiến đấu. Đó là một năm chứng minh sức mạnh của chế độ mới, sức mạnh của cả một dân tộc đã thức tỉnh, quyết không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào. Đối với đồng bào, đồng chí miền Nam, những ngày thử thách gay go nhất đã qua, ta đã có thế mới, lực mới. Kẻ địch đã bị đẩy lùi khỏi nhiều vùng nông thôn về các đô thị, lên tận Sài Gòn. Báo chí phương Tây đã nêu lên một nhận xét khá chính xác và sắc sảo, chứng minh lời thú nhận của những người cầm đầu quân viễn chinh Pháp rằng: lời tuyên bố của tướng Lơcle “đã bình định xong Nam Kỳ” chỉ là một lời huênh hoang khoác lác. Quân Pháp không kiểm soát được gì bên ngoài tầm súng của những tên lính gác. Ý đồ chinh phục miền Nam bằng một cuộc chiến tranh tốc quyết tốc thắng đã trở thành ảo vọng.

Đồng chí Tổng Bí thư căn dặn các đồng chí Chủ tịch Quân sự ủy viên hội và Tổng Tham mưu trưởng cần làm sao cho cán bộ quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương vừa qua(1). Cụ thể là phải khẩn trương hơn nữa trong việc xây dựng lực lượng, chế tạo và mua sắm thêm vũ khí, chuẩn bị kháng chiến về mọi mặt. Cuộc đàm phán ở Pháp cho thấy khả năng hòa hoãn không còn, dù có đạt tới một giải pháp nào đó cũng chỉ là tạm thời. Chính quyền Biđôn phản ánh đầy đủ dã tâm xâm lược của giới cầm quyền phản động Pháp. Vì vậy, sớm muộn chiến tranh cũng nổ ra, mặc dù ta không muốn nhưng kẻ địch buộc ta phải cầm súng chiến đấu. Thực dân Pháp có thể được chính quyền Tơruman (Harry Truman - Tổng thống thứ 33 của Mỹ) giúp sức. Chúng có thể huy động thêm quân ở chính quốc và các thuộc địa sang. Cuộc kháng chiến của ta do đó sẽ lâu dài, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi. Đó là điều chắc chắn. Công việc chuẩn bị kháng chiến phải được xúc tiến hết sức khẩn trương, nhưng phải giữ bí mật, không để kẻ địch có cớ gây chiến tranh sớm, khi ta chuẩn bị chưa đầy đủ.

Đồng chí Trường Chinh cũng cho biết: Trung ương dự định triệu tập hội nghị quân sự vào trung tuần tháng 10-1946 để bàn và kiểm tra tình hình chuẩn bị kháng chiến của các chiến khu. Nhưng tham mưu không được chờ đợi, phải chủ động chuẩn bị theo chức năng của mình, theo sự chỉ đạo của Quân ủy hội và sự hướng dẫn của anh Văn…

Đồng chí Tổng Bí thư tiễn hai người ra cổng thì đường phố đã lên đèn. Tiết trời thu mát dịu làm cho các anh cảm thấy khoan khoái hơn sau một ngày làm việc căng thẳng. Trước khi chia tay, anh Văn dặn thêm anh Thái cần nắm thật chắc tình hình mọi mặt để góp phần vào việc xây dựng nghị quyết hội nghị quân sự họp trong tháng 10.

Trên đường về cơ quan, mải suy nghĩ về những công việc trước mắt, anh Thái sực nhớ hôm nay là ngày “đầy tuổi tôi” của Bộ tổng tham mưu. Một năm đã qua, với biết bao sự kiện đối với đất nước, đối với quân đội. Một năm, với bước trưởng thành của riêng anh và những người đồng sự thân tình, cơ quan tham mưu đã trải qua những ngày trứng nước, đang dần dần cứng cáp, sẵn sàng bước vào một giai đoạn mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc.


(1) Trước tình trạng dậm chân tại chỗ của Hội nghị Phôngtenơblô, trong hai ngày 31-7 và 1-8, Hội nghị cán bộ Trung ương họp, chuẩn bị một bước cho cuộc kháng chiến. Sau khi nhận định tình hình mọi mặt, hội nghị đề ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhiệm vụ: “Tích cực sẵn sàng về quân sự và chính trị đối phó với những bất trắc có thể xảy ra”. Riêng về mặt quân sự, hội nghị chủ trương thống nhất tổ chức các lực lượng vũ trang, tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng và huấn luyện quân sự đối với các lực lượng vũ trang, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, chủ động đối phó với mọi âm mưu mới của địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:47:52 am »

II

Vào những ngày đầu tháng 10, anh em trong Bộ Tổng tham mưu thấy anh Thái ít khi có mặt ở cơ quan. Anh dành nhiều thời gian cùng cán bộ tham mưu xuống đơn vị, lên thăm Trường võ bị Trần Quốc Tuấn, dự lễ khai giảng khóa 2 Trường bổ túc quân sự ở Tông, gặp gỡ các cán bộ chỉ huy các khu Hà Nội, Khu 2, Khu 3 và nhiều tỉnh dọc đường 1, đường 5. Ban Thường vụ nhiều lần triệu tập anh đến báo cáo tình hình. Các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh, v.v dành nhiều buổi ngồi nghe tình hình quân sự chung trong nước, cùng anh trao đổi ý kiến, chuẩn bị cho hội nghị quân sự quan trọng sắp được triệu tập. Tấm bản đồ của Phòng Tác chiến luôn được bổ sung những tin tức mới nhất. Dưới sự hướng dẫn và kiểm tra của Trưởng phòng Nguyễn Văn Nấp, đồng chí Nguyễn Minh Lý hằng ngày tác nghiệp hoàn chỉnh tấm bản đồ sẵn sàng cho Tổng Tham mưu trưởng sử dụng trong các cuộc họp với trên.

Mỗi lần nghe báo cáo của tham mưu là mỗi lần thấy những nội dung mới về xây dựng lực lượng và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.

Trường bổ túc Tông đã kết thúc khóa 1, bắt đầu khóa 2. Trường võ bị Trần Quốc Tuấn sẽ bế mạc và khoảng trung tuần tháng 12, sau khi đã rút bớt một số nội dung cho phù hợp với tình hình khẩn trương hiện nay. Qua kiểm tra định kỳ, kết quả học tập tốt, trừ một số anh em học viên người miền núi tiếp thu có phần khó khăn vì trình độ học vấn hạn chế. Tham mưu đã cùng Quân huấn bàn với các anh Trần Tử Bình, Vũ Lập về biện pháp bảo đảm chất lượng huấn luyện của khóa học sau khi các anh Hoàng Đạo Thúy, Vương Thừa Vũ đi nhận nhiệm vụ mới(1).

Việc huấn luyện cho bộ đội đang được xúc tiến rất khẩn trương. Nội dung chương trình đã dần dần thống nhất do sự chỉ đạo sát sao hơn, nhất là huấn luyện về chiến thuật cá nhân và tiểu đội, về các kỹ thuật dùng súng trường, tiểu liên, ném lựu đạn. Từng tiểu đoàn (có khi đại đội) tự giải quyết vấn đề giao liên, ai khá về môn nào được huy động về tổ huấn luyện môn đó của từng đại đội, tiểu đoàn.

Trả lời câu hỏi về tình hình huấn luyện của lực lượng vũ trang địa phương, Tổng Tham mưu trưởng báo cáo có gặp khó khăn vì dân quân du kích bận công việc mùa màng. Các phái viên tham mưu đang cùng với cán bộ quân huấn bàn với các địa phương điều hòa lực lượng vừa bảo đảm cày cấy và thu hoạch, vừa phân chia luân phiên huấn luyện.

Các công binh xưởng thi đua ngày đêm sản xuất vũ khí, cả vũ khí cải tiến và vũ khí thô sơ. Khó khăn đột xuất đang được nghiên cứu khắc phục là vấn đề hạt nổ. Bom, mìn, đạn và lựu đạn đều cần hạt nổ. Anh Trần Đại Nghĩa và một số cán bộ kỹ thuật của ngành quân khí đang cùng anh Ngô Gia Khảm tập trung lo việc đó.

Việc quân Tưởng rút đi làm cho ta thiếu hẳn một nguồn cung cấp vũ khí quan trọng. Với vũ khí hiện có và đang được tiếp tục sản xuất, tham mưu đang từng bước điều chỉnh trang bị, trước hết là cho các đơn vị sắp đảm nhiệm nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu. Dự trữ lương thực hiện nay mới bảo đảm ba ngày. Phong trào Mùa đông binh sĩ mới được phát động đã được sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân, nhất là đoàn thể phụ nữ. Mỗi đợt áo trấn thủ nhận được đã ưu tiên gửi cho các đơn vị miền núi.

Điều quan tâm hiện nay của tham mưu là làm sao cùng các cục bên Bộ Quốc phòng giải quyết hai vấn đề liên quan đến các địa phương. Đó là việc huấn luyện cho du kích và tự vệ (hiện nay kết quả chưa cao) và việc dự trữ lương thực cho chiến đấu còn quá mỏng.

Tổng Tham mưu trưởng thấy các đồng chí Thường vụ tỏ ra hài lòng về công tác chuẩn bị kháng chiến, hài lòng vì hoạt động của tham mưu đã đi đúng hướng. Và cứ mỗi lần nghe báo cáo xong, qua trao đổi, các anh lại gợi ra những ý mới, giúp cho anh Thái mở rộng tầm suy nghĩ về nhiệm vụ chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến.

Quân Tưởng dây dưa mãi, cuối cùng đã phải rút hết. Lực lượng tay sai của chúng đã bị quét hết ở mấy thị xã trung du. Sau khi dứt điểm một vài nơi còn lại cuối cùng (như Lào Cai), vào thượng tuần tháng 10 này, trên đất nước ta chỉ còn lại một đối tượng là quân viễn chinh Pháp. Thất bại của cuộc đàm phán ở Phôngtenơblô chỉ ra rằng khả năng hòa hoãn đã rất hạn chế. Bản Tạm ước 14-9, đúng như tên của nó, chỉ là biện pháp tạm thời, không chứa đựng những quyết định có tính nguyên tắc. Những vấn đề cốt lõi chưa được giải quyết để buộc đối phương phải tôn trọng nền độc lập và chủ quyền của ta. Chúng ta ký chính là nhằm tranh thủ thêm thời gian hoàn thành việc chuẩn bị kháng chiến càng đầy đủ càng tốt. Bởi vậy, cần hết sức tranh thủ từng ngày, từng buổi đẩy nhanh hơn nữa công tác chuẩn bị trong lúc Chính phủ đang cố gạn chắt thêm mọi khả năng hòa hoãn cuối cùng, không để chiến tranh nổ ra sớm theo ý muốn của phía Pháp.


(1) Lúc này Thường vụ Trung ương đã quyết định cử ông Hoàng Đạo Thúy về phụ trách Cục Cán bộ - tập trung vào việc nghiên cứu phá hoại cầu đường, ông Vương Thừa Vũ về chỉ huy Đặc khu Hà Nội, tập trung vào công tác chuẩn bị chiến đấu ở Thủ đô.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:48:41 am »

Đặc điểm thế bố trí giữa ta và địch hiện nay là xen kẽ cài răng lược ngay trên từng địa bàn cụ thể, ngay trong từng khu phố. Trong bất kỳ tình hống nào, không để bị bất ngờ, khi nổ ra chiến sự thông tin vẫn thông suốt, đường liên lạc và nguồn tin tức không bị đứt. Cố gắng giải quyết những công việc chuẩn bị còn lại, trong đó có vấn đề đạn D.A.M cho bộ đội(1).

Những ý kiến ngắn gọn nhưng cụ thể do các đồng chí lãnh đạo nêu lên vừa là lời động viên vừa là mệnh lệnh, càng thúc đẩy guồng máy tham mưu quay nhanh.

Điều quan tâm của Phòng Tình báo là làm sao cài cắm thêm người tiếp cận với địch, làm thế nào để bảo đảm tin tức thu được nhanh chóng và chuyển đi thông suốt. Thêm hai cơ sở mới được chuẩn bị, một ở Hàng Bột, một ở Hàng Đường. Đồng chí Nguyễn Hồng, một tình báo viên của Hà Nội, đã lọt được vào làm lao công trong sân bay Gia Lâm. Với bản sơ đồ sân bay do anh vẽ và bổ sung từng ngày, với việc thông thuộc đường lối ra vào, sau này chính anh được giao nhiệm vụ dẫn đội quyết tử vào đánh sân bay ngay đêm đầu kháng chiến toàn quốc. Nhiều cán bộ tình báo đã lọt được vào làm thư ký của các công sở Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định hoặc được chỉ định mở cửa hàng buôn bán, tạo điều kiện để hoạt động công khai trong các thành phố sau này.

Cử người đi tìm thêm máy, thêm phương tiện, vẫn là một trong những công việc hằng ngày của Phòng Thông tin liên lạc. Đội “Liên lạc đặc biệt” đã ra đời, gồm những thanh niên cường tráng, tháo vát, lanh lợi. Nhiệm vụ của đội là mang theo bài “hỏa tốc” và giấy ủy nhiệm đặc biệt, dùng xe môtô đưa công văn khẩn đến các khu. Anh em hiểu rằng, trong điều kiện phương tiện kỹ thuật còn quá thiếu thốn thì mỗi thành viên của đội đều là một mạch máu nhỏ đảm bảo cho guồng máy chỉ đạo, chỉ huy quân sự từ trung ương đến các chiến khu chạy đều trong bất kỳ tình huống nào. Đó là lời động viên của Trưởng phòng Thông tin liên lạc mà mãi sau này anh em còn chưa quên.

Những cuộc tranh luận thường nổ ra trong Phòng Tác chiến xung quanh cách thức phá hoại đường sá, phá cầu, phá các công trình kiên cố, v.v. như thế nào để đảm bảo nhanh nhất và hiệu quả nhất, trong điều kiện thuốc nổ không nhiều. Đắp ụ trên những quãng đường nào, đắp kè trên những khúc sông nào, lập các vật chướng ngại trong thành phố như thế nào là những vấn đề thu hút sự chú ý của các cán bộ tham mưu tác chiến. Biết có người từ miền Nam ra, dù đang ở đâu, anh em cũng tìm đến hỏi xem kinh nghiệm của Sài Gòn về những loại công việc như vậy. Nhưng điều khiến Trưởng phòng Nguyễn Văn Nấp và bộ phận nghiên cứu trong phòng suy nghĩ nhiều là kế hoạch tác chiến, trước mắt là trong các thành phố, đặc biệt là Hà Nội.

Nghe tin anh Vương Thừa Vũ đã về nhận nhiệm vụ chỉ huy Đặc khu Hà Nội, anh Nấp cùng mấy cán bộ tác chiến xuống gấp để cùng anh em trao đổi về kế hoạch tác chiến bảo vệ Thủ đô.

Anh Vũ mới về Khu 11 từ trung tuần tháng 10. Suốt hơn một năm sau ngày Tổng khởi nghĩa, anh được giao nhiệm vụ huấn luyện cán bộ, từ Tường cán bộ Khu 2 ở Ba Thá đến Trường Cán bộ Việt Nam và vừa qua là Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Ngay sau khi về nhận nhiệm vụ, anh coi việc chuẩn bị kháng chiến ở Hà Nội là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Cứ sáng sáng mấy cán bộ của Phòng Tham mưu đặc khu lại cùng Khu trưởng đạp xe dạo quanh các phố. Các anh đi lại nhiều lần “khu phố ta” ở phía bắc thành phố, đi sâu cả vào những đường hẻm, những ngõ ngách. Các anh thường dừng lại ở các ngã tư, ngã năm để nghiên cứu địa hình. Sau mỗi buổi đi về, quanh tấm bản đồ trải rộng, cuộc thảo luận lại diễn ra sôi nổi. Ngày này qua ngày khác, những dự kiến về cách đánh trong thành phố dần dần hình thành rõ nét. Và cũng từng có những lần anh Văn và anh Thái cùng đi với anh Vũ. Có hôm các anh tập trung rà soát lại một chủ trương tác chiến cụ thể trong một khu phố nào đó, nhất là ở “khu phố ta”, nơi mật độ dân số đông nhất và địa hình lại phức tạp nhất. Sau này anh Vương Thừa Vũ viết trong Hồi ký: “Đã mấy lần đồng chí Tổng Chỉ huy (Võ Nguyên Giáp) cùng chúng tôi đi xem xét thực địa trong và ngoài thành phố. Mỗi lần đi là một lần đồng chí trao đổi ý kiến rất cụ thể về công việc tổ chức, chỉ huy chiến đấu; mà thường là đồng chí đề ra những câu hỏi khêu gợi, nêu những tình huống tác chiến cụ thể, những giả định để chúng tôi suy nghĩ, giải quyết, rồi đồng chí góp ý kiến uốn nắn, chỉ dẫn thêm…”. Trong Hồi ký, anh Vũ cũng nhắc lại những gợi ý của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái về những vấn đề cụ thể trong công tác tổ chức chỉ huy. Ví dụ, có lần anh Thái nói: “Trong thế xen kẽ giữa ta và địch như hiện nay, việc tổ chức chỉ huy là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định. Cho nên ngay từ bây giờ các đồng chí cần tập trung suy nghĩ tìm ra một biện pháp tổ chức hữu hiệu một mạng lưới thông tin liên lạc để bảo đảm chỉ huy thông suốt trong các tình huống phức tạp, nhất là đối với các đơn vị tác chiến cầm chân thu hút địch trong thành phố”.

Tấm bản đồ hành chính mà Bộ Chỉ huy có trong tay ngày càng dày đặc những ký hiệu, những ghi chép, những vết tẩy xóa. Quá trình nghiên cứu tình hình cũng là quá trình hình thành ngày càng rõ những dự kiến kế hoạch tác chiến, quá trình Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ trao đổi với Bí thư Khu ủy Nguyễn Văn Trân và Chính ủy Trần Độ, quá trình thảo luận giữa cán bộ Phòng Tác chiến Đặc khu Hà Nội với các phái viên Bộ Tổng Tham mưu và với cả một người nước ngoài, anh Ái Việt. Người võ quan Nhật này đã sang hàng ngũ ta từ sau ngày Tổng khởi nghĩa. Anh nhiệt tình đem những kiến thức quân sự đóng góp vào công tác huấn luyện và việc chuẩn bị kháng chiến của Bộ Chỉ huy Hà Nội. Nhưng vốn là sĩ quan quân đội một đế quốc đông quân, nhiều súng, chiến đấu với mục tiêu chính trị khác với quân đội cách mạng cho nên không có gì là khó hiểu nếu quan điểm quân sự của Ái Việt có những điểm không phù hợp với ta. Nhưng với tinh thần vừa làm vừa học, ta cố chắt lọc những tri thức quân sự có thể vận dụng vào điều kiện của ta.

Anh Vũ trao đổi với Ái Việt cũng chính trên tinh thần đó. Và đã từng diễn ra không ít những cuộc tranh luận náo nhiệt giữa hai người trong quá trình xây dựng kế hoạch tác chiến bảo vệ Thủ đô. Bằng những lời lẽ chân tình, anh Vũ giải thích vì sao không thể chấp nhận được kế hoạch của Ái Việt về việc lập ba phòng tuyến quanh thành phố để ngăn chặn quân Pháp. Anh nói về sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ (8.000 tự vệ thành), tuy trang bị còn thô sơ nhưng nếu có cách đánh phù hợp sẽ phát huy tác dụng ngay từ đầu. Anh nói về tinh thần nhân dân Thủ đô, về cơ sở vật chất mà quân đội và tự vệ có thể dựa vào sự ủng hộ của nhân dân mà chiến đấu lâu dài trong thành phố; nói về địa hình phức tạp của khu Bắc thành phố được chọn làm nơi bám trụ thu hút địch và chiến đấu dài ngày.


(1) Đạn D.A.M là loại đạn phổ biến dùng cho tiểu liên và súng trường (súng mousqueton của Pháp) hồi đầu kháng chiến chống Pháp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:50:28 am »

Trong quá trình chuẩn bị kế hoạch tác chiến, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ còn nghiên cứu và tranh luận với nhiều ý kiến khác như chủ trương tập trung lực lượng đánh một số trận lớn, “vang đội”, bằng những trận tiến công vào thành, vào Trường Bưởi, Trường Anbe Xarô, vào Phủ toàn quyền cũ, v.v Bằng những dẫn chứng thực tế về lực lượng so sánh, về phương châm tác chiến tiêu diệt địch bảo tồn mình để kháng chiến lâu dài, anh Vũ đã trao đổi, giải thích, tranh luận để đi đến không chấp nhận kiểu đánh “dốc túi - trắng tay” như vậy, cách đánh không phù hợp với đường lối kháng chiến của ta.

Quan điểm của Chỉ huy Vương Thừa Vũ được sự nhất trí và ủng hộ của Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp và Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái.

Vào khoảng trung tuần tháng 10, Đại đội trưởng cảnh vệ Thái Dũng được chỉ thị cử một trung đội đến tổ chức một trạm gác bí mật phía trong cổng ngôi nhà số 58 đường Nguyễn Du, trông ra hồ Thiền Quang. Ngày 19-10, trong khu biệt thự này đã diễn ra một hội nghị quân sự quan trọng nhằm kiểm điểm tình hình, rà soát lại những việc đã làm và đề ra những nội dung toàn diện cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến. Ngoài các đồng chí ủy viên Trung ương và Ủy viên Tổng quân ủy, cán bộ quân sự và chính trị chủ chốt của các khu đều có mặt.

Khi về, phổ biến nhiệm vụ cho các cán bộ đầu ngành trong cơ quan tham mưu, Tổng Tham mưu trưởng nói rằng từ ngày thành lập chính quyền, chưa bao giờ có một hội nghị quân sự quan trọng như vậy.

Hội nghị nhận định rằng, mặc dù bản Tạm ước đã được ký kết, Pháp vẫn đang dùng hành động lấn ta từng bước cả về kinh tế và quân sự, nhưng đồng thời chúng cũng lo đối phó, sợ bị ta tiến công trước. Bởi vậy, ta vừa phải ngăn chặn âm mưu của chúng trên từng mặt, trong từng địa phương, nhưng phải nắm vững nguyên tắc là hết sức tránh không để những cuộc xung đột sớm lan rộng. Riêng đối với các cơ quan quân sự trung ương, do những “phiền phức và trở ngại” về mặt chỉ đạo quân sự trong thời gian qua, hội nghị quyết định thống nhất Quân sự ủy viên hội với Quốc phòng, đi đôi với việc chỉnh đốn tổ chức, phân chia lại chiến trường để tiện việc chỉ huy trên toàn quốc, sửa đổi lối làm việc của các cơ quan chỉ huy, sao cho “giản dị, thiết thực”, trên cơ sở phân quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng(1). Hội nghị đặc biệt quan tâm đến công tác Đảng, công tác chính trị, công tác cán bộ (cụ thể trên các mặt giáo dục, bổ túc, đào tạo, điều động, sử dụng cán bộ và thống nhất các trường huấn luyện cán bộ…), công tác chỉnh đốn bộ đội và dân quân tự vệ, cùng các mặt bảo đảm cung cấp cho lực lượng vũ trang.

Căn cứ nhận định về âm mưu của địch và thực tế so sánh lực lượng hiện nay, hội nghị rút ra những kết luận quan trọng: Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh ta và ta cũng nhất định phải đánh Pháp. Công tác chính trị tư tưởng phải làm sao khắc phục không khí thái bình, cho rằng ký hiệp định rồi thì không nổ ra chiến tranh nữa. Về triển vọng của cuộc kháng chiến, hội nghị khẳng định, phải tự tin rằng tuy ta còn kém địch về trang bị kỹ thuật, nhưng với tinh thần dẻo dai bền bỉ, cuộc kháng chiến của quân và dân ta nhất định thắng lợi.

Trên cơ sở đánh giá kết quả chuẩn bị kháng chiến, hội nghị đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành công tác chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng giành thế chủ động trong mọi tình huống.

Việc thống nhất hai cơ quan quân sự của cấp trung ương được chính thức hóa trong kỳ họp thứ 2 (khóa II) của Quốc hội, ngày 28-10-1946. Bộ Quốc phòng thống nhất với Quân sự ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy do ông Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng, ông Tạ Quang Bửu làm Thứ trưởng. Từ đây, Bộ Tổng tham mưu trở thành một thành viên trong Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Việc thống nhất cơ quan chỉ huy quân sự tối cao đánh dấu một mốc quan trọng và là điều kiện thuận lợi để Bộ Tổng tham mưu đi sâu vào chức năng nhiệm vụ của mình mà trực tiếp lúc này là chuẩn bị cho toàn dân, toàn quân bước vào cuộc kháng chiến trong phạm vi cả nước. Một trong những nhiệm vụ đó là chuẩn bị chỗ đứng chân lâu dài cho cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. Đầu tháng 11, Bộ tổng tham mưu cử một đoàn cán bộ thông tin, tác chiến và quản lý nội bộ, cùng phái đoàn của Trung ương và Chính phủ lên chuẩn bị căn cứ địa. Việc chọn Việt Bắc làm hậu phương kháng chiến đã được Thường vụ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định từ sau khi Người ở Pháp về nước. Một trong những yêu cầu quan trọng đối với đoàn cán bộ tham mưu trong chuyến đi lần này là chuẩn bị mạng lưới thông tin liên lạc trong khu căn cứ, trung tâm đặt ở Bắc Kạn. Kế hoạch này đã được hoàn thành hết sức khẩn trương nhờ sự phối hợp và giúp đỡ của Ban thông tin Chiến khu 1.


(1) Sau Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng ngày 25-11-1946, Chính phủ quyết định chia cả nước thành 12 khu (khi đó gọi là chiến khu). Mỗi khu có khu ủy, ủy ban kháng chiến và bộ chỉ huy quân sự khu. Từ thực tế kinh nghiệm hoạt động trong một năm qua, lần này Chính phủ quyết định phân chia các chiến khu như sau:
Chiến khu 1: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên.
Chiến khu 2: Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu.
Chiến khu 3: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng yên, Hải Dương (trừ Đông Triều và Chí Linh).
Chiến khu 4: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Chiến khu 5: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai.
Chiến khu 6: Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng.
Chiến khu 7: Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.
Chiến khu 8: Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
Chiến khu 9: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá.
Chiến khu 10: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên.
Chiến khu 11: Đặc khu Hà Nội.
Chiến khu 12: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên (cả Đông Triều và Chí Linh).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:51:58 am »

Đúng như nhận định của hội nghị quân sự toàn quốc, hành động lấn chiếm của quân Pháp ngày càng trắng trợn, trong tháng 10 và nổi lên là từ tháng 11-1946. Tấm bản đồ của Phòng Tác chiến luôn được bổ sung bằng những sự kiện vi phạm mới.

Ngày 4-11, tướng Nyô (Nyo) ra ngoài Bắc để cùng với ta thảo luận và thành lập Ủy ban quân sự hỗn hợp thực hiện và kiểm soát đình chiến ở miền Nam theo tinh thần và lời văn của bản Tạm ước 14-9. Nhưng chính trong những ngày tháng 11 ấy, quân Pháp vẫn tiếp tục nổ súng tại nhiều nơi, cả ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Quân ta buộc phải có những hành động tự vệ.

Tại miền Bắc, báo cáo hằng ngày của các đồng chí Nguyễn Nam và Trương Cao Phong gửi về Bộ Tổng tham mưu cho thấy, do hành động của Pháp vi phạm chủ quyền của ta về vấn đề thuế quan cho nên quan hệ giữa hai bên ở khu vực cảng Hải Phòng ngày càng trở nên căng thẳng. Từ đua tháng 9, Đácgiăngliơ đã ra lệnh cho viên tướng chỉ huy quân Pháp kiêm Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Bộ là Moóclie thiết lập quyền kiểm soát thuế quan ở Hải Phòng, kể từ ngày 15-10. Bất chấp bản Tạm ước đã được ký kết, phía Pháp tự ý đơn phương quy định nhiều thứ hàng xuất cảng của ta phải được chúng cho phép. Ta đã nhiều lần phản kháng nhưng chúng vẫn làm ngơ và cuộc xung đột đã nổ ra ngày 20-11. Trước hành động của phía Pháp trắng trợn vi phạm chủ quyền của ta, công an Hải Phòng đến can thiệp. Lập tức quân Pháp nổ súng. Ta bắn trả và cuộc xung đột lan rộng. Pháp cho xe bọc thép tiến công nhà ga và nhiều nơi khác trong thành phố. Ty Liên kiểm dàn xếp, phía Pháp không chịu lui quân về vị trí cũ. Viên Đại tá Đebơ (Dèbes), chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng còn gửi tối hậu thư đòi ta phải thi hành những điều kiện do phía Pháp đưa ra. Những điều kiện vô lý đều bị ta bác bỏ. Đebơ liền huy động binh lực lớn, tiến công vào Nhà hát ở trung tâm thành phố. Quân ta kiên quyết đánh trả, đầy lùi nhiều đợt xung phong của địch.

Thừa lệnh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu điều thêm lực lượng tăng viện cho Hải Phòng đồng thời ra lệnh cho bộ đội chỉ nên có hành động tự vệ.

Sáng hôm sau, 21-11, một ủy ban hỗn hợp từ Hà Nội xuống Hải Phòng để dàn xếp nhưng quân Pháp không chịu ngừng bắn. Chúng dùng cả pháo từ Cát Bi bắn vào các vị trí của quân ta ở Hải Phòng. Buổi chiều, tiếng súng tạm ngưng nhưng quân Pháp không chịu lui về vị trí trước khi xảy ra xung đột.

Sau này, qua tài liệu của phía bên kia, được biết: trước ngày xảy ra sự kiện Hải Phòng, Cao ủy Đácgiăngliơ đã lánh mặt về Pháp cho tướng Valuy dễ bề hành động. Mọi việc làm của Đebơ đều theo lệnh trực tiếp của Valuy thẳng từ Sài Gòn ra, vượt qua đầu viên chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ là tướng Moóclie, viên tướng bị coi là “thiếu tinh thần tiến công”. Đều đó góp phần giải thích vì sao, sáng 23, trong lúc tại Hà Nội, ủy ban hỗn hợp đang thảo luận tìm giải pháp thỏa đáng thì tại Hải Phòng, Đebơ gửi tối hậu thư đòi quân ta phải rút khỏi nhiều khu phố, đòi tước vũ khí tự vệ Khu 7. Chính những chiến sĩ tự vệ này hai ngày trước đã cho chúng một đòn đau. Ta đã bác bỏ mọi yêu sách phi lý của địch. Đến 9 giờ 45 phút, Pháp huy động máy bay, pháo binh tiến công vào khu phố Hoa kiều. bộ đội và tự vệ chiến đấu quyết liệt với địch ở từng góc phố, trong từng căn nhà.

Ngày 28, Bộ Tổng tham mưu chuyển lệnh của bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy cho bộ đội và tự vệ rút về tuyến chiến đấu mới ở ngoại ô, bao vây quân địch trong thành phố, phá hoại triệt để đường liên lạc từ ngoài vào, đặc biệt là đường Hải Phòng - Đồ Sơn.

Hầu như đồng thời với việc đánh chiếm thành phố cảng, quân Pháp cũng tìm cớ khiêu khích rồi dùng vũ lực đánh chiếm thị xã Lạng Sơn, tiếp đến, chúng tiến công ta ở Tiên Yên, Đình Lập. Bằng việc đánh chiếm hai thành phố cửa ngõ đường biển và đường bộ ở Bắc Bộ, trên thực tế Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc đi đôi với tiếp tục mở rộng chiến tranh ở miền Nam.

Trước tình hình đã trở nên nghiêm trọng, ta tiếp tục đấu tranh đòi duy trì ủy ban hỗn hợp để giải quyết các vụ xung đột. Nhưng dưới sức ép của Sài Gòn, tướng Moóclie buộc phải hành động theo lệnh của Valuy, khước từ các cuộc thảo luận và dàn xếp của ủy ban hỗn hợp. Thực ra, theo nhiều tác giả Pháp và nước ngoài(1) thì mọi hành động của Đebơ đều do Valuy thúc đẩy theo kịch bản đã được dàn dựng trước khi Đácgiăngliơ về Pháp trung tuần tháng 11-1946. Viên cao ủy cần có những “bằng chứng về những cuộc xung đột” để có cớ đòi cuộc họp liên bộ của chính quyền Biđôn (họp ngày 23-11 bàn về vấn đề Đông Dương) phải đi đến một “đường lối chính trị cứng rắn”, thay thế cho cái mà hắn gọi là “chính sách thỏa hiệp và rút lui”.

Trong những ngày cuối tháng 11 đầu tháng 12, Bộ Tổng tham mưu nhận được tin tức và báo cáo về việc quân Pháp dùng xe tăng tiến công hòng mở thông đường Hải Phòng - Đồ Sơn, tin chúng đưa thêm quân trái phép đến Hải Dương, đổ bộ thêm quân vào Hải Phòng, Đà Nẵng. Ngay tại Thủ đô Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng tăng và càng trắng trợn. Những vụ cướp phá hiệu buôn, xé cờ Việt Nam ở Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, phóng xe bạt mạng trên các đường phố, bắt cóc cán bộ, đặt súng trên nóc nhà cao tầng bắn vào tàu điện đang chạy, v.v. Tất cả cho thấy, dường như chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào, tuần này hoặc tuần sau, thậm chí hôm nay hoặc ngày mai.

Không khí và nhịp độ hoạt động của Bộ Tổng tham mưu ngày càng trở nên khẩn trương chưa từng thấy. Vừa tiến hành công việc hằng ngày, từng phòng vừa phân loại vừa sắp xếp tài liệu, chuẩn bị quân trang gọn ghẽ, sẵn sàng cơ động vận chuyển khi có lệnh. Cán bộ đi công tác lẻ được lệnh mang theo súng ngắn đề phòng bất trắc. Qua những gì tai nghe mắt thấy trên đường phố, qua những buổi sinh hoạt, nghe phổ biến tình hình, mọi người đều hiểu rằng thời kỳ hòa hoãn mong manh đã qua rồi, toàn quân, toàn dân đang sắp sửa bước vào cuộc chiến tranh toàn cục.

Trung tuần tháng 11, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đang đi kiểm tra tình hình thị xã Lào Cai mới được giải phóng thì nhận được điện gọi phải về Hà Nội ngay. Anh Văn cho biết, tình hình Hải Phòng đang rất căng thẳng.

Suốt dọc đường về Thủ đô anh suy nghĩ về những công việc mà cơ quan tham mưu chiến lược sắp phải gánh vác khi đất nước chuyển sang bước ngoặt của lịch sử. Sau này nghĩ lại anh thấy biết bao điều mới lạ mà chỉ khi va chạm với thực tế mới sáng tỏ, còn vào những ngày trước chiến tranh chưa ai hình dung ra được.


(1) Ví như Philip Đờvile (Philipe Devillers - tác giả cuốn Paris - Sài Gòn - Hà Nội) và Tônnétxơn (Stéin Tonnesson - tác giả cuốn Năm 1946 - Bùng nổ cuộc chiến tranh Đông Dương).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:52:33 am »

III

Để sẵn sàng đối phó với tình hình, đề phòng bị đánh úp và để bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy tác chiến được liên tục khi nổ ra chiến sự, từ ngày 5-12, từng bộ phận trong cơ quan tham mưu lần lượt rời thành phố chuyển về phía Hà Đông, từ Gò Đống Đa đến Tây Mỗ, Đại Mỗ. Trung tâm thông tin - tổng đài điện thoại dự bị - đặt ở ấp Thái Hà, nơi làm việc của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Chỉ còn một bộ phận nhỏ ở lại cơ quan trong nội thành cùng với tổng đài thường trực để nắm tình hình và giải quyết những công việc còn lại. Hằng ngày, phía cổng chính, vẫn có người ra vào, nhằm duy trì bộ mặt bình thường của ngôi nhà 18 Nguyễn Du.

Với tinh thần năng động sáng tạo, vượt lên mọi khó khăn thiếu thốn về người và phương tiện, máy móc, lúc này Phòng Thông tin liên lạc đã nối liền mạng thông tin điện thoại giữa tổng đài dự bị ở ấp Thái Hà với 18 Nguyễn Du, với các đơn vị ở nội thành, các chiến khu và cả với mạng điện thoại mới được triển khai trên căn cứ Việt Bắc. Hai cụm đài vô tuyến điện lưu động đã được triển khai ở La Phù và Ba Thá (Hà Đông), trên đường di chuyển của cơ quan đầu não kháng chiến lên căn cứ địa. Hội nghị các trưởng ban thông tin từ Trị - Thiên trở ra đã được triệu tập đầu tháng 12, nhằm thống nhất lần cuối cùng những quy ước về làn sóng, về giờ thu phát và cách làm việc giữa đài trung ương và đài địa phương, khi Bộ Tổng tham mưu còn ở Hà Nội cũng như trong quá trình di chuyển lên căn cứ địa.

Trong những ngày đầu tháng 12-1946, Phòng Thông tin liên lạc bận rộn, vất vả nhất nhưng cũng phấn khởi nhất. Chẳng là anh em vừa được nhận “tài sản” của Sở Vô tuyến điện Việt Nam. Việc kiểm kê lại toàn bộ phương tiện và phân loại ra thành “của ăn - của để” được tiến hành hết sức khẩn trương. Tuy cơ sở vật chất không lấy gì làm “giàu có”, nhưng nhưng toàn phòng hiểu rằng đó là tài sản vô cùng quan trọng trên bước đường phát triển của cả ngành thông tin quân sự. Cũng trong dịp này, phòng còn được giao nhiệm vụ giúp Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam bí mật di chuyển gấp những máy dự bị và những bộ phận cơ khí chính ra ngoài thành phố. Yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo cho đài hoạt động liên tục ngay từ những ngày đầu kháng chiến, bắt đầu khi có lệnh chuyển về địa điểm sơ tán đầu tiên là vùng Chùa Trầm, phía nam thị xã Hà Đông.

Phòng Tình báo kết thúc khóa huấn luyện tình báo trung cấp ở Tông để cán bộ kịp về các địa phương nắm tình hình đang diễn biến từng ngày. Toàn phòng bị thu hút vào những công việc đặc biệt khẩn trương, từ việc phân công lại cán bộ trong phòng thành hai bộ phận (Tả ngạn mang mật danh là V-B, Hữu ngạn là V-A) để tiện nắm và chỉ đạo các cơ sở tình báo dọc hai bên sông Hồng, hoạt động khi chiến sự nổ ra, cử người đi kiểm tra lại lần cuối và hướng dẫn thêm các cơ sở tình báo dọc đường 5, kiểm tra lại các cơ sở cài cắm lại nội thành cùng với các hộp thư liên lạc bí mật đến việc bàn và thống nhất kế hoạch với cán bộ tình báo Gia Lâm về trận đánh sân bay, dự kiến sẽ nổ ra ngay trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.

Ngày 9-12, Tổng Tham mưu trưởng chủ trì cuộc hội nghị nhằm hai vấn đề chủ yếu cần giải quyết gấp cho các địa phương xung quanh Hà Nội: 1- kiểm tra lại kết quả và cho ý kiến bổ sung kế hoạch huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ các tỉnh và huyện, nhất là vùng trung du và đồng bằng sông Hồng; 2- kiểm tra và cho ý kiến về công tác phá hoại, nhất là tình hình phá hoại những đường lớn xung quanh Thủ đô. Thành phần cán bộ được các phòng cử đến họp và chuẩn bị xuống các địa phương gồm những người ít nhiều đã có trình độ về mặt tác chiến và huấn luyện. Khi thảo luận về công tác phá hoại đường giao thông thì không khí cuộc họp sôi nổi hẳn lên. Rất nhiều ý kiến tranh luận nên tập trung vào phá hoại đường nào trước, đường nào có thể để lại cho đến ngày nổ ra chiến sự mới phá. Khó khăn bao trùm là thiếu thuốc nổ để phá cầu. Riêng về đường bộ, nên phá thế nào để có tác dụng ngăn bước tiến của cơ giới địch? Làm sao vận dụng được kinh nghiệm của Nam Bộ là biến những con đường huyết mạch thành “những hàm răng cá sấu” như cách gọi của quân Pháp ở trong Nam? Vì sao đường Hải Phòng - Đồ Sơn đã phá hoại nhưng địch sửa lại một cách dễ dàng, v.v. Sau nhiều ý kiến trao đổi, tranh luận, kết luận cuối cùng là phải dựa vào sức dân, dựa vào đặc điểm và vị trí của từng đoạn đường, từng khúc sông để nghiên cứu cách phá hoại và lập các ụ chướng ngại có tác dụng làm chậm bước tiến của địch.

Sau cuộc họp, đoàn cán bộ tỏa đi các nơi dự kiến chiến sự có thể lan đến sớm để giúp lực lượng vũ trang địa phương trong công tác huấn luyện và công tác phá hoại, trước hết là phá hoại các đường giao thông chính nối liền với Thủ đô.

Trước tình hình chiến tranh có thể sắp nổ ra, ngày 13-12, tại Sở Địa chính thị xã Hà Đông, Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy triệu tập hội nghị các khu trưởng (từ Khu 4 trở ra) để kiểm điểm toàn bộ công tác chuẩn bị kháng chiến ở các địa phương, đơn vị. Đại diện Bộ Tổng Tham mưu dự hội nghị, ngoài Tổng Tham mưu trưởng và một số trưởng phòng, còn có Tham mưu chủ nhiệm Trần Văn Quang. Anh Quang mới về thay anh Lâm Kính được điều đi phụ trách Tham mưu trưởng Chiến khu 2. Đồng chí Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp.

Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái báo cáo tình hình chung về chuẩn bị kháng chiến từ Đà Nẵng trở ra, kể từ sau hội nghị quân sự trung tuần tháng 10-1946.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:52:59 am »

Sau hội nghị chỉnh đốn lại biên chế, lực lượng Vệ quốc đoàn trong cả nước là 85.000 người, gồm 27 trung đoàn ở miền Bắc và 25 chi đội ở miền Nam, tăng 70% so với cuối năm 1945. Do tích cực mở lớp bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho nên tình trạng thiếu cán bộ đã cơ bản được khắc phục. Lớp bổ túc khóa 2 ở Tông (Sơn Tây) và khóa 1 Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã bế mạc cách đó mấy ngày. Trừ một số ít học viên võ bị được giữ lại làm giáo viên, hầu hết anh em tốt nghiệp đã được điều động về các đơn vị từ Đà Nẵng, trở ra để kịp nắm bộ đội chuẩn bị chiến đấu. Kết quả sản xuất, sửa chữa, mua sắm và kết quả điều chỉnh vũ khí cho hợp lý đã làm cho tỷ lệ trang bị của các đơn vị chủ lực được tăng hơn trước. Nếu cuối năm 1945, số người mang súng ở mỗi đại đội chưa đạt 1/3 quân số thì nay đã tăng lên 2/3 quân số. Tuy nhiên, vấn đề đạn dược vẫn còn là một khó khăn. Sau khi đơn vị pháo đầu tiên của Thủ đô ra đời, các chiến khu cũng thành lập các đơn vị pháo - cối và bố trí theo kế hoạch tác chiến của khu: Khu 1 ở Phúc Yên, Khu 2 ở Nam Định, Khu 3 ở Kiến An, Hải Dương, Cát Bà, Đồ Sơn, Khu 4 ở Huế, Khu 5 ở Bồng Sơn, Khu 10 ở Tuyên Quang. Xưởng Giang Tiên đã chế tạo thành công 4 khẩu “đại bác không giật”, gọi tắt là ĐKZ, cỡ 60mm, với 50 viên đạn. Khẩu badôca đầu tiên đang được bắn thử nghiệm và sẽ nghiên cứu bổ sung cho hoàn chỉnh về kỹ thuật.

Nghe đến đây, đồng chí Bộ trưởng đề nghị Tổng Tham mưu trưởng tạm ngừng lời. Anh Văn đứng dậy giới thiệu tác giả khẩu badôca với toàn thể hội nghị. Đó là anh Trần Đại Nghĩa, một trí thức yêu nước, mới theo Bác Hồ về để tham gia kháng chiến. Tuần trước, anh được Chính phủ bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Quân giới. Hội nghị hoan hô nhiệt liệt, biểu thị lòng tin vào những người làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, tin tưởng vào đội ngũ công nhân quân giới Việt Nam trẻ tuổi.

Mọi người tiếp tục theo dõi bản báo cáo của tham mưu.

Dưới sự chỉ huy của cơ quan quân sự tỉnh, lực lượng vũ trang địa phương phát triển mạnh. Các cán bộ của Bộ trong tổ chức mang mật danh “B.13” được phái xuống địa phương đã phát huy tác dụng giúp đỡ trong việc huấn luyện, nghiên cứu việc xây dựng làng chiến đấu và công tác phá hoại giao thông. Việc điều chỉnh giữa lực lượng huấn luyện và chuẩn bị chiến đấu với lực lượng thu hoạch mùa màng đã được giải quyết tốt hơn trước, bằng biện pháp luân phiên tại từng thôn xã. Đến nay việc trang bị của dân quân tự vệ vẫn do từng tỉnh giải quyết, theo phương hướng sản xuất vũ khí thô sơ là chủ yếu.

Về lương thực, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, các khu đang huy động đề bạt số lượng dự trữ 2 tháng cho bộ đội. Các kho được bố trí phân tán theo kế hoạch tác chiến của từng chiến khu.

Kế hoạch tác chiến của các địa phương, đơn vị đã được xây dựng xong. Dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của đồng chí Tổng Chỉ huy, cơ quan tham mưu đã cử nhiều đoàn cán bộ xuống các địa phương từ Đà Nẵng trở ra góp ý kiến vào việc xây dựng kế hoạch. Riêng khu Hà Nội, kế hoạch sẽ được Tổng Chỉ huy trực tiếp thông qua lần cuối cùng vào ngày mai, 14-12. Trong những ngày tác chiến đầu tiên, các đơn vị, địa phương đều tập trung vào yêu cầu chủ yếu là tiêu hao và kìm chân địch dài ngày trong thành phố, thị xã đi đôi với phá đường, phá cầu, cô lập địch giữa thành phố nọ với thành phố kia, đồng thời đánh giao thông, hạn chế khả năng tăng viện, tiếp ứng của địch.

Việc phá hoại đường sá đã làm được một phần. Phần chủ yếu là, ngay khi kháng chiến bùng nổ, trong khi bộ đội đang tác chiến trong thành phố, các địa phương huy động người và phương tiện, tiến hành phá đường, phá cầu và các nhà kiên cố trong các thị trấn sát thành phố, sát các trục giao thông lớn theo kế hoạch đã chuẩn bị.

Bộ Tổng chỉ huy đã lệnh cho các chiến khu cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ chuẩn bị kế hoạch đánh mạnh ngay từ đầu, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhằm giam chân thu hút lực lượng địch, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng địch điều lực lượng từ trong Nam ra tăng viện cho các thành phố ngoài Bắc.

Hội nghị dành nhiều thời gian trao đổi kinh nghiệm về công tác chuẩn bị chiến đấu giữa các địa phương và bàn về cách đánh. Từ kinh nghiệm của Sài Gòn năm trước, của Hải Phòng mới đây, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp nhắc lại và nhấn mạnh chỉ thị của Thường vụ là nhất định không để bị bất ngờ, riêng Đặc khu Hà Nội không được để tái diễn “sự kiện Hải Phòng” giữa Thủ đô. Phải làm sao giành được chủ động, phải sẵn sàng để bất ngờ tiến công địch ngay khi có lệnh nổ súng trong thành phố, thị xã kết hợp với bao vây địch, nhằm tiêu hao, tiêu diệt được sinh lực của chúng, bảo tồn được lực lượng ta, giam chân cô lập chúng trong từng thành phố càng lâu càng tốt, hạn chế khả năng tăng viện của địch giữa các khu vực.

Quá trình hướng dẫn thảo luận, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp luôn gợi ý về những khó khăn mà từng địa phương cần được sự giúp đỡ của bộ để khắc phục, nhất là những khó khăn về bảo đảm thông tin, về phối hợp và hỗ trợ nắm tình hình địch, v.v.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:54:09 am »

Mọi người chú ý theo dõi báo cáo của Khu trưởng Khu 11 Vương Thừa Vũ về kinh nghiệm chuẩn bị chiến đấu của Thủ đô. Hà Nội được coi là chiến trường trung tâm của cả nước khi nổ ra kháng chiến, lại ở gần Bộ trong suốt quá trình chuẩn bị chiến đấu, nên có điều kiện tiếp thu sự chỉ đạo trực tiếp của trên. Trước sự quan tâm theo dõi của cấp chỉ huy các chiến trường bạn, với đức tính khiêm nhường vốn có, anh Vũ nói:

- Được anh Văn, anh Thái và các đồng chí trên cơ quan tham mưu sâu sát giúp đỡ, suốt hai tháng qua, chúng tôi đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị. Ngày mai, các anh trên mới chính thức thông qua kế hoạch cụ thể. Có thể điều này mới được chấp nhận, điều khác phải thay đổi hoặc bổ sung thêm…

Rồi anh giới thiệu tinh thần cơ bản của kế hoạch và biện pháp tác chiến chủ yếu của Khu 11, điểm nào vận dụng được kinh nghiệm của Sài Gòn và Hải Phòng, điểm nào phải làm khác cho phù hợp với điều kiện địch, ta và địa hình của Thủ đô… Các biện pháp chuẩn bị tác chiến mà anh giới thiệu đều hướng vào hai yêu cầu mà Bộ nên lên từ đầu: một là không để bị bất ngờ, nếu địch đánh trước ta phải quật lại ngay; hai là phát huy được sức mạnh của tất cả các lực lượng Vệ quốc đoàn, tự vệ thành, công an xung phong, tiêu hao và cố gắng tìm mọi biện pháp giam chân địch càng lâu càng tốt, không cho chúng đánh rộng ra ngay từ những ngày đầu, đồng thời phải bảo toàn và phát triển lực lượng của ta để đánh lâu dài, không chỉ trong Thủ đô mà trường kỳ mãi về sau…

Tình hình khẩn trương đòi hỏi kết thúc hội nghị luôn trong ngày. Tuy thời gian ít nhưng nhiều vấn đề cụ thể được các cấp chỉ huy các chiến khu đề ra vẫn được thảo luận và được đồng chí Tổng Chỉ huy kết luận để các nơi thấy được phương hướng và biện pháp vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng thành phố, từng chiến trường khác nhau.

Hội nghị kết thúc khi trời sắp tối. Một số cán bộ chỉ huy các khu còn nán lại để cùng các cục chuyên môn giải quyết những vấn đề cấp bách còn lại của địa phương. Đồng chí Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng cũng nán lại. Các anh thấy cần gợi ý, trao đổi và hướng dẫn thêm về những vẫn đề mà cán bộ còn vướng mắc, những vấn đề cần được giải quyết ngay trong mấy ngày tới, với tinh thần hết sức khẩn trương. Với một vài khu, các anh trở lại nhiều vấn đề rất sâu. Đặc điểm địch, ta trong địa bàn sắp nổ ra chiến sự là gì, những thuận lợi cần phát huy và tận dụng, những khó khăn trước mắt và lâu dài cần khắc phục và khắc phục như thế nào để vận dụng kinh nghiệm chiến đấu của Hải Phòng, kinh nghiệm chuẩn bị chiến đấu của Hà Nội vào điều kiện cụ thể của địa phương mình… Các anh còn cho hướng dẫn và kiểm tra nhiều lần xem cán bộ các khu đã nắm vững quy ước về lệnh nổ súng mà tham mưu đã phổ biến trong hội nghị chưa?

Sau này, các anh Hoàng Minh Thảo và Lê Quang Hòa nhớ và kể lại:

- Lúc đó, chia tay với các anh trên Bộ thì trời đã tối hẳn. Hai chúng tôi quyết trở về đơn vị ngay trong đêm. Chúng tôi như được tiếp thêm nguồn sức mạnh, thêm lòng tin tưởng vào thắng lợi trong những ngày chiến đấu sắp tới, mặc dù ngay từ lúc đó đã thấy rõ sẽ đứng trước rất nhiều khó khăn, thử thách. Nhưng rõ ràng là cấp trên đã làm hết sức mình để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn quân bước vào chiến đấu…

Hôm sau, ngày 14-12, Tổng Chỉ huy và Tổng Tham mưu trưởng cùng một số cán bộ tham mưu xuống làm việc với Bộ Chỉ huy khu 11. Ngay trong quá trình chuẩn bị kế hoạch tác chiến của Hà Nội, các anh trên Bộ đã tán thành cách đánh mà anh Vũ đặt cho cái tên nôm na là chiến thuật “cài then cửa”. Đó là cách đánh du kích trong thành phố, khi ẩn khi hiện trong từng căn nhà, từng góc phố, kết hợp phục kích của tổ, đội và bắn tỉa vào từng cá nhân, kết hợp trong đánh ngoài vây, kết hợp tiến công với phòng ngự, tiêu hao địch, ngăn chặn chúng từng bước, không cho chúng nhanh chóng đánh rộng ra vùng ngoại ô.

Hôm nay, các anh trên Bộ xuống để chính thức phê duyệt lần cuối cùng. Đó là kế hoạch sử dụng lực lượng tiến công và bao vây của 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn và lực lượng tự vệ thành, kế hoạch tổ chức chiến đấu lâu dài ở Liên khu 1(1), kế hoạch bản đảm vật chất, trang bị, việc tổ chức mạng thông tin từ trong thành phố ra ngoài, dự kiến kế hoạch lui quân ra khỏi thành phố khi có lệnh v.v. Các anh cũng nghe giới thiệu những biện pháp cụ thể được áp dụng để ngăn chặn địch trong thành phố như lập vật chướng ngại (hồi đó thường gọi là baricat), đục tường giữa các căn nhà dọc từng dãy phố để cơ động lực lượng, ngả cây, lật tàu điện, tàu hỏa để chặn đường tiến của xe tăng, cơ giới địch…


(1) Theo kế hoạch tác chiến ở Thủ đô, Hà Nội được chia thành ba liên khu:
Liên khu 1 gồm 7 khu hành chính: Hoàn Kiếm, Đông Kinh nghĩa thục, Đông Thành, Đồng Xuân, Trúc Bạch, Long Biên, Hồng Hà. Ranh giới phía nam và tây nam là các đường Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi, Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ); phía tây bắc là từ đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh niên) tới Yên Phụ; phía bắc và đông bắc là theo hữu ngạn sông Hồng, từ Yên Phụ đến Nhà hát lớn.
Liên khu 2 là khu vực phía nam Hà Nội, phía bắc giáp Liên khu 1, phía đông theo hữu ngạn sông Hồng đến Vĩnh Tuy; phía tây dọc đường Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn), Kim Liên; phía nam gồm các xã Hoàng Mai, Thanh Xuân.
Liên khu 3 ở tây và tây nam thành phố, phía bắc và đông bắc giáp Liên khu 1, phía đông giáp Liên khu 2.
Liên khu 1 được chọn làm khu trung tâm chiến đấu ở Hà Nội. Theo kế hoạch, sau mấy ngày chiến đấu đầu tiên, một tiểu đoàn sẽ lui về Liên khu 1, thu hút lực lượng địch. Ở các Liên khu 2 và 3, các tiểu đoàn khác luôn áp sát, tiến công tiêu hao địch, hỗ trợ cho tiểu đoàn Liên khu 1, thực hiện ý định “trong đánh - ngoài vây”, để kìm chân địch trong thành phố.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2012, 08:54:38 am »

Vẫn với tấm bản đồ hành chính đã được vẽ lại với những ký hiệu quân sự “chính quy hơn”, Khu trưởng Vương Thừa Vũ vừa thuyết tình bản kế hoạch của mình, vừa trả lời những vấn đề do anh Văn và anh Thái đặt ra hoặc gợi ý để cùng nhau giải quyết. Cuối cùng anh Vũ dẫn các anh đi kiểm tra một lần nữa cách bố trí và kế hoạch tác chiến của Tiểu đoàn 101 và một số đơn vị tự vệ trong Liên khu 1. Đây là một “khu phố ta”, dân cư đông đúc, ở phía bắc thành phố với những phố ngang phố dọc đan nhau phức tạp, được chọn làm nơi thu hút địch. Ta vẫn dùng cách đánh mà anh Vũ gọi là “trùng độc chiến”, nhằm thu hút, tiêu hao và giam chân địch dài ngày. Anh Vũ cũng báo cáo tình hình chuẩn bị tác chiến của các tiểu đoàn khác ở hai Liên khu 2 và 3.

Tổng Chỉ huy hài lòng thấy rằng kế hoạch trên đây được xây dựng với sự nhất trí cao giữa Chỉ huy trưởng và Bí thư Khu ủy và Chính ủy khu, giữa Bộ Chỉ huy Hà Nội và cơ quan tham mưu Bộ.

Sau khi thông qua kế hoạch tác chiến, đồng chí Tổng Chỉ huy lưu ý các anh về việc bảo vệ tính mạng của nhân dân trong thành phố, kể cả ngoại kiều. Một mặt động viên và tổ chức cho nhân dân tản cư ra khỏi thành phố càng nhiều càng tốt, nhất là người già và trẻ em, nhưng đồng thời cũng phải tìm mọi biện pháp bảo vệ tài sản và tính mạng của những người vì lý do nào đó mà còn ở lại. Trước khi ra về, anh Văn nói thêm:

- Ông Cụ chỉ thị cố giữ trong vòng vài tuần. Nhưng nếu đánh tốt, tiêu hao được nhiều sinh lực địch, phát triển được lực lượng ta thì giữ được càng lâu càng tốt. Đây không chỉ là mục đích quân sự mà còn là yêu cầu chính trị tinh thần rất lớn, rất quan trọng đối với toàn quốc, toàn dân từ Nam chí Bắc và ảnh hưởng cả đến dư luận nước ngoài.

Từ Bộ Chỉ huy Khu 11, Tổng Tham mưu trưởng về thẳng cơ quan ở ấp Thái Hà. Biết bao công việc đang chờ đợi anh lúc này.

Trừ số anh em vắng mặt vì bận đi đôn đốc việc chuẩn bị chiến đấu ở các đơn vị và địa phương, tất cả tập hợp đông đủ trong buổi sinh hoạt toàn cơ quan tối hôm đó. Qua thực tế công việc hằng ngày, mọi người đều đã biết tình hình đang hết sức khẩn trương. Do hành động khiêu khích và cố tình gây chiến của địch, ta buộc phải đối phó. Chiến tranh có thể nổ ra ngày một, ngày hai.

Sau khi thông báo tóm tắt tình hình chuẩn bị kháng chiến của các nơi, sự đóng góp của tham mưu trong quá trình chuẩn bị đó là nhiệm vụ nặng nề của cơ quan trong những ngày sắp tới, Tổng Tham mưu trưởng nhắc lại yêu cầu đặt ra đối với toàn cơ quan lúc này là phải hết sức cảnh giác, giữ bí mật, bình tĩnh và kỷ luật, đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Ta có thể thấy trước cuộc chiến tranh sẽ lâu dài, gian khổ. Biết bao thử thách đang ở phía trước mà lúc này chưa lường hết được. Cuối cùng, bằng một giọng xúc động, đầy thông cảm, anh Thái nói với anh chị em toàn cơ quan:

- Mỗi người chúng ta đều có một hoàn cảnh riêng. Hoàn cảnh đó phụ thuộc và sự nghiệp chung là kháng chiến, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, để vĩnh viễn không trở lại cuộc đời nô lệ. mỗi người chúng ta hãy làm sao cho hoàn cảnh riêng của mình phù hợp với sự nghiệp chung của dân tộc, của đất nước. Cơ quan chúng ta đã đi từ hai bàn tay trắng, đã lớn lên trải qua nhiều tháng mò mẫm từng bước. Lúc này chính là lúc đem tinh thần và trí tuệ đóng góp vào cuộc đấu trí đấu lực với kẻ địch. Là những cán bộ trong cơ quan tham mưu của toàn quân, nhân dân tin tưởng ở chúng ta, quân đội đang chờ đợi sự giúp đỡ của chúng ta. Do trách nhiệm lớn lao, dù sẽ phải trải qua những chặng đường dài khúc khuỷu, chúng ta hãy cùng chung vai gánh vác nhiệm vụ mà Đoàn thể và nhân dân tin cậy, giao phó…

Sau này, trong cuộc gặp mặt giữa một số cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu nhân dịp kỷ niệm ngày kháng chiến toàn quốc, rất nhiều anh nhắc lại cuộc họp mặt khó quên ấy của cơ quan tham mưu chiến lược buổi tối 14-12 năm đó. Cuộc họp mặt hết sức ngắn gọn nhưng có tác dụng động viên sâu sắc. Nắm được tình hình, nhiệm vụ và như được tiếp thêm nguồn sức mạnh mới, từng người, từng bộ phận soát lại công tác chuẩn bị của mình và của cả phòng. Không mấy bận lòng với đồ đạc riêng vốn quá đơn sơ, nhẹ nhõm, điều quan tâm là làm sao bảo vệ được tài liệu, làm sao hoàn thành được phần công việc được giao, với vốn liếng nghiệp vụ chưa có gì gọi là đáng kể.

Trong suốt mấy ngày cuối trung tuần tháng 12, từ trung tâm Thủ đô, những báo cáo bằng giấy, bằng điện thoại liên tiếp, dồn dập được chuyển tới cơ quan tham mưu ở ấp Thái Hà. Lúc này, Hà Nội như một kho thuốc súng mà khúc dây cháy chậm đang cháy đến đoạn cuối cùng. Vụ tàn sát đồng bào ta ở Yên Ninh - Hàng Bún, những chiếc xe tăng, xe bọc thép xiết bánh trên đường phố Thủ đô…, tất cả như đang thử thách tinh thần nhẫn nại của quân và dân ta giữa lúc chúng ta đang tranh thủ từng ngày từng buổi để cố hoàn tất công tác chuẩn bị kháng chiến với khả năng cao nhất. Những hành động khiêu khích và gây chiến của quân Pháp khiến từng người trong cơ quan tham mưu biết rằng thời điểm lịch sử tất yếu sắp đến. Mọi người bình tĩnh chờ đợi và bộ máy chỉ huy, từ tác chiến, tình báo đến thông tin, mật mã tiếp tục hoạt động với nhịp độ khẩn trương nhất.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM