Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 12:34:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hoạt động chiến đấu của QC PK-KQ QĐND Việt Nam tháng 12 năm 1972  (Đọc 34177 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« vào lúc: 16 Tháng Tám, 2012, 01:44:44 am »

(nguồn: vko.ru)

Hoạt động chiến đấu của bộ đội Phòng không và Không quân Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tháng 12 năm 1972

Dưới sự chủ trì của Nguyên soái Liên bang Xô Viết BATITSKY P.F.

Nhà xuất bản Quân sự Bộ Quốc phòng
Huân chương Lao động Cờ Đỏ
MOSKVA, 1976

Công trình này được viết bởi một tập thể tác giả gồm thiếu tướng pháo binh Khiupenen A.I. (lãnh đạo), thiếu tướng không quân Bednenko D.K., đại tá Varyukhin S.A., phó tiến sỹ khoa học kỹ thuật, đại tá-kỹ sư Manukhin V.G., phó tiến sỹ khoa học quân sự, đại tá Fomin D.I., Đại tá Reminyi A.K.


© US AIR FORCE

MỤC LỤC
GIỚI THIỆU
Chương I. Đánh giá tổng quan ngắn gọn về tình hình chính trị-quân sự tại Việt Nam trong năm 1972
Chương II. Hoạt động tác chiến của không quân Mỹ

• Đặc điểm chung các hoạt động tác chiến của không quân
• Hoạt động tác chiến của không quân chiến lược
• Hoạt động tác chiến của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay
• Tổ chức tác chiến điện tử
• Hoạt động của không quân Mỹ đối với các sân bay của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
• Tổ chức và tiến hành trinh sát trên không
• Chỉ huy và thông tin liên lạc
• Tổ chức tìm kiếm cứu nạn

Chương III. Hoạt động chiến đấu của bộ đội phòng không và không quân Quân đội nhân dân Việt Nam
• Đặc điểm chung của Quân chủng Phòng không và Không quân QĐNDVN và hoạt động của họ nhằm đẩy lui các cuộc không kích của không quân Mỹ
• Tổ chức chỉ huy bộ đội Phòng không và Không quân
• Tổ chức hợp đồng chiến đấu
• Hoạt động chiến đấu của binh chủng tên lửa phòng không
• Vấn đề bắn máy bay không quân chiến lược
• Các đặc điểm xạ kích đối với các máy bay không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay
• Các đặc điểm của công tác chiến đấu trong môi trường nhiễu phức tạp
• Hoạt động tác chiến của không quân tiêm kích
• Ứng dụng tác chiến của binh chủng radar
• Đặc điểm công tác chiến đấu chống máy bay B-52 trong môi trường nhiễu
• Đặc điểm công tác chiến đấu chống mục tiêu bay thấp
• Bảo vệ các trạm radar tránh tên lửa chống bức xạ radar
• Công tác công binh công trình đảm bảo và công tác ngụy trang của bộ đội

Kết luận

GIỚI THIỆU

Việc lập lại hòa bình ở Việt Nam đã đi vào lịch sử như một mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương giành tự do và độc lập cho mình, là một thắng lợi lớn của tình đoàn kết chiến đấu giữa các nước xã hội chủ nghĩa và toàn thể nhân loại tiến bộ. Đóng vai trò đặc biệt trong chiến thắng này là sự giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô.

Năm 1972, năm trước khi chấm dứt chiến tranh đường không của Hoa Kỳ chống lại VNDCCH và rút quân khỏi khu vực Đông Nam Á, là một năm tăng cường cuộc đấu tranh vũ trang của các lực lượng yêu nước Đông Dương xét về một mặt, cũng là năm leo thang xâm lược của Hoa Kỳ - xét từ mặt khác. Hoa Kỳ, trong khi mở rộng cuộc xâm lược ở Việt Nam, vẫn tìm kiếm bất kỳ biện pháp nào nhằm duy trì chế độ bù nhìn Sài Gòn, và làm suy yếu tối đa các hoạt động đang mở rộng của các lực lượng yêu nước và mọi nguồn giúp đỡ cho họ. Để thực hiện các mục tiêu này, chính phủ Mỹ đã tập trung một lực lượng không quân và hải quân lớn và bắt đầu các đợt tấn công nhằm vào các mục tiêu của VNDCCH từ trên không, thả mìn phong tỏa các cảng của đất nước này và các vùng lãnh hải của họ.

Chiếm vị trí đặc biệt trong cuộc leo thang xâm lược của Mỹ là chiến dịch đường không được thực hiện trong tháng 12 năm 1972 dưới tên mã "Linebacker-2". Khi lập kế hoạch đó, Mỹ hy vọng sẽ phá vỡ ý chí của nhân dân Việt Nam và bắt ban lãnh đạo VNDCCH phải nhượng bộ khi ký kết thỏa thuận chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Công trình lao động này sẽ thảo luận về đặc điểm chung của chiến dịch, chiến thuật sử dụng tất cả các loại không quân của Mỹ và một số vấn đề riêng trong công tác đảm bảo tác chiến cho hoạt động của chúng. Trong đó còn tóm tắt kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội PKKQ Quân đội nhân dân Việt Nam chống lại đòn không kích ồ ạt của không quân Hoa Kỳ trong tháng 12 năm 1972. Cần nhấn mạnh rằng, hiện nay đó là ví dụ duy nhất của việc sử dụng trong thực tế binh chủng tên lửa phòng không và máy bay tiêm kích mang tên lửa chống lại không quân chiến lược. Phân tích kinh nghiệm này cho phép chúng ta hiểu được cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực của việc sử dụng trong chiến đấu các binh chủng TLPK và KQTK QĐNDVN, đánh giá được chất lượng của trang thiết bị quân sự của Liên Xô, và sử dụng kinh nghiệm này trong việc hoàn thiện công tác phòng thủ đường không bảo vệ đất nước chúng ta.

Công trình soi sáng các vấn đề đảm bảo hoạt động chiến đấu cho Quân chủng Phòng không Không quân QDNDVN: hoạt động chiến đấu của binh chủng radar, công tác đảm bảo cho bộ đội tên lửa các loại đạn chiến đấu, thiết bị kỹ thuật, ngụy trang trận địa và các sở chỉ huy các đơn vị phòng không và các loại đơn vị binh chủng. Để hiểu rõ hơn đặc điểm sử dụng trong chiến đấu các lực lượng và phương tiện tác chiến của bộ đội phòng không QDNDVN, sẽ mô tả hệ thống phòng không của nước Việt Nam Dân chủ.Cộng hoà, các đặc tính của các cụm TLPK, PPK và bộ đội radar, cũng như trình độ được huấn luyện sẵn sàng chiến đấu của bộ đội. Các tác giả tin rằng điều này sẽ cho phép người đọc đánh giá khách quan kết quả của các trận đánh của Quân chủng Phòng không Không quân QDNDVN chống lại Không quân Hoa Kỳ và đóng góp của họ vào chiến thắng những kẻ xâm lược Mỹ.

Hầu hết các tác giả công trình đều làm việc tại VNDCCH (với tư cách các chuyên gia quân sự tại Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không và Không quân QDNDVN) tại thời điểm diễn ra những sự kiện này và tham gia tích cực trong các sự kiện đó. Tuy nhiên, công trình được viết nên không chỉ từ vị trí của những người tham gia trực tiếp và là nhân chứng của những sự kiện, mà còn dựa trên sự nghiên cứu cẩn thận một loạt tài liệu; trước hết là số liệu của Bộ Tư lệnh QDNDVN, các tài liệu của Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, ở mức độ này hay mức độ kia, đặc tả quá trình và kết quả hành động chiến đấu của quân chủng Phòng không và Không quân QDNDVN, cũng như phân tích của báo chí nước ngoài về cuộc chiến tranh đường không của Mỹ chống lại VNDCCH.

Tập thể tác giả bày tỏ lòng biết ơn thiếu tướng pháo binh Babenko K.S., thiếu tướng không quân Fesenko M.I., đại tá Garnaev Yu.S., đại tá Aleshkin S.V. và toàn bộ tập thể các chuyên gia quân sự Liên Xô ở VNDCCH vì sự giúp đỡ các tài liệu thông tin và sự tham gia biên soạn dữ liệu về các hoạt động chiến đấu của Quân chủng Phòng không và Không quân QDNDVN trong các trận chiến đấu tháng 12 năm 1972.
...........
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2012, 05:27:15 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #1 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2012, 05:27:46 pm »

(tiếp)

CHƯƠNG I. TÓM TẮT TÌNH HÌNH QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ TẠI VIỆT NAM NĂM 1972

Ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của tình hình chính trị quân sự tại Việt Nam năm 1972 là các hoạt động do Hoa Kỳ tiến hành trong chương trình "Việt Nam hóa" chiến tranh. Chương trình này do Tổng thống Mỹ Nixon đưa ra năm 1969, là cơ sở hình thành chính sách chính trị - quân sự của Mỹ ở Đông Dương. Chính sách "Việt Nam hóa" chiến tranh áp dụng đối với Việt Nam dự kiến bao gồm một loạt các hoạt động theo đuổi mục tiêu chuyển gánh nặng chiến tranh tại Nam Việt Nam sang cho chế độ bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu.

Các hoạt động quân sự của Mỹ được định hướng phát triển tăng về số lượng và tăng thành phần chiến đấu của các lực lượng vũ trang của chế độ bù nhìn, chuyển đổi và nâng cấp bổ sung cho chúng các loại vũ khí và trang thiết bị quân sự hiện đại, nâng cao chất lượng chiến đấu và huấn luyện tác chiến. Kế hoạch thực hiện các biện pháp này được trù tính cho thời gian tương đối dài và được tiến hành theo ba giai đoạn.

Trong giai đoạn đầu tiên của "Việt Nam hóa" dự kiến tăng quân số các lực lượng vũ trang và tăng hiệu quả chiến đấu của quân đội bù nhìn Nam Việt Nam. Điều này định trước sự tăng trưởng đáng kể viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ cho Nam Việt Nam. Trong giai đoạn 1969-1972. Mỹ cung cấp cho Nam Việt Nam 574 máy bay cánh cố định, 863 máy bay trực thăng, 580 xe tăng, 1.200 dã  pháo, 60.000 xe ô tô quân sự, 10.000 súng cối và súng không giựt, 1800 xe bọc thép vận tải, 10 tàu chiến, 950 tàu thuyền và các thiết bị quân sự khác ("Cuộc xâm lược của Mỹ ở Đông Nam Á" (" Vietnamisation ") phần 6, Moskva, 1973). Chỉ tính viện trợ quân sự và kinh tế năm 1972 đã lên tới khoảng $ 2,5 tỷ.

Năm 1972, bắt đầu giai đoạn thứ hai các hoạt động quân sự của chương trình "Việt Nam hóa", với mục đích là để tạo điều kiện chuyển giao cho quân đội Sài Gòn tất cả các nhiệm vụ yểm trợ pháo binh và yểm trợ đường không và đảm bảo hậu cần cho các hoạt động chiến đấu. Trong trường hợp xảy ra tình hình căng thẳng đột biến tại Đông Dương và cần có những sự trợ giúp quân đội bù nhìn, quân độ mà theo đánh giá của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ còn chưa sử dụng hiệu quả các thiết bị quân sự được cung cấp cho chúng, Hoa Kỳ để lại ở Đông Nam Á một lực lượng đáng kể - khoảng 40-50000 người và một cụm không quân hùng mạnh (tại Thái Lan, Nam Việt Nam, Guam và không quân hải quân trên tàu sân bay trong vùng Vịnh Bắc Bộ).

Giai đoạn thứ ba được kết thúc bằng sự triển khai hoạt động cho các nhóm hỗ trợ quân sự và các nhóm cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Việc thực hiện trên thực tế các kế hoạch này được bộ chỉ huy quân đội Mỹ đặt ra phụ thuộc vào khả năng của quân đội Sài Gòn đối chọi lại các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam.

Các hoạt động chính trị thực hiện trong khuôn khổ của chương trình "Việt Nam hóa", theo đuổi mục tiêu: tạo ra một cơ cấu chính trị ở miền Nam Việt Nam, đảm bảo sự ổn định chính trị trong nước và tăng uy tín của chế độ Sài Gòn trên trường quốc tế. Để làm điều này, chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã thực hiện một số biện pháp thiết thực: ở miền Nam Việt Nam đã tiến hành bầu cử chính quyền ở trung ương và địa phương; giảm số lượng các nhóm và các đảng chính trị hợp pháp; tổ chức các chiến dịch chống cộng sản dưới các khẩu hiệu đấu tranh cho "đoàn kết dân tộc"; mở rộng và tăng cường quan hệ với các nhóm và tổ chức hợp pháp đứng về phía chế độ bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu.

Hoạt động kinh tế - xã hội theo chương trình "Việt Nam hóa" tiến hành với mục tiêu tạo ra một hậu phương bền vững và đáng tin cậy, có thể cung cấp cho chế độ Sài Gòn khả năng duy trì cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài với chi phí yểm trợ tối thiểu từ phía Hoa Kỳ. Trọng tâm chính giành sự tin tưởng và ủng hộ của dân cư vùng nông thôn, mở rộng khu vực kiểm soát bởi lực lượng chính phủ, làm mất khả năng đặt căn cứ của những người yêu nước, mất khả năng bổ sung bù đắp tổn thất về con người, nhận được thực phẩm và các sự giúp đỡ cần thiết khác trong các khu vực do lực lượng chính phủ kiểm soát.

Một loạt biện pháp kinh tế - xã hội mà người Mỹ gọi là chương trình "xoa dịu", mục tiêu cuối cùng của nó là thu hút về mình phần lớn dân cư nông thôn, trung hòa sự ủng hộ của nhân dân cho lực lượng vũ trang giải phóng, phá hoại tinh thần các lực lượng yêu nước ở nông thôn.

Khía cạnh quan trọng nhất của chương trình "Việt Nam hóa" là việc quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Nam Việt Nam. Vào đầu năm 1969 tổng quân số lực lượng Mỹ ở Nam Việt Nam lên tới 543.500 người, bao gồm lực lượng lục quân – 366 000, không quân – 60 000 và hải quân - 117.000 người. Đến cuối năm 1972 tổng quân số quân đội Mỹ tại đất nước này là hơn 21.000 người. ("Cuộc xâm lược của Mỹ ở Đông Nam Á" ("Vietnamisation) Phần 6., Moskva, 1973).

Xét đến tiến trình thực hiện chương trình "Việt Nam hóa" và tin rằng tình hình ở Việt Nam được sắp đặt có lợi cho các lực lượng yêu nước, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định tiến hành một chiến dịch tấn công lớn.

Công tác chuẩn bị cho chến dịch này bắt đầu vào năm 1971 và tới mùa xuân 1972 Bộ chỉ huy tối cao QGP MNVN về cơ bản đã hoàn thành tích lũy các lực lượng và phương tiện vật chất, thực hiện bố trí lại lực lượng, trang thiết bị quân sự, vũ khí và lương thực thực phẩm ở các tỉnh phía Nam của đất nước, xây dựng được các nguồn dự trữ cần thiết tại miền Nam Việt Nam.

Cuộc tấn công của những người yêu nước Việt Nam bắt đầu từ 30 tháng 3 năm 1972 trên ba hướng: phần phía bắc của Nam Việt Nam, trên cao nguyên miền Trung (khu vực thị xã Kon Tum) và trong  thung lũng sông Cửu Long (gần An Lộc). Lần đầu tiên lực lượng quân giải phóng từ bỏ chiến thuật của chiến tranh du kích và chuyển sang tiến hành các hoạt động trên một mặt trận rộng lớn với xe tăng, pháo binh và các trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại khác.

Trong những tháng tấn công đầu tiên, lực lượng yêu nước đã gây ra cho quân đội Sài Gòn những thất bại nghiêm trọng, phong tỏa các căn cứ quân sự chủ yếu, chia cắt các đường giao thông chính của kẻ thù và tiến về phía Sài Gòn.

Theo số liệu của Bộ chỉ huy tối cao QGP MNVN, chỉ trong 6 tháng chiến sự đã giết và bắt làm tù binh 32 nghìn 500 quân địch, phá hủy và chiếm giữ 2.050 máy bay cánh cố định và máy bay lên thẳng trên các sân bay, phá hủy và chiếm giữ 6.300 xe quân sự, 1.500 đại bác và súng cối của kẻ thù, cùng hàng chục ngàn tấn thiết bị quân sự. Hai triệu rưỡi người dân miền Nam Việt Nam được tự do và trở thành chủ nhân của các vùng giải phóng.

Cuộc tấn công của các lực lượng yêu nước miền Nam Việt Nam đã đẩy chính sách "Việt Nam hóa" chiến tranh của Mỹ tới bờ vực sụp đổ và khoét sâu thêm cuộc khủng hoảng của chế độ Sài Gòn.

Lo sợ cho số phận của chế độ Sài Gòn và chính sách "Việt Nam hóa", Mỹ đã thực hiện bước leo thang chiến tranh đường không tại Việt Nam. Bắt đầu từ 16 tháng 4 năm 1972, Mỹ ném bom từ trên không xuống các mục tiêu trên toàn lãnh thổ VNDCCH. Những nỗ lực của không quân Mỹ nhằm tiêu diệt tiềm năng quân sự-công nghiệp của VNDCCH, làm rối loạn và gián đoạn hoạt động giao thông vận tải đường sắt, đường bộ và đường thủy. Lối vào các cảng đã bị thả thủy lôi phong tỏa và đồng thời người Mỹ cũng thiết lập sự phong tỏa bờ biển VNDCCH. Tạp chí Mỹ "The Nation" trong mùa hè năm 1972 đã viết rằng hoạt động quân sự tại Việt Nam “đi kèm với sự tàn bạo và vô nhân đạo chưa từng có", rằng "nhân dân Việt Nam ý thức được sự tàn phá chưa có tiền lệ trong lịch sử bởi các phương tiện công nghệ quân sự hiện đại nhất".

Các vụ ném bom man rợ gây ra thiệt hại lớn cho nền kinh tế của VNDCCH, dẫn đến những mất mát đáng kể về nhân mạng. Các cơ sở công nghiệp và nông nghiệp phải chịu những trận tấn công và sự tàn phá lớn hơn rất nhiều lần so với tất cả các năm chiến tranh trước đây. Thiệt hại đáng kể nhất gây ra tại các cơ sở năng lượng và khu vực mỏ khai thác than. Tình trạng thiếu điện và nhiên liệu diễn ra gay gắt làm tê liệt một số xí nghiệp công nghiệp và giao thông vận tải. Gần như toàn bộ các cây cầu đường sắt đã bị phá hủy hoặc đánh hỏng. Các bến phà qua vô số con sông đều bị tấn công một cách có hệ thống. Việc cung cấp cho nhân dân thực phẩm và hàng hoá công nghiệp gặp khó khăn rất lớn.

Để ngăn chặn sự phát triển tiêu cực có thể liên quan đến tình hình khó khăn và thiếu thốn đang phổ biến, chính phủ VNDCCH đã thông qua một số nghị quyết: "Về việc duy trì trật tự, an ninh, củng cố và tăng cường quản lý thị trường trong thời gian chiến tranh", "Về việc duy trì trật tự và an ninh, tăng cường và cải thiện quản lý của nền kinh tế trong môi trường mới" , "Về nghĩa vụ lao động trong thời gian chiến tranh". Hầu như tất cả các xí nghiệp công nghiệp và các cơ quan tại các thành phố Hà Nội và Hải Phòng đều được sơ tán và phân tán. Đã sơ tán phần lớn dân số đô thị, đóng cửa tất cả các cơ sở đào tạo.

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ VNDCCH kêu gọi quân đội và nhân dân cả nước đoàn kết chặt chẽ hơn xung quanh Đảng, nâng cao năng suất và kỷ luật lao động, tăng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp, để cung cấp cho quân đội tất cả mọi thứ cần thiết nhằm đạt được thắng lợi quyết định.
.............
Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #2 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2012, 07:36:47 pm »

(tiếp)

Nhân dân Việt Nam đáp lời kêu gọi của đảng và chính phủ VNDCCH bằng sự đề cao cảnh giác, tăng năng suất trong tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Nhân dân Việt Nam đã chống lại ý đồ xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ bằng sự can đảm, đoàn kết và ý chí vững chắc sẽ chiến thắng.

Mỗi xí nghiệp, mỗi hợp tác xã đã trở thành không chỉ là đơn vị sản xuất, mà còn là đơn vị chiến đấu. Tất cả những người có thể mang vũ khí trên tay, không chỉ lao động, mà còn đội viên của các đơn vị tự vệ. Do có tinh thần cao, sự cống hiến quên mình và lòng yêu lao động của nhân dân Việt Nam, các ngành công nghiệp và nông nghiệp của đất nước đã có thể sản xuất ra các sản phẩm cần thiết đáp ứng nhu cầu của người dân và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Khéo léo kết hợp đấu tranh vũ trang, chính trị và ngoại giao, VNDCCH và những người yêu nước miền Nam Việt Nam đã phá hỏng kế hoạch của giới quân sự Mỹ. Kết hợp hiệu quả các nỗ lực quốc gia của mình với sự hỗ trợ quốc tế rộng rãi, họ đã buộc giới cầm quyền Hoa Kỳ phải chuyển từ mưu toan giải quyết vấn đề Việt Nam bằng biện pháp quân sự sang việc tìm kiếm một giải pháp chính trị.

Đầu tháng 10 năm 1972 phái đoàn VNDCCH và CHMNVN tại các cuộc đàm phán Paris với các đại diện của Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn đã giới thiệu dự thảo "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam". Trong đề án này, VNDCCH và CHMNVN đề nghị chấm dứt chiến tranh trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt mọi sự tham gia về quân sự của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam, rút hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam lực lượng quân đội Mỹ và các đồng minh của họ, trả tự do cho tất cả những người đã bị bắt và bị giam giữ. Kể từ khi có lệnh ngừng bắn và cho đến trước khi tiến hành cuộc bầu cử tự do và dân chủ bầu ra một chính phủ tại miền Nam Việt Nam cần phải thực thi hoạt động của cả hai chính quyền thực sự (Chính phủ CMLT CHMNVN và Chính quyền Nam Việt Nam), mỗi bên thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của mình. Hai chính quyền ngay lập tức phải tiến hành tham vấn với mục đích thực hiện quyền tự quyết của người dân miền Nam Việt Nam, thực hiện hòa giải dân tộc, đảm bảo quyền dân chủ và tự do của nhân dân và thành lập một chính phủ quốc gia đồng thuận.

Sáng kiến hòa bình quan trọng của chính phủ VNDCCH và CHMNVN tìm thấy sự hưởng ứng rộng rãi trong cộng đồng thế giới. Nó được đánh giá cao (trong đó có cả công chúng Mỹ) như là một thiện chí của phía Việt Nam đưa ra khỏi thế bế tắc các cuộc đàm phán về Việt Nam tại Paris, đã kéo dài gần bốn năm.

Tới ngày 20 tháng mười năm 1972 văn bản của Hiệp định đã được hoàn thành và đã đạt được một thỏa thuận ký tắt Hiệp định vào ngày 22 tháng 10. Tuy nhiên, Mỹ đã chối bỏ thỏa thuận của họ, và chuyển thời hạn ký tắt sang ngày 24 tháng 12, còn ký chính thức sang ngày 31 tháng 12. Trên tinh thần thiện chí, VNDCCH đã đồng ý với những thay đổi này, nhưng cảnh báo phía Hoa Kỳ rằng vấn đề không thể trì hoãn vô thời hạn. Tuy nhiên, Mỹ lại một lần nữa yêu cầu hoãn ký. Những hành động này của Mỹ đã dẫn đến tình hình rất nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho việc ký kết Hiệp định.

Chính phủ VNDCCH ngày 26 tháng 12 năm 1972 đã buộc phải đơn phương công bố nội dung bản dự thảo Hiệp định và ra Tuyên bố, trong đó cương quyết vạch trần sự thiếu thiện chí, thiếu cách tiếp cận vấn đề nghiêm túc từ phía chính phủ Mỹ, và yêu cầu Hoa Kỳ thực hiện thỏa thuận ký kết Hiệp định, thông qua các biện pháp cụ thể khôi phục lại hòa bình ở Việt Nam, góp phần cho hòa bình ở châu Á và trên thế giới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân tất cả các quốc gia.

"Lẽ phải đứng về phía sự nghiệp đấu tranh cứu nước của nhân dân chúng ta chống lại cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, - đó là điều nêu trong Tuyên bố của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, - lực lượng bất khả chiến bại của sự thống nhất của nhân dân ta, sự kiên trì và kiên định là truyền thống của nhân dân ta trong cuộc chiến chống lại những kẻ xâm lược".

Trong tiến trình đàm phán tiếp tục từ 20/11/1972 đến 13/12/1972, phía Hoa Kỳ tìm mọi cách có thể nhằm trì hoãn việc ký kết Hiệp định, liên tục đưa ra các sửa đổi và làm rõ các văn bản của Hiệp định và các điều khoản của nó. Ngày 13 tháng 12 các cuộc đàm phán đã bị đổ vỡ, và giới chính trị-quân sự Mỹ trong nỗ lực cố gắng buộc phía Việt Nam ký kết Hiệp định theo các điều kiện của họ, đã tiếp tục các cuộc không kích vào các mục tiêu trên lãnh thổ VNDCCH.

Cuộc ném bom ồ ạt, tàn bạo chưa từng thấy xét về lực lượng trên toàn lãnh thổ VNDCCH, đặc biệt là các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh trung tâm, tiếp tục suốt ngày và đêm từ ngày 18 đến 30 tháng 12 năm 1972. Trên thực tế để chống lại VNDCCH, Hoa Kỳ đã ném vào đây hầu như tất cả không lực và các lực lượng hải quân hiện đang có mặt tại khu vực Đông Nam Á.

Sự lên án mạnh mẽ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á từ phía Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa khác, sự hỗ trợ quân sự, kinh tế, ngoại giao và chính trị của họ, sự kiên trì và lòng can đảm của nhân dân Việt Nam, đánh trả đích đáng lũ kẻ cướp đường không, tất cả đã buộc chính phủ Mỹ  phải chấm dứt các vụ ném bom VNDCCH từ phía bắc vĩ tuyến 20 kể từ ngày 30/12/1972.

Một giai đoạn mới của cuộc đàm phán về Việt Nam bắt đầu từ ngày 08 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Ngày 27 tháng 1, giai đoạn này đã kết thúc với việc ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Đã kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất, khó khăn nhất, nhục nhã nhất và đắt giá đối với Hoa Kỳ, trong đó chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã chịu thất bại lớn nhất trong lịch sử của nó. Các mục tiêu mà Hoa Kỳ đặt ra đã không đạt được, mặc dù thực tế họ đã chi phí cho chiến tranh là hơn 130 tỷ đô la, tổn thất nhân mạng gồm 47.000 người chết và hơn 300.000 người bị thương. ("Lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sau chiến tranh tại Việt Nam". Tạp chí "Bình luận quân sự nước ngoài”, № 6, 1973).

Chiến thắng này là kết quả của chủ nghĩa anh hùng và sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, kiên trì và quyết tâm đấu tranh cho nền tự do và độc lập của đất nước của họ, cho một nền hòa bình công bằng và lâu dài. Chiến thắng này đạt được còn nhờ sự hỗ trợ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, và đặc biệt là Liên Xô, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của tất cả nhân loại tiến bộ. Báo "Nhân Dân" trong bài trên trang nhất ngày 30 Tháng 12 năm 1972 đã viết về điều này: "Bất kỳ thành công nào của nhân dân chúng ta đạt được trong cuộc chiến chống lại bè lũ xâm lược Mỹ, cũng như trong xây dựng hòa bình, đều gắn bó chặt chẽ với sự ủng hộ và giúp đỡ cho chúng ta bởi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em".

HẾT CHƯƠNG 1
.......
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tám, 2012, 08:44:01 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #3 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2012, 08:37:06 pm »

(tiếp)

CHƯƠNG II. HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN CỦA KHÔNG QUÂN MỸ


ĐẶC ĐIỂM CHUNG HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN CỦA KHỐNG QUÂN

Năm cuối cùng của cuộc chiến tranh tại Việt Nam được đặc trưng bởi sự tiếp tục leo thang cao hơn nữa trong cuộc chiến tranh không quân của phía Hoa Kỳ chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi theo đuổi chính sách "Việt Nam hóa", Hoa Kỳ đã chi phí cho việc tổ chức lại và huấn luyện đào tạo quân đội Nam Việt Nam khoảng $ 9 tỷ, vì vậy nó đã trở thành quân đội lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Giới đế quốc chủ nghĩa Mỹ hy vọng rằng sự hỗ trợ này sẽ đảm bảo khả năng chiến đấu cần thiết cho quân đội Nam Việt Nam.

Tuy nhiên, tính toán của giới quân sự Mỹ đã tỏ ra không đúng. Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, các lực lượng yêu nước đã tiến hành một loạt các chến dịch tấn công chủ yếu trên toàn lãnh thổ bán đảo Đông Dương. Các đòn tấn công đặc biệt mạnh mẽ của lực lượng yêu nước ở miền Nam Việt Nam, nơi mà lần đầu tiên trong suốt những năm qua họ đã sử dụng vào các chiến dịch một lực lượng lớn binh chủng tăng thiết giáp, pháo binh dã chiến và các phương tiện phòng không, đảm bảo cho sự thành công của các chiến dịch tấn công của lực lượng Quân Giải phóng Nhân dân.

Để cứu vớt tình thế của chế độ Sài Gòn, Hoa Kỳ đã sử dụng không quân với lực lượng chưa từng có chống lại những người yêu nước miền Nam Việt Nam và chống lại VNDCCH. Từ tháng 4 năm 1972 người Mỹ đã tấn công tất cả các cơ sở quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, thiết lập sự phong tỏa đường biển. Họ sử dụng rộng rãi các phương tiện hủy diệt mới, tăng hiệu quả của các cuộc không kích.

Đặc biệt quyết liệt là việc sử dụng lực lượng không quân vào tháng 12 năm 1972 trong chiến dịch đường không có tên mã là "Linebacker-2", mục đích chính của nó nhằm làm suy yếu tiềm năng kinh tế của đất nước, bẻ gãy tinh thần của quân đội và toàn thể nhân dân, buộc các nhà lãnh đạo VNDCCH thực hiện những nhượng bộ trong việc ký kết thỏa thuận ngừng bắn và khôi phục hòa bình ở Việt Nam.

Đặc điểm nổi bật của chiến dịch đường không trên là sử dụng lực lượng không quân chiến lược đáng sợ làm lực lượng tấn công chủ yếu. Tham gia chiến dịch có 190 máy bay ném bom chiến lược B-52, 48 máy bay ném bom chiến thuật F-111A và hơn 800 máy bay các loại khác, tức là toàn bộ các nhóm không quân chiến lược, chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay của Hoa Kỳ, đang đóng căn cứ trên không gian chiến trường này.


© US AIR FORCE

Chiến dịch đường không kéo dài 12 ngày đêm. Trong thời gian này, đã thực hện 33 đợt tấn công ồ ạt quy mô lớn: 17 – bằng lực lượng không quân chiến lược, 16 – bằng lực lượng không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay. Trong quá trình chiến dịch đã tiến hành 2814 phi vụ xuất kích, trong số  đó có 594 phi vụ - của máy bay ném bom chiến lược B-52.

Kẻ địch đã trút xuống các mục tiêu tại VNDCCH đến 16 ngàn tấn bom, trong đó từ máy bay B-52 – 12 ngàn tấn. Kết quả của các cuộc ném bom đã phá hủy hoặc làm hư hỏng hàng chục cơ sở công nghiệp và quân sự lớn của VNDCCH, cũng như một số lớn cơ sở vật chất phục vụ cho các mục đích hòa bình. Kết quả các vụ ném bom đã giết chết hàng ngàn người, gồm cả quân nhân và dân thường.

Chiến dịch bắt đầu vào tối ngày 18 tháng 12 năm 1972 bằng đòn tấn công đồng thời của không quân Mỹ vào các sân bay đang hoạt động chủ yếu của không quân tiêm kích QĐNDVN. Đòn tấn công được thực hiện bằng lực lượng không quân chiến lược, chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay. Kết quả cuộc tấn công đã làm hỏng đường cất-hạ cánh của gần như tất cả các sân bay chính đặt căn cứ của lực lượng không quân QĐNDVN. Tiếp theo, những nỗ lực trong hoạt động của không quân Mỹ được tập trung chủ yếu vào việc phá hủy các cơ sở công nghiệp lớn nằm trong khu vực thủ đô VNDCCH - Hà Nội, cảng biển chính Hải Phòng và khu vực công nghiệp quan trọng Thái Nguyên. Trong các cuộc tấn công đường không quy mô lớn có sự tham gia của 80% toàn bộ số máy bay hiện có với mức độ tập trung lực lượng để không kích vào các thành phố và các đối tượng riêng biệt đôi khi từ 200 đến 250 máy bay.

Lần đầu tiên sau toàn bộ những năm chiến tranh, lực lượng không quân chiến lược được sử dụng tấn công ồ ạt xuống các mục tiêu của VNDCCH. Máy bay B-52 chiếm 30-40% tổng số máy bay tham gia vào các cuộc không kích quy mô lớn.

Việc thực hành tấn công bằng lực lượng không quân chiến lược chỉ diễn ra vào ban đêm.

Hoạt động của chúng được lên kế hoạch đặc biệt kỹ lưỡng và được đảm bảo bởi những lực lượng đáng kể, trước hết một số lượng lớn máy bay tiêm kích được phân công bảo vệ cho các nhóm không kích và làm nhiệm vụ phong tỏa các sân bay, chế áp hỏa lực phòng không, mà trước tiên là tất cả các trận địa TLPK, cũng như tiến hành trinh sát, chế áp các trạm radar phòng không và liên tục giám sát vùng trời trên lãnh thổ VNDCCH.

Trong những ngày riêng biệt, các máy bay B-52 thực hiện đến 80-90 phi vụ, trong khi các năm trước, con số này hiếm khi vượt quá 25-30 phi vụ. Và nếu trước đó máy bay ném bom chiến lược B-52 đã tham gia tấn công vào các đối tượng có hệ thống phòng không yếu, thì trong chiến dịch này, chúng được sử dụng tấn công ồ ạt vào các đối tượng được bảo vệ bởi một hệ thống phòng không tương đối mạnh. Chỉ trong khu vực. Hà Nội và Hải Phòng máy bay B-52 đã thực hiện trong những ngày này hơn 350 phi vụ (tính riêng khu vực Hà Nội - hơn 300).

Không quân chiến thuật được sử dụng cả ngày lẫn đêm. Vào ban đêm, chủ yếu chúng được sử dụng để đảm bảo hoạt động cho máy bay ném bom chiến lược B-52, ban ngày sử dụng để tấn công ồ ạt xuống các mục tiêu khác nhau trên đất nước này và các trận địa phòng không. Chúng hoạt động theo các tốp nhỏ, sử dụng bom có đầu tự dẫn laser hoặc truyền hình.

Trong chiến dịch, lần đầu tiên người Mỹ sử dụng rộng rãi máy bay tiêm kích-ném bom mới nhất F-111 - chủ yếu để tấn công từ độ cao thấp và cực thấp, hoạt động đơn lẻ vào ban đêm.

Không quân hải quân trên tàu sân bay khi tấn công ồ ạt hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Vào ban ngày, chúng được sử dụng rộng rãi để tấn công các mục tiêu ở khu vực ven biển VNDCCH theo các tốp nhỏ và đơn lẻ.

Tất cả các cuộc không kích của máy bay Mỹ trên quy mô rộng lớn được đảm bảo bằng việc sử dụng tổng hợp các phương tiện chiến tranh điện tử tiên tiến nhất và mới nhất.

Các số liệu tổng quát về tính chất các hoạt động tác chiến của máy bay Mỹ trong chiến dịch "Linebacker-2" được trình bày trong các bảng 1 và 2.

BẢNG 1.



Chú thích: 1. Máy bay hoạt động ngoài không phận VNDCCH không kể trong bảng này.
2. Chữ viết tắt: CA – máy bay không quân chiến lược, TA – máy bay không quân chiến thuật , AA – máy bay trên tàu sân bay; БСР - máy bay do thám không người lái.


Kết quả các hoạt động tích cực của bộ đội PK, mà trươc hết là TLPK, khiến cho trong thời gian chiến dịch chỉ riêng ở khu vực Hà Nội, người Mỹ đã mất hơn 30 máy bay, trong đó có 25 máy bay ném bom chiến lược B-52. Tổn thất chung của máy bay Mỹ trên bầu trời VNDCCH trong chiến dịch, theo bộ chỉ huy QĐNDVN là 81 máy bay, với 34 máy bay ném bom B-52 (khoảng 18% toàn bộ số máy bay chiến lược đóng căn cứ trong không gian chiến trường này). Bộ chỉ huy quân sự Mỹ chính thức công nhận tổn thất 22 máy bay B-52. Ngay cả ở mức đó, với các dữ liệu rõ ràng bị hạ thấp, tổn thất của không quân chiến lược cũng cao hơn 12%.

Theo một số dữ liệu không đầy đủ, trong những ngày đó, tổn thất phi công của Mỹ là 100 người, trong đó có 14 chết, những người khác mất tích hoặc bị bắt làm tù binh. Kết quả tổn thất làm giảm đáng kể tinh thần chiến đấu của các phi hành đoàn, đặc biệt là của máy bay ném bom B-52. Người ta bắt đầu nhận thấy các trường hợp cố ý đánh hỏng thiết bị điện tử phức tạp của máy bay B-52 bởi các thành viên phi hành đoàn để làm gián đoạn các chuyến xuất kích làm nhiệm vụ, cũng như các trường hợp từ chối tham gia xuất kích chiến đấu của các phi công.

Xét tổng thể trong chiến dịch này bộ chỉ huy Mỹ đã thành công ở một mức độ nhất định trong việc giải quyết nhiệm vụ có tính chất quân sự. Các nhiệm vụ của một kế hoạch chính trị, được coi là các nhiệm vụ chính, và nhờ đức kiên trì, lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam, và các lực lượng vũ trang của họ, trước hết là của QC PK-KQ QĐNDVN, niềm tin không hề lay chuyển của toàn bộ nhân dân VNDCCH vào sự nghiệp chính nghĩa của mình, mà các nhiệm vụ của người Mỹ đã không giải quyết được, tất cả những điều này (và hàng loạt nguyên nhân khác) đã buộc bộ chỉ huy Mỹ phải chấm dứt chiến tranh đường không chống lại VNDCCH, và tìm cách giải quyết vấn đề hòa bình tại bàn đàm phán ở Paris.

BẢNG 2



.......
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Tám, 2012, 09:47:21 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #4 vào lúc: 17 Tháng Tám, 2012, 10:35:50 am »

(tiếp)

HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN CỦA KHÔNG QUÂN CHIẾN LƯỢC

Không quân chiến lược trong chiến dịch "Linebacker-2", như đã đề cập ở trên, giữ vai trò lực lượng tấn công chính. Được điều động tham gia vào chiến dịch có tất cả 188 máy bay ném bom chiến lược B-52, đóng tại căn cứ không quân Andersen (đảo Guam) và Utapao (Thái Lan). Cường độ trung bình ngày đêm hoạt động tác chiến của máy bay B-52 như sau: toàn bộ chiến dịch hơn 50 phi vụ, còn trong một số ngày đêm riêng biệt cường độ đó lên đến 90.

Những nỗ lực chính của lực lượng không quân chiến lược hướng vào, trước hết, đánh phá các cơ sở công nghiệp quan trọng nằm trong khu vực thủ đô Hà Nội của VNDCCH, cảng biển chính Hải Phòng và khu vực công nghiệp chủ yếu Thái Nguyên. Chỉ trong khu vực thủ đô VNDCCH chúng đã thực hiện khoảng 85% các đợt tấn công.

Các đối tượng mà B-52 tấn công là các sân bay, nhà ga đường sắt, các đầu mối thông tin liên lạc, các tổ hợp kho tàng, nhà máy và xí nghiệp, các doanh trại quân đội, các kho vũ khí và các cơ sở bảo quản vũ khí, kho chứa nhiên liệu và các đối tượng có diện lớn khác.

Việc lựa chọn các đối tượng và khu vực này để các lực lượng không quân chiến lược hành động được xác định không hẳn chỉ là mục tiêu quân sự mà còn chủ yếu là mục tiêu chính trị của giới cầm quyền Mỹ.

Khi lập kế hoạch chiến dịch "Linebacker-2" với việc sử dụng ồ ạt máy bay B-52, bộ chỉ huy quân đội Mỹ đã tìm cách tổ chức và đảm bảo cho hành động quân sự của họ sao cho có thể đạt được độ tin cậy cao nhất. Bản chất của các đặc tính cơ bản trong việc sử dụng chiến đấu máy bay ném bom chiến lược B-52 trong quá trình chiến dịch là như sau:
- tập trung lực lượng trong các đòn tấn công;
- điều động một lực lượng đáng kể không quân chiến thuật để đảm bảo tác chiến cho các đợt tấn công của máy bay B-52;
- lựa chọn kỹ càng các đối tượng và thời gian tung ra các đợt tấn công, cũng như các tuyến đường bay tới các đối tượng;
- sử dụng trên quy mô lớn các phương tiện chiến tranh điện tử.

Việc tập trung lực lượng khi tung ra đòn tấn công vào các đối tượng trên lãnh thổ VNDCCH trong chến dịch được quyết định bởi sự cần thiết phải đạt được các mục tiêu chính trị-quân sự quan trọng trong thời gian ngắn nhất có thể. Điểm rất đặc trưng là cho đến trước tháng 12 năm 1972, một phần lớn các cuộc tấn công vào các mục tiêu của VNDCCH thực hiện chỉ bởi các máy bay B-52 riêng lẻ hoặc các tốp nhỏ hai hoặc ba chiếc, còn tấn công ồ ạt bằng lực lượng không quân chiến lược chỉ được tiến hành ở miền Nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, nơi mà bộ chỉ huy quân sự Mỹ cho điều đó là cần thiết để phá vỡ sự chuẩn bị và thực hiện các chiến dịch tấn công chủ yếu của các lực lượng quân giải phóng.

Trong những ngày đầu chiến dịch, trong các cuộc không kích ồ ạt xuống các mục tiêu của VNDCCH, các tốp máy bay ném bom tấn công gồm 15-24 máy bay. Đồng thời, trong thời gian một đêm không quân chiến lược tiến hành 2-3 đợt tấn công trong khoảng thời gian từ 1-3 giờ sáng. Cuộc không kích ồ ạt  đầu tiên của máy bay B-52 xuống các tỉnh trung tâm VNDCCH được thực hiện vào ngày 18 tháng 12. Tham dự trận đánh này có hơn 60 máy bay, trong đó có 21 B-52 và 40 F-4 và F-105 thuộc các tốp yểm trợ tác chiến. Những nỗ lực chính nhằm vào việc vô hiệu hóa các sân bay chủ chốt mà không quân tiêm kích QĐNDVN đặt căn cứ. Sau đó, trong đêm còn diễn ra 2 cuộc tấn công quy mô lớn nữa vào khu vực thủ đô Hà Nội.

Trong các cuộc tấn công ở giai đoạn cuối cùng của chiến dịch, số lượng máy bay trong các tốp tấn công tăng lên đến 60-70 chiếc, rõ ràng có thể được giải thích là do bộ chỉ huy Mỹ muốn tăng cường tác động tâm lý lên nhân dân nước VNDCCH.

Tất cả các cuộc tấn công vào Hà Nội của không quân chiến lược chỉ diễn ra vào ban đêm. Việc lựa chọn thời gian này trong một ngày đêm được xác định bởi tính chất độc lập của hiệu quả giữa các đợt ném bom không kích của máy bay B-52 với các điều kiện khí tượng và chiếu sáng các đối tượng bị tấn công, cũng như sự hiện diện của các lực lượng chủ yếu của không quân tiêm kích QĐNDVN trong khu vực hoạt động của các máy bay B-52.

Như đã biết, năm 1972 được đặc trưng bởi tinh chất tích cực trong hoạt động tác chiến của KQTK QĐNDVN trong điều kiện ban ngày. Nếu trước khi bắt đầu năm 1972 số máy bay Mỹ bị KQTK QĐNDVN bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam chỉ chiếm 7,6% tổng số máy bay Mỹ bị hạ, thì trong năm 1972 các máy bay tiêm kích Bắc Việt Nam đã thực hiện hơn 800 lần xuất kích chiến đấu và bắn hạ gần 90 máy bay địch, con số đó chiếm 12% tồn thất của không quân Mỹ trong giai đoạn chiến tranh này tại VNDCCH. Trong một số tháng nói riêng, tổn thất của không quân Mỹ do KQTK QĐNDVN gây ra lên đến 20 máy bay hoặc nhiều hơn nữa. Tính đến điều này, cũng như việc huấn luyện tác chiến ban đêm kém của các kíp bay KQTK QĐNDVN, đặc biệt là trong điều kiện thời tiết bất lợi và các yếu tố khác, bộ chỉ huy Mỹ đã lên kế hoạch cho tất cả các cuộc không kích quy mô lớn có sự tham gia của các máy bay ném bom chiến lược chỉ tiến hành vào ban đêm.

Đặc điểm thứ hai của việc sử dụng chiến đấu các máy bay ném bom chiến lược trong chiến dịch là được cân nhắc và vạch kế hoạch kỹ lưỡng,  tổ chức tốt việc đảm bảo tác chiến cho các máy bay ném bom chiến lược bằng lực lượng không quân chiến thuật.

Đội hình chiến đấu của không quân trong các trận không kích quy mô lớn được thể hiện trong sơ đồ 1. Nó gồm các tốp B-52 không kích, các tốp gây nhiễu thụ động và phong tỏa các sân bay, các tốp phát hiện và chế áp vũ khí phòng không và các tốp trực tiếp bảo vệ cho các máy bay B-52 trước các máy bay tiêm kích Việt Nam.

SƠ ĐỒ 1

Ghi chú cho sơ đồ 1: Đội hình tác chiến của không quân Mỹ trong các cuộc không kích ồ ạt.
a(а) - Đội hình tác chiến trên mặt bằng; b(б) – Phân bố máy bay theo chiều cao: các tốp B-52 có nhiệm vụ ném bom tấn công, tốp tiêm kích bảo vệ trực tiếp (16-20 F-4), tốp gây nhiễu thụ động và phong tỏa sân bay (12-20 F-4), tốp phát hiện và chế áp phương tiện phòng không (6-8 F-105); v(в) – Đội hình tác chiến của nhóm B-52 làm nhiệm vụ ném bom.


Đội hình tác chiến của các máy bay B-52 khi tấn công thường tạo thành "phi đội hàng dọc - колонны эскадрилий" (2-7). Gián cách giữa chúng là 5-7 phút bay.
Mỗi nhóm công kích (phi đội) thực hành đường bay theo trình tự "biên đội hàng dọc - колонна отрядов" một cách nghiêm ngặt (2-3 biên đội trong một hàng dọc), gián cách giữa chúng đạt 2-3 phút bay. Biên đội bay theo đội hình "xếp hàng dọc - колонна самолетов", gián cách giữa chúng - 1-2 dặm (1.800-3.600 m). Mỗi chiếc bay kế tiếp bay cao hơn chiếc bay trước 200-500 m.

Biên đội (tốp) là đơn vị hỏa lực-chiến thuật cơ bản thực hành tấn công, theo quy định, chỉ đánh vào một mục tiêu, vì vậy đội hình nói trên được duy trì rất ổn định, ngay cả trong các khu vực TLPK hoạt động. Việc duy trì đội hình tác chiến theo các tham số trên được đảm bảo bằng đường bay của các máy bay B-52 trên suốt hành trình, kể cả trên lãnh thổ VNDCCH, cùng với sự dẫn đường bằng đèn hiệu.

Theo quan điểm của bộ chỉ huy Mỹ, việc sắp xếp đội hình chiến đấu tổng thể như thế khi thực hành các đợt tấn công bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 với sự yểm trợ tác chiến được tổ chức tốt sẽ cho phép đạt được hiệu quả lớn nhất và giảm thiểu tối đa thiệt hại do vũ khí PK QĐNDVN gây ra.

Số lượng máy bay được điều động vào thành phần các nhóm yểm trợ tác chiến, thường chiếm 60-70% tổng số máy bay tham gia đợt không kích. Không quân chiến thuật, khi làm nhiệm vụ yểm trợ cuộc không kích của các máy bay ném bom chiến lược, đặc biệt là khi tấn công vào các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các đối tượng ở vùng trung tâm VNDCCH, đã thực hiện bảo vệ trực tiếp cho đội hình tác chiến của máy bay B-52 trong suốt thời gian thời gian các máy bay ném bom chiến lược ở trên không phận VNDCCH. Để làm được điều này đã điều động các máy bay tiêm kích F-4 và F-105, đóng căn cứ tại sân bay Udon và Ubon (Thái Lan). Chúng nhập nhóm với các tốp máy bay ném bom B-52 trên lãnh thổ Lào, gần thị trấn Sầm Nưa. Nhiệm vụ chính của các máy bay F-105 là xác định và chế áp phương tiện phòng không trên các tuyến đường bay của B-52 và trong khu vực đối tượng bị không kích.

Việc bảo vệ trực tiếp cho mỗi biên đội (tốp-отряд) máy bay B-52, theo quy định, được thực hiện bởi một biên đội (звено) tiêm kích F-4, trong đó, như thể hiện trên sơ đồ 1, biên đội tiêm kích bay với gián cách không lớn, bên cạnh đội hình tác chiến của các máy bay ném bom B-52.

Để phong tỏa các sân bay của LLKQ QĐNDVN đã sử dụng các tốp riêng từ 6-8 chiếc F-4, chiếm lĩnh khu vực sân bay khoảng 10-15 phút trước khi các máy bay B-52 xuất hiện trong khu vực không kích. Cũng các tốp tiêm kích này gây nhiễu thụ động trên các đường bay tiếp cận khu vực thả bom của nhóm các máy bay ném bom.

Đặc điểm nổi bật thứ ba của việc sử dụng chiến đấu lực lượng không quân chiến lược trong chiến dịch là sự lựa chọn kỹ lưỡng tuyến đường bay của các máy bay B-52, hướng đến các đối tượng và tiến hành công kích. Đặc biệt đáng chú ý là các tuyến đường bay của máy bay ném bom B-52 từ các căn cứ không quân Utapao và Andersen.

Từ căn cứ KQ Andersen (đảo Guam) các máy bay B-52 cất cánh, mang theo trên khoang một tải trọng bom 9-10 tấn (27-29 quả bom trong thân máy bay, mỗi quả 340 kg). Chuyến bay tới các đối tượng tấn công tại VNDCCH được thực hiện qua khu vực tiếp nhiên liệu, mà theo lời khai của các phi công bị bắt, nằm về phía đông Philippines. Tại điểm giả định "Lima" (150-200 km về phía đông nam thành phố Đà-Nẵng) diễn ra sự tách đường bay. Sự lựa chọn các đường bay tiếp theo được xác định bằng hướng quy định đột phá qua hệ thống phòng không VNDCCH (phía tây và tây nam hoặc phía đông nam). Để đột phá qua hệ thống PK VNDCCH từ các hướng tác chiến-chiến thuật tây nam và tây, đường bay từ điểm của "Lima" được dẫn về phía tây đến sông Cửu Long, tiếp tục lên phía bắc Lào, trong khu vực Sầm Nưa, từ đó – vào không phận VNDCCH, tới các thị xã Phú Thọ, Yên Bái hoặc Việt Trì (tùy thuộc vào đối tượng tấn công được chỉ định và việc chọn hướng công kích), sau đó đường bay hướng trực tiếp đến đối tượng của cuộc tấn công.

Trong hầu hết các trường hợp (90%), bước đột phá xuyên qua hệ thống phòng không thực hiện từ hướng tây và tây nam VNDCCH, các hướng này có một loạt lợi thế so với các hướng triển khai từ phía đông nam:
- đường bay tới các mục tiêu ngắn hơn (đặc biệt là từ căn cứ không quân Utapao);
- có các mốc định hướng, tạo điều kiện tiến tới đối tượng tấn công chính xác hơn vào ban đêm;
- đường bay ngắn hơn và thuận tiện hơn cho các máy bay chiến thuật, yểm trợ trực tiếp cho các máy bay ném bom B-52;
- đường thoát có thời gian ngắn nhất ra khu vực Vịnh Bắc Bộ cho các máy bay B-52 bị thương, nơi đó đã có các tàu chiến và các máy bay trực thăng thuộc nhóm cứu hộ làm nhiệm vụ trực chiến.

Sau khi hoàn thành ném bom, các máy bay B-52 bay về hoặc sang Lào (phần lớn các trường hợp), hoặc bay ra phía Vịnh Bắc Bộ, rồi trở về căn cứ của chúng, hoặc hạ cánh tại các sân bay khác nơi đặt căn cứ của lực lượng không quân chiến lược. Khi trở về căn cứ không quân Andersen máy bay B-52 phải có dự trữ nhiên liệu còn lại sau khi thả bom là 56-65 tấn, trường hợp cần tiếp nhiên liệu trên không thì máy bay bay ở độ cao 7000-7500 m với tốc độ 680-720 km / h. Trong tiến trình một lần tiếp nhiên liệu, máy bay ném bom B-52 tiếp nhận vào khoang chứa trung bình 20 tấn nhiên liệu. Sử dụng làm phương tiện tiếp dầu là máy bay KC-135.

Khi cất cánh từ căn cứ không quân U-Tapao (Thái Lan) máy bay B-52 theo quy định có tải trọng bom là 19,7 tấn (24 quả bom dưới cánh 42 quả trong thân máy bay) hoặc 25,1 tấn (24 quả bom dưới cánh và 75 quả trong thân máy bay).

Từ căn cứ KQ U-Tapao tới VNDCCH, các máy bay ném bom B-52 bay (khi chọn hướng đột phá qua hệ thống PK là từ hướng đông nam) qua Korat, Huế, Vịnh Bắc Bộ, đảo Cát Bà, tới đối tượng tấn công hoặc qua Viên Chăn và Sầm Nưa (khi chọn các hướng đột phá hệ thống PK từ phía tây và tây nam).

Thời gian bay từ khi cất cánh đến khi hạ cánh là 12-13 giờ nếu xuất phát từ căn cứ KQ Andersen hoặc 4-5 giờ - nếu xuất phát từ căn cứ KQ U-Tapao. Trên tuyến đường bay B-52 có tốc độ trung bình 840-870 km / h và chiều cao bay từ 10 nghìn -11 nghìn m. Cách đối tượng tấn công 60-70 km tốp B-52 đi hướng công kích, độ cao bay và tốc độ bay vẫn duy trì khong đổi cho đến khi thả bom. Sự đổi hướng được thực hiện ngay lập tức sau khi ném bom với vòng ngoặt không ít hơn 40-60 °.

Tùy thuộc vào tính chất của đối tượng và xác suất đánh trúng quy định mà đòn tấn công được thực hiện bởi một hoặc một số tốp B-52. Trong mọi trường hợp, áp dụng phương pháp ném bom "theo diện" từ đường bay bằng. Độ cao ném bom thuận lợi nhất được coi là độ cao từ 10400-10600 m so với mực nước biển. Dải oanh tạc của một máy bay B-52 (tải bom 20-25 tấn) có độ dài 700-1600 m với chiều rộng từ 150-100 m. Khoảng cách giữa các hố bom như là kết quả của sự phân tán tự nhiên và nhịp độ thả bom dao động trong giới hạn từ 10-50 m. Việc ném bom được mỗi máy bay thực hiện riêng biệt, sử dụng radar ngắm bắn trên máy bay. Điều này cho phép khi biên đội B-52 tấn công vào đối tượng nào thì hình dạng và kích thước dải oanh tạc chung đã được lên kế hoạch từ trước.
.......
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Tám, 2012, 10:21:59 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #5 vào lúc: 17 Tháng Tám, 2012, 04:03:45 pm »

(tiếp)

Đặc điểm nổi bật thứ tư thuộc sự yểm trợ hoạt động tác chiến của không quân chiến lược là việc sử dụng trên quy mô lớn các phương tiện chiến tranh điện tử. Vấn đề này được thảo luận cụ thể dưới đây. Chúng ta chỉ cần lưu ý rằng bộ chỉ huy Mỹ giành sự chú ý đặc biệt đến hình thức yểm trợ này, vì nếu như các máy bay ném bom chiến lược mà không sử dụng tổng hợp toàn bộ kho vũ khí tác chiến điện tử thì chúng sẽ bị bộ đội TLPK tiêu diệt khá dễ dàng, bởi lẽ các máy bay B-52 trên hướng công kích là một mục tiêu kích thước lớn, di chuyển tương đối chậm, không có khả năng cơ động chống lại đạn tên lửa phòng không.

Máy bay ném bom chiến lược cũng đã được sử dụng để thực hiện các trận tấn công riêng (một hoặc hai tốp) vào các đối tượng nằm ở phía nam vĩ tuyến 20 và có hệ thống phòng không yếu. Những đối tượng này, trước hết là các cụm quân đội và trang thiết bị dồn lại tại các bến phà, đang trên đường hành quân, trong các khu vực tập trung quân. Thông thường, các phi vụ thực hiện các cuộc tấn công này xuất phát từ căn cứ không quân U-Tapao. Việc ném bom được thực hiện trong đường bay bằng ở độ cao 10.000-11.000 m. Yểm trợ tấn công trong trường hợp này thực hiện chỉ thông qua việc yểm trợ trực tiếp chomáy bay ném bom B-52 bởi các máy bay tiêm kích F-4 đi kèm trên toàn bộ tuyến đường bay và sự gây nhiễu chủ động của máy bay EB-66 từ các khu vực thuộc lãnh thổ Lào và Vịnh Bắc Bộ.

Chúng ta hãy xem xét chi tiết chiến thuật hoạt động của đối phương qua ví dụ về hai cuộc tấn công quy mô lớn được tiến hành vào ngày 19 tháng 12, và 26 tháng 12 năm 1972.

Cuộc tấn công quy mô lớn của không quân chiến lược vào thành phố Hà Nội ngày 19 tháng 12 năm 1972 được thể hiện trong sơ đồ 2.


Sơ đồ 2: Cuộc không kích quy mô lớn của không quân chiến lược vào thành phố Hà Nội ngày 19.12.1972.

Trong các cuộc tấn công ngày 19 Tháng 12 này có sự tham gia trực tiếp của 66 máy bay (24 máy bay ném bom chiến lược B-52 trong 3 nhóm không kích (phi đội), 16 máy bay tiêm kích-ném bom F-4 – nhóm gây nhiễu thụ động và phong tỏa các sân bay, 6 tiêm kích-ném bom F-105 – nhóm phát hiện và chế áp phòng không và 20 máy bay tiêm kích-ném bom F-4 - nhóm yểm trợ trực tiếp cho các máy bay thuộc các nhóm không kích). Con số này không bao gồm các máy bay, tham gia công tác bảo đảm các cuộc không kích, nhưng ở bên ngoài lãnh thổ VNDCCH. Chúng bao gồm sở chỉ huy trên không đặt trên  máy bay EC-135, 4 máy bay đối kháng vô tuyến điện tử (2 EB-66 và 2 EA-6B), máy bay cảnh giới tầm xa loại EC-121H, và các máy bay bảo vệ - tất cả có 20-22 máy bay.

Cuộc không kích bắt đầu vào lúc 4:32 giờ và kéo dài 62 phút (độ dài của cuộc không kích được tính thời gian từ thời điểm chiếc máy bay đầu tiên của nhóm tấn công vượt qua biên giới quốc gia VNDCCH cho đến thời điểm chiếc máy bay B-52 cuối cùng ra khỏi vùng trời VNDCCH).

Lúc 4:12 giờ đại đội radar tiền tiêu đã phát hiện ra tốp đầu tiên trong nhóm các máy bay B-52 xung kích từ tầm xa 350 km ở độ cao 10 km. Sau đó, tốp này cũng bị phát hiện bởi các phân đội binh chủng radar khác. Hồi 4:32 giờ tốp này vượt qua biên giới trên không phận VNDCCH, hướng bay tới thành phố Việt Trì, trước khi đến đó, tốp này rẽ ngoặt và hồi 4:42 giờ tiến hành ném bom các đối tượng ở khu vực tây nam Hà Nội. Hai phút sau, tốp thứ hai và 4 phút sau – tốp thứ ba của nhóm xung kích đã ném bom các đối tượng của cùng khu vực đó của thành phố Hà Nội.

Nhóm xung kích thứ hai và thứ ba thực hiện đột phá qua hệ thống phòng không thành phố Hà Nội từ hướng tây bắc ở độ cao từ 10.000 - 11.000 m. Cuộc không kích trút xuống phần phía tây Hà Nội và sân bay GiaLâm.

Tất cả các máy bay ném bom chiến lược thực hiện đối kháng vô tuyến điện tử trước các phương tiện phòng không bằng cách gây nhiễu chủ động và thụ động.

Hồi 4:20 giờ bộ đội radar phát hiện được trên lãnh thổ Lào một nhóm máy bay ở độ cao 7000 m bay theo hướng Việt Trì. Nhóm bao gồm 4 biên đội tiêm kích-ném bom F-4 trong đội hình "biên đội hàng dọc" với giãn cách thời gian giữa các biên đội - 2.000-4.000 m. Trong khu vực Việt Trì mỗi biên đội chuyển đội hình sang "hàng ngang" (giãn cách - 600-800 m) và tiến hành gây nhiễu thụ động trên các đường tiếp cận phía tây và tây bắc vào thành phố Hà Nội. Sau đó, các biên đội phong tỏa các sân bay Kép, Nội Bài, Gia Lâm, Hòa Lạc và Yên Bái. Việc phong tỏa được thực hiện bởi các biên đội và các cặp tại cao độ 2000 và 6000 m. Đường bay của các cặp trong biên đội được thực hiện theo vòng kín bằng động tác cơ động "hình số tám" dọc theo đường băng. Đường bay cơ động này được tạo ra để các cặp đôi luôn ở hai đầu đối diện của sân bay. Sau khi các máy bay B-52 kết thúc ném bom được 3-5 phút biên đội F-4 sẽ tự mình thoát sang phía Lào.

Bay phía trước tốp B-52 đi đầu (với giãn cách thời gian 1 phút) ở độ cao 4000 m là cặp đầu tiên tiêm kích-bom F-105 thuộc nhóm phát hiện và chế áp hệ thống phòng không. Được trang bị hai tên lửa chống radar loại "Shrike" và bom, máy bay F-105 trước hết phải chế áp các tiểu đoàn TLPK, các trận địa PPK và các trạm radar của binh chủng radar. Trong khu vực đối tượng bị tấn công một cặp tách ra từ nhóm máy bay xung kích và bắt đầu quần vòng tuần tra tại khu vực cách Hà Nội 20-30 km về phía đông bắc. Cặp F-105 thứ hai bay về phía trước phi đội B-52 thứ hai 2 phút với cùng nhiệm vụ như cặp đầu tiên. Khu vực nó quần vòng nằm ở phía tây Hà Nội 30-40 km. Cặp F-105 cuối cùng, cặp thứ ba, cặp khóa đuôi, bay ở độ cao 4500-5000 m và bay theo nhóm các máy bay ném bom với giãn cách thời gian 1 phút. Cặp này thực hiện nhiệm vụ tương tự như cặp đầu tiên. Sự khác biệt chỉ là trong thực tế nó không bay quần vòng, mà bay theo cùng nhóm xung kích. Sau khi máy bay B-52 hoàn thành nhiệm vụ  5-7 phút, các cặp F-105 sẽ tự bay về sân bay căn cứ của chúng, dĩ nhiên sau khi đã nhận được tín hiệu đặc biệt.

Suốt đường bay trên lãnh thổ VNDCCH, các máy bay ném bom chiến lược được đặc biệt bảo vệ bởi các máy bay tiêm kích F-4, gồm các nhóm có nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ chúng chống các máy bay tiêm kích QĐNDVN. Nó bay thấp hơn 1000-2000 m đối với nhóm xung kích. Trong suốt chuyến bay trên lãnh thổ VNDCCH, các máy bay F-4 bay cơ động theo hình "rắn lượn", và trong vùng không kích của máy bay B-52, chúng bay tách ra khỏi đội hình 15-20 km. Nếu tìm thấy các tiểu đoàn TLPK, trạm radar, SCH, chúng sẽ ném bom oanh tạc các mục tiêu ấy, sau đó quay về chỗ của mình trong đội hình tổng thể.

Thông tin liên lạc vô tuyến hai chiều giữa SCH trên không với các máy bay B-52, cũng như với F-4 và F-105 tham gia trận không kích được thiết lập trên đường tiếp cận của chúng đến khu vực tập hợp đội hình. Tiếp theo, chỉ duy trì liên lạc vô tuyến điện một chiều của SCH trên không với các phi hành đoàn máy bay B-52 cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ và thoát ra khỏi không phận VNDCCH. Các máy bay tiêm kích bảo vệ trực tiếp để định hướng cho mình sử dụng các đèn dẫn đường trên các máy bay ném bom chiến lược.

Ở giai đoạn cuối cùng của chiến dịch đặc trưng nhất là cuộc không kích quy mô lớn ngày 26 tháng 12 (sơ đồ 3).


Sơ đồ 3: Cuộc không kích quy mô lớn của không quân chiến lược vào thành phố Hà Nội và Hải Phòng ngày 26.12.1972.

Tham gia cuộc không kích là 147 máy bay, trong đó có 63 máy bay ném bom chiến lược B-52, 54 máy bay tiêm kích-ném bom F-4 – thuộc các tốp bảo vệ trực tiếp, 20 F-4 – các tốp gây nhiễu thụ động và khống chế các sân bay, 10 tiêm kích-ném bom F-105 và A -7 – các tốp phát hiện và chế áp hệ thống phòng không. Ngoài các máy bay trên, tham gia làm nhiệm vụ đảm bảo cuộc không kích, nhưng không thâm nhập vùng trời VNDCCH còn có 5 máy bay đối kháng VTĐT EB-66 (EA-6B), 2 máy bay tuần tra cảnh giới tầm xa loại EC-121H, 1 SCH trên không đặt trên máy bay EC-135 và khoảng 20-24 F-4 hộ tống bảo vệ.

Như trong các cuộc tấn công trước, binh chủng radar QĐNDVN phát hiện tốp B-52 dẫn đầu trên không phận Lào từ khoảng cách 350 km, góc phương vị 190 ° hồi 21:37 giờ. Sau đó trên cùng hướng này đã phát hiện thêm 11 tốp máy bay ném bom chiến lược, và hồi 21:46 giờ phát hiện các máy bay B-52 đang tiến hành công kích từ phía vịnh Bắc Bộ. Tiếp theo, các phân đội radar còn trình ra theo đường bay một số máy bay ném bom chiến lược B-52 đang đi qua trên không phận vịnh Bắc Bộ.

Trong cuộc không kích này, những đòn tấn công đồng thời được kẻ địch trút xuống các địa điểm sau: các huyện và nội thành thành phố Hà Nội (36 B-52), các huyện và nội thành thành phố Hải Phòng (15 B-52), khu vực thành phố Thái Nguyên (12 B-52). Cuộc tập kích đường không kéo dài từ 22:15 – 23:23 giờ, tức là 69 phút.

Bước đột phá hệ thống phòng không thành phố Hà Nội diễn ra từ các hướng tây, tây bắc và hướng đông nam. Đợt không kích đầu tiên xảy ra tại khu vực sân bay quốc tế Gia Lâm hồi 22:25 giờ, và trận cuối cùng - khu vực nhà ga đường sắt Yên Viên – 22:50 giờ. Ngoài ra, nhiều trận không kích dội xuống các khu vực phía tây, phía nam, phía đông nam thành phố và một phần khu trung tâm (phố Khâm Thiêm).

Hầu như cùng một lúc (22:35-22:49 giờ), 5 tốp B-52 tấn công thành phố Hải Phòng (nhà máy đóng tàu, nhà máy xi măng, kho nhiên liệu cũ). Bước đột phá hệ thống phòng không tiến hành từ phía nam ở độ cao 10.000-11.000 m, trên một khu vực tương đối hẹp (chừng 10-15 km).

Từ 23:07-23:17 giờ 4 tốp B-52 tấn công nhà máy liên hợp luyện gang thép và nhà máy điện trong khu vực thành phố Thái Nguyên.

Hoạt động của các máy bay yểm trợ tác chiến khi thực hiện các nhiệm vụ của chúng, thể hiện trong sơ đồ 3, không có sự khác biệt so với hoạt động trong các cuộc không kích trước.

So sánh tính chất hoạt động của không quân Mỹ trong hai cuộc tấn công đường không được xem xét trên đây cho thấy rằng chiến thuật của nó có các tính năng khuôn mẫu, điều đó cho phép Quân chủng PKKQ phát hiện đối phương kịp thời và tiến hành các hoạt động chiến đấu của mình một cách thành công.

Khi đánh giá kết quả việc sử dụng quy mô lớn không quân chiến lược Mỹ trong chiến dịch "Linebacker-2" nên lưu ý rằng việc sử dụng máy bay B-52 làm lực lượng tấn công chính đã đảm bảo cho bộ chỉ huy Mỹ ở một mức độ nhất định tìm ra cách giải quyết một phần các nhiệm vụ của một kế hoạch quân sự. Kết quả của các vụ ném bom dã man đã phá hủy hàng chục công trình ở các khu vực của Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, làm đổ máu hàng ngàn người dân lương thiện yêu hòa bình ở các thị trấn và làng mạc, hàng ngàn người đã bị giết và bị thương. Theo một số dữ liệu còn xa mới đầy đủ, tại Hà Nội và các vùng ngoại ô của nó trong thời gian trên  bom đạn Mỹ đã giết chết hơn 1.300 người, làm bị thương khoảng 2.800 người (chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em), phá hủy hơn 8.000 và làm hư hại nghiêm trọng hơn 9.000 nóc nhà. Tại Hải Phòng, số người chết và bị thương tương ứng lên tới 305 và 882 người.

HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN CỦA KHÔNG QUÂN CHIẾN THUẬT VÀ KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN TRÊN TÀU SÂN BAY

Không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay trong chiến dịch đã diễn ra nói trên thực hành giải quyết chủ yếu là các nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu: 45% số phi vụ được chúng thực hiện là để yểm trợ cho các hoạt động tác chiến của máy bay ném bom chiến lược, và 14% số phi vụ để đảm bảo hoạt động cho các nhóm tấn công của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay.

Đồng thời phần lớn lực lượng không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay đã được sử dụng để tấn công ồ ạt trên quy mô lớn vào các mục tiêu khác nhau ở miền Bắc Việt Nam.

Các khả năng tác chiến và thủ đoạn chiến thuật của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay được xác định bởi tính chất của đối tượng cần oanh tạc, hệ thống phòng không bảo vệ mục tiêu, nhiệm vụ chiến đấu đề ra và lực lượng huy động thực hiện. Bộ chỉ huy Mỹ tin rằng việc sử dụng nó một cách tập trung sẽ tăng tối đa mức độ phá hủy các đối tượng mục tiêu với sự mất mát tối thiểu về phía các lực lượng của họ.


© US AIR FORCE

Nguyên tắc này là cơ sở cho việc lập kế hoạch chiến dịch "Linebacker-2", ở đây, cùng với việc áp dụng các cuộc không kích tạp trung quy mô lớn bằng máy bay ném bom chiến lược B-52, còn dự định tiến hành hàng loạt cuộc không kích ồ ạt quy mô lớn của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay một cách riêng biệt, từng lực lượng trong trường hợp này cũng như phối hợp các lực lượng của 2 bên trong trường hợp kia.

Tổng cộng, trong quá trình chiến dịch bằng lực lượng của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay đã thực hiện 16 cuộc không kích quy mô lớn (303 phi vụ xuất kích), trong đó không quân chiến thuật – 9 cuộc không kích, không quân hải quân trên tàu sân bay - 6 cuộc không kích và phối hợp giữa không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay – 1 cuộc không kích.

Các cuộc không kích tập trung quy mô lớn, theo quy định, thường được tiến hành trong một khu vực mà người Mỹ chọn được nhiều đối tượng cần phá hủy. Điều này cho phép họ tập trung sức mạnh của các nhóm tấn công vào các đối tượng chủ yếu và tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của các nhóm này.

Chẳng hạn, 12 trong 16 cuộc không kích tập trung quy mô lớn được thực hiện trên các đối tượng nằm trong cùng một khu vực, trong đó sử dụng lực lượng không quân chiến thuật đối với thành phố Hà Nội – 5 cuộc không kích, thành phố Thái Nguyên - 2 và thành phố Việt Trì - 1 cuộc không kích, còn sử dụng không quân hải quân trên tàu sân bay đối với thành phố Hải Phòng - 4 cuộc không kích.
.......
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Tám, 2012, 01:16:52 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #6 vào lúc: 17 Tháng Tám, 2012, 08:50:08 pm »

(tiếp)

Trong các cuộc không kích quy mô lớn của không quân chiến thuật vào thành phố Hà Nội, nhiều khu dân cư, ga đầu mối trung tâm đường sắt, nhà máy nhiệt điện, trường đại học bách khoa, sân bay Bạch Mai, nhà máy liên hợp dệt may, cảng đường sông Phà Đen, ga đường sắt Yên Viên và Đông Anh, các kho tàng tại Hà Đông và các trận địa PPK đã bị tấn công. Trong các cuộc không kích quy mô lớn vào thành phố Hải Phòng, không quân hải quân trên tàu sân bay đã ném bom các bến cảng, nhà máy điện, kho chứa nhiên liệu, khu nhà ở, các vị trí PPK và các mục tiêu khác.

Bốn cuộc không kích quy mô lớn đã được tiến hành đồng thời ở các vùng khác nhau của đất nước. Một trong số đó được thực hiện phối hợp bởi không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay, ba cuộc không kích khác – chỉ bằng lực lượng không quân chiến thuật.

Một đặc tính nổi bật của các cuộc không kích tập trung quy mô lớn bằng lực lượng không quân chiến thuật là chúng diễn ra vào ban ngày, thường vào buổi chiều. Điều này trước hết do yêu cầu phải có một tầm nhìn mắt thường tốt để sử dụng bom có điều khiển chống lại các mục tiêu kích thước nhỏ.

KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN TRÊN TÀU SÂN BAY tiến hành các cuộc không kích tập trung quy mô lớn vào ban đêm trong phần lớn trường hợp (80%) và theo quy định, tiến hành đồng thời với lực lượng không quân chiến lược, nhưng trên các khu vực khác nhau.

Việc tổ chức các cuộc không kích tập trung ồ ạt bằng không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay, thủ đoạn chiến thuật trong hoạt động tác chiến của các máy bay thuộc các nhóm tấn công và nhóm yểm trợ tấn công trong thời kỳ diễn ra chiến dịch đường không này có nhiều điểm chung. Ta hãy xem xét các tính chất đặc trưng của chúng qua các ví dụ về cuộc không kích ồ ạt quy mô lớn thực hiện phối hợp giữa không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay ngày 27 tháng 12 năm 1972 vào các thành phố Hà Nội và Hải Phòng (sơ đồ 4).


Sơ đồ 4. Không kích quy mô lớn của không quân chến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay vào các thành phố Hà Nội và Hải Phòng ngày 27/12/1972.

Để tấn công các mục tiêu tại Hà Nội đã điều động 16 chiếc F-4, còn để tấn công các mục tiêu tại Hải Phòng - 24 máy bay A-6 và A-7. Hoạt động của các nhóm công kích được bảo đảm bởi các nhóm gây nhiễu thụ động và phong tỏa các sân bay gồm 20 chiếc F-4 (khi không kích vào thủ đô Hà Nội) và 8 F-4 và EA-6B (kh không kích thành phố Hải Phòng), cũng như các nhóm phát hiện và chế áp hệ thống phòng không (6 F-105 và 4 A-7 tương ứng). Ngoài ra, để hoạt động đối kháng vô tuyến điện tử còn sử dụng thêm 2 máy bay EB-66 và hai máy bay EA-6B.

Cuộc tấn công quy mô lớn vào Hà Nội bằng không quân chiến thuật thực hiện như sau.

Hồi 13:16 giờ các phân đội radar trực chiến phát hiện trên các màn hình chỉ thị các vệt sáng từ khu vực phía tây, cho biết bắt đầu có nhiếu chủ động. Sau 2 phút cũng khu vực màn hình sáng lên do nhiễu chủ động lại xuất hiện từ phía đông. Sự xuất hiện của nhiễu là một trong những dấu hiệu cho sự khởi đầu của một cuộc tấn công lớn bằng máy bay Mỹ vào các mục tiêu tại VNDCCH. Thật vậy, sau một vài phút bộ đội radar phát hiện một nhóm lớn máy bay trên không phận Lào, bay ở độ cao trung bình hướng vào lãnh thổ VNDCCH.

Hồi 13:30 giờ phát hiện nhiễu chủ động từ hướng tây nam. Gây nhễu là một bên đội máy bay F-4 bay theo đội hình "hàng ngang - фронт" gián cách giữa các máy bay khoảng 700-800 m ở độ cao 5000-5500 m. Nhiễu được thiết lập cách Hà Nội 40-45 km và kéo dài 1-2 phút. Sau 2 phút biên đội F-4 thứ hai bắt đầu gây nhiễu, còn sau 3 phút đã phát hiện nhiễu do biên đội F-4 thứ ba tạo ra. Với khoảng thời gian giãn cách từ 2-3 phút về phía đông-nam quan sát được có nhiễu thụ động gây ra bởi 2 biên đội khác.

Tổng cộng trong khu vực Hà Nội từ hướng tây-nam và đông-nam ghi nhận được năm dải nhiễu, mà dần dần sáp nhập vào thành một đám mây duy nhất. Sau đó, các máy bay thuộc các tốp gây nhiễu đã phong tỏa các sân bay Nội Bài, Kép, Gia Lâm, Hòa Lạc, Yên Bái.

Một cặp F-105 thuộc thành phần các nhóm phát hiện và chế áp phòng không, bay ở độ cao 3000-4000 m, vượt trước thời gian 1-2 phút so với biên đội cường kích F-4.


© US AIR FORCE

Trong khu vực Hà Nội, cặp đôi này vượt khỏi nhóm công kích đi vào khu vực quần vòng ở vị trí cách thành phố 20-30 km về phía đông bắc. Cặp thứ hai của nhóm này bay theo cùng tuyến bay như cặp đầu tiên, nhưng với giãn cách thời gian 5-6 phút so với biên đội công kích thứ hai. Khi cuộc công kích diễn ra cặp F-105 này quần vòng cách thành phố 20-30 km về phía tây nam. Cặp F-105 thứ ba bay ở cùng độ cao, vượt sớm biên đội công kích thứ ba 1 phút. Khu vực quần vòng của nó ở vị trí 20-30 km về phía đông nam Hà Nội.

Biên đội F-4 của nhóm bảo vệ trực tiếp, bay theo tuyến trùng với biên đội công kích thứ nhất, tiến khỏi khu vực công kích 15-20 km về phía bắc thành phố và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tất cả các nhóm công kích trước sự tấn công của máy bay tiêm kích Việt Nam.

Dưới màn che của nhiễu chủ động và thụ động biên đội thứ nhất của nhóm công kích từ 13:38-13:42 giờ đã thực hành tấn công vào các mục tiêu ở khu tây nam Hà Nội. Chuyến bay của biên đội diễn ra ở độ cao 4500-6500 m trong đội hình “một cặp xếp hàng dọc" theo đường bay khép kín. Mỗi máy bay lần lượt vào ném bom ở độ cao 1500-2000 m.

Sau 4-5 phút khi biên đội thứ nhất của nhóm công kích đã kết thúc hoạt động, biên đội F-4 thứ hai bước vào công kích.

Các mục tiêu ở vùng ngoại ô phía nam Hà Nội đã bị ném bom liên tiếp bởi các biên đội F-4 thứ ba và thứ tư, với giãn cách thời gian là 8 phút.

Việc đột phá qua hệ thống phòng không từ hướng đông nam được thực hiện ở độ cao 4500-5500 m. Tất cả các máy bay của nhóm tấn công và nhóm yểm trợ trực tiếp đều thực hiện phóng nhiễu chủ động.

Đồng thời (từ 13:38-14:24 giờ), không quân hải quân trên tàu sân bay thực hiện không kích ồ ạt vào các đối tượng thuộc thành phố Hải Phòng. Biên đội máy bay EA-6B, bay theo hành trình ở độ cao 5000 m, thiết lập một dải nhiễu thụ động dài 25-30 km và rộng khoảng 3 km. Bay ở trên cao và ở phía trước biên đội trên là biên đội tiêm kích hạm F-4, bảo vệ các máy bay gây nhiễu trước các máy bay tiêm kích Việt Nam. Sau khi gây nhiễu biên đội máy bay EA-6B trở lại tàu sân bay của mình, và biên đội tiêm kích hạm phong tỏa các sân bay Kiến An và Cát Bi.

Các máy bay nhóm tấn công hợp thành các cặp và các biên đội từ các dải độ cao 300-400 m và 5000-6000 m thực hiện ném bom xuống các sân bay Kiến An và thành phố Hải Phòng (nhà máy sản phẩm bê tông, nhà ga xe lửa, khách sạn, khu dân cư trên các đường phố AnVĩnh, Tô Hiệu, Mê Linh, Trần Phú). Mỗi cặp (biên đội) thực hiện 3-4 lần tiến vào công kích mục tiêu từ các hướng khác nhau. Trong khi đó các máy bay còn lại thuộc nhóm tấn công đang ở trong khu vực bay chờ cách mục tiêu 40-50 km ở độ cao 5000-6000 m - bên ngoài khu vực hoạt động của tên lửa phòng không. Tổng thời gian có mặt của mỗi máy bay trong khu vực có hỏa lực tên lửa phòng không diễn ra không quá 5-10 phút. Trong hầu hết các trường hợp, đường bay tiếp cận khi tấn công mục tiêu thực hiện ở độ cao 500-700 m. Trong khu vực hoạt động của TLPK và PPK, các máy bay làm động tác "leo dốc - горку" đến độ cao 3000-4000 m. Đợt công kích vào mục tiêu được chỉ định thực hiện với thao tác bổ nhào ở góc 30-35 °, sau đó máy bay từ độ cao 1500-2000 m thoát ra phía biển.

Bay phía trước (với giãn cách thời gian khoảng 1,5-2 phút) nhóm tấn công đầu tiên ở độ cao từ 3000 đến 4000 m là một biên đội A-6A với nhiệm vụ chế áp phòng không. Trong khu vực mục tiêu cần tấn công biên đội được tách thành hai cặp, một trong số đó quần vòng cảnh giới về phía tây, cặp kia – tuần vòng phía đông thành phố ở độ cao 4000-5000 m.

Ngoài các máy bay nhóm yểm trợ, trực tiếp tham gia vào cuộc tấn công, trên không phận Lào và Vịnh Bắc Bộ còn có các máy bay đối kháng vô tuyến điện tử, cảnh báo sớm trên không, trinh sát điện tử và sở chỉ huy trên không tuần vòng, chúng làm công tác đảm bảo cho cuộc không kích.

Như vậy, từ phía Lào có hai máy bay EB-66 ở độ cao 6000-7000 m tiến hành gây nhiễu chủ động, che chắn cho các nhóm máy bay tấn công vào khu vực thủ đô Hà Nội. Hai máy bay đối kháng VTĐT (REP-РЭП) loại EA-6B (hoặc EKA-3B) từ phía Vịnh Bắc Bộ dùng màn nhiễu chủ động che chở cho các máy bay thuộc nhóm tấn công vào khu vực thành phố Hải Phòng. Ba máy bay AWACS (E-2A hoặc E-1B) từ phía vịnh Bắc Bộ ở độ cao 9.000-10.000 m thực hiện kiểm soát bằng radar không phận nước VNDCCH và tiến hành trinh sát điện tử. Ngoài ra trong thời gian này máy bay trinh sát chến lược KC-135 cũng tiến hành trinh sát điện tử trên vịnh Bắc Bộ. Bảo vệ cho chúng trước các máy bay tiêm kích Việt Nam là 2 đến 3 nhóm tuần tra không phận chiến đấu gồm 2-4 chiếc F-4 hoặc F-8 mỗi nhóm.

Khi so sánh tính chất thực hành các cuộc không kích ồ ạt bằng không quân chiến thuật và không quân chiến lược, có thể nói chúng có rất nhiều điểm chung, "đặc biệt là trong các vấn đề hoạt động của các nhóm yểm trợ”. Tương tự chiến thuật tấn công mục tiêu được xác định trong mỗi trường hợp bởi các phương tiện được dùng để oanh tạc hủy diệt và phương pháp sử dụng chúng.

Sơ đồ tổng thể và cách tổ chức các cuộc không kích quy mô lớn khác của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay trên nhiều khía cạnh tương tự ví dụ đã được xem xét ở trên.

Về tổng thể, các cuộc không kích quy mô lớn được tiến hành bởi không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay, đặc trưng bởi sự chuẩn bị chu đáo và sự tổ chức được cân nhắc kỹ càng khi thực hiện chúng. Đặc biệt cần nhận xét rằng bộ chỉ huy Mỹ đã giành sự quan tâm lớn cho các vấn đề bảo đảm chiến đấu: trinh sát chụp ảnh và trinh sát điện tử trước khi không kích, trong quá trình thực hiện không kích và cả sau khi không kích, tổ chức đối kháng vô tuyến điện tử, chế áp hệ thống phòng không, cũng như tổ chức công tác cứu hộ và sơ tán các thiết bị kỹ thuật hàng không bị hư hỏng.

CÙNG VỚI CÁC CUỘC KHÔNG KÍCH Ồ ẠT, KHÔNG QUÂN CHIẾN THUẬT VÀ KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN TRÊN TÀU SÂN BAY ĐÃ ÁP DỤNG RỘNG RÃI VIỆC TẤN CÔNG BẰNG CÁC MÁY BAY ĐƠN LẺ VÀ CÁC TỐP NHỎ. Số các phi vụ hoạt động tác chiến hình thức này trong thời gian chiến dịch chiếm 58% tổng số phi vụ. Khả năng hoạt động chiến đấu như vậy đặc biệt tiêu biểu đối với các máy bay hải quân trên tàu sân bay và máy bay tiêm kích-ném bom có dạng cánh biến đổi hình học F-111A.


© US AIR FORCE
........
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Tám, 2012, 01:43:26 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #7 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2012, 03:02:25 pm »

(tiếp)

Các nỗ lực đầu tiên nhằm sử dụng máy bay F-111A tấn công các mục tiêu của VNDCCH được người Mỹ thực hiện vào năm 1968, tuy nhiên, sau khi mất 3 máy bay vì các lý do khác nhau, người Mỹ buộc phải quay về với các máy bay còn lại trên lục địa để thử nghiệm lại toàn diện và sửa chữa hoàn thiện. Vào mùa thu năm 1972, bộ tư lệnh không quân đã chuyển giao 48 máy bay F-111A đến căn cứ không quân Takli (Thái Lan).

Các hoạt động tác chiến không thường xuyên của F-111A chống lại VNDCCH và Lào trong giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1972 cho phép các phi công thu được kinh nghiệm chiến đấu, và sau đó sử dụng kinh nghiệm vào chiến dịch tập kích đường không "Linebacker-2". Từ 18 đến 30 tháng 12 năm 1972, mỗi đêm bất kể điều kiện thời tiết, những chiếc máy bay này đã thực hiện 10-12 lần xuất kích. Về tổng thể, trong chiến dịch trên, các máy bay F-111A đã thực hiện 112 phi vụ và ném xuống gần 700 tấn bom. Một tính chất đặc trưng của việc sử dụng tác chiến loại máy bay này là đã thành quy luật, từ sân bay căn cứ Takli (Thái Lan) cho đến điểm dân cư Mộc Châu (tỉnh Sơn La, VNDCCH), chúng bay theo tuyến đường bay không đổi, còn từ Mộc Châu – chúng bay tiếp tới các mục tiêu quy định. Trắc dọc đường bay theo độ cao được biến đổi: từ sân bay đến thành phố Sầm Nưa (Lào) giữ độ cao 8.000-9.000 m, sau đó máy bay giảm cao độ và từ khu vực Mộc Châu đến đối tượng oanh tạc F-111A bay trên các độ cao thấp và cực thấp. Việc bay ở độ cao rất thấp làm cho nó vượt qua tương đối dễ dàng các hệ thống phòng không VNDCCH và tung ra các đòn tấn công bất ngờ.

Các nỗ lực chính của các máy bay F-111A tập trung vào việc phá hủy các mục tiêu "diện địa" (sân bay, ga xe lửa, kho, cảng, v.v.), bởi vì tấn công từ độ cao thấp vào các mục tiêu kích thước nhỏ không thể đạt được độ chính xác cao khi ném bom. Tải trọng bom của máy bay khoảng 5000 kg. Các tùy chọn thường được dùng phổ biến nhất - 12 bom Mk83 cỡ 1.000 pound (452 kg).

Phương pháp tấn công chính của nó là ném bom từ tư thế bay bằng và bay ngóc lên khi thoát tới công kích mục tiêu theo hỗ trợ của mốc địa tiêu. Ví dụ, khi tấn công cảng sông Phà Đen và sân bay Gia Lâm, máy bay đã lấy một tháp cấp nước tại Hà Nội làm một điểm tham chiếu.

Việc thực hiện chuyến bay tại các độ cao thấp và cực thấp được đảm bảo bởi một radar đặc biệt có trên máy bay cho phép nó vòng qua các chướng ngại và đi men theo các nếp gấp địa hình.

Phân tích các kết quả của các cuộc ném bom tấn công do máy bay F-111A tiến hành, cho thấy hiệu quả của chúng không đủ cao do việc ném bom chỉ đạt độ chính xác thấp, và bom rơi xuống còn một số lượng lớn chưa nổ. Đồng thời, hoạt động liên tục có hệ thống của những chiếc máy bay trên với giãn cách thời gian 15-40 phút, đặc biệt là trong ba ngày đêm đầu tiên của chiến dịch và các đòn tấn công bất ngờ của nó đã gây một tác động đáng kể lên tâm lý dân cư và làm cho đội ngũ quân nhân Quân chủng Phòng không và Không quân QĐNDVN vô cùng mệt mỏi.

Các máy bay F-111A tiến hành hoạt động tác chiến độc lập, không có bất kỳ sự yểm trợ đặc biệt nào.


© US AIR FORCE

KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN TRÊN TÀU SÂN BAY, và trước hết là các cường kích hạm A-6, A-7, hoạt động từ các tàu sân bay Hạm đội 7 Hải quân Hoa Kỳ ("Midway," "Saratoga", Ranger", "Enterprise "), có mặt ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ cách bờ biển VNDCCH trong khoảng 150-200 km . Hơn hai phần ba số phi vụ được thực hiện theo các tốp nhỏ, mà trong những ngày đầu chiến dịch đã bổ sung thêm các cuộc không kích tập trung quy mô lớn vào thủ đô Hà Nội bằng các đợt tấn công vào các mục tiêu vùng ven biển VNDCCH. Việc tập hợp đội hình của các tốp máy bay tấn công diễn ra sau khi cất cánh ở khoảng cách cách các tàu sân bay 50-65 km theo lệnh từ đài kiểm soát không lưu. Các tốp 2-6 máy bay trong đội hình "so le - пеленг", "hình thoi - ромб", "mũi tên - клин" trên độ cao 5000-6000 m bay tiếp vào khu vực tấn công hoặc khu chờ. Chiều sâu đội hình chiến đấu của các nhóm tấn công trong trường hợp này là 600-1500 m, chiều rộng - 200-1000 m.


Mũi tên.


Hình thoi.


So le.

Để nâng cao độ chính xác của các đợt tấn công ban đêm, máy bay cường kích A-6 trang bị một loại radar đặc biệt cho dẫn đường trên không và ném bom, được đưa vào thành phần các nhóm tấn công. Các máy bay A-6 dẫn tốp đến mục tiêu và phát lệnh ném bom cho các máy bay A-7 đi sau. Theo quy định nhóm tấn công gồm các máy bay A-6 và A-7 được hộ tống bởi các tiêm kích F-4 và F-8, bay cao hơn nhóm chủ công 600-700 m và hơi vượt về phía trước một chút. Khi đến gần mục tiêu, chúng tách ra 15-20 km so với nhóm tấn công và bảo vệ nó trước các máy bay tiêm kích Việt Nam. Số lượng máy bay tiêm kích hộ tống có khác nhau và phụ thuộc vào tính chất của các mục tiêu cần tấn công, khả năng phản kích của không quân Việt Nam và bằng 10-25% tổng số lượng các máy bay của nhóm tấn công. Phương pháp ném bom chủ yếu ban đêm là ném bom trong tư thế bay bằng với động tác bay ngóc lên khi thoát vào công kích mục tiêu bám theo mốc địa tiêu phụ trợ.

Bắt đầu từ 23 tháng 12, không quân hải quân trên tàu sân bay hoạt động tấn công các mục tiêu thuộc dải ven biển VNDCCH vào ban ngày. Các cuộc tấn công được chuẩn bị trước bởi các chuyến bay trinh sát ảnh và trinh sát điện tử một cách kỹ lưỡng. Việc tiếp cận mục tiêu được thực hiện, thường là bởi các tốp 2 ( hoặc ba) chiếc ở độ cao 500-600 m, từ các hướng khác nhau. Sau khi đi vào khu vực phát hiện của radar máy bay thực hiện thao tác "kéo cao-lên dốc" ("горка") đến độ cao 3000-4000 m. Việc tiến vào đối tượng công kích được thực hiện từ hướng mặt trời với việc sử dụng thao tác cơ động về hướng, máy bay thả bom – trong tư thế bổ nhào, sau đó các máy bay thuộc nhóm tấn công từ độ cao thấp bay thoát ra phía biển. Nếu một biên đội đang tấn công thì các máy bay còn lại bay trong khu vực chờ bên ngoài vòng hỏa lực của TLPK và PPK (cách mục tiêu 35-50 km và ở độ cao 5000-6000 m).

Trong thời gian trời sáng cũng như trời tối của một ngày đêm, để tấn công, đã quy định phải có 60% tổng số các máy bay cất cánh từ tàu sân bay (khi tiến hành hoạt động tác chiến bằng các tốp nhỏ). Các máy bay còn lại được sử dụng với nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu (máy bay tiêm kích hộ tống, máy bay trinh sát, máy bay AWACS, trinh sát điện tử và đối kháng điện tử).

Chiều sâu nhỏ của lãnh thổ VNDCCH cho phép người Mỹ tạo ra trên đó một trường sóng radar dày đặc bởi 3-5 máy bay AWACS, khu vực tuần tra của chúng nằm trên khong phận vịnh Bắc Bộ tại độ cao 9.000-10.000 m, và việc tiến hành trinh sát liên tục bằng radar – sẽ giải quyết hiệu quả hơn nhiệm vụ bảo vệ đường không cho các nhóm tấn công.
.........
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Tám, 2012, 05:29:16 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #8 vào lúc: 18 Tháng Tám, 2012, 06:02:19 pm »

(tiếp)

Để tổ chức tự bảo vệ, các máy bay cường kích hạm A-6 và A-7 sử dụng rộng rãi các dạng nhiễu chủ động và nhiễu đáp ứng-xung khác nhau (активных ответно-импульсных помех). Ngoài ra, nhiễu chủ động còn được tạo ra bởi các máy bay REP chuyên dụng (EA-6B "Prowler"), và trong một số trường hợp – từ các tàu chiến Hạm đội 7 Hải quân Hoa Kỳ.

CÁC MÁY BAY KHÔNG QUÂN CHIẾN THUẬT VÀ KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN TRÊN TÀU SÂN BAY trong thời gian chiến dịch sử dụng nhiều chủng loại vũ khí bom, mìn, tên lửa, rocket, súng-pháo. Tính đến sự cần thiết phải cơ động linh hoạt khi vượt qua hệ thống phòng không và giải quyết các nhiệm vụ đặt ra khi tiêu diệt mục tiêu, các máy bay nhóm tấn công đã mang theo một tải bom chỉ bằng 30-60% của tải trọng tối đa.

Nhìn chung, chiến dịch có tính chất đặc trưng ở việc sử dụng rộng rãi bom điều khiển bằng các đầu tự dẫn laser, truyền hình, hồng ngoại và các loại đầu tự dẫn khác, đảm bảo độ chính xác cao hơn khi đánh vào các đối tượng kích thước nhỏ (cầu, xe tăng, xe tải, khí tài phòng không, đường hầm, các cấu trúc hệ thống đường sắt, các tòa nhà công nghiệp và hành chính và v.v.)

Nguyên tắc sử dụng bom có điều khiển bằng chiếu xạ laser được thể hiện trong sơ đồ 5.



Các trái bom có điều khiển trên các máy bay thuộc nhóm công kích không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay, theo quy định, thường chiếm 20-50% tổng tải trọng bom của máy bay.

Các loại bom có điều khiển sử dụng phổ biến nhất là loại Mk82 cỡ £ 500 (226 kg), Mk84 cỡ 2000 lb (907 kg) và Mk118 cỡ £ 3.000 (1.360 kg) với đầu tự dẫn bán chủ động – theo chùm tia laser phản xạ. Chính bằng các loại bom như vậy trong cuộc không kích tập trung của không quân chiến thuật vào thành phố Hà Nội ngày 21 tháng 12 mà ngay từ lần tấn công đầu tiên đã phá hủy tòa nhà của ga xe lửa trung tâm và nhà máy nhiệt điện Yên Phụ.

Điều khiển đường bay của quả bom rơi tự do trong không trung bằng cách sử dụng đặc tính khí động học của nó cho phép tăng độ chính xác hàng chục lần (so với các quả bom không điều khiển) cho việc ném bom.

Nguyên tắc sử dụng loại bom này như sau. Tia laser của radar định vị hướng đến mục tiêu được lựa chọn. Năng lượng phản xạ từ mục tiêu tán xạ về mọi hướng, nhưng phần tối đa của nó nằm trong một hình nón với góc đỉnh 30 °. Quả bom rơi từ chiếc máy bay sẽ bay theo một quỹ đạo đạn đạo xuống mặt đất cho đến khi nào mà mục tiêu, vẫn đang được chiếu xạ bởi chùm tia laser định vị, chưa rơi vào trong trường quét của đầu tự dẫn của quả bom và tín hiệu từ mục tiêu chưa đạt tới một giá trị nhất định.


PavewayI. "BOLT-117" LGB (GBU-1/B): sử dụng trong chiến tranh Việt Nam.

Tại thời điểm đó đầu tự dẫn của quả bom sẽ khóa mục tiêu, sau đó bắt đầu pha bom bay có điều khiển. Theo nguyên tắc chung, việc ném bom được thực hiện sao cho phần quỹ đạo mà bom bay không điều khiển không vượt quá 3 giây. Tại phân đoạn có điều khiển của quỹ đạo, đường bay của bom được chỉnh sửa theo các tín hiệu lỗi, được xác định bởi đầu tự dẫn, bằng cách tín hiệu đó tác động lên các cánh lái quả bom thay đổi độ chòng chành và độ nghiêng. Việc chiếu mục tiêu (chiếu xạ) bằng chùm tia laser được thực hiện bởi một máy bay-chỉ thị mục tiêu chuyên biệt, hoặc bằng chính bản thân máy bay mang bom. Hệ thống trong đó mục tiêu được chiếu xạ bởi máy bay-vạch đường, được gọi là "Pave Way" và hệ thống trong đó mục tiêu được chiếu xạ bởi máy bay mang bom – gọi là "Pave Knife".


"Pave Knife" trên F-4D 435 TFS, Ubon, Thailand, 1973.

Trong mỗi hệ thống đã phát triển một phương án tối ưu (về độ chính xác) trong việc sử dụng bom có điều khiển (phương pháp ném bom "tiêu chuẩn"). Tuy nhiên, phương pháp này không tính đến khả năng phản ứng của các phương tiện phòng không đối với máy bay-chiếu xạ mục tiêu và máy bay-mang bom. Do điều đó giảm độ chính xác, người Mỹ đã phát triển trong mỗi hệ thống một số phương pháp ném bom "xác suất", cho phép tăng chiều cao, tầm xa của trần bay ném bom, và khả năng sử dụng nhiều phương tiện mang ném bom cùng một lúc.

Trong hệ thống "Pave Way" radar laser được lắp đặt trên các máy bay chuyên dụng F-4D và OV-10. Đầu di động của radar bố trí phía bên trái thân máy bay và có thể đảm bảo chiếu xạ mục tiêu trong cung 60 °. Tầm xa nghiêng tối đa của đường bay đến đối tượng oanh tạc là 7-8 km. Thao tác viên phát hiện mục tiêu nhờ sử dụng các phương tiện quang học, sau đó bật radar laser, chùm tia của máy phát chiếu vào đối tượng lựa chọn oanh tạc được duy trì bằng tay cho đến khi quả bom có điều khiển ném xuống phát nổ.

Ném bom bằng phương pháp "tiêu chuẩn" trong hệ thống "Pave Way" (sơ đồ 6) được thực hiện bởi hai máy bay: máy bay mang bom và máy bay chỉ thị mục tiêu. Trên chiều cao 3,5-4 km khi tiếp cận mục tiêu, máy bay chỉ thị mục tiêu thực hiện vòng ngoặt trái, bay thành vòng tròn bán kính 3-4 km với độ chúi dọc thân 40-45 °. Đồng thời phi công-trắc thủ duy trì bằng tay chùm tia laser chiếu vào mục tiêu. Máy bay-mang bom có điều khiển từ độ cao 6 km chuyển sang tư thế bổ nhào ở góc 30-45 ° theo hướng vuông góc với hướng của máy bay-chỉ thị mục tiêu. Vị trí tương hỗ này của các máy bay đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho đầu tự dẫn của bom khóa được mục tiêu. Việc thả bom tiến hành từ chiều cao 1,8-3,6 km với trù tính để nó rơi vào một hình nón với góc ở đỉnh 30 °, tương ứng (đối với hầu hết các mục tiêu) với vùng cực đại của năng lượng phản xạ của chùm tia laser. Phương pháp này đôi khi được gọi là phương pháp "trọng tâm" hoặc "ném bóng vào giỏ".


Sơ đồ 6. Các phương pháp ném bom trong hệ thống "Pave Way":
a - phương pháp "chuẩn"; b(б) - phương pháp "xác suất".


Phương pháp ném bom “xác suất” đặc trưng bởi người ta không áp đặt yêu cầu nghiêm ngặt cho các thông số của đường bay. Nhiệm vụ chính của máy bay mang bom là phát hiện và xác định tọa độ mục tiêu, sau đó nó chuyển sang tư thế bổ nhào không phụ thuộc quỹ đạo bay của máy bay-chỉ thị mục tiêu. Chiều cao thả bom thường là 5 km. Máy bay-chị thị mục tiêu, cũng như trong "phương pháp tiêu chuẩn", bay vòng tròn trên dải độ cao lớn (5-5,6 km) với bán kính vòng tròn 5-6 km.

Do một máy bay-chỉ thị mục tiêu có thể đảm bảo công việc cho một nhóm máy bay-mang bom (2-4 F-4), vậy nên một trong những phương pháp "xác suất" là ném bom liên tiếp bằng 2-4 máy bay-mang bom, trong khi việc chiếu xạ mục tiêu do một máy bay-chỉ thị mục tiêu thực hiện. Việc thả bom diễn ra liên tiếp trong khoảng thời gian từ 10-15 s, nhằm loại trừ tác động của các đám mây phát sinh từ vụ nổ của các quả bom ném xuống trước lên sự chỉ thị mục tiêu bằng chùm tia laser. Phương pháp này được sử dụng cho các cuộc tấn công chống các mục tiêu dạng điểm, có hỏa lực phòng không mạnh.
Một máy bay-chỉ thị mục tiêu có khả năng đảm bảo ném bom cho một vài nhóm máy bay-mang bom vào cùng một đối tượng trong một khoảng thời gian 5-15 phút, như thực tế đã diễn ra trong các cuộc không kích tập trung quy mô lớn của không quân chiến thuật trong chiến dịch trên.

Trong hệ thống "Pave Knife" rađa laze được lắp đặt trên máy bay-mang bom có điều khiển. Đầu phát  được lắp đặt dưới thân máy bay và có thể đảm bảo chiếu xạ mục tiêu trong phạm vi 360 °. Tầm nghiêng tối đa tới mục tiêu là 12 km, còn trong thực hành thường là 8-10 km. Quá trình tìm kiếm và ngắm khóa mục tiêu của chùm tia laze diễn ra nhờ máy ngắm truyền hình. Tiếp theo việc bám sát mục tiêu và thả bom được thực hiện tự động.

Trong hệ thống này phương pháp ném bom "tiêu chuẩn" được thực hiện bởi máy bay F-4D (sơ đồ 7).


Sơ đồ 7. Các phương pháp ném bom trong hệ thống "Pave Knife":
a - phương pháp "chuẩn"; b(б) - phương pháp "xác suất".


Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, ánh sáng và hệ thống phòng không bảo vệ đối tượng mà đường bay được lựa chọn sao cho tạo được những khả năng tốt nhất để máy ngắm quang tuyến truyền hình phát hiện mục tiêu. Sau khi phát hiện mục tiêu máy phát laser định vị-chỉ thị mục tiêu tự động bật lên. Khi bổ nhào tại một góc trong khoảng từ 0 ° đến 30 ° ở độ cao 3,5-4 km việc cắt bom được thực hiện tự động. Một tính năng nổi bật của phương pháp này – phải có sự "chiếu sáng" mục tiêu liên tục bằng chùm tia laser cho đến thời điểm bom ném xuống phát nổ (trung bình trong vòng 13 giây).

Khi sử dụng phương pháp ném bom "xác suất", chiều cao cắt bom được tăng lên ở mức 5-5,5 km, đồng thới đòn tấn công có thể tiến hành trong tư thế bay bằng. Trong trường hợp này, cuộc công kích được thực hiện bởi 2 - 4 máy bay F-4, hoạt động từ một hoặc nhiều hướng khác nhau cùng một lúc. Một trong những chiếc máy bay đó sau khi thả bom sẽ được sử dụng để chỉ thị mục tiêu cho các chiếc còn lại, như trong hệ thống "Pave Way" - chỉ với một điểm khác là chiếc máy bay đó có thể thực hiện bất kỳ sự cơ động nào trong khi liên tục chiếu xạ mục tiêu từ khoảng cách không hơn 8-10 km cách điểm nổ của các trái bom đã ném.

Việc trang bị cho trái bom một đầu dẫn đường chủ động đã cải thiện đáng kể độ chính xác của đợt công kích bom. Nếu việc ném bom thông thường khi bổ nhào từ độ cao 3,5 km cho ra độ sai lệch xác suất tuần hoàn của trái bom là 180-200 m, thì khi sử dụng bom có điều khiển ném từ cùng một độ cao như vậy, và áp dụng các phương pháp ném bom "tiêu chuẩn" – sai số xác suất tuần hoàn sẽ giảm còn quãng 3-4 m. Ngoài ra, việc sử dụng bom với tia laser chiếu xạ cho phép tăng chiều cao ném bom, và do đó làm giảm nguy cơ tổn thương trước hỏa lực pháo phòng không cho máy bay.

Cần ghi nhận những nhược điểm sau đây của bom điều khiển bằng chiếu xạ laser:
- tính giới hạn của việc sử dụng (phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, thời gian trong ngày);
- đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ hoạt động của các máy bay khi tấn công nhóm;
- có các yêu cầu nghiêm ngặt về chế độ bay của các máy bay-chỉ thị mục tiêu (bay vòng tròn về bên phải, kéo dài thời gian bổ nhào v.v,);
- độ chính xác giảm mạnh khi bom rơi trong điều kiện bị gây nhiễu dạng đơn giản nhất (màn khói);
- chi phí cao cho đầu tự dẫn của bom và việc chỉ thị mục tiêu bằng laser.
Bom có điều khiển với đầu tự dẫn quang tuyến truyền hình kiểu Mk1 mod 0 "Walleye" và Mk84 "Hobo" đều có độ chính xác cao khi ném, nhưng chi phí của chúng cao vượt hơn 3-4 lần chi phí bom điều khiển bằng chùm tia laser, đã giới hạn việc áp dụng chúng.

Như vậy, việc huy động không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay tham gia các cuộc tập kích đường không ồ ạt quy mô lớn, sử dụng rộng rãi máy bay tiêm kích-ném bom F-111A, áp dụng các loại bom khác nhau (với các đầu tự dẫn laser, hồng ngoại, quang tuyến truyền hình) là các nét đặc trưng nhất trong việc áp dụng tác chiến của không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay trong chiến dịch đường không được xem xét trên đây. Bản thân việc tổ chức không kích ồ ạt và tổ chức hoạt động cho các máy bay đơn lẻ và các tốp máy bay nhỏ, các thủ đoạn chiến thuật sử dụng vũ khí nói chung có tính chất đơn điệu, và mang một số đặc điểm rập khuôn.
........
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Tám, 2012, 07:31:38 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #9 vào lúc: 19 Tháng Tám, 2012, 07:29:02 pm »

(tiếp)

CÔNG TÁC TỔ CHỨC TÁC CHIẾN ĐIỆN TỬ

Trong quá trình diễn ra chiến dịch không kích, bộ chỉ huy Mỹ đã tiến hành chiến tranh điện tử một cách sâu rộng, xem nó như một trong những loại hình đảm bảo quan trọng nhất cho hoạt động tác chiến của không quân. Các phương pháp chiến tranh điện tử chính là:
- trinh sát sự bức xạ của các khí tài vô tuyến điện tử của hệ thống phòng không;
- đối kháng điện tử chống lại các phương tiện vô tuyến điện tử của hệ thống phòng không;
- sử dụng đạn chống radar, tự dẫn theo bức xạ của phương tiện vô tuyến điện tử của hệ thống phòng không.

TRINH SÁT NGUỒN BỨC XẠ TỪ CÁC PHƯƠNG TIỆN VTĐT (RADAR) CỦA HTPK
Công tác này được thực hiện với các mục đích cả về mặt chiến lược và chiến thuật. Trong trường hợp đầu, nó được thực hiện liên tục nhờ trợ giúp của các máy bay SR-71, U-2 và RC-135, trường hợp thứ hai - với sự trợ giúp của các trạm trinh sát điện tử chuyên dụng (RTR), được lắp đặt trên tất cả các loại máy bay chiến lược, chiến thuật và máy bay hải quân trên tàu sân bay.

Trang bị phương tiện trinh sát điện tử (RTR -TSĐT) của các máy bay Mỹ được thể hiện trong bảng 3.
BẢNG 3.


Trạm TSĐT kiểu APR-25 (26), APR-36 (37) và APS-109 cho phép phi công Mỹ trong suốt chuyến bay, không chỉ xác lập sự kiện chiếu xạ máy bay bởi các tín hiệu của radar PK, mà còn dựa trên các thông số của tín hiệu để xác định loại, hướng trỏ tới các đài radar đang chiếu xạ và khoảng cách tới các đài radar ấy (tầm và hướng). Thông tin về kiểu trạm radar được báo cho phi công biết dưới hình thức các tín hiệu âm thanh và tín hiệu phát sáng, trên bảng điều khiển và đèn hiển thị đặc biệt. Hướng và tầm tới nguồn bức xạ được xác định bởi các thông số của tín hiệu trên các màn hiển thị phát xạ-điện tử. Ví dụ, trong đài TSĐT APR-25 (26), có bốn loại đèn chỉ thị:
- đèn phát xạ-điện tử chỉ thị "góc phương vị - khoảng cách";
- bảng hiện sáng với các đèn tín hiệu;
- ống nghe telephone;
- thiết bị kim báo chỉ thị.

Hướng trỏ tới trạm radar đang chiếu xạ được xác định bằng cách sử dụng ăng-ten có đồ thị chặn hướng (антенн с перекрывающими диаграммами направленности). Độ chính xác của phép đo góc phương vị là 1-2 °. Tầm đến trạm radar xác định một cách thô sơ – dựa vào độ lớn tín hiệu đang chiếu xạ vào máy bay. (Khả năng thực hiện nguyên tắc đo lường tầm xa này dựa trên sự hiểu biết các đặc tính kỹ-chiến thuật cụ thể của các loại radar của đối phương).

Loại và nhiệm vụ chiến thuật của radar PK được xác định trên màn hình hiển thị. Đường quét các tín hiệu của các loại radar PK khác nhau trên màn hình khi chiếu xạ máy bay, tùy thuộc vào các thông số của các tín hiệu chiếu xạ hoặc là xung theo chiều dài hoặc độ sáng, hoặc trông giống như một đường chấm chấm.

Để kiểm soát và điều khiển hoạt động của thiết bị gây nhiễu, trên máy bay B-52 và EB-66 có trạm trinh sát điện tử ALR-20. Trạm cho phép trinh sát các tần số của đài radar cần chế áp và thiết lập các nguồn phát nhiễu vào tần số của các trạm radar mà nó chọn để chế áp.

Như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu từ các đài trinh sát điện tử, các phi công đã có thể để đánh giá môi trường vô tuyến điện tử, xác định mức độ nguy hiểm đối với bản thân mình từ phía trạm radar đang chiếu xạ, xác định thời điểm phóng tên lửa phòng không có điều khiển và trên cơ sở thông tin nhận được mà quyết định cơ động tránh tên lửa.

ĐỐI KHÁNG VTĐT ĐỐI VỚI RADAR PHÒNG KHÔNG

Công tác này được tổ chức và thực hiện để phá vỡ sự điều khiển phương tiện phòng không và không quân và làm giảm hiệu quả tác chiến của trang bị hỏa lực của bọ đội TLPK, PPK và không quân tiêm kích. Để làm được điều này người Mỹ sử dụng các loại nhiễu chủ động, xung-đáp ứng và nhiễu thụ động.

Số lượng thiết bị gây nhiễu phải được cài đặt trên các loại máy bay khác nhau, tùy thuộc vào loại máy bay và nhiệm vụ phải thực hiện của chúng. Ví dụ, trên máy bay B-52 có 15 máy phát sóng gây nhiễu, trên máy bay chuyên dụng EB-66 - 12, máy bay không quân chiến thuật - 2-4. Thiết bị phát sóng gây nhiễu được sử dụng trong quá trình chiến dịch đã ngăn chặn các dải tần số từ 40 đến 10500 MHz. Đặc biệt phong phú các thiết bị phát nhiễu là dải tần số làm việc của các khí tài vô tuyến điện tử của các binh chủng radar, TLPK, PPK và KQ QĐNDVN. Ảnh hưởng của nhiễu tác động lên tất cả các loại radar, bao gồm P-12, P-15, P-35, PRV-11, đài dẫn đường cho tên lửa phòng không RSNA-75M, đài dẫn bắn pháo cao xạ SON-9, radar ngắm bắn của máy bay tiêm kích RP-21M, cũng như phương tiện liên lạc vô tuyến và truyền dẫn vô tuyến R-405 và R-409 (P-405 và P-109).

Đài phát nhiễu xung-hồi đáp được áp dụng để gây nhiễu cho trạm radar RSNA-75M. Theo quy định, không tạo ra các loại nhiễu xung-hồi đáp để chống các trạm radar khác.

Để gây nhiễu thụ động người Mỹ sử dụng các bộ lưỡng cực phản xạ, chặn các dải sóng xăngtimét, đềximét và mét. Những loại nhiễu này được thả bởi các máy bay F-4 với sự trợ giúp của máy tự động và các thùng chứa đặc biệt. Chúng được sử dụng để che giấu đội hình tác chiến của các nhóm tấn công trong các cuộc không kích ồ ạt quy mô lớn của không quân chiến lược, không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay, cũng như bảo vệ riêng các máy bay trước mối đe dọa trực tiếp bị TLPK bắn trúng.

Việc trang bị cho không quân Hoa Kỳ các phương tiện đối kháng điện tử và các đặc tính kỹ-chiến thuật chủ yếu của các trang bị này được liệt kê trong bảng 4-6. Trong hình 1-5 chỉ ra mẫu các thiết bị đối kháng điện tử chiến lợi phẩm thu giữ được trên máy bay Mỹ bị bắn rơi.

Biện pháp đối kháng điện tử được tổ chức và thực hiện theo các kịch bản như sau:
- nhiễu chủ động (AShP) với máy bay chuyên dụng đối kháng điện tử và các tàu chiến của Hạm đội 7  Hải quân Mỹ ở vịnh Bắc Bộ;
- nhiễu chủ động từ các máy bay nhóm tấn công, và các máy bay nhóm đảm bảo yểm trợ của Không lực;
- nhiễu xung-đáp ứng (OIP) từ các máy bay nhóm tấn công, và các máy bay nhóm đảm bảo yểm trợ của Hải quân;
- nhiễuthụ động (PP) từ các máy bay của không quân chiến lược, không quân chiến thuật và không quân hải quân trên tàu sân bay.

Trong các cuộc tấn công ồ ạt quy mô lớn của không quân chiến lược, việc đối kháng điện tử được đảm bảo theo kịch bản nhiễu chủ động từ máy bay chuyên dụng đối kháng điện tử, trực tiếp từ các máy bay B-52, từ các máy bay chiến thuật thuộc nhóm yểm trợ, cũng như kịch bản nhiễu thụ động từ các máy bay B-52 thuộc các nhóm cụ thể. Trình tự thực hiện đối kháng điện tử như sau.

Khoảng 15-20 phút trước cuộc tập kích của các máy bay ném bom chiến lược, kịch bản gây nhiễu chủ động bắt đầu bằng các máy bay REP chuyên dụng (Không quân - EB-66, Hải quân - EA-6B và EKA-3B), đang tuần vòng trên vịnh Bắc Bộ và không phận Lào. Qua 10-16 phút sau cuộc không kích các máy bay REP ngừng gây nhiễu.

Khu vực quần vòng, theo quy luật, ở trên các hướng đường bay tiếp cận của nhóm xung kích B-52 tới tấn công mục tiêu. Máy bay REP quần vòng ở độ cao 6-7 km với 2-3 máy bay trong từng khu vực. Khoảng cách của các khu vực quần vòng: từ phía Lào - 60-80 km kể từ biên giới quốc gia gần thị trấn Sầm Nưa, từ phía vịnh Bắc Bộ - 50-60 km tính từ bờ biển. Trong các khu vực quần vòng các máy bay REP được bảo vệ bởi các máy bay tiêm kích (1-2 máy bay mỗi nhóm). Nhiễu chủ động từ các máy bay kiểu EB-66 được tạo ra trong khoảng tần số 40-3500 MHz.

Nhiễu chủ động từ các máy bay B-52 được tạo ra trong toàn bộ các dải tần số (từ 40 đến 10500 MHz) và tác động lên tất cả các loại đài radar của các binh chủng radar, TLPK, PPK, và KQTK cũng như hệ thống liên lạc vô tuyến và truyền dẫn vô tuyến thuộc hệ thống chỉ huy bộ đội QC PK-KQ QĐNDVN.

Nhiễu chặn hoặc nhiễu thiết bị ngắm bắn theo tần số được thiết lập tùy thuộc vào mật độ phân bố các nhóm đài radar và phụ thuộc dải tần số khí tài radar phòng không và không quân QĐNDVN. Như vậy, nhiễu trong dải tần số 400-500 MHz, theo quy luật, là nhiễu thiết bị ngắm bắn theo tần số, trong dải tần 500-1000 MHz – nhiễu chặn. Trong phạm vi bước sóng 10 cm, mà hầu hết các trạm radar đang sử dụng làm việc, nhiễu chặn được tạo ra theo tần số. Các tín hiệu nhiễu trong phần lớn các trường hợp có sự điều chế bổ sung biên độ.

Việc bật máy phát nhiễu trên các máy bay B-52 trên toàn bộ các dải sóng được bắt đầu trước khi máy bay tiếp cận khu vực phát hiện của các trạm radar thuộc binh chủng radar.

Trong dải sóng mét chiều rộng phổ của nhiễu là 6-20 MHz. Năng lượng của phổ, theo quy luật thường phân bố không đều với cực đại nằm trong vùng các tần số làm việc chủ yếu của radar bị chế áp.

Trong các cuộc không kích ồ ạt của không quân chiến lược, nhiễu chủ động cũng được tạo ra từ các máy bay không quân chiến thuật, nằm trong thành phần các nhóm đảm bảo yểm trợ và bảo vệ khác nhau. Ví dụ, trên các máy bay F-4 và F-105 có treo bốn loại thùng chứa cùng với máy gây nhiễu ALQ-87 hoặc ALQ-101, làm việc trong một hoặc hai chế độ. Trong chế độ thứ nhất, chúng điều hưởng trên các tần số của trạm radar bị chế áp và phát xạ nhiễu máy ngắm theo tần số với chiều rộng quang phổ 40-50 MHz khi máy bay bị chiếu xạ bởi các tín hiệu radar của các trạm radar thuộc binh chủng radar, TLPK, và PPK. Ngay khi các tín hiệu radar chiếu xạ máy bay ngừng lại, các máy phát cũng dừng phát xạ nhiễu trên tần số của trạm radar đó. Trong chế độ thứ hai, các máy phát phát xạ nhiễu chặn theo tần số với quang phổ có độ rộng 200-300 MHz. Chúng được bật lên khi máy bay tiếp cận khu vực phát hiện của trạm radar binh chủng radar không phụ thuộc chế độ làm việc của các phương tiện vô tuyến điện tử bị chế áp.

Việc điều khiển sự làm việc của các thiết bị gây nhiễu từ phía phi công trong cả hai chế độ đầu tiên và thứ hai đều được quy về thực hiện thao tác "on-off".

Nhiễu thụ động trong các cuộc không kích ồ ạt quy mô lớn của không quân chiến lược được rải từ các nhóm máy bay riêng của không quân chiến thuật, cũng như từ chính các máy bay B-52.

Kịch bản nhiễu thụ động được thực hiện bởi các máy bay thuộc các nhóm đặc biệt của không quân chiến thuật trong khoảng 10-15 phút trước khi máy bay B-52 tiếp cận khu vực hoạt động tác chiến của bộ đội TLPK. Khu vực, thời gian và chiều cao gây nhiễu thụ động được lựa chọn có tính đến hướng tiếp cận của nhóm B-52 xung kích tới đối tượng công kích, thời gian các nhóm này đi vào vùng hoạt động chiến đấu của bộ đội TLPK và chiều cao đường bay của chúng trên hướng tác chiến. Ví dụ, máy bay F-4D và E bắt đầu đặt nhiễu từ khoảng cách 40-50 km đến đối tượng oanh tạc dọc theo tuyến đường bay của các nhóm xung kích. Trong một số trường hợp, dải nhiễu thụ động cũng được đặt trên tuyến đường bay thoát ly của máy bay B-52 ra khỏi khu vực hoạt động tác chiến của binh chủng TLPK. Nhóm 4-8 máy bay sẽ tạo ra một dải nhiễu thụ động dài tới 30 km và rộng 4-6 km.
..........
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2012, 11:42:45 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM