Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:11:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ Tổng tham mưu những năm chiến đấu trong vòng vây  (Đọc 68709 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2012, 08:35:38 am »

Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị nên mở thêm mấy lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và đào tạo cán bộ. Anh nhắc anh Đạo và anh Bê cần coi trọng việc rút kinh nghiệm hoạt động nắm địch, kể cả việc nghiên cứu phân tích việc nắm tình hình hoạt động của quân Tàu Tưởng và tay sai khác với việc nắm quân Pháp và Pháp kiều như thế nào. Trước mắt, anh Bê cần nhanh chóng hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về quân đội Pháp, từ phù hiệu, cấp hiệu đến tổ chức và các loại trang bị. Cần trang bị cho anh em có những kiến thức tối thiểu về đối tượng đang trở thành chủ yếu của ngành tình báo. Việc hướng dẫn nghiệp vụ cho tình báo các khu về đối tượng mới là rất cần thiết để anh em có thể tự điều hành mạng trinh sát nắm địch trong địa bàn của mình. Phòng Tình báo của Bộ chỉ tập trung vào mấy nơi xung yếu nhất, nếu không thì không đủ sức. Việc anh Bê đi một chuyến vào miền Trung là rất cần thiết.

Anh Thái cùng các anh Phòng 2 trao đổi thêm về tình hình quân đội Pháp. Theo tin công khai thì lực lượng của chúng đưa ra miền Bắc là những đơn vị thuộc Sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa (9è DIC) và một đơn vị cơ giới cỡ trung đoàn. Chúng sẽ phải rải lực lượng ra nhiều nơi. Dù có thu vén được đủ 15.000 quân thì lực lượng của chúng cũng rất phân tán. Rõ ràng là chúng đứng trước một mâu thuẫn không tránh khỏi, càng tham rải quân ra nhiều nơi thì binh lực lại càng phân tán, dàn mỏng. Cần bám sát binh lực thực tế của chúng trên từng địa bàn, hệ thống chỉ huy và cách bố trí trú quân của chúng, việc chuyển quân thường xuyên và bất thường, v.v. Cần lên danh sách những Pháp kiều và bọn tay sai có khả năng lén lút hoạt động tiếp tay cho Pháp. Tin tức cho biết: Chính phủ Pháp đã sớm phê chuẩn Hiệp định 6-3, nhưng thế lực phản động Pháp ở Pari và Sài Gòn đang phản đối rất dữ việc ký bản hiệp định này, trong đó đáng chú ý là Đô đốc Cao ủy Đácgiăngliơ và cả tướng Đờ Gôn, dù ông này đã rời ghế Tổng thống kiêm Thủ tướng từ đầu năm. Điều đó cho thấy việc thi hành hiệp định sẽ gặp không ít khó khăn.

Anh Hoàng Minh Đạo báo cáo thêm về trụ sở. Phòng 2 mới từ 67 Bà Triệu chuyển về 36 Lý Thường Kiệt, nhưng trụ sở hiện nay không tiện vì có gia đình một cán bộ trung ương cùng ở. Các anh dự kiến sẽ chuyển đến số 9 Hai Bà Trưng. Anh Thái chấp thuận và nhắc thêm nên đề nghị bác Thúy cố thu xếp một máy điện thoại liên lạc trực tiếp từ Hai Bà Trưng về Nguyễn Du để kịp thời báo cáo tình hình. Thực tế vừa qua cho thấy, sự kiện quân đội Tưởng bắn vào tàu Pháp (khi quân đội Pháp tiến vào sông Cấm sáng 6-3) đã không được báo cáo kịp thời, mặc dù Phòng 2 đã nắm được tin của tình báo Hải Phòng khá sớm. Nguyên nhân một phần vì thiếu máy liên lạc trực tiếp về Nguyễn Du.

Anh Nguyễn Văn Nấp mới về phụ trách Phòng Tác chiến đã được cử đi Tây Bắc giải quyết việc quân Pháp xin được tiến quân theo đường số 6 về Hà Nội. Họp bàn công việc với Tổng Tham mưu trưởng là hai đồng chí Phó phòng Mai Hữu Thao và Đỗ Xuân Sảng. Một thời gian sau ngày về Bộ Tổng tham mưu từ hồi cơ quan mới thành lập, anh Thao đã được giao nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ cán bộ Tổ đồ bản những hiểu biết cần thiết về bản đồ quân sự(1).

Làm việc với Phòng Tác chiến hôm nay, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng không trở lại diễn biến của chiến trường sáu tháng qua. Anh đã có trong tay một bản báo cáo tổng hợp. Điều mà Tổng Tham mưu trưởng cùng các anh Thao và Sảng trao đổi ý kiến hôm nay là tình hình mới nhất ở miền Bắc vào thời điểm quân Pháp sắp ra thay thế quân Tưởng.

Bọn tay sai của Tưởng ở Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái vẫn bị quân ta bao vây trong các thị xã. Toán nào nống ra ngoài là bị tiêu diệt. Bọn Việt quốc từ Thanh Hóa vào Vinh lén lút trong các trụ sở bí mật đều bị tóm gọn… Lực lượng phản động ở một số nơi khác (như Đại Việt và Việt quốc ở Chiêm Hóa - Tuyên Quang, Nga Mi - Hòa Bình, Di Linh - Thanh Hóa), các ổ phỉ ở Hà Quảng, Trùng Khánh - Cao Bằng, Pò Mã - Lạng Sơn, đều đã bị tiêu diệt.

Từ giữa tháng 2, quân ta đã chiến đấu ngăn chặn quân Pháp từ Hoa Nam về vùng Luân Châu, Tuần Giáo. Địch không tiến được về Sơn La, mặc dù lúc này lực lượng của chúng ở Tây Bắc đã lên tới 3.000 tên. Các tướng lĩnh Pháp buộc phải thương lượng để quân Pháp được phép tiến về miền xuôi. Theo chỉ thị của trên, Trưởng phòng Tác chiến Nguyễn Văn Nấp đã lên tây Bắc, nhân danh Bộ Tổng tham mưu, giải quyết việc này. Số quân Pháp trên đây là một bộ phận của 15.000 quân được đưa về miền Bắc theo Hiệp định 6-3.

Tình hình hướng tây Khu 4 có khác. Ngay từ hồi tháng 9, tháng 10, tức chỉ một tháng sau Tổng khởi nghĩa, quân Pháp âm mưu vượt bên giới trên các trục đường 7, 8 và 12 hòng vào phía tây Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Chúng đã bị chặn lại và chiến sự đang diễn ra ở Mường Xén (đường 7), Napê (đường 8) và Banaphào (đường 12). Ta không đủ sức tiêu diệt các vị trí địch và địch cũng không vượt qua được các chốt của ta để sang bên này biên giới.

Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị Phòng Tác chiến hướng dẫn các đơn vị ở vùng Đông Bắc sẵn sàng đối phó với bọn Pháp đổ bộ lên vùng Quảng Yên, Hải Ninh nếu chưa được sự nhất trí của hai bên hoặc chúng vi phạm những điều hai bên đã thỏa thuận.


(1) Anh Thao, cùng với các anh Phạm Thanh Hà, Lê Văn Túc, Nguyễn Hữu Ngân, là những người đầu tiên đặt nền móng cho ngành bản đồ quân sự Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2012, 08:36:46 am »

Chừng cuối trung tuần tháng 3, quân Pháp sẽ từ Hải Phòng tiến lên Hà Nội, rồi tỏa đi các nơi xung yếu, trước hết là các thành phố lớn và dọc các trục giao thông chiến lược. Khi đó, có thể đã có, cũng có thể chưa có hiệp định quân sự quy định cụ thể việc đóng quân của Pháp. Phòng Tác chiến cần liên hệ với Phòng Tình báo và sơ đồ các khu vực đóng quân của chúng, chung cả miền Bắc và riêng ở các thành phố lớn và các thị xã quan trọng, nhất là các thị xã biên giới. Từ các sơ đồ đó, sẽ rút ra kết luận về thế bố trí xen kẽ giữa ta và địch(1). Từ tình hình tổng quát đó, kế hoạch tác chiến chung và trên từng địa bàn nên chú ý vấn đề gì? Cần dự kiến địch sẽ tăng viện, ít có khả năng lớn, nhưng nhỏ giọt từng bước. Phòng Tác chiến cùng Phòng Tình báo tìm hiểu trang bị của quân Pháp, nhất là những trang bị lớn để có phương hướng nghiên cứu biện pháp tác chiến phù hợp, có thể vận dụng nếu nổ ra chiến sự. Cần bàn với các đồng chí Tòng và Ngân ở bộ phận đồ bản sưu tầm và sao vẽ thêm bản đồ tỷ lệ 1/100.000, 1/25.000 và cả bản đồ đường sá 1/400.000. Việc này cần được tiến hành khẩn trương, trước hết là bản đồ vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Hồi đó, tất cả các phòng đều chưa nhận thức đầy đủ về vị trí trung tâm hợp đồng là cơ quan tác chiến trong Bộ Tổng tham mưu. Như sau này, anh Thao và các anh trong Phòng Tác chiến nhớ lại, trong cuộc họp với phòng sau khi có hiệp định, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng đã nói lên vị trí trung tâm đó. Đại ý đồng chí nói:

- Trước tình hình mới, Phòng Tác chiến nên chủ động trao đổi ý kiến với các phòng ban, đề xuất những vấn đề cùng nhau nghiên cứu giải quyết, tạo nên sự hợp đồng nhịp nhàng thường xuyên mà không cần phải đợi đến những cuộc họp chung, như vậy mới kịp thời đáp ứng tình hình nhiều khi rất khẩn trương.

Từ cuối năm 1945, toàn quốc đã dần dần chia thành các chiến khu, lần lượt được hình thành từ Bắc vào Nam. Phòng Thông tin liên lạc đã có nhiều cố gắng mới tạm đủ người, đủ máy để các địa phương, nhất là từ Khu 4 trở ra, bảo đảm liên lạc được về Bộ bằng ba phương tiện: vô tuyến, điện thoại và liên lạc chạy đường bộ. Đến đầu năm 1946, điện thoại vẫn phải qua hệ thống đường dây bưu điện. Tình hình mới đòi hỏi thông tin liên lạc cần vươn sâu hơn xuống các địa phương, nhất là các trung đoàn ở những vị trí xung yếu.

Làm việc với Tổng Tham mưu trưởng, bác Hoàng Đạo Thúy báo cáo rằng sau khi thành lập Khu 5 và Khu 6 (cả Nam Trung Bộ và Tây Nguyên), Phân phòng Thông tin liên lạc của Ủy ban kháng chiến miền Nam giải tán để mỗi khu có khoa thông tin, với tổ vô tuyến, tổ điện thoại và đội liên lạc. Khu 5 được giao nhiệm vụ thành lập một trạm giữa (trạm trung chuyển), bảo đảm chắc chắn đường liên lạc vô tuyến Bắc - Nam). Điện thoại dọc đường xe lửa đã được ngành bưu điện hợp lực củng cố. Một đội liên lạc chạy bộ hàng trăm người, do Ủy ban kháng chiến Nam Trung Bộ trực tiếp chỉ đạo, phụ trách chuyển tiếp trên chặng đường từ Thừa Thiên đến Bà Rịa, bảo đảm trục liên lạc đường bộ từ miền Trung vào Nam Bộ.

Tổng Tham mưu trưởng bàn với bác Thúy về việc nghiên cứu thành lập ở miền Bắc, trước hết là Khu 4 trở ra, một đội “liên lạc đặc biệt” có mang thẻ bài “hỏa tốc” để đáp ứng yêu cầu chuyển mệnh lệnh khẩn đến các chiến khu, đề phòng đường điện thoại gặp khó khăn vì còn phụ thuộc vào bưu điện trong khi máy vô tuyến quá cũ dễ bị trục trặc. Để đảm bảo liên lạc giữa Trung ương với các phái đoàn đàm phán, giữa anh Lê Thiết Hùng - chỉ huy Quân tiếp phòng Việt Nam - với các đơn vị tiếp phòng ở các địa phương, cần lập thêm các bảng mật mã riêng, cùng với nhân viên mật mã đi theo các máy. Việc này cần được thảo luận thêm với bộ phận mật mã. Các anh Hoàng Đồng và Hồ Tôn Vinh được chỉ định thay anh Tạ Quang Đệ phụ trách Ban Mật mã, anh Đồng về chuyên môn, anh Vinh về chính trị. Anh Đạm chuẩn bị bàn giao để tham gia Ủy ban liên kiểm, hướng dẫn quân Pháp vào tiếp phòng quân Tưởng ở Đà Nẵng.

Trong buổi làm việc đó, anh Thái cho biết: theo thông báo của trên, việc bác Thúy sắp rời Bộ Tổng tham mưu đã trở thành sự thật. Việc đào tạo cán bộ quân sự là một trong những công việc rất cấp bách trong lúc này. Trường cán bộ Việt Nam đã mở nhiều khóa bổ túc ngắn ngày. Cả khu và trung đoàn đều có trường quân chính. Nhưng trước yêu cầu của tình hình, trên thấy cần mở trường võ bị, đào tạo cán bộ trung đội, đại đội có trình độ cao hơn, toàn diện hơn. Trên đã chỉ định bác Hoàng Đạo Thúy và anh Trần Tử Bình phụ trách trường này, ngay từ khóa đầu, dự kiến khai giảng vào tháng 4 hay tháng 5 tới, khi mọi việc đã chuẩn bị xong. Công việc Phòng Thông tin liên lạc giao lại cho các anh Nguyễn Văn Tình và Vũ Hán Thăng.

Bác Thúy hỏi:

- Sao các anh không để tôi tiếp tục làm thông tin? Tôi thấy công việc này rất hợp với tôi.

- Đành thế, bác Thúy ạ, anh Thái trả lòi. Nhưng tổ chức một trường võ bị là một công việc lớn, vừa quan trọng vừa cấp bách. Công việc thông tin đã có người thay bác quán xuyến, chứ việc chỉ đạo một trường quân sự chính quy rất cần một người hiểu biết về thanh niên và có kiến thức về sự phạm như bác. Anh Phan Phác ở Cục Quân huấn bên Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu đề án tổ chức trường để đề đạt lên trên. Khi nào tiện, đề nghị bác gặp anh Phác và anh Bình để trao đổi ý kiến, coi như đã chính thức được thông báo về nhiệm vụ mới…

Tổng Tham mưu trưởng còn nói thêm một công việc khác của ngành thông tin quân sự. Đó là việc chuẩn bị người, sẵn sàng cùng phái đoàn của Chính phủ lên nghiên cứu, chuẩn bị căn cứ, đề phòng trường hợp nổ ra chiến tranh. Việt Bắc sẽ là trung tâm lãnh đạo kháng chiến của cả nước…

Bác Thúy không hỏi gì thêm về việc thay đổi công tác. Sau này kể lại, bác nói:

- Mình nghĩ không nên và không thể từ chối, vì Đoàn thể đã giao việc thì chắc là cần…

Một suy nghĩ nhẹ nhàng của một người gương mẫu về tinh thần phục tùng sự phân công của tổ chức. Suy nghĩ ấy hướng bác Thúy vào cả hai việc trước mắt hàng loạt công tác mà Phòng Thông tin sắp triển khai gấp và tiếp đến là công việc cần dự kiến đối với trường võ bị. Điều bác Thúy quan tâm là làm sao cho các anh Tình và Thăng không bỡ ngỡ, thông tin vẫn bảo đảm thông suốt trước tình hình có thể trở nên phức tạp trong quá trình thực hiện Hiệp định sơ bộ 6-3.


(1) “ta” ở đây là bao gồm cả 10.000 Vệ quốc đoàn nhân danh quân tiếp phòng Việt Nam và bộ đội Vệ quốc đoàn (không phải là quân tiếp phòng).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2012, 08:37:13 am »

III

Ba ngày sau khi bản hiệp định về quân sự được ký kết giữa ta và Pháp, anh Văn đến thăm cơ quan vào một chiều cuối tuần. Anh đến không thông báo trước, đúng vào lúc Tổng Tham mưu trưởng và các cán bộ phụ trách đang trao đổi tình hình trong tuần. Vừa bắt tay mọi người, anh vui vẻ nói:

- Mình đến thăm để xem tham mưu sẵn sàng chiến đấu đến đâu rồi…

Cán bộ chủ chốt trong cơ quan tham mưu đều biết rằng trong tháng qua anh rất bận, trong đó có những cuộc tiếp xúc rất găng với các tướng lĩnh Pháp. Đến nay, thêm một hiệp định quân sự đã được hai bên ký kết để thi hành các điều khoản về quân sự của Hiệp định sơ bộ.

Sau khi nghe báo cáo những việc đã làm và những dự kiến công tác sắp tới, anh Văn nói tóm tắt để mọi người nắm được những vấn đề mấu chốt về tình hình một tháng qua kể từ ngày ký Hiệp định sơ bộ và những nội dung mà tham mưu cần nắm vững trong bản hiệp định quân sự vừa được ký kết. Sau khi nghe báo cáo rằng nhiều anh em đã đi dự cuộc mít tinh chiều ngày 7-3 ở Nhà hát lớn thành phố và được nghe anh Thái nói về cuộc gặp gỡ của Bác Hồ với cán bộ tự vệ thành, mới đây lại được nghiên cứu Chỉ thị ngày 9-3 của Thường vụ Trung ương (Chỉ thị Hòa để tiến), anh Văn tỏ ra hài lòng:

- Đúng, phải nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng thế thì hành động mới đúng đắn, kịp thời…

Sau đó anh Văn nói rõ thêm về tình hình.

Chúng ta cần nhận thức vì sao Pháp phải ký hiệp định, vì sao trước mắt Pháp phải tìm một giải pháp mới với chúng ta. Nhưng mặt khác, cần kể đế những khó khăn của bản thân chủ nghĩa đế quốc Pháp, cả ở trên đất Pháp, cả ở Đông Dương và trên những vùng còn bị coi là “thuộc địa” của chúng. Tuy đứng trước không ít khó khăn, Pháp vẫn chưa chịu công nhận nền độc lập của ta. Trong Chỉ thị ngày 25-11-1945 (Chỉ thị Kháng chiến - kiến quốc) thường vụ Trung ương đã xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Nay Hiệp định sơ bộ đã ra đời, về sách lược, chúng ta xác định kẻ thù cụ thể lúc này cần chĩa mũi nhọn vào là bọn phản động Pháp. Chúng đang phá hoại sự thống nhất của Việt Nam, ngăn cản cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn của nhân dân ta, ngăn cản việc thi hành Hiệp định sơ bộ. Vì vậy, trên mặt trận quân sự, ta càng phải giữ vững và bồi dưỡng lực lượng, sẵn sàng đề phòng mọi bất trắc. Những việc đã làm và sắp làm của tham mưu như vậy là đúng hướng và cần đề phòng một cách thiết thực khả năng thực dân Pháp bội ước. Thực tế một tháng qua chứng tỏ dự kiến của Đoàn thể là đúng đắn. Tổng hợp tình hình một tháng qua, chúng ta thấy gì? Trước hết, thái độ của Pari thế nào? Ngày 9-3, Phêlích Goanh (Félix Gouin, một thủ tướng đảng viên Đảng Xã hội mới lên thay Đờ Gôn từ đầu năm 1946 - T.G) đã thay mặt Chính phủ Pháp phê chuẩn Hiệp định sơ bộ, nhưng chỉ 5 ngày sau, Mariuyt Mutê (Marius Moutet - Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, cũng là đảng viên Đảng Xã hội - T.G) đã lộ rõ ý đồ tiếp tục tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. Điều đó cho thấy, chúng ta không nên trông chờ gì ở những người gọi là đảng viên Đảng Xã hội đang nắm giữ quyền hành ở Pari. Còn ở Việt Nam thì sao? Quân Pháp vội vã đổ quân lên Hải Phòng ngày 7, một ngày sau khi ký Hiệp định sơ bộ. Phía Pháp thúc bách Tưởng ký hiệp định quân sự Trùng Khánh ngày 13, rồi vội vã đưa quân lên Hà Nội ngày 18. Nhiều người đại diện của Pháp ở đây, từ Lơcle đến Xanhtơny luôn nói đến hợp tác thân thiện (Philíp Lơcle - lúc này là đại diện chính trị của Pari ở Hà Nội - T.G). Tờ báo Pháp xuất bản ở đây cũng lấy tên là Hòa hợp (Entente), nhưng trên thực tế hoạt động của quân đội Pháp thế nào? Cuộc thảo luận về thể thức thực hiện đình chiến tại Nam Bộ diễn ra rất găng trong nhiều phiên họp. Ta đòi cử Ủy ban đình chiến vào Nam bộ để thi hành điều khoản III của Hiệp định sơ bộ, nhưng phía Pháp viện lý do để lần tránh. Cuộc thảo luận do đó không đạt được kết quả. Ở Nam Bộ, máy bay Pháp rải truyền đơn đòi quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí. Quân Pháp đánh úp nhiều vị trí của ta ở trong Nam. Tiếng súng tiếp tục nổ ở Nam Bộ. Trong các lần gặp gỡ, ta đã kịch liệt phản kháng những cuộc tiến công trái phép đó của quân đội Pháp. Còn ở ngoài Bắc, vừa đổ bộ lên Hải Phòng, chúng đã tự ý di chuyển quân đội mà không được sự thỏa thuận của ta. Ở Hà Nội, chỉ 10 ngày sau khi quân lên đây, đã xảy ra vụ chiếm Sở Tài chính của ta. Phía Pháp chỉ trao trả khi vấp phải sự phản kháng kiên quyết, nhất là thái độ phẫn nộ bất hợp tác của nhân dân Thủ đô. Tất cả những sự kiện đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác trước lời nói và việc làm của Pháp.

Ra ngoài Bắc, trước thái độ của nhân dân từ chỗ lạnh nhạt đế chỗ quyết liệt, đã khiến tổng chỉ huy Pháp Lơcle không khỏi suy nghĩ.

Sau này nhiều người đều biết, trong hồi ký, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: một lần viên tướng Pháp này ngỏ ý muốn biết thái độ của dân chúng Việt Nam đối với người Pháp. Anh Văn hỏi lại y:

- Chúng ta đều là quân nhân, ông có muốn nghe nói thẳng không?

- D’accord (đồng ý), hắn đáp.

- Các ông miệng nói hòa bình, nhưng hành động của các ông thì lại giống như hành động của những kẻ đi xâm lược. Đó là dư luận của dân chúng Việt Nam đối với các ông…

Được biết thêm, trong buổi đầu tiên gặp viên tướng Pháp này ở Hải Phòng, hay ngày sau khi ký Hiệp định sơ bộ, anh Văn đã nói với y những điều cần nói. Nghe viên tướng Pháp này tự khen rằng mình là người yêu nước Pháp, anh Văn đã trả lời y thẳng thắn: Tôi nghĩ rằng, những người yêu nước chân chính thì bao giờ cũng biết tôn trọng lòng yêu nước của những người khác. Nghe đến đây, viên tướng viễn chinh nói lảng sang chuyện khác…

Từ buổi gặp gỡ đầu tiên, tiếp đó đến khi bản Hiệp định quân sự tạm thời được ký kết, phải trải qua gần một tháng. Báo chí đã đăng nội dung hiệp định, nói lên sự thỏa thuận giữa hai bên về số lượng, loại quân và địa điểm đóng quân của hai lực lượng tiếp phòng Việt - Pháp…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2012, 08:37:39 am »

Sau khi chính thức thông báo nội dung Hiệp định quân sự ngày 3-4 vừa qua, anh Văn nhấn mạnh để Bộ Tổng tham mưu cần chú ý những điểm gì đã được hai bên thỏa thuận trong hiệp định.

Một là, binh lính Pháp làm nhiệm vụ tiếp phòng phải là người Pháp. Những binh lính không phải là người Pháp chính cống chỉ được dùng vào việc canh gác tù binh Nhật. Cần chú ý điều này do ta đưa ra nhằm gạt bọn lê dương ra ngoài quân tiếp phòng.

Hai là, bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ tiếp phòng là một bộ phận của quân đội Việt Nam. Quân tiếp phòng Việt Nam có bộ tư lệnh của mình, trực tiếp nhận mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam và do Bộ Tổng tham mưu Việt Nam quản lý.

Ba là, phân biệt những nơi có quân đội hai bên cùng làm nhiệm vụ tiếp phòng quân Tưởng (như Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng…) với những nơi quân Pháp chỉ tiếp phòng quân Tưởng về danh nghĩa rồi trao trả lại cho quân tiếp phòng Việt Nam (như Phủ Lý, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Đồng Hới, Đông Hà…).

Bốn là, quân tiếp phòng Pháp chỉ đến đóng các vị trí ở biên giới (như Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu) sau khi hai bên đã thỏa thuận vào một thời gian thích hợp.

Năm là, kế hoạch di chuyển của các đơn vị tiếp phòng Việt Nam và Pháp phải do Bộ Tư lệnh tiếp phòng hai bên thảo luận và quyết định thống nhất. Kế hoạch này phải được trình Chính phủ Việt Nam ít nhất 48 giờ trước khi thi hành. Các xe nhà binh dùng vào việc tiếp tế cho quân tiếp phòng chỉ được đem theo nhiều nhất mỗi xe 4 người có vũ khí; tổng số số người mang vũ khí trong một đoàn xe không được quá con số 60.

Sáu là, một Ủy ban liên lạc và kiểm soát trung ương Việt - Pháp (Ban Liên kiểm trung ương) được thành lập ở Hà Nội để kiểm soát việc thi hành hiệp định. Nếu cần sẽ thành lập những ủy ban tương tự tại địa phương.

Với bản Hiệp định sơ bộ, Pháp đã hiểu rõ Việt Nam không còn là một thuộc địa của chúng. Pháp Pháp không thể muốn làm gì thì làm hòng duy trì các quyền lợi của chúng ở Đông Dương như trước đây. Nhưng chấp hành chủ trương của bọn phản động Pháp, Đô đốc Đácgiăngliơ (Thierry d’Argenlieu) sẽ tìm cách phá hoại việc thi hành Hiệp định, trước hết về vấn đề Nam Bộ (đòi đặt dưới chế độ tự trị, lập chính quyền tay sai, v.v.) và lấn dần ở miền Bắc. Tất cả đều nhằm đặt chúng ta tước những sự việc đã rồi. Bởi vậy, đi đôi với đấu tranh ngoại giao buộc phía Pháp phải nhanh chóng mở cuộc đàm phán chính thức, quân ta, trước hết là cơ quan tham mưu và bộ đội ở những nơi đóng quân xen kẽ với Pháp, phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Hãy luôn nhớ lời dạy của Bác Hồ khi Người gặp cán bộ tự vệ thành ngày 8-3 vừa qua.

Sau đó anh Văn nói về quân đội Tưởng và tay sai.

Phải sau một tuần Hiệp định sơ bộ được ký kết, Tưởng Giới Thạch mới thuận cho Pháp vào thay thế quân Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ tiếp phòng ở Bắc Đông Dương. Bản hiệp định được ký ngày 13-3 ở Trùng Khánh quy định quân Tưởng bắt đầu rút từ ngày 15 và kết thúc ngày 31-3-1946. Như vậy là về mặt pháp lý, quân Tưởng không còn có cớ gì tiếp tục ở lại. Mặt khác, với bản Hiệp định sơ bộ, tuy Tưởng chưa chịu công khai thừa nhận ta, nhưng chúng buộc phải coi ta là một nước có chủ quyền. Chúng không thể can thiệp vào công việc trị an của ta như trước ngày 6-3. Nhưng chúng ta phải đề phòng âm mưu của chúng muốn kéo dài thời gian có mặt ở miền Bắc nước ta đề vơ vét thêm về kinh tế trước khi buộc phải cuốn gói ra đi. Thái độ của chúng ta đối xử với bọn Tưởng lúc này cần hết sức khéo léo, lợi dụng mâu thuẫn tại chỗ giữa Pháp và Tưởng để đẩy quân Tưởng đi cho nhanh, đồng thời đòi Pháp phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều đã cam kết.

Nói đến Tưởng, phải nói đến bọn tay sai của chúng. Do sự khôn khéo của Bác, Vũ Hồng Khanh buộc phải ký vào bản Hiệp định sơ bộ, nhưng ngay sau đó, đi đôi với luận điệu xuyên tạc bản hiệp định, chúng tìm cách gây ra những vụ khiêu khích, tạo điều kiện cho thực dân Pháp kiếm cớ can thiệp hoặc xóa bỏ những điều đã ký kết. Mười ngày sau Hiệp định sơ bộ, cả Việt quốc và Việt cách đã buộc phải cùng ta ra bản Thông lệnh về việc thống nhất hành chính và thống nhất quân đội. Họ buộc phải hứa thành thật hợp tác, không công kích bắt bớ lẫn nhau, không dọa nạt dân, được tự do tuyên truyền trong vòng pháp luật và phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ. Nhưng thông lệnh vừa được công bố trên báo chí thì bọn chúng đã kéo ra đường phố, hò hét những khẩu hiệu phản đối và xuyên tạc hiệp định. Bọn tay sai của Tưởng sẵn sàng thay thầy đổi chủ, nhất là bọn thân Pháp trước đây. Chúng sẵn sàng tiếp tay cho Pháp tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền cách mạng.

Cần hiểu rằng với bản hiệp định ra đời, Việt quốc, Việt cách và các lực lượng tay sai khác của Tưởng rất hoang mang trước nguy cơ bị bỏ rơi khi quân Tưởng rút đi. Chúng ta phải nhân cơ hội đó tìm cách phân hóa chúng, lôi kéo những người lầm đường về với nhân dân. Khi cần thiết và thời cơ thuận lợi, cần kiên quyết trừng trị bọn cầm đầu, những tên có thể câu kết với Pháp, chống lại nhân dân.

Quân Pháp đã đến, quân Tưởng chưa rút. Trước mắt, trên miền Bắc và nhất là ở Hà Nội, quân đội ngoại quốc đông hơn nhiều so với hồi Cách mạng Tháng Tám. Nhưng với Hiệp định sơ bộ, tình hình lúc này đã khác. Sự có mặt của quân Pháp có thể làm cho tình hình găng hơn nhưng không khí lại dễ thở hơn hồi tháng 8, tháng 9-1945. Hồi đó, để tránh va chạm với quân Tưởng, quân đội ta tạm dãn ra vùng xung quanh các thành phố có quân Tưởng đóng. Nếu có đơn vị nào canh gác các công sở trong thành phố thì cũng được lệnh tạm rút lui vào trong hàng rào để tránh bị khiêu khích. Giờ đây, ngoài lực lượng tự vệ thành có mặt ở khắp nơi, từng đơn vị Vệ quốc đoàn với đầy đủ trang bị có thể hiên ngang đi trên đường phố. Ngoài các trạm gác của quân Tưởng, đã xuất hiện nhiều tram gác của bộ đội ta và những trạm hỗn hợp. Vệ quốc đoàn cùng gác với lính Pháp. Rõ ràng là tình hình đã khác với hồi quân Tưởng mới kéo vào. Cuộc duyệt binh chung giữa ta và Pháp sau khi quân Pháp vào Hà Nội cũng nói lên điều đó. Từ tình hình đã thay đổi trên đây, tham mưu cần chú ý một điều, quân Pháp và quân Tưởng trước mắt còn tạm thời cùng tồn tại, nhưng do mâu thuẫn giữa chúng với nhau, lại do hành động ngang ngược của quân đội Pháp vi phạm hiệp định, do âm mưu và thủ đoạn của bọn chống đối núp dưới bóng quân Tưởng để tiếp tục khiêu khích, cho nên những cuộc va chạm giữa ba lực lượng có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chúng ta phải kịp thời phát hiện và ngăn chặn, trên nguyên tắc bảo vệ hiệp định, bảo vệ chủ quyền, không để cả quân Pháp và quân Tưởng lợi dụng những cuộc va chạm mà mở rộng khiêu khích, gây thêm khó khăn cho công việc đấu tranh ngoại giao đang diễn ra.

Có nhiều dấu hiệu cho thấy các cuộc thương thuyết tiếp theo sẽ rất khó khăn, phức tạp; do thái độ ngoan cố của phía Pháp, nhất là của viên Đô đốc Đácgiăngliơ. Họ cố tình trì hoãn cuộc đàm phán chính thức trong khi chúng ta mong muốn cuộc đàm phán đó diễn ra càng sớm càng tốt, nhất là diễn ra ở Pari. Cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đácgiăngliơ hạ thuần tháng trước đã đi đến thỏa thuận mở cuộc đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Tham mưu cần chuẩn bị người và các văn kiện cần thiết cùng phương tiện thông tin liên lạc để phục vụ phái đoàn ta trong cuộc đàm phán trù bị này.

Anh em đặt ra những câu hỏi để được giải đáp về thái độ trong quan hệ với quân Pháp, mỗi khi xảy ra xung đột, va chạm. Anh Văn nhắc chung mọi người cần nắm vững nguyên tắc bảo vệ chủ quyền, bảo vệ Hiệp định sơ bộ và hiệp định tham mưu đã được ký kết. Nhưng trong thái độ và biện pháp, cần mềm mỏng, biết tự kiềm chế, phải chủ động, sáng suốt, không để bị lôi cuốn vào những mưu đồ khiêu khích của chúng, dù là Pháp, Tưởng hay bọn tay sai.

Trước khi ra về, anh cười vui, dặn anh em:

- Chúng ta cần đẩy nhanh quân Tưởng đi càng sớm càng tốt. Nhưng tham mưu là phải làm sao kiếm thêm được súng của chúng, càng nhiều càng tốt. Chúng đang tranh thủ bán trước khi rút đi. Việc này anh Thái cần gặp và xin ý kiến của anh Vũ Anh.
« Sửa lần cuối: 24 Tháng Chín, 2012, 10:43:24 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:43:00 am »

IV

Một số cán bộ tham mưu được cử đi tham gia công tác của Ủy ban Liên kiểm quân sự Việt - Pháp. Khoảng giữa tháng 4, trước ngày lên đường, anh em họp mặt tại trụ sở Bộ Tổng tham mưu. Cuộc họp do các đồng chí Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng, chủ trì. Cùng dự họp còn có các đồng chí Cao Xuân Hổ, Trưởng ban Liên kiểm trung ương của Việt Nam, Phan Mỹ, Tổng Thư ký và Phan Phác, sĩ quan liên lạc giữa hai bên Việt - Pháp. Ngoài mấy đồng chí hoạt động trong Ủy ban Liên kiểm trung ương ở Hà Nội, hầu hết các đồng chí khác đều được phân công về phụ trách Liên kiểm ở một số thành phố hoặc dẫn quân Pháp về tiếp phòng quân Tưởng ở những nơi không có quân tiếp phòng Việt Nam.

Điểm mặt các sĩ quan Liên kiểm có mặt trong cuộc họp này, cho thấy đúng là mỗi người mỗi vẻ. Nếu có những anh điềm đạm, ít nói, như Trần Văn Lư, Tạ Quang Đạm, thì cũng có những anh rất sôi nổi, như Trương Cao Phong, một người có tác phong khiến trong giao thiệp sau này, bọn sĩ quan Pháp rất “ớn”. Anh được giao nhiệm vụ ở một địa bàn đầu sóng ngọn gió: cảng Hải Phòng.

Mở đầu cuộc họp, anh Hoàng Hữu Nam nói về tình hình chung lúc này, về sách lược hòa hoãn với Pháp, về dự kiến hai khả năng thi hành Hiệp định sơ bộ. Anh Phan Mỹ giới thiệu những kinh nghiệm đầu tiên trong quan hệ với Pháp mà anh đã rút ra từ những cuộc gặp gỡ vừa qua ở Hải Phòng trong những ngày sau Hiệp định sơ bộ. Cuối cùng, anh nói:

- Thái độ của họ tùy thuộc vào việc tiếp xúc với đối tượng nào, về loại công việc nào. Họ thường nhấn mạnh “danh dự quân đội Pháp” để bào chữa cho những hành động ngang trái của mình. Có người tỏ ra mềm mỏng, cũng có người khá lỗ mãng, nhưng nhìn chung thái độ của họ là ngoan cố. Họ chỉ tỏ ra “biết điều” sau khi bị ta nắm trúng những chỗ yếu cơ bản của họ là những hành động mang tính chất xâm lược phi nghĩa lỗi thời.

Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái nói về tổ chức 10.000 quân tiếp phòng của ta. Người được Đoàn thể trao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng này là đồng chí Lê Văn Sửu, Khu trưởng Khu 4, mới được phong hàm thiếu tướng, tên công khai lúc này là Lê Thiết Hùng. Về hình thức tổ chức, quân tiếp phòng gồm hai đại đoàn: Đại đoàn 1 do Đại tá Lê Quảng Ba, Khu trưởng Khu Hà Nội chỉ huy, có nhiệm vụ tiếp phòng quân Tưởng từ Nam Định trở ra; Đại đoàn 2 do Đại tá Hoàng Điền, Khu phó Khu 4 chỉ huy - Trụ sở Cục Tổng chỉ huy quân tiếp phòng đặt ở 18 Nguyễn Du, bên cạnh Bộ Tổng tham mưu.

Về hoạt động của Ủy ban Liên kiểm, các sĩ quan Liên kiểm đều phải nắm vững một nhiệm vụ quan trọng là giúp trên nắm và đánh giá tình hình, phục vụ cho việc chỉ đạo, chỉ huy. Bởi vậy, mọi báo cáo đều phải gửi về Ban Liên kiểm trung ương, Cục Tổng chỉ huy quân tiếp phòng và Bộ Tổng tham mưu. Định kỳ hoặc bất thường, Tổng Tham mưu trưởng sẽ triệu tập những đồng chí hoạt động trên địa bàn nào đó về báo cáo và nhận thêm nhiệm vụ đột xuất, nhất là những nơi dễ trở nên sôi động, phức tạp. Trong quan hệ, cần vận dụng nguyên tắc mà trên đã chỉ thị: phải kiên quyết trong đấu tranh thi hành các điều khoản trong Hiệp định sơ bộ và Hiệp nhị tham mưu, nhưng lại cần có biện pháp mềm mỏng, biết tự kiềm chế, tránh để bị khiêu khích.

Sau cuộc họp dài chừng hai giờ, mọi người về nhận nhiệm vụ cụ thể của Ban Liên kiểm, khẩn trương chuẩn bị bước vào một cuộc đấu tranh mới, phức tạp và chưa mấy ai có kinh nghiệm.

Anh Thái mời anh Cao Phong ở lại để bàn thêm về tình hình Hải Phòng trong một tháng qua.

Anh Cao Phong cho biết, sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kiết, ngày 7-3, được sự thỏa thuận của quân Tưởng, quân Pháp vội vã đổ bộ, căng lều dọc bờ sông Cấm. Chúng mang toàn trang bị của quân Mỹ, từ xe bọc thép, đại bác đến quân trang. Đúng đây là Sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 9 (9è RIC), dưới quyền chỉ huy của tướng Vallluy (Etienne Valluy) cùng một trung đoàn xe bọc thép do viên Đại tá Mátxuy (Massu) chỉ huy.

Về lực lượng ta, từ hồi quân Tưởng vào, để tránh va chạm, bộ đội Vệ quốc đoàn được lệnh tạm giãn ra vùng xung quanh. Trong thành phố, chỉ còn lực lượng cảnh sát và tự vệ. Mỗi khu phố có chừng một trung đội đến một đại đội tự vệ, trang bị bằng súng mua hoặc lấy được của quân Nhật và quân Tưởng. Có những đơn vị được trang bị khá mạnh, như tự vệ Khu 7. Sáng ngày 6-3, trong cuộc xung đột của Pháp - Tưởng, kho vũ khí của quân Tưởng bị tàu Pháp bắn cháy, anh em tự vệ đã nhân lúc chúng nhốn nháo, kiếm thêm được khá nhiều súng. Ngoài tự vệ của thành, còn có lực lượng tự vệ của Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc. Nhiều đồng bào không đứng trong đội ngũ tự vệ cũng sắm súng, lựu đạn…

- Toàn thành có lực lượng tự vệ tập trung không? Tổng Tham mưu trưởng hỏi anh Cao Phong.

- Báo cáo, có một đại đội tự vệ chiến đấu chừng 200 người.

Anh Thái dặn anh Cao Phong quan hệ chặt chẽ với anh Nguyễn Nam, phụ trách tình báo của Hải Phòng, nắm chắc động tĩnh của địch, cả Pháp, Tưởng và tay sai, cả ở Hải Phòng, cả trên hai hướng Đồ Sơn, Kiến An và Núi Đèo, Quảng Yên.
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Mười, 2012, 07:15:33 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:43:41 am »

Sau khi các phái viên tham mưu - sĩ quan Liên kiểm lên đường, Tổng Tham mưu trưởng tập trung chỉ đạo các phòng đẩy mạnh hoạt động trước yêu cầu của tình hình mới.

Việc bổ túc và đào tạo cán bộ là một trong những công tác được Bộ Tổng tham mưu quan tâm hàng đầu, đúng như chỉ thị của trên.

Tháng 3-1946, Trường Bắc Sơn khai giảng. Đây là một lớp bổ túc quân sự - chính trị ngắn ngày, do Ban chỉ huy Khu 1 tổ chức theo kế hoạch và sự giúp đỡ trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu. Học sinh gồm những đảng viên và hội viên cứu quốc do đảng bộ địa phương cử đi.

Hai tháng sau, ngày 26-5-1946, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng tại Sơn Tây. Trường do Bộ Quốc phòng tổ chức theo Nghị định ngày 17-4-1946 của bộ trưởng Phan Anh, cơ quan lãnh đạo của trường gồm những cán bộ do Bộ Tổng tham mưu đề bạt và được Quân ủy Trung ương thông qua. Đây là trường chính quy đầu tiên đào tạo sĩ quan chỉ huy (cấp đại đội) của quân đội ta. Ban Giám đốc gồm các ông Hoàng Đạo Thúy và Trần Tử Bình. Ngoài những cán bộ quân sự của Quân giải phóng như Vương Thừa Vũ, Trương Văn Quyền (Vũ Lập), các giáo viên gồm một số sĩ quan của của quân đội Pháp và một số thanh niên đã tốt nghiệp Trường tiền tuyến ở Huế, tòng quân sau ngày Tổng khởi nghĩa. Trong quá trình học tập, trường được Bác Hồ rất quan tâm. Ngay hôm khai giảng, Bác đến thăm trường và tặng lá cờ thêu 6 chữ vàng trên nền đỏ: Trung với nước - Hiếu với dân. Bác nói với cán bộ và học sinh toàn trường: “Trung với nước - Hiếu với dân là một bổn phận thiêng kiêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta…”.

Từ đó, Trung với nước - Hiếu với dân trở thành bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội cách mạng Việt Nam.

Về nhiều mặt như tổ chức nhà trường, chế độ huấn luyện, nội dung huấn luyện… Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã đặt cơ sở đầu tiên cho một trường đào tạo cán bộ chính quy. Nhưng do lúc đó nhiều người chưa hình dung đầy đủ cách đánh trong một cuộc chiến tranh không cân sức, nhất là cách đánh du kích, cho nên lúc đầu chương trình gồm một số nội dung không phù hợp với trình độ của ta, không phù hợp với tình hình năm 1946, khi đất nước đang đứng trước yêu cầu sẵn sàng đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược. Sau khi đi dự Hội nghị Đà Lạt về, đồng chí Võ Nguyên Giáp lên thăm trường, phát hiện tình hình trên, đã góp ý kiến với Cục trưởng cục Quân huấn và ban lãnh đạo nhà trường. Theo anh Phan Phác kể lại, anh Văn đã nói:

- Việc đào tạo cán bộ trong lúc này càng phải thiết thực, nhằm đáp ứng yêu cầu của quân đội đang cùng toàn dân chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến trong cả nước. Các anh nên nghiên cứu bỏ bớt những nội dung chưa cần thiết lắm. Tình hình sẽ khẩn trương. Nếu cần, phải rút ngắn thời gian huấn luyện…

Nhờ những ý kiến chỉ đạo kịp thời đó, một số bài toán, lý, hóa, một số khoa mục như đi môtô, cưỡi ngựa… không còn để trong chương trình.

Cũng trong dịp này, tháng 6-1946, Ủy ban kháng chiến miền Nam mở Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi và mấy tháng sau, Bộ Tổng tham mưu mở liên tiếp 2 lớp bổ túc cho cán bộ trung sơ cấp ở Tông (Sơn Tây).

Nhờ biết coi trọng việc đào tạo và bổ túc cán bộ cơ sở trong suốt quá trình chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, ta đã có một đội ngũ cán bộ khá đông đảo, nhất là cán bộ cấp trung đội đến tiểu đoàn, để triển khai rộng rãi việc huấn luyện bộ đội và dìu dắt lực lượng vũ trang cấp địa phương. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chính đội ngũ cán bộ bước đầu trưởng thành ấy đã trở thành nòng cốt chỉ huy bộ đội chiến đấu trên các chiến trường trong cả nước.

Trong điều kiện quân đội ta mới là những đơn vị bộ binh trang bị còn rất thô sơ, Quân ủy Trung ương đã sớm nghĩ đến việc xây dựng những cơ sở đầu tiên của các đơn vị hỏa lực. Quán triệt tinh thần ấy, ngay từ đầu năm 1946, các đơn vị Vệ quốc đoàn và tự vệ Thủ đô đã nhận được lệnh triệu tập các cựu binh sĩ đã từng ở trong binh chủng pháo binh của Pháp trước đây, tập trung về Bộ để xây dựng khung chỉ huy pháo binh của quân đội quốc gia. Phương châm xây dựng pháo binh cách mạng vẫn là phương châm đã trở thành truyền thống của quân đội ta: Người trước - súng sau, từ nhỏ đến lớn. Một số “cựu pháo thủ” như các anh Phạm Văn Đôn, Doãn Tuế, v.v. được tập hợp lại, cùng một số cán bộ mới tốt nghiệp Trường quân chính Bắc Sơn, đã trở thành những người chỉ huy đầu tiên của binh chủng hỏa lực mặt đất. Đó là về người. Còn súng thì sao? Cần lui lại đôi chút về mặt lịch sử. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, tại Hà Nội, quân Pháp chỉ vẻn vẹn có mấy khẩu cao xạ 75mm đặt ở Láng, Xuân Tảo, Bạch Mai, Yên Phụ, mỗi nơi vài khẩu. Ngày Nhật đảo chính, quân Pháp vội vã vứt một khẩu xuống sông Hồng. Tự vệ Thành Hoàng Diệu đã bí mật xuống sông tháo rời ra và mang đi cất giấu. Số còn lại rơi vào tay quân Nhật. Khi quân Tưởng vào giải giáp, Nhật phải giao lại. Hiệp định sơ bộ được ký kết, bọn Pháp lăm le giành lại các pháo đài này sau khi Tưởng rút quân, nhưng Bộ Tổng tham mưu đã cùng Thành ủy và Ủy ban bảo vệ thành phố Hà Nội có kế hoạch đi trước chúng một bước quyết định. Khoảng trung tuần tháng 6, quân Tưởng vừa rút, tự vệ Hà Nội đã kịp thời vào chiếm các “pháo đài”, tháo các khẩu pháo ra rừng bộ phận và cất giấu đi. Riêng ở Xuân Tảo, quân Pháp đem xe cơ giới đến hòng gây sức ép. Theo kế hoạch đã định sẵn, nhân dân địa phương được huy động rất kịp thời ra vây quanh đoàn xe địch. Đúng lúc đó các sĩ quan Liên kiểm đến, cuộc đấu tranh kéo dài, cuối cùng quân Pháp cùng đoàn xe cơ giới phải rút lui.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:44:21 am »

Với mấy khẩu pháo đầu tiên, trên chấp nhận lời đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, cho tổ chức thành ba trung đội pháo, trực thuộc khu Hà Nội.

Ngày 29-6, thêm một sự kiện diễn ra trong lịch sử trưởng thành của Quân đội quốc gia Việt Nam. Binh chủng pháo binh cách mạng Việt Nam ra đời tại trại Vệ quốc đoàn trung ương, 40 Hàng bài, Hà Nội. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, đến dự lễ khai sinh đơn vị hỏa lực mặt đất đầu tiên của quân đội. Sau khi đọc quyết định tổ chức Đoàn pháo binh Thủ đô, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng nói chuyện với các cán bộ và chiến sĩ pháo thủ. Đồng chí khẳng định:

Tuy pháo cũ, đạn ít, khí tài trang bị còn thiếu thốn, lực lượng chưa nhiều, cán bộ, chiến sĩ còn rất mới mẻ, nhưng cũng như Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân trước đây, tiền đồ của pháo binh ta rất vẻ vang và rộng lớn…

Trông những chiến sĩ pháo thủ giản dị trong quân phục “soóc” vàng nhạt, đứng trang nghiêm trong hàng ngũ hôm nay, liệu có mấy ai nghĩ rằng chỉ chưa đầy nửa năm sau, những khẩu pháo cũ kỹ dưới sự điều khiển của các anh sẽ nổ những trái phá đầu tiên vào các mục tiêu ở trung tâm Thủ đô Hà Nội. Các anh chính là những người bắn pháo lệnh mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc. Rồi một năm sau nữa, những khẩu pháo cũ kỹ ấy lại theo các anh lập chiến công vang dội, đưa những tên đất, tên sông, những Đoan Hùng, Bình Ca, những sông Lô, sông Gâm vào những trang lịch sử trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Chính các anh là những người đã chứng minh lời tiên đoán hôm nay của Tổng Tham mưu trưởng: tiền đồ binh chủng pháo binh thật vẻ vang và rộng lớn.

Từ mùa hè năm 1946, bộ đội chủ lực được thống nhất một bước quan trọng về mặt tổ chức. Sắc lệnh số 60 (6-5-1946) và số 71 (22-5-1946) là cơ sở thống nhất quân đội từ trung ương đến các đơn vị.

Ngày 6-5-146, Quân sự ủy viên hội (thường được gọi tắt là Quân ủy hội) ra đời, thay thế Kháng chiến ủy viên hội là cơ quan tối cao quân sự đặt thẳng dưới quyền điều khiển của Chính phủ và có nhiệm vụ điều khiển quân đội toàn quốc”. Sắc lệnh số 71 xác định: “Quân đội của nước Việt Nam là một quân đội quốc gia”, đồng thời quy định về tổ chức biên chế (thống nhất từ tiểu đội, trung đoàn, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn, sư đoàn, liên đoàn, tập đoàn) của bộ binh, tổ chức biên chế của các đơn vị chuyên môn và hỏa lực trợ chiến; quy định chế độ tuyển binh, cấp bậc, thăng giáng và thuyển chuyển; quy định về quân phong, quân kỷ (kỷ luật), thưởng phạt, nghi lễ quân đội.

Trong nhiều ngày suốt mùa hè, Tổng Tham mưu trưởng cùng các cán bộ phụ trách của phòng Nhân sự, Quân nhu - Kế toán, Tác chiến luôn làm việc với các Cục Chế tạo, Quân nhu, Quân huấn bên Bộ Quốc phòng. Các buổi làm việc không chỉ nhằm thực hiện các sắc lệnh 60 và 71 về mặt tổ chức biên chế mà còn các vấn đề và trang bị và huấn luyện bộ đội. Nhiều cuộc họp mở rộng đến cả các khu trưởng, thường là chỉ từ Khu 4 trở ra. Cùng với việc chỉ đạo đấu tranh với Pháp nhằm thi hành hiệp định, việc chỉ đạo thống nhất xây dựng quân đội về các mặt là một trong những công tác trung tâm hàng đầu của Bộ Tổng Tham mưu trong thời kỳ này.

Sau khi Chính phủ ban hành Sắc lệnh 71, ở các tỉnh từ Khu 4 trở ra, các chi đội dần dần được tổ chức thống nhất, thành 30 trung đoàn. Phiên hiệu các trung đoàn được Bộ Tổng tham mưu quy định thống nhất chính thức. Các chi đội từ Khu 5 trở vào, do tình hình chiến sự tiếp diễn ở nhiều địa phương, nên vẫn tạm thời để như cũ.

Về mặt trang bị, mặc dù các trường kỹ nghệ, các xưởng cơ khí của Pháp trước đây hầu hết được chuyển thành các xưởng quân giới, nhưng khó khăn nổi lên trong việc sản xuất vũ khí lúc này là vấn đề nguyên liệu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, nhân dân đã góp nhiều công sức và của cải vào việc trang bị cho quân đội quốc gia và lực lượng vũ trang địa phương. Nhân dân đã huy động cho các công binh xưởng mọi nguyên liệu có thể thu thập được, từ sắt thép vụn, đường ray, ống chì, ống gang đến đồ thờ bằng đồng. Chính nhờ sự giúp đỡ của nhân dân mà ngoài việc sửa chữa các loại súng trường, tiểu liên, pháo hư hỏng và sản xuất đạn, lựu đạn, ngành quân giới đã bắt đầu nghiên cứu và sản xuất một số vũ khí bấy giờ được coi là “tối tân” như tiểu liên, bom ba càng và bắt đầu nghiên cứu bazôca. Mặc dù chất lượng còn hạn chế nhưng khối lượng vũ khí sửa chữa và sản xuất trong năm 1946 đã nói lên tinh thần khắc phục khó khăn và sáng tạo của công nhân quân giới và các nhà trí thức yêu nước, mà Ngô Gia Khảm và Trần Đại Nghĩa là những con chim đầu đàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:44:50 am »

Việc chỉ đạo huấn luyện bộ đội do hai cơ quan (Quân huấn bên Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu bên Quân ủy hội) cùng phối hợp điều hành, cả về nội dung và phương thức chỉ đạo thực hiện. Dưới sự chỉ đạo chung của Tham mưu và Quân huấn, các địa phương và đơn vị tiến hành huấn luyện bộ đội theo điều kiện cụ thể của mình, nhất là tùy thuộc vào trình độ kinh nghiệm của các huấn luyện viên. Sau này nhớ lại, anh Phan Phác thừa nhận rằng do chưa có kinh nghiệm chỉ đạo nên chương trình và nội dung huấn luyện của nhiều đơn vị không đồng đều, phương hướng huấn luyện mỗi nơi một khác, nhưng nhìn chung là chưa biết hướng vào yêu cầu tác chiến phù hợp với cách đánh du kích. Tình trạng khá phổ biến là thiên về huấn luyện đội ngũ, thiên về tác chiến trận địa. Do công việc nhiều, trình độ có hạn, không biết phát hiện vấn đề kịp thời, nên tình trạng đó kéo dài. Thiếu sót này là khó tránh khỏi trong bối cảnh lúc đó, khi mà phần lớn cán bộ Cục Quân huấn xuất thân từ lớp sĩ quan dự bị (E.O.R.) của Pháp trong những năm 1939-1940. Cán bộ tham mưu cũng chưa có độ dày kinh nghiệm chỉ đạo huấn luyện, trong khi tình hình ngày càng khẩn trương, lại không biết khắc phục, tạo điều kiện tổ chức một cuộc họp chung với các quân khu, tỉnh để rút kinh nghiệm. Một lý do quan trọng mà sau này trong các cuộc tọa đàm, nhiều đồng chí cán bộ cũ của Bộ Tổng tham mưu còn nhắc đến, đó là về mặt tổ chức chỉ đạo huấn luyện của các cơ quan quân sự trung ương. Bộ Quốc phòng, cụ thể ở đây là Cục Quân huấn, không có quan hệ chỉ đạo các khu. Việc liên hệ giữa Bộ Tổng tham mưu (thuộc Quân ủy hội) với Cục Quân huấn (thuộc Bộ Quốc phòng) chỉ là liên hệ ngang về nghiệp vụ nên không kịp thời và chặt chẽ. Chính với bài học đó mà năm 1948 ta mới hợp lý hóa tổ chức. Cục Quân huấn trở thành một cục trong Bộ Tổng tham mưu phụ trách công tác huấn luyện chiến đấu dưới sự chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu.

Việc chỉ đạo huấn luyện lực lượng vũ trang địa phương lúc này cũng không tránh khỏi khuyết điểm như chỉ đạo huấn luyện bộ đội chủ lực. Mãi chừng một tháng trước ngày kháng chiến toàn quốc, khi Bộ Quốc phòng và Quân sự ủy viên hội đã thống nhất thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, Cục Quân huấn mới cử cán bộ xuống các đơn vị ở miền Bắc, nhất là vùng xung quanh Thủ đô và dọc đường 5, giúp đỡ đẩy mạnh nhịp độ huấn luyện du kích và tự vệ. Nhưng lúc này, tình hình đã rất khẩn trương. Lực lượng vũ trang bị thu hút vào công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc kháng chiến nên kết quả huấn luyện ở một số địa phương cũng hạn chế.

Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác huấn luyện và tăng cường trang bị cho bộ đội và dân quân du kích, tự vệ, yêu cầu nắm địch đặt ra ngày càng gay gắt. Mạng lưới tình báo đòi hỏi rất rộng nhưng số lượng cán bộ có hạn. 25 cán bộ tình báo sau khóa huấn luyện ngắn ngày đầu tiên đã được phân công về các tỉnh và thành phố, nay được điều chỉnh lại, nhằm ưu tiên cho những địa bàn có quân Pháp đóng, trước hết là hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng. Đồng chí Bùi Huy Bê đã dành hàng tháng đi hướng dẫn công tác nắm địch cho ban tình báo các tỉnh, từ Ninh Bình, Thanh Hóa đến Huế, Đà Nẵng và Quảng Ngãi…

Sau khi Khu 5 và Khu 6 thống nhất thành Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ, Khoa tình báo ra đời, do Phòng Tham mưu Ủy ban kháng chiến trực tiếp chỉ đạo. Công tác nắm địch từ Khu 7 trở vào do Bộ Chỉ huy Khu điều hành vì khu vực đó vẫn còn nằm ngoài tầm với của Phòng Tình báo Bộ Tổng tham mưu. Một đặc điểm mà cũng là ưu điểm của tổ chức và hoạt động tình báo Nam Bộ là mặc dù mang nhiều tên khác nhau (Ban Trinh sát, Ban Thám phòng…) nhưng mục tiêu hoạt động đều tập trung vào việc phục vụ cho chỉ đạo tác chiến và các mặt hoạt động quân sự khác. Từ mùa hè năm 1946, ở Sài Gòn - Chợ Lớn hình thành một tổ chức mang tên Ban Thông tin, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chỉ huy Khu 7. Đây là một tổ chức tình báo “luồn sâu” nắm địch đầu tiên ra đời ở Nam Bộ sau Hiệp định sơ bộ.

Trước yêu cầu nắm địch ngày càng khẩn trương, Phòng Tình báo Bộ Tổng tham mưu mở tiếp hai khóa bồi dưỡng cán bộ vào tháng 6 và tháng 9-1946. Khóa tháng 6 mở ở Hà Nội nhằm bổ túc cho một số cán bộ đầu ngành ở các tỉnh, thành. Khóa tháng 9, mở ở Sơn Tây, với số lượng đông tới 40 người, thời gian tương đối dài (3 tháng), bế mạc trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ ít ngày.

Mạng lưới thông tin mở rộng đòi hỏi thêm nhiều nhân viên mật mã đi theo các đài vô tuyến. Phòng Mật mã mở thêm một khóa đào tạo nhân viên kỹ thuật, khai giảng ở Hà Nội vào tháng 7-1946, với sự tham dự của 20 học viên từ Khu 5 trở ra. Sau hơn một tháng được bồi dưỡng những kiến thức về nguyên lý mật mã, phương pháp cơ bản về mật mã và mã thám, các học viên được điều về Ban Mật mã Bộ Tổng tham mưu và các khu, kể cả Khu 5 và Khu 6 để thực tập. Từ đó cho đến ngày toàn quốc kháng chiến, ngành mật mã hình thành trong cả nước và ngày càng đi sâu vào nghiệp vụ. Với tinh thần độc lập sáng tạo, mặc dù nhiều anh chị em mới vào nghề, nhưng lòng yêu nước, yêu nghề, đã giúp cho cán bộ nhân viên mật mã đi sâu vào nghiên cứu, không ngừng làm cho bảng mật mã được cải tiếng và nâng cao, bước đâu bảo đảm bí mật khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc.

Sau này bác Hoàng Đạo Thúy kể lại một câu chuyện xảy ra vào tháng 4-1946, một câu chuyện nói lên bài học chung về công tác mật mã, bài học về tôn trọng nguyên tắc bảo đảm bí mật chỉ huy.

Chẳng là một tổ thông tin và mật mã được cử đi phục vụ phái đoàn đàm phán của ta ở Đà Lạt. Tổ này do một cán bộ quân sự phụ trách, có nhiệm vụ định kỳ liên lạc với Hà Nội. Cho rằng bản mật mã của ta quá phức tạp, mã dịch mất nhiều thời gian, đồng chí cán bộ quân sự nọ đã tự tiện làm ra một bảng luật đơn sơ bằng hình thức thay chữ (chữ A thay bằng chữ B, chữ B thay bằng chữ C, v.v.). Kết quả là điện bị lộ. May mà đồng chí lãnh đạo phái đoàn phát hiện và ra lệnh chấm dứt ngay hành động tùy tiện đó. Lúc đầu, sự việc ít người biết, kể cả nhân viên mật mã, nhưng sau đó, theo lệnh của Tổng Tham mưu trưởng, việc này được đem ra rút kinh nghiệm làm bài học chung cho toàn ngành, bài học về bệnh ấu trĩ, về không coi trọng tính nguyên tắc. Hành động vô nguyên tắc, dù chỉ do một cá nhân, nhiều khi đem lại hậu quả tai hại không thể lường hết được. Vấn đề càng nghiêm trọng khi xảy ra vào thời điểm ta đang đối mặt với một kẻ thù có nhiều kinh nghiệm đến mức xảo quyệt để moi và tận dụng mọi sơ hở của đối phương nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh đang gay gắt diễn ra cả về quân sự và chính trị, trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:45:22 am »

CHƯƠNG III

TỪ THỜI BÌNH SANG THỜI CHIẾN

I

Những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa đồng chí Võ Nguyên Giáp và tướng Lơcle ngày 8-3 ở Hải Phòng, giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cao ủy Đácgiăngliơ ngày 24-3 ở Vịnh Hạ Lọng cũng như quá trình đàm phán để đi đến bản Hiệp định quân sự ngày 3-4-1946, tất cả cho thấy rất nhiều dấu hiệu thiếu thiện chí của phía Pháp.

Sau này ta được biết, chỉ vài ngày sau khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, tại Sài Gòn, những người đại diện của Pháp là Đô đốc - Cao ủy Đácgiăngliơ và Ủy viên Cộng hòa Pháp Xêđin (Cédile) đều nói lên những lời phủ định bản hiệp định. Ngày 8-3, khi Đácgiăngliơ từ Pháp trở lại Sài Gòn thì bản hiệp định đã được ký kết 3 ngày. Viên Cao ủy Pháp nói với tướng Valuy:

- Tôi ngạc nhiên, thực vậy tướng quân ạ, tôi ngạc nhiên là nước Pháp có đội quân viễn chinh tốt mã dường kia mà những người chỉ huy nó (ám chỉ tướng Lơcle) lại thích điều đình hơn là thích đánh.

Mấy ngày sau, trong cuộc họp của Hội đồng tư vấn Nam Kỳ, đến lượt Xêđin nói bừa rằng Hiệp định 6-3 chỉ là một bản hiệp định cục bộ được ký kết giữa nhà cầm quyền Hà Nội với Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Kỳ. Những người đại diện Pháp ở miền Nam còn công khai đòi các đơn vị Nam tiến của ta phải rút về miền Bắc, bộ đội Việt Nam ở Nam Bộ phải tập trung vũ khí nộp cho quân Pháp rồi trở về quê quán.

Đi đôi với những luận điệu ngang ngược đó là những hành động trắng trợ vi phạm hiêp định, nhất là về điều khoản ngừng bắn. Giữa tháng 4, cuộc đàm phán kéo dài 7 ngày giữa phái đoàn ông Hoàng Quốc Việt với đại biểu Pháp (họp ở Nha Trang để thực hiện các điều khoản về ngừng bắn) đã không đạt được kết quả. Tại một vài nơi ở Khu 6, bọn chỉ huy Pháp tìm bắt liên lạc với cán bộ ta, nói là để bàn việc đình chiến rồi bất ngờ đem quân đánh úp.

Vụ vi phạm điển hình đầu tiên của phía Pháp ở Hải Phòng xảy ra ngày 11-4, một tuần sau khi có Hiệp định quân sự Việt - Pháp. Theo báo cáo của các anh Trương Cao Phong (liên kiểm) và Nguyễn Nam (tình báo) gửi về Bộ Tổng tham mưu thì hôm đó quân Pháp ngang nhiên kéo đến chiếm nhiều ngôi nhà của một số cơ quan chính quyền trong thành phố. Mấy ngày sau, chúng lại kéo đến phá trụ sở Đảng Dân chủ đồng thời điều động thêm quân từ Hải Phòng lên Hà Nội mà không báo cho Ủy ban Liên kiểm biết. Cuối tháng 4, xảy ra cuộc tiến công bằng xe tăng, xe bọc thép vào các đơn vị và tự vệ của ta ở các phố Trần Hưng Đạo, phố Ga, đại lộ Hồ Chí Minh… Tự vệ Hải phòng kiên quyết đánh trả. Ty Liên kiểm ở Hải Phòng phải mất nhiều thời gian để buộc Pháp trở về vị trí cũ.

Trước hành động vi phạm của phía Pháp, ta chủ trương tiếp tục các cuộc đàm phán ở cấp cao càng sớm càng tốt, từ đàm phán trù bị ở Đà Lạt đến đàm phán chính thức ở Pari. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Thường vụ Trung ương và Bác Hồ giao nhiệm vụ lãnh đạo phái đoàn đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Phái đoàn này do Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Ngoai giao Chính phủ liên hiệp dẫn đầu.

Để chuẩn bị cho phái đoàn lên đường, trong những ngày đầu trung tuần tháng 4, hầu như hằng ngày Tổng Tham mưu trưởng cũng hội báo tình hình với Chủ tịch Quân sự ủy viên hội Võ Nguyên Giáp. Thế yếu của địch ở miền Nam ngày càng được anh Văn và anh Thái khẳng định qua thực tế diễn biến, nhất là ở Nam Bộ.

Sau khi Sư đoàn 9 và Trung đoàn cơ giới Matxuy ra Bắc, ở trong Nam chỉ còn Sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 3 (3è D.I.C). Lực lượng địch đã ít lại bị phân tán ra cả Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Bộ máy cai trị từ trên xuống dưới mới hình thành còn rất yếu. Mặc dù vậy, quân đội Pháp và chính quyền tay sai vẫn ngoan cố, không những không chịu thi hành những điều khoản về ngừng bắn mà còn liên tiếp vi phạm hiệp định một cách công khai, trắng trợn. Để củng cố và phát triển, đồng bào ta ở nhiều địa phương đã nổi dậy diệt tề trừ gian, bao vây tiêu diệt hoặc bức rút nhiều đồn bót địch, đánh sập từng mảng tề ngụy, lập lại chính quyền cách mạng. Chỉ trong vòng hơn một tháng sau Hiệp định sơ bộ, nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam đã thoát khỏi sự kiểm soát của địch. Nhiều đội vũ trang tuyên truyền được thành lập, luồn sâu vào vùng tạm chiếm để cổ vũ nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng vững trên vị trí chiến đấu. Được các đội vũ trang tuyên truyền bảo vệ, các cuộc míttinh, biểu tình rầm rộ diễn ra ở nhiều nơi có tác dụng động viên chính trị tinh thần nhân dân rất lớn. Chiến tranh du kích phát triển rộng rãi. Bốt Kênh Sáng (huyện Cái Bè), bốt Chợ huyện Cao Lãnh (Sa Đéc) bị du kích dùng mưu tiêu diệt. Với một khí thế mới, toàn miền Nam như sống trong bầu không khí mà bà con gọi là “khởi nghĩa lại”.

Trong khi phân tích tình hình, Chủ tịch Quân ủy hội và Tổng Tham mưu trưởng đặc biệt quan tâm đến phong trào trong đô thành Sài Gòn. Bằng nhiều hình thức, như míttinh, biểu tình, bãi công, đồng bào đấu tranh chống Pháp vi phạm hiệp định, vi phạm điều khoản về ngừng bắn. Giới trí thức yêu nước ở Sài Gòn dùng báo chí công khai vạch trần trò hề “đòi tự trị” của bọn tay sai do Pháp giật dây.

Nghe anh Thái báo cáo về trận đánh của đội biệt động vượt sông tiến công kho đạn Thị Nghè, phá hủy rất nhiều đạn dược của địch, anh Văn nêu một lời nhận xét:

- Bộ đội đã chọn đúng mục tiêu và thời cơ đánh cho chúng một đòn đau! Thấy Tổng Tham mưu trưởng như chưa hiểu hết ý mình định nói, anh Văn nói thêm:

- Theo đài Sài Gòn, ngày 8-4 phái đoàn đàm phán của Pháp do Mắc Ăngđrê (Max André) dẫn đầu vừa đặt chân đến Sài Gòn. Trận Thị Nghè diễn ra đúng vào ngày ấy, thật là một đòn cảnh cáo kịp thời…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2012, 10:46:13 am »

Mấy ngày trước khi lên đường đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, anh Văn đến bộ Tổng tham mưu, cùng anh Thái trao đổi và nhận định tổng hợp tình hình miền Nam suốt 40 ngày qua. Nghe báo cáo xong, anh Văn còn ngồi lại rất lâu để cùng Tổng Tham mưu trưởng trao đổi ý kiến về triển vọng diễn biến của tình hình, nhất là ở miền Nam, ở Nam Bộ. Anh nói về chủ trương của Xứ ủy nhân thời cơ thuận lợi sau hiệp định đẩy mạnh việc củng cố và phát triển lực lượng. Phương châm hoạt động do Xứ ủy đề ra (cả về tác chiến, diệt tề và củng cố chính quyền đều nhằm tạo nên thế mới, lực mới. Ngay trong thành phố Sài Gòn, Xứ ủy cũng đã kịp thời cử cán bộ vào để đẩy mạnh phong trào lên. Việc trừng trị tên Trần Tấn Phát ngày 29-3 là một đòn cảnh cáo đối với bọn cầm đầu cái chế độ “tự trị” do Pháp định nặn ra. Ở vùng nông thôn, đảng viên ở cơ sở, trải qua những tháng khó khăn, đã tự động liên lạc với nhau để bám quần chúng, giữ vững và phát triển cơ sở.

Về phía địch, các cuộc tiến công của chúng ở Bình Thuận, Ninh Thuận (Khu 6), Thiện Tân, Cây Đào (Khu 7), ở U Minh, Đồng Tháp và một số nơi ở Tây Nguyên chỉ ít ngày sau hiệp định, cho thấy rõ ràng địch không chịu thực hiện việc đình chiến. Chúng xúc tiến các cuộc tiến công lấn chiếm đi đôi với tăng cường khủng bố nhân dân, trong đó có những trận tiến công lớn (chừng 5.000 quân) ngày 15-3 vào một số nơi ở miền Đông Nam Bộ…

Trước khi chia tay, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói như tâm sự với người bạn chiến đấu một điều tâm đắc;

- Đúng là càng nghiên cứu kỹ tình hình, càng thấm thía lời dặn của Ông Cụ là bước vào Hội nghị Đà Lạt, cần đặt ngay vấn đề Nam Bộ và vấn đề đình chiến lên hàng đầu của chương trình nghị sự.

Tiễn anh Văn ra về, anh Thái báo cáo thêm là đã cho chuẩn bị xong máy, nhân viên kỹ thuật và bảng mật mã đi theo anh Phùng Thế Tài và anh Tuấn Kiệt phục vụ phái đoàn đàm phán, bảo đảm để phái đoàn thường trực thường xuyên nắm được tình hình mới nhất, cần thiết cho cuộc đấu tranh ngoại giao.

Này 16-4, phái đoàn lên đường vào Đà Lạt. Từ đó đến ngày hội nghị khai mạc và suốt 3 tuần diễn biến của hội nghị, tổ thông tin mật mã đi theo phái đoàn đã đảm bảo liên lạc thông suốt giữa phái đoàn với Hà Nội. Thiếu sót về nguyên tắc bảo đảm bí mật thông tin vừa nảy sinh đã sớm được uốn nắn và khắc phục. Nhiều tin mới và quan trọng đã được chuyển đến kip thời cho phái đoàn, nhất là tin tức về âm mưu lâu dài của địch. Phái đoàn đã nắm được và vạch trần trước phái đoàn Pháp bức điện của tướng Pháp Valuy chỉ thị cho cấp dưới về chuẩn bị tiến tới một màn đảo chính, lật đổ chính quyền của ta.

Ngay từ phiên họp đầu tiên của hội nghị trù bị, thực tế ngày càng chỉ rõ hội nghị không hứa hẹn triển vọng gì tốt đẹp. Qua những bức điện báo cáo của phái đoàn mà bộ phận thông tin - mật mã của Bộ Tổng tham mưu nhận được và chuyển lên Ban Thường vụ Trung ương, phía Pháp ngày càng lộ rõ thái độ ngoan cố trên hàng loạt vấn đề chủ yếu do phái đoàn ta đưa ra: vấn đề đình chiến, vấn đề Nam Bộ, vấn đề trưng cầu ý dân, vấn đề Liên bang Đông Dương, v.v.

Do thái độ ngoan cố của phía Pháp, Hội nghị trù bị Đà Lạt không đem lại kết quả. Ngày 12-4, phái đoàn ta trở về Hà Nội.

Mấy ngày sau, anh Văn đến thăm Bộ Tổng tham mưu. Nói chuyện với cán bộ phụ trách các phòng, anh phân tích vì sao lập trường hai bên không thể gặp nhau trên bất kỳ vấn đề chủ yếu nào. Anh cũng dẫn ra những việc làm trắng trợn của phía Pháp (như việc bắt ông Phạm Ngọc Thạch, một thành viên của phái đoàn vừa từ Nam Bộ đến Đà Lạt), dẫn ra lời nói ngạo mạn và ngoan cố của viên Trưởng phái đoàn Pháp, Mác Ăngđrê. Y nói:

- Với Việt Nam, người Pháp đã tỏ ra rất rộng rãi, Pháp nhượng bộ như thế là quá lắm rồi, không thể tiếp tục nhượng bộ mãi, không thể theo truyền thống Muyních…

Giá trị thực tế đối với ta là cuộc Hội nghị trù bị Đà Lạt đã cho ta thấy tim đen của giới phản động Pháp.

Trong cuộc gặp mặt hôm nay, anh Văn đã nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo thêm về hoạt động của đồng bào và chiến sĩ miền Nam, hậu thuẫn cho phái đoàn trong quá trình đàm phán. Điển hình là Mỹ Tho, từ bắc Cai Lậy, phong trào loang dần ra khá nhanh. Hoạt động của du kích và các đội vũ trang tuyên truyền ngay trong thị trấn Cái Bè đã gây tiếng vang lớn tới thị trấn Mỹ Tho, khiến bọn ngụy binh vô cùng sợ hãi. Hoạt động nổi lên của quân và dân Nam Bộ trong mấy tuần qua là các cuộc diệt tề trừ gian và phá hoại đường giao thông. Báo chí Sài Gòn đưa tin: Lộ 4 bị chặt nham nhở “như hàm răng cá sấu”…

Nghe đến đây, anh Văn nhắc ngay Phòng Tác chiến cần tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm phá hoại đường giao thông của quân dân miền Nam để vận dụng vào việc chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến cho các địa phương trong toàn quốc sau này.

Vấn đề chuẩn bị kháng chiến cần được đặt ra một cách khẩn trương tích cực trên cơ sở phân tích âm mưu cơ bản của thế lực phản động Pháp. Chúng những tưởng với việc phá hoại Hội nghị trù bị Đà Lạt, đã thực hiện được ý đồ cắt chiếc cầu liên lạc giữa hai bên để có thể lộng hành bằng những “việc đã rồi”, thực hiện được những toan tính của phái hữu ở Pari(1).


(1) Sau này, qua sách báo của phía bên kia, điều dự kiến đó đã được chứng minh là đúng đắn. Trước khi Hội nghị trù bị Đà Lạt bắt đầu, bọn phản động trong giới cầm quyền Pháp đã cho Mác Ăngđrê một chỉ thị mật nói rằng: “Phải đưa ra yêu sách đã được tính toán cân nhắc, làm sao cho những yêu sách đó trở thành không thể chấp nhận được đối với phía Việt Nam”. Ý đồ thâm độc của Pari là một khi hội nghị tan vỡ, Pháp có thể nói rằng, phía Việt Nam không nghiêm chỉnh đàm phán và sự tan vỡ của hội nghị là do phía đoàn Việt Nam gây ra và nếu có xảy ra xung đột, phần trách nhiệm không thuộc về phía Pháp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM