Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:52:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nguyễn Bình - huyền thoại và sự thật  (Đọc 50481 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #30 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:40:22 am »

Chương 30

Lạc An sống nhờ khoai với củ
Báo Vệ Quốc vẫn đủ văn thơ



Giáo sư Phạm Thiều đang gậm củ khoai mì nướng trong gò mối thì được một anh bộ đội mang tới cho bình tong nước rễ tranh. Họ Phạm nhận bình-toong mời luật gia Lê Đình Chi:

        - Ăn bánh mì “ba ghết” rồi uống trà ô Long Kỳ Chưởng là tiên trên đời rồi!

        Ông Chi rót một chén, vừa thổi vừa uống:

        - Nước rễ tranh nấu với hà thủ ô nước vàng, vị ngọt, mà thơm lại bổ nữa. Theo tôi nó không thua Ô Long đâu!

        Hai nhà trí thức vẫn vui vẻ với cuộc sống gian lao; Tây phong toả chiến khu, không có gạo phải ăn củ mì thay cơm từ mấy tuần nay. Khoai mì ăn hoài cũng ngán, anh em có sáng kiến đục lỗ gò mối làm lò nướng khoai mì đã nấu chín. Dân thành thị từng ăn bánh mì “ba ghết” thời Nhật nên gọi đó là bánh mì ba ghết. Chuyện vui là dân trí thức theo kháng chiến ở miền Đông coi thường gian khổ. Họ cho đây là sự thử thách: lửa thử vàng, gian nan thử sức và họ thề quyết khó mấy cũng vượt qua. Trong chiến khu Lạc An năm 1946 có ba nhà trí thức thuộc ba lĩnh vực khác nhau: Phạm Thiều chuyên dạy văn, Việt văn và Hán văn ở trường trung học Pétrus Ký. Lê Đình Chi là cử nhân Luật, Huỳnh Tấn Phát là kiến trúc sư đã nổi tiếng trước cách mạng tháng Tám. Ông Phát đã thiết kế Hội chợ triển lãm Sài Gòn năm 1942 tại vườn Ông Thượng. Tây gọi là Foire ét Exposition de Sai gon. Hội chợ triển lãm các mặt kinh tế. quân sự, công nghiệp văn hoá... Đặc biệt là tất cả gian hàng đều xây dựng bằng tre, mây, lá, tức vật liệu xây cất toàn là cây nhà lá vườn. Ăn khoai uống lá rừng nhưng các cuộc thảo luận vẫn rôm rả đủ ngành nghề: trong nước và thế giới.

        Câu chuyện đang sôi nổi về chuyến phó hội Fontainebleau của Bác Hổ thì có lính văn phòng tới:

        - Khu trưởng mời giáo sư.

        Phạm Thiều chỉ vô ngực mình:

        - Mời tôi hả?

        - Thưa phải!

        Phạm Thiều nhìn hai bạn lẩm bẩm: “Có việc gì”

        Theo anh lính, họ Phạm vô văn phòng khu trưởng:

        - Khu trưởng cho mời tôi?

        Nguyễn Bình gật:

        - Vâng. Mời giáo sư ngồi. Tôi lo ngại về sức khỏe của giáo sư Trong lúc địch phong toả kinh tế, mấy tuần nay ăn ròng khoai với củ... Không thấy mặt hột cơm ra làm sao.

        Phạm Thiều cười nói:

        - Cám ơn khu trưởng đã lo cho anh em chúng tôi. Nhưng việc thử thách ở mức này không đáng kể. Anh em trí thức chúng tôi còn thừa sức để theo kháng chiến tới cùng.

        Nguyễn Bình cười:

        - Giáo sư nói thật chứ. Hay là giáo sư nói cho tôi an tâm?

        - Tôi nói thật. Phải thanh thản làm người ta mới làm thơ. Chuyện ăn khoai củ coi gian khổ vậy mà anh em vần lẩy ra thơ. Chẳng hạn như: No với đủ cũng nhờ củ với khoai. Kháng chiến hoài cũng nhờ khoai với củ...

        Nguyễn Bình thích thú:

        - Mấy ông nhà báo phải ghi mấy câu này.

        Họ Phạm nói thêm:

        - Còn bài thơ này nữa:

        Đói ăn rau, đau uống thuốc
        Rau trồng bằng cuốc
        Thuốc mua bằng tiền
        Không tiền mua thuốc
        Sẵn cuốc trồng rau
        Thuốc đắng hơn rau
        Rau ngon hơn thuốc
        Hô cuốc.

        Đúng là văn nghệ kháng chiến. Vừa bình dân vừa hay. Tới đây Nguyễn Bình nghiêm giọng lại:

        - Vậy mà có người báo cáo là các ông trí thức ăn khoai hoài chịu không nổi, tính nhảy về thành.

        Phạm Thiều cau mày:

        - Ai báo cáo vậy? Nói láo? Xin thưa với khu trưởng, Phạm Thiều này là ông đồ xứ Nghệ mấy đời thù Tây. Tôi đang là giáo sư trường lớn nhất nhì Sài Gòn, có cuộc sống ổn định, có địa vị xã hội. Vậy mà bỏ hết tất cả để đi kháng chiến. Ra bưng, lên rừng, làm đủ mọi việc, kể cả làm liên lạc của đội quân Nam Tiến của đồng chí Nam Long...

        Nguyễn Bình đưa hai tay ra vẫy vẫy:

        - Giáo sư chớ nóng? Đó là báo cáo láo, tôi có tin đâu? Tôi rất tin anh em trí thức trong Nam, nhất là anh em trí thức theo kháng chiến. Họ quen sống trong nhung lụa, nhà cao cửa rộng, bồi bếp đầy đủ, vậy mà bỏ hết để ăn bờ ngủ bụi... Hôm nay tôi mời giáo sư để hỏi thăm sức khỏe và công việc. Chỉ có thế thôi. Lúc này giáo sư đang làm gì?

        - Chưa có công tác cụ thể nào...

        - Giáo sư có viết báo được không?

        - Được chứ!

        Nguyễn Bình gật gù:

        - Tôi muốn Khu mình có một tờ báo. Giao cho giáo sư có được không?

        Họ Phạm cười:

        - Viết bài thì dễ thôi, nhưng giấy đâu mực đâu? Và nhất là máy in. Đâu phải chuyện dễ!

        Nguyễn Bình xua tay:

        - Miễn là giáo sư nhận lãnh chức chủ bút. Còn máy in, mực in, giấy má để tôi lo.

        - Khu trưởng định đặt tên gì cho tờ báo?

        - Vệ Quốc. Được không?

        - Được. Báo Vệ quốc, Cơ quan ngôn luận của Vệ Quốc Đoàn Chiến Khu 7.

        - Vậy thì ngay từ hôm nay, giáo sư chuẩn bị bài vở cho số ra mắt.

        Một tuần sau, bài vở lo xong thì máy in, giấy mực đã về tới Lạc An. Đây là thành tích của mấy Ban công tác Thành với sự giúp đỡ của các chủ nhà in và mấy anh em ấn công yêu nước trong thành.

        Số ra mắt của tờ Vệ Quốc có bài thơ vui của giáo sư Phạm Thiều:

        Thuở giặc Pháp gây cơn gió bụi
        Bọn Việt gian nhiều nỗi truân chuyên,
        Xanh kia thăm thẳm từng trên
        Thực dân liều mạng mới nên nỗi này
        Súng Sài thành lung bóng nguyệt
        Khói Tân Uyên mờ mịt thức mây
        Chín lần lựu đạn trao tay
        Toàn dân nổi dậy định ngày lật Thinh.

        Bài thơ này phỏng theo Chính Phụ Ngâm nhưng khác xa bài Quốc ca Nam Kỳ tự trị của tên giáo sư Võ Văn Lúa. Tên này thay vì đi dạy Pháp văn trường Chasseloup lại tình nguyện làm thông dịch viên cho phái đoàn thương thuyết Pháp ở Đà Lạt. Không biết do con gì chích mà hắn nhảy ra làm bài quốc ca bù nhìn bắt đầu bằng câu “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi“.

        Trở lại tờ báo Vệ Quốc. Trên manchette có hai câu đối cũng do họ Phạm làm:

        Vệ Quốc tinh thần cao vạn trượng
        Chí Linh đại đức chiếu ngàn năm.

        Tờ Vệ Quốc ra đời như thế đó. Bối cảnh lịch sử là Lạc An trong những ngày đen tối, giống như nghĩa quân Lam Sơn bị quân Minh bao vây trên núi. Ăn củ mì thay cơm mà văn thơ vẫn hừng hực khí thế của kẻ nắm chắc cái thắng trong ta. Ông chủ nhiệm báo Vệ Quốc sau đó tâm tình với anh em biên tập: Không có một tư lệnh biết trọng trí thức như khu trưởng Nguyễn Bình, chưa chắc đâu có Vệ Quốc.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #31 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:41:30 am »

Chương 31

Giết ngựa khu trưởng nuôi đại đội
Võ Cương sợ quở lại được khen




Hội Nghị Thiền Quang thường được gọi là Hội nghị miếu Ba Cô vừa kết thúc, Tây tấn công Tân Uyên ác liệt chưa từng thấy. Rõ ràng là chúng đã tính nước cờ chụp Bộ chỉ huy Khu 7 trong khi cử phái đoàn thương thuyết tới Đại An. Ông chánh trị bộ chủ nhiệm Trần Xuân Độ đã có lý khi một mình chống lại quyết định thương thuyết với Tây. Rất tiếc là ông Độ thiểu số. Sự kiện này dù sao cũng chứng tỏ nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số không phải lúc nào cũng đúng. Đây là trận tổng tiến công hải lục không quân. Tàu chiến có bố trí đại liên trây-đơ (13-2), đại bác 20 ly chở quân theo sông Đồng Nai từ Biên Hoà ngược lên Tân Uyên giáp công với bộ binh nhắm vào thị trấn, trong khi máy bay thả dù chụp các cơ quan đóng trong các xã Tân Hoà, Mỹ Lộc.

        Trong trận thử lửa này, thương binh đầu tiên của Chiến Khu Đ là anh Bùi Xuân Tảo. Anh là thanh niên miền Bắc đi phu cao su và ngay từ đầu đã tình nguyện vào bộ đội đánh Tây. Anh bị thương cánh tay mặt, vết thương làm độc phải cưa bỏ. Không có cưa, giám đốc quân y viện Võ Cương phải dùng cưa sắt.

        Anh Tảo đề nghị anh em hát quốc ca để giúp anh vượt qua cơn đau. Câu chuyện cưa tay anh Tảo trở thành một giai thoại hào hùng về người chiến sĩ miền Đông Nam Bộ trong những năm đầu kháng chiến.

        Anh Tám Nghệ cưỡi ngựa đi ngang, nghe hát quốc ca xuống ngựa đứng nghiêm. Nhưng quốc ca cứ hát mãi, anh Tám tò mò đi vào bịnh viện. Anh đã rơi nước mắt trước cảnh giải phẫu thương binh hi hữu. Trong xúc cảm anh làm bài thơ về người thương binh đầu tiên của Tân Uyên.

        Đây nói về bác sĩ đã cưa tay anh Tảo bằng cưa sắt. Anh tên là Võ Cương, một sinh viên năm thứ tư trường Y ở Sài Gòn. Năm 1940 Tây mở trường đào tảo bác sĩ tại Sài Gòn gọi là “Assistants Indochinois de Médecine Sociale”. Ngày 23-9-1945, Võ Cương theo bộ đội giữa mặt trận Bình Điền. Đêm đó anh nằm trên mặt đường nhựa từ đầu hôm tới khuya chờ giặc.

        Mặt trận sắp vỡ vì thế giặc quá mạnh. Trong đầu anh thanh niên quê tỉnh Thanh Hoá chỉ có một câu lỏi duy nhất “Đi về đâu?”. Huỳnh Văn Tiểng giải đáp giúp anh: Ta đang cần cứu thương. Anh mở khoá đào tạo cứu thương ngay đi.

        Trong công việc này Vô Cương gặp bác sĩ Nguyễn Thị Lợi, (về sau là vợ bác sĩ Lương Phán). Thế là hai người cùng lên xe đi về miền Tây để lo mở khoá cứu thương. Dọc đường lưu động, Võ Cương trôi về Cao Lãnh cùng với giáo sư thạc sĩ Trần Quang Đệ trước đây là thầy của anh. Tinh thần đồng bào Cao Lãnh rất cao. Tất cả mọi sinh hoạt làm ăn buôn bán đều ngưng hẳn, thanh niên vô dân quân, phụ nữ lo cơm nước tiếp tế. Những nhà tư sản thấy có hai bác sĩ từ Sài Gòn tới liền lân la hỏi chuyện. Nghe ông Đệ muốn lập một bịnh viện, lập tức họ hiến hai ghe chài rồi đi kiếm sơn trắng sơn bên trong cho thật sạch. Ông Đệ bàn với Võ Cương: “một ghe làm nơi băng, một ghe làm nơi mổ”. Nhưng chưa bắt tay vào việc thì Đệ tam sư đoàn kéo tới Cao Lãnh tác oai tác quái. Nghe tên tuổi giáo sư thạc sĩ Trần Quang Đệ, Nguyễn Hoà Hiệp bắt cóc ngay. Võ Cương mất thầy không thể tiếp tục mở Hôpital flottant (bịnh viện nổi) - danh từ do ông Đệ đặt. Anh liền xuống nhập bọn với nhóm Kèn gọi lính của sinh viên Trần Bửu Kiếm. Nhóm này có hai anh sinh viên nữa là Lê Thanh Nhàn, người Cao Lãnh và anh Phan Văn Tùng quê miền Bắc. Vài ngày sau có thêm anh Chấn nữa. Nhưng Nguyễn Hoà Hiệp cũng không để các anh yên. Chúng bắt các anh phải theo chúng. Võ Cương cùng các bạn bèn dục hoãn cầu mưu “Vấn đề trọng đại quá, xin cho chúng tôi suy nghĩ”. Mỗi ngày chúng mỗi thúc giục Võ Cương đành nhận làm y tế cho xong. Để chờ dịp nhảy đi. Đúng vào ìúc đó có một chị phụ nữ bí mật chỉ đường: “Tôi biết anh đang muốn tách mấy ông Đệ Tam Sư đoàn. Để tôi chỉ cách. Đằng kia có một bả cách mạng đang ho ra máu. Anh tới cứu bả đi, rồi nhập bọn với họ”. Võ Cương đồng ý theo chị này đi chăm sóc cho cán bộ. Thì ra đó là chị Tám Lựu (Nguyễn Thị Lựu), một trong những cán bộ kỳ cựu như chị Sáu Ngài. Nhờ có đọc sách y học, Võ Cương nhớ cách trị chứng ho ra máu của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch: Tiêm không khí vô bụng bịnh nhân. Chị Tám Lựu ngưng ho ra máu. Anh vừa trị bịnh cho chị Lựu xong thì Tây tới Cao Lãnh. Bọn Nguyễn Hoà Hiệp bỏ chạy. Vậy là dịp may tới cho ba anh em Võ Cương, Nhàn và Chấn. sau hai đêm ba ngày, ba anh lên tới Thủ Đầu Một. Từ đó quá Lạc An để tìm bộ tư lệnh Khu 7. Tại đây giáo sư Phạm Thiều ra đón các anh và giới thiệu với Khu trưởng. Anh Ba liền bổ nhiệm Võ Cương làm giám đốc Quân y viện Khu. Thời gian ở gần anh Bình, Võ Cương có một kỷ niệm khó quên.

        Sau trận đại bố Tân Uyên, Võ Cương cho dời quân y viện từ Chánh Hưng lên Hàn Dài dọc sông Bé. Anh em thương binh được đồng đội cáng đi cả chục cây số. Cả đại đội đói meo. Không có gạo, cũng không có khoai. Làm sao? Ngó tới ngó lui, anh em thấy con ngựa cưng của anh Ba Bình. Đây là ngựa đua bắt từ Hóc Môn đưa về tặng khu trưởng. Anh Ba rất cưng, thường phóng ngựa đi công tác trong rừng. Đành phải làm ngựa nuôi quân. Vừa giết vừa lo, sợ anh Ba về sẽ quở Chừng nghe anh em báo cáo đã “thịt” con ngựa của Khu trưởng, Võ Cương lo lắm. Vài ngày sau anh Ba Bình về Lạc An. anh ngó tới ngó lui tìm con Xích Thố. Không thể nín thinh, Võ Cương nói:

        - Ngày anh đi công tác có một đại đội hành quân qua đây. Anh em hết gạo xin Khu cho ăn. Mình cũng không còn gạo. Khoai củ cũng hết sạch. Đành phải làm con Xích Thố của anh để cứu đói cả đại đội. Anh em cứ sợ anh Ba về rầy...

        Anh Ba thở dài, im lặng một lúc rồi hỏi:

        - Đại đội nào vậy? Còn ở đây không?

        - Họ mới vừa hành quân sau khi ở đây hai ngày nghỉ ngơi.

        Anh Ba nói:

        - Mất con Xích Thố mình cũng tiếc. Nhưng lo cái ăn cho bộ đội là chuyện lớn, còn nuôi ngựa là chuyện nhỏ. Nếu cần thì mười con Xích Thố mình cũng phải hy sinh cho bộ đội được ăn no. Có ăn no mới đánh mạnh. Làm tướng mà không có quân thì đánh đấm sao được? Anh Cương cho làm thịt con Xích Thố là phải lắm. Tôi không buồn đâu mà các anh lo.

        Những ngày làm chánh trị viên Chi Đội 10 kiêm luôn quân y viện trưởng Khu 7 của anh Võ Cương ở Chiến Khu Đ không được mấy năm, nhưng sau này, trong các công tác trên các chiến trường khác, Võ Cương không quên được những năm tháng sống bên cạnh Khu trưởng Nguyễn Bình, nhất là chuyện giết con Xích Thố của anh Ba để nuôi một đại đội trong những ngày Chiến Khu Đ thiếu gạo thiếu khoai.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #32 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:42:53 am »

Chương 32

Pháp đưa Tắc họp tung chống Cộng
Nguyễn Bình quyết liên hoành đánh Tây

 


Thấy Cao Đài đồng tâm ủng hộ Việt Minh đấu tranh giành độc lập, thực dân giở trò thâm độc: chia để trị. Sẵn Trần Quang Vinh chạy ra thành đầu hàng, Tây bày chuyện ký kết cái gọi là thoả ước Bính Tuất (1946) do Trần Quang Vinh ký với tên chủ tỉnh Tây Ninh Ménage. Theo sự ký kết này, Cao Đài rút hai chi đội 7 và 8 của Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thành Phương về toà thánh Tây Ninh. Về phần Pháp thì sẽ đưa Hộ pháp Phạm Công Tắc bị đày ở Mã đảo (Madagascar) từ năm 1940 về nước để chăm lo nền đạo. Ngày 9-6-1946 Trần Quang Vinh và Ménage ký Thoả ước Bính Tuất. Hai tháng sau Phạm Công Tắc về tới Sài Gòn và ngày 30-8-1946, Tắc về Toà Thánh Tây Ninh. Đây là một ngày lịch sử quan trọng trong đạo Cao Đài. Hộ pháp được đón tiếp hết sức long trọng.

        Trong ngày vinh quang của đời mình, từ một kẻ tội đồ hoá thành Đức Hộ pháp cứu tinh của cả triệu tín đồ trong cơn binh lửa, Tắc tuyên bố: “Kết cuộc thì cũng vẫn là Pháp Việt đề huề. Giai đoạn này cũng như là giai đoạn đầu, Cao Đài là đồng minh của Pháp”. Bốn tháng sau, Tắc ký thoả hiệp quân sự đưa hai chi đội 7 và 8 tập kết tại Rừng Nhúm về toà thánh hợp tác với Pháp. Pháp hứa trang bị súng ống đầy đủ cho quân đội Cao Đài để chống Việt Minh vô thần. Lễ trao võ khí cho quân đội Cao Đài sẽ tiến hành vào Tết Đinh Hợi, ngày 21-1-1947. Lúc này Phạm Công Tắc công khai chống Việt Minh: “Cao Đài làm chánh trị. Cao Đài muốn tồn tại phải lập ra quân đội. Quân đội là do chánh trị thành lập. Quân đội phải do chánh trị điều khiển”.

        Tất cả mưu đô của Pháp lợi dụng đạo Cao Đài đều được trinh sát báo cáo về Bộ tư lệnh khu 7. Bấy giờ thành uỷ Khu là Nguyễn Văn Trí thường gọi là Hai Trí, quê Mỹ Tho. Hai Trí là tay cách mạng kỳ cựu, đầu óc tiêm nhiễm truyện Tàu, nhất là Đông Chu liệt quốc mà ông ta cho là “túi khôn của nhân loại”. Hay tin Pháp sử dụng nước cờ giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên đánh Việt Minh. Hai Trí bàn với Khu trưởng Nguyễn Bình:

        - Đây là kế hợp tung của Tô Tần, nguy hiểm lắm.

        Ông Bình cười:

        - Hợp tung là sao? Quân sư nói rõ thêm.

        Hai Trí thao thao:

        - Trước hết phải định nghĩa chữ tung đã. Tung là nét sổ thẳng theo chiều dọc, trái với chữ hoành là nét gạch ngang. Thiên hạ thường nói chữ tung hoành mà không hiểu nghĩa của nó. Hợp tung là tập hợp lại những nét sổ dọc. Còn kế hợp tung của Tô Tần thì như thế này: Tô Tần là người ở thành Lạc Dương, nhà Đông Châu. Lúc nhỏ là học trò của Quỷ Cốc thiền sư nước Tề. Lớn lên làm nghề du thuyết. Bấy giờ nước Tần rất mạnh, quyết gom thu lục quốc là sáu nước Tề, Nguỵ, Sở, Hàn, Yên, Triệu. Tô Tần đi khắp sáu nước khuyên các vua hợp lại chống Tần mới có thể tồn tại bằng không thì bị Tần nuốt. Đó là kế hợp tung.

        Nguyễn Bình gật gù:

        - Ngày nay thằng Tây cũng áp dụng “túi khôn” của người xưa, theo kế hợp tung để đánh Việt Minh. Hay! Trước đây tôi đã ra lịnh giải tán cái gọi là Mặt trận quốc gia liên hiệp quy tụ các nhóm tự xưng là “quốc gia” như Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo và các đảng đã từng chạy theo Nhật Tàu trước đây. Nhưng tôi không hề nghĩ kẻ chủ mưu đó học thuyết hợp tung của Tô Tần. Bây giờ quân sư hãy trình bày tiếp cách đối phó như thế nào.

        Hai Trí cười thích thú. Ông ta hài lòng với danh từ quân sư mà anh Ba Bình tặng cho mình:

        - Chống lại hợp tung của Tô Tần phải dùng kế phá tung của Trương Nghi. Gọi là phá tung hay gọi là liên hoành cũng được. Liên hoành là tập hợp lại nhưng nét gạch ngang. Để đương đầu với hợp tung là liên kết các nét sổ thẳng. Đó là nói về chữ nghĩa. Còn trên thực tế thì liên hoành là liên kết sáu nước Tề, Nguỵ, Sở, Hàn, Yên, Triệu để theo Tần. Cũng cần nói thêm về Trương Nghi. Tay này là đồng song với Tô Tần. Cả hai đều học chung một thầy là Quỷ Cốc thiền sư. Nhưng do hoàn cảnh khác nhau mà chọn hướng đi khác nhau, tuy cốt cách cả hai cũng đều là uốn ba tấc lưỡi để đi tới mục đích tối thượng là vinh thân phì gia. Cho nên người đời sau phỉ nhổ bọn du thuyết vô lương tâm: Bây giờ mình gọi bọn đó là bọn cơ hội.

        Nguyễn Bình cười:

        - Hãy trở về chuyện đời nay đi. Bây giờ mình đối phó với kế hợp tung của thằng Tây như thế nào đây?

        - Thì dứt khoát là phá tung thôi. Tức là một mặt phá tan cái gọi là Mặt trận quốc gia liên hiệp, phá tan đội quân Cao Đài mới thành lập. Tôi đề nghị Khu tấn công vô Toà Thánh phá cái lễ phát súng tổ chức vào ngày mồng một Tết. Anh Ba thấy sao?

        Nguyễn Bình suy nghĩ khá lâu:

        - Với tôn giáo, phải thận trọng. Địch tuyên truyền Việt Minh vô thần, tiêu diệt tôn giáo, độc quyền yêu nước...

        Hai Trí cười lớn:

        - Quan tâm làm gì những lời tuyên truyền của thằng Tây? Ngày đêm chúng ra rả chửi bới Việt Minh. Chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ đi.

        Nguyễn Bình thở dài:

        - Cho tôi suy nghĩ thêm.

        Đêm đó anh Ba bình thức khá khuya để phân tách lợi hại của kế phá tung mà Hai Trí đề nghị. Tự nhiên ông cũng nghĩ nhiều về Hai Trí. Vị chánh uỷ Khu 7 mới thay thế ông Trần Xuân Độ là một người khó hiểu. Trước đây giữa Tư lệnh và chánh uỷ còn gọi là chánh trị bộ chủ nhiệm rất thoải mái. Ông già Độ thẳng tính, có gì thì nói huỵch toẹt ra, chứ không lầm lì bí hiểm như Hai Trí. Sổ tay của ông ta không ghi bằng tiếng Việt mà chi chít những chữ nho và kí hiệu như tốc kí. Có người bí mật cho biết chánh uỷ Hai Trí không chấp nhận những ai nói khác mình.

        Ngày hôm sau, Nguyễn Bình họp các đồng chí trong Phòng tham mưu và phòng chính trị bàn về chủ trương đánh vô Toà Thánh Tây Ninh phá lễ Tây phát súng cho quán đội Cao Đài. Đa số tán thành ý đồ của chánh uỷ Hai Trí là bóp nát từ trong trọng âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của thằng Tây.

        Ông Bình đề nghị biểu quyết vì vấn đề rất quan trọng. Đa số bỏ thăm tán thành đánh vào Toà Thánh để phá tan chủ trương võ trống quân đội Cao Đài chống Việt Minh của thực dân Pháp.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #33 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:46:04 am »

Chương 33

Ông Chì bị bắt. Ông Lái ra bưng
Gặp ông Bình tại Lý Văn Mạnh



 
        Trường trung học Pétrus Ký là trường lớn nhất Sài Gòn và cũng là đứng đầu Nam Kỳ lục tỉnh. Trước 1945 đã có nhiều giáo sư hoạt động Cách mạng, người theo Cao Đài như ông Trần Văn Quế, năm 42 đang dạy thì bị thực dân bắt đày Côn Đảo. Một số giáo sư khác theo Việt Minh như các thầy Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chì, Đặng Minh Trứ, Trần Văn Các, Phạm Thiều, Hồ Văn Lái. Ở các chương trước, các bạn đã gặp thầy Phạm Thiều được anh em gọi thân mật là “ông đồ xứ Nghệ”. Nay nói về ông Chì và Lái. Ông Chì là người đã chiếm sở giáo dục, ngôi nhà cao tầng nằm ngay gốc đường Paul Blanchy- D espaglle (Hai Bà Trưng - Lê Thánh Tôn) lúc đó mang tên là Nha học chánh do người Pháp nắm. Ông Chì đã chụp đúng thời cơ Nhật đảo chánh Pháp, Tây hoang thang nên không có phản ứng trước khí thế đang lên của giáo giới Sài Gòn. Trong kháng chiến, gia đình ông Chì ra bưng theo chủ trương vườn không nhà trống của Lâm uỷ Hành Chánh Nam Bộ, bất hợp tác với giặc Pháp. Vài tháng sau, ta có chỉ trương cho đổng bào hồi cư để xáy dựng lại cuộc sống gia đình đồng thời làm cơ sở bí mật ủng hộ kháng chiến trong nội thành. Gia đình ông Chì hồi cư, nhưng ông không đi dạy trở lại mặc dầu Tây cho công chức lãnh “rappel” cả năm để dụ dỗ dân hồi cư cộng tác với Tây. Có một lúc ông bán kim chỉ tại hành lang chợ Bến Thành. Cửa hàng của ông gọn nhẹ, chỉ có một hộp gỗ, có quai để quàng lên vai. Học trò của ông cả ngàn, kẻ đi kháng chiến, người hồi cư. Họ nhận ra thầy. Có trò đến chào, nhưng cũng có trò lẩn tránh. Họ biết thầy Chì nêu gương ông Thánh Gandhi “bất bạo động, bất hợp tác” với thực dân Pháp...

        Đội ngũ thầy trò Pétrus Ký chia hai sau cách mạng tháng Tám, phe kháng chiến và phe theo Tày.

        Phe kháng chiến thì điệp điệp trùng trùng, còn phe theo Tây thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Về giáo sư theo Tây đứng đầu là Võ Văn Lúa. Ông Lúa có vợ đầm, dạy Pháp văn ở Chasseloup rồi Pétrus Ký. Đi thi mà gặp ông Lúa thì rớt là cái chắc vì ông này hay hỏi khó để đánh rớt, tiếng trong ngành gọi là “coller”. Cho nên thí sinh mà vô “oral” (hạch miệng) mà gặp ông Lúa thì thế nào cũng “thi không ngậm ớt thế mà cay”. Có người hỏi vì sao ông khoái đánh rớt thí sinh thì ông Lúa đáp tỉnh bơ “Hồi nhỏ mình bị giám khảo đánh rớt hoài nên bây giờ mình cũng làm vậy để trả thù đời“.

        Một người tâm địa như thế thì đi theo Tây chống lại cuộc kháng chiến của toàn dân không làm ai ngạc nhiên. Không rõ do con gì chích mà ông Lúa nhảy ra làm bản quốc ca cho chánh phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh. Để có ngay theo ý “quan thầy” thực dân, ông Lúa lấy đoạn đầu của Cung oán ngâm khúc ra phổ nhạc: “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng lắm nỗi truân chuyên”. Do làm ăn “ẩu” như vậy mà bản quốc ca của cái gọi là Nam Kỳ tự trị trở thành bản chiêu hồn chánh phủ chết yểu của bác sĩ Thinh.

        Còn về phía học trò Pétrus Ký theo Tây thì cũng ít thôi nhưng có vài tay cực kỳ nguy hiểm như ba tên Mai Hữu Xuân, Trần Bá Thành, Võ Hoàng Bá. Cả ba tên này đều làm mật thám. Cặp bài trùng Xuân, Thành ở bót Catinat còn Bá thì làm cảnh sát trưởng quận nằm trong Chợ Lớn. Thêm tên Tống Đình Bắc ở PSE (Ty Đặc Cảnh miền Đông)

        Biết ông Chì có liên lạc với kháng chiến, tụi Catinat liền bắt thầy Chì điều tra. Mai Hữu Xuân còn nể tình thầy trò nên chỉ trao giấy bút bảo thầy Chì khai những gì thầy biết về đám Việt Minh hoạt động bí mật trong thành. Cố nhiên là thầy Chì không làm chuyện tồi tệ đó. Xuân bèn hỏi ngắn gọn một câu thôi:

        - Còn thầy Lái? Thày có biết ông Lái ẩn trú nơi đâll?

        Một lần nửa Xuân thất bại trong việc khai thác thầy Chì. Hắn giao cho người khác làm công việc mà hắn không đủ can đảm làm đối với một vị đứng hàng nhì trong phẩm trật xã hội “quân sư phụ”.

        Nay nói về thầy Hồ Văn Lái. Thầy Hồ Văn Lái, quê Cái Răng tỉnh Cần Thơ, dạy vẽ trường Vẽ Gia Định, sau đổi về Pétrus Ký. Trước 1945 thầy đã tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ chóng nạn đói cùng với giáo sư Phạm Thiều. Vào đầu kháng chiến, thầy Lái hoạt động trong giới trí thức, nghệ sĩ vì thầy chơi với nhiều giới: đặc biệt là ngành sân khấu. Đơn vị thầy từng lèo lái mang tên Tây “Amis de l art” tức hội “những người bạn của Nghệ thuật”. Thầy đã đưa một đoàn Hát Bội ra Trung Bắc biếu diễn vào nhưng năm đầu thập niên 40.

        Đầu 1946, thầy Lái là uỷ viên tuyên truyền Địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn thay nhà báo Lý Vĩnh Khuông tức Khuông Việt bị Tây bắt. Khi Tây nong ra ngoại vi Sài Gòn, Uỷ ban Kháng chiến địa phương Sài gòn - Chợ Lớn dời ra vùng Lý Văn Mạnh. Văn phòng thầy Lái đóng ở Rạch Rít gần văn phòng bác sĩ ra y Nguyễn Văn Thủ lúc đó được bầu giữ chức uỷ viên quân sự địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn. Thấy Lái đóng trong chòi vịt giữa đồng. Thấy cũng mặc bà ba đen, nhưng không giống nông dân trong vùng vì nhìn kỹ thì thấy thầy đeo chiếc nhẫn vàng mặt vuông to tướng. Có người hỏi sao thày chưa hoá trang cho đúng vai ông chủ trại vịt, thầy cười nói:

        - Đây là kỷ niệm của má bầy trẻ. Khi nào nhớ bả thì vuốt ve chiến nhẫn cho đỡ ghiền!

        Nằm giữa đồng nhưng vị trí chòi vịt rất lý tưởng vì gần ba tờ báo Cảm tử, Chống Xâm Lăng và Tiến Lên của địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn. Tờ Chiến Thắng của tỉnh Chợ Lớn cũng đóng gần. Nhiệm vụ của ông Lái là cung cấp báo và truyền đơn cho đổng bào trong nội thành. Phải tổ chức nhà in loại “pédale” gọn nhẹ có thể tháo ra đưa xuống tam bản di tản khi Tay bố. Nguy hiểm là các chuyến tiếp tế giấy báo. Phải nhờ các nhà in có cảm tình với kháng chiến chở tới các địa điểm bí mật giao cho anh em trong bưng ra đón chở tam bản về nhà in. Công việc tiếp tế giấy báo này rất nguy hiểm vì xe tuầnl tiễu của Tây chạy trên các lộ Đông Dương như mắc cửi. Về sau phải nhờ tới nhóm Lendenmains thân kháng chiến làm công việc tiếp tế giấy ra bưng. Liên lạc là nữ sinh viên ngồi trên xe du lịch chỉ đường cho một trung uý Pháp lái xe Traction 15. Tới cầu An Lạc, thấy trước quán lá của người Tàu có phơi khăn lông - ám hiệu cho biết không có Tây và partisan (thân binh) phục kích: xe dừng lại giả vờ máy hỏng. Lập tức từ trong vườn rậm, mấy anh em nhà in nhào ra vác các bao cà ròn giấy từ trong cóp xe chạy bay xuống rạch chất lên tam bản. Nhưng không thể làm ăn theo kiểu “vụt cần câu” thế này mãi vì đâu có nhiều người bị bắt khi đưa giấy báo ra bưng và đưa báo và truyền đơn vô thành. Với lối làm việc mới của hai anh Kha Vạn Cân và Nguyễn Phú Hữu, chủ tịch và phó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn, ngoài bưng chỉ xấp chữ và đổ chì làm bản kẽm rồi đưa về thành cho các nhà in của ta in báo và truyền đơn phát hành tại chỗ. Từ đó giảm bớt các tai nạn bị bắt dọc đường. Phải tuyên dương anh Nguyễn Phú Hữu là chủ nhà in lớn ở đại lộ Galiéni (Trần Hưng Đạo) trước khi ra bưng kháng chiến. Sáng kiến trên là của anh. Nhưng hãy trở lại thầy Lái.

        Một ngày kia, liên lạc đưa một người mặc bà ba đen, mang kính râm, đeo sắc cót da tới chòi vịt của ông Lái. Mới gặp lần đầu nhưng thầy Lái biết ngay khách lạ là ai rồi. Chiều ấy anh đãi anh Ba một nồi cháo vịt. Đêm ấy anh Ba nghỉ đêm trong chòi vịt với chủ chòi. Thầy Lái muốn hỏi nhiều chuyện, nhưng nguyên tắc bí mật bắt buộc cuộc trao đổi không đi sâu vô bí mật công tác. Sáng hôm sau anh Ba và liên lạc đi sớm. Thầy Lái biết là anh Ba đi thị sát chiến trường nội ngoại thành để chỉ đạo các Ban công tác Thành. Bảy ngày sau, trong cuộc họp các hộ - Sài Gòn Chợ Lớn có 18 hộ đánh số thứ tự từ 1 đến 18, Tây gọi hộ là “arrondissement” - thầy Lái được một anh ở hộ 18 cho biết là Khu trưởng Nguyễn Bình có về các hộ 17, 18 (nay là quận Cool. Vậy là thấy Lái đã đoán không sai mục tiêu của anh Ba.

        Một tháng sau anh Ba lại tới chòi vịt thầy Lái lần nữa. Lần này không suôn sẻ như lần trước. Con đầm quần đảo trên đầu. Thầy Lái hướng dẫn anh Ba xuống hầm. Chòi vịt có đào ba hầm loại bán âm bán dương, tức nửa nổi nửa chìm sát bờ rạch. Anh Ba biểu liên lạc xuống hầm với thầy Lái còn anh thì ôm một gốc cây dừa quỳ ngã ra bờ rạch. Anh Ba núp sau cây dừa ngó theo con đầm, lòn qua thân dừa mỗi khi nó sà xuống thấp. Thầy Lái đứng dưới hầm quan sát vị tướng gan lì này. Chừng máy bay đi rồi anh nói thẳng với anh Ba:

        - Tôi ở đây không có bảo vệ. Anh đi qua thì được, còn ở lại thì không bảo đảm. Anh phải mang theo bảo vệ.

        Ngày ấy anh Ba không nghỉ đêm tại chòi vịt như trước. Và sau đó cũng không thấy anh Ba ghé chòi vịt nữa.

        Với hai lần được tiếp xúc với Khu trưởng Nguyễn Bình, thầy Lái có vài nhận xét về anh Ba: Có ba điều ”ghê gớm” nơi vị tướng này: thứ nhất là một mắt “Rồng một mắt, voi một ngà” phải tránh xa”. Người xưa nói như vậy. Người một mắt cũng như độc nhãn long. Thứ hai, người hai đảng phải đáng nể. Hổi trẻ Nguyễn Phương Thảo theo Quốc Dân Đảng với Trần Huy Liệu, ra Côn Đảo thì cả hai đều chuyển hướng, bỏ Quốc Dân đảng theo Cộng sản. Thứ ba, người tự đào luyện trong tù (chứ không phải trong các trường học) phải đáng trọng. Nguyễn Bình có ba điểm kể trên. Thầy Lái vừa nể vừa trọng anh Ba là như vậy.

        Nhưng ngược lại. tại sao anh Ba lại tin tưởng ông thầy dạy vẽ theo kháng chiến tới mức dám nghỉ đêm tại chòi vịt của thầy Lái? Điều này có lẽ do nhiều lý do, trong đó có mạng lưới quân báo của Ban công tác Thành. Thứ hai là khả năng xem người mà đánh giá đúng bản chất của người đó để tin dùng. Về điểm này về sau thầy Lái nghe anh Nguyễn Thuận Thảo, cán bộ quân sự Bà Rịa nói đúng như vậy. Khi tới ải địa đầu cỉla Nam Bộ, anh Ba Bình lúc đó còn mang danh nghĩa phái viên Trung ương của Bộ Tổng đã được anh Thảo tiếp đón tại văn phòng Chi đội ở bìa rừng.

        Anh Ba quan sát địa điểm rồi nói với anh Thảo: “Tôi giao bốn mạng tôi cho anh đó”. Chuyện này không đáng nhắc nếu không có một vị lãnh đạo cao cấp khác đi ngang qua Chi đội 16. Anh Thảo cũng đón tiếp tại văn phòng Chi đội. Nhưng vị này trông trước, trông sau, lộ vẻ không an tâm: “Còn nơi nào an toàn hơn đây không?”. Anh Thảo bèn đưa vị đó vô trong lán sâu giữa rừng. Không may đêm đó trời mưa như trút. Lán bỏ lâu không ai ở nên dột nát, báo hại vị lãnh đạo này thức sáng đêm, vừa ướt như mèo té giếng, vừa mất ngủ nên sáng sớm đòi trở ra bìa rừng ở với ban chỉ huy Chi đội.

        Thầy Lái là hoạ sĩ nên vẽ chân dung rất sống, có nghĩa là đầy đủ nét đẹp cũng như không đẹp. Về anh Ba Bình, thầy Lái đã vẽ những nét đẹp rồi. Bây giờ thầy chấm phá vài nét không được đẹp. Anh Ba lập ra mười Ban công tác Thành để đánh Tây và Việt gian ngay trong sào huyệt của chúng là Sài Gòn - Chợ Lớn Ban công tác đã lập rất nhiều chiến công làm Tây kinh tâm tán đởm. Còn bọn Việt gian thì đi đâu cũng láo liên sợ lựu đạn của Việt Minh. Tuy nhiên trong số hàng trăm chiến sĩ quân báo cảm tử cũng có vài người quen thói giang hồ tự do vô kỷ luật gây phiền hà, thậm chí hà hiếp dân chúng nội ngoại thành.

        Nhiều đơn thưa tới chánh quyền cách mạng. Mũi dại, lái chịu đòn, anh Ba Bình đã bị lãnh đạo Nam Bộ phê bình vế khuyết điểm bao che đàn em làm bậy.

        Đó là một nét không đẹp của anh Ba. Thứ hai, trong vấn đề thu thuế ở vùng tạm chiếm, có sự đụng chạm giữa địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn và khu 7 khi anh Ba còn là khu trưởng. Một trong những vụ va chạm này khiến uỷ viên thuế vụ Bồ Văn Kiểu tử nạn.

        Ông Kiểu đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như giám thị trưởng Khám Lớn Sài Gòn sau ngày Nhật đảo chánh 9-3-1945. Sau đó làm quản đốc Nhà máy đường Hiệp Hoà. Lúc tử nạn trong cuộc chạm súng đáng tiếc giữa phe ta và phe mình, ông Kiểu là uỷ viên phụ trách thuế vụ của địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn. Cách thu thuế của ta lúc đó là phải có mặt thường trực tại các chành lúa ở ngoại ô thành phố để thu trực tiếp lúa gạo cho xuống ghe thuyền đưa vô bưng. Ông Kiểu ngày đêm có mặt tại các chành. Khi có Tây tới thì lẩn tránh chờ chúng rút thì trở lại chành lúa tiếp tục thu thuế. Một người làm việc tích cực cho cách mạng như vậy mà tiếc thay ông đụng chạm trong việc không quy định rõ ràng phạm vi thu thuế nên bị báo cáo xấu với trung tướng khu trưởng khu 7. Và trong thời buổi hỗn quan hỗn quân, ông Kiểu bị thanh toán như một phần tử xấu. Những chuyện chết oan trong những năm đầu kháng chiến đâu phải là ít.

        Mũi dại lái chịu đòn. Em út làm ẩu, anh Ba phải lãnh đủ. Đó cũng là một nét không đẹp trên chân dung của anh Ba.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #34 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:47:23 am »

Chương 34

Vô chiến khu Trinh làm mật mã
Gặp Nguyễn Bình kết nghĩa tri âm




Chiến cuộc ngày càng lan rong với chủ trương tốc chiến tốc thắng của tên tướng hiếu chiến Leclerc.

        Quân đội viễn chinh Pháp ồ ạt toả đi các hướng quyết bình định các tỉnh. Tại Sài Gòn chúng chỉ để lại một ít quân làm nhiệm vụ cảnh sát. Báo chí công khai nhân lúc bộ máy hành chính chúng còn lỏng lẻo đả kích chánh phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh. Đọc báo buổi sáng vào lúc điểm tâm là một thói quen của chị Trinh. Chị đậu tú tài thì chiến tranh bùng nổ. Chị là con ông đốc công Vương Quang Ngưu, một nhà điền chủ có một trăm mẫu vườn dừa ở Điều Hoà, Mỹ Tho.

        Ông Ngưu mở phòng cố vấn pháp luật, binh vực dân quê bị cường hào ác bá cướp đất giật ruộng. Những người nghèo túng ông Ngưu giúp không lấy tiền. Ông Ngưu giao du với các nhà cách mạng, phần lớn là các nhà báo như Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh. Còn Ung Văn Khiêm là bạn cột chèo. Bà Ngưu và bà Khiêm là hai chị em, bà Ngưu thứ bẩy, bà Khiêm thứ tám...

        Đầu 1946, Trinh được thư của dượng Tám bấy giờ phụ trách ban Nội vụ Nam Bộ gọi ra bưng. Xếp bút nghiên từ lâu, Trinh muốn thoát ly theo kháng chiến. Chị không thể chịu đựng được cảnh ăn không ngồi rồi giữa thành phố bị địch tạm chiếm. Bức thư đến là một dịp tốt để “lên đàng”.

        Theo liên lạc, Trinh ra An Phú Đông, một căn cứ kháng chiến sát nách Sài Gòn. Những trận giao tranh đầu tiên đã khiến vùng đất ven đô hiền lành này trở nên một địa danh nổi tiếng, nhất là sau khi có bài thơ của Xuân Miễn:

        An Phú Đông đây, An Phú Đông,
        Một làng nho nhỏ ở ven sông,
        Một năm chinh chiên ôi chinh chiến
        Sông nước Sài Côn nhuộm máu hồng...

        Cơ quan đầu tiên thu nhận chị là toà soạn báo La Voi du Maquis (Tiếng nói bưng biền) do luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần làm chủ bút. Vô cơ quan này, chị Trinh như cá gặp nước. Cả nhà chị có máu làm báo. Chị được anh Thuần giao chép bản thảo các bài báo. Toà soạn không đông, hầu như một mình anh Thuần “bao sân”. Đây là cơ quan ngôn luận nhắm vào trí thức trong thành phố nên số in không nhiều như các tờ Chống Xâm Lăng của Mặt trận Việt Minh thành phố và Cảm tử của Liên hiệp Công đoàn thành phố.

        Một thời gian sau chị Trinh được giới thiệu học mật mã và được đưa về phụ trách phòng Mật mã của uỷ Viên Quân sự Nam Bộ. Đây là sự tín nhiệm đặc biệt mà chị Trinh cố gắng xứng đáng. Cơ quan mật mã phải gắn liền với văn phòng khu trưởng. Do công tác liên hệ mật thiết, chị Trinh được biết rõ về anh Ba Bình. Nhận xét đầu tiên của chị về anh Ba là đức tánh bình dân. Là tướng, anh Ba rất gần với anh em binh sĩ. Nghe anh Nguyễn Đức Hinh cưới vợ, anh Bình móc túi đưa hết xấp bạc sinh hoạt phí hàng tháng tặng “cho cậu làm lễ liên hoan”. Khi nghe một cán bộ bị thương, anh Ba bảo bắt cặp gà tặng “cho nó tẩm bổ”. Có lúc vì tình thế bắt buộc phải đóng trong nhà dân, Anh Ba cũng hoà mình với gia đình chủ nhà. Chuyện đáng nhớ là thời gian anh Bình đóng trong nhà tín đồ Cao Đài sau khi xảy ra nhưng vụ tảo thanh Cao Đài Tây Ninh theo Tây của Phạm Công Tắc. Những đêm uống trà đàm đạo với ông già chủ nhà về chuyện đạo và đời, anh Bình nói chuyện rất thoải mái, kể chuyện đời xưa, khi hoạt động cách mạng anh đã từng tá túc trong chùa, có những nhà sư vứt áo cà sa mặc chiến bào. Rồi anh kết luận: Đạo nào cũng khuyên làm lành tránh dữ và anh nói thêm “đạo nào cũng phải tham gia đánh Tây giành độc lập. Cho nên Đạo với Đời tuy hai mà một”. Về cá tính anh Ba Bình rất ít nói nhưng tình cảm, tiếng cười của anh nghe rất có cảm tình. Nhưng điều quan trọng nhất đối với anh Ba về phương diện cầm quân là kỷ luật. Luôn luôn giữ vững kỷ luật. Phải nghiêm trị những kẻ coi thường kỷ luật. Chính vì vậy mà anh Ba đã cương quyết kết án tử hình Ba Nhỏ mặc dầu có một số chỉ huy quân sự Bình Xuyên không tán thành quyết định đó. Và cũng chính vụ xử Ba Nhỏ đã chứng minh bản lĩnh của Nguyễn Bình.

        Có vị chánh án nào dám cho tử tội mượn khẩu súng của chính mình để tự xử. Nói về cái dũng cảm của anh Ba thì vô cùng, nhất là chuyến anh về thành nắm tình hình địch, để tiếp xúc với các nhà trí thức yêu nước chưa có dịp để ra khu. Bận trở về anh bị phục kích ở Vĩnh Lộc may nhờ Chi đội 4 giải vây.

        Với những giai thoại đầy hào quang đó, Chị Trinh rất kính trọng anh Ba và vui lòng kết nghĩa tri âm với một “dũng tướng”. Phòng mật mã của chị chỉ cách phòng làm việc của anh Ba có một vách lá.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #35 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:48:48 am »

Chương 35

Thoả hiệp án, Lê Tâm về nước
Ngành quân giới vững bước tiến lên




Cuộc đàm phán Fontainebleau năm 1946 kéo dài nhiều tháng vì bọn hiếu chiến muốn giải quyết vấn đề thuộc địa bằng chiến tranh. Chúng không muốn hoà bình. Trong thời gian ở Pháp, Hồ Chủ Tịch gặp gỡ các Việt Kiều thuộc đủ các giới, kêu gọi họ về nước tham gia kháng chiến giành độc lập.

        Riêng ngành khoa học kỹ thuật có các kỹ sư Phạm Quang Lễ, Nguyễn Ngọc Nhựt, Nguyễn Hy Hiền hăng hái về nước góp phần chống xâm lăng của toàn dân. Phạm Quang Lễ là dân Mân Thít, Vĩnh Long, Nguyễn Ngọc Nhựt là con đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương, giáo tổng Cao Đài Bến Tre. Nguyễn Hy Hiền là dân xứ Huế. Phạm Quang Lễ về Hà Nội đổi tên là Trần Đại Nghĩa còn hai anh Nguyễn Ngọc Nhựt và Nguyễn Hy Hiền về Sài Gòn. Anh Hiền lấy tên kháng chiến là Lê Tâm. Lê Tâm cược đưa về Khu Tám làm cố vấn phá hoại cho uỷ viên quân sự Nam Bộ Nguyễn Bình. Là kỹ sư tốt nghiệp trường Pontset chaussées, Lê Tâm được anh Ba Bình giao nhiệm vụ nghiên cứu phá cầu và các cơ sở địch trong nội thành. Phá hại bầng chất nổ. Chất nổ là một ngành Lê Tâm không rành, nhưng đã được phân công thì anh quyết tâm làm cho bằng được. Với một số sách và tài liệu chuyên môn mua từ Sài Gòn, anh nghiền ngẫm và không bao lâu trở thành chuyên viên chất nổ. Từ đó ta phá cầu rất có kỹ thuật, chỉ cần một ít chất nổ đặt đúng vị trí then chốt là phá được cầu. Do vậy trong một thời gian khá lâu Lê Tâm là cố vấn của các Ban công tác thành. Mỗi khi tính đánh một cơ quan nào trong thành phố, các trưởng Ban công tác vô khu cùng với người có trách nhiệm thực hiện công tác ấy bàn cụ thể với Lê Tâm.

        Có một lần ta dự định đánh một chiếc cầu chiến lược trên đường số 4 từ Sài Gòn về lục tỉnh. Lê Tâm tình nguyện núp trong giề lục bình xuôi theo dòng để leo lên cột cầu đặt chất nổ vào vị trí hiểm yếu, nhưng vừa nghe kế hoạch ấy anh Ba bác ngay: “Đó là công việc của các đội viên Ban công tác. Họ đã được huấn luyện thuần thục để làm những màn xiếc đó. Không phải là công việc của ông kỹ sư cố vấn phá hoại. Anh em công tác thành đã khó kiếm, kỹ sư cố vấn phá hoại còn khó kiếm hơn”. Chuyện chỉ có thế nhưng anh Lê Tám nhớ mãi tấm lòng quý trọng anh em trí thức của anh Ba.

        Mới về nước, còn độc thân, Lê Tâm ở chung nhà với uỷ viên quân sự Nam Bộ Nguyễn Bình và tiểu đội bảo vệ. Nhờ ở chung mà Lê Tâm biết nhiều về vị trung tướng đầu tiên của Nam Bộ. Các tay quân sự thường mạnh rượu, nhưng anh Ba không uống một giọt. Buổi tối Lê Tâm có nhiều thì giờ đàm đạo với anh Ba. Thường thì anh Ba đọc các công điện vào giờ chót do chị Trinh giải mã. Cứ vài hôm là có chỉ thị của Bộ Tổng gởi vào. Đọc xong anh Ba nói đại ý cho Lê Tâm nghe chủ trương của Bộ Tổng. Có khi anh Ba đưa công điện cho Lê Tâm xem. Một trong nhưng công điện đó là mối quan hệ giữa tư lệnh và chánh uỷ.

        Ông Giáp giải thích rõ: trong trường hợp bất đồng ý kiến giữa đôi bên thì tư lệnh có quyền quyết định, nhưng phải ghi biên bản ý kiến của chánh uỷ.

        Ở Đồng Tháp, máy bay thường lên bắn. Vào mùa khô Tây nhảy dù chụp đấu não kháng chiến. Trong những vụ tấn công này, Lê Tâm học được đức tánh bình tĩnh của anh Ba Bình. Trong bất cứ trường hợp nào cũng phải thật bình tĩnh. Phải nhìn thẳng vào mặt mối nguy cơ. Tuyệt đối không khom lưng chạy vì như thế là mất tư thế quan sát. Mỗi khi Tây vô, anh Ba bố trí tiểu đội bảo vệ và chỉ huy từng người phân tán từng hướng. Nhưng bao giờ Lê Tâm cũng chạy theo anh Ba vì nghĩ rằng theo anh Ba thì đảm bảo hơn.

        Anh Ba Bình ít nói nhưng đã nói thì thuyết phục được người nghe. Anh có cách nói đúng đối tượng, trí thức nói theo trí thức, công nhân nói theo câng nhân, nông dân nói theo nông dân và đặc biệt là với anh em binh sĩ anh có cách động viên như truyền lịch. Được thấy anh Ba trong những lúc nói chuyện trước “ba quân” là một điều thích thú.

        Một kỷ niệm khó quên trong thời gian Lê Tâm ở bên cạnh anh Ba Bình. Văn phòng Chi đội 4 đóng gần bên. Lê Tâm có dịp tới chơi, có chuyến cùng đi với anh Ba, có chuyến đi một mình. Anh Mười Trí đúng là tay nhậu có cỡ. Anh uống rượu vô thì mặt xanh chớ không đỏ như người khác. Đó là dấu hiệu tửu lượng cao. Trong khi chén chú chén anh, hai bên bàn đủ thứ chuyện, anh Mười hỏi Lê Tâm có vợ chưa? Lúc đó Lê Tâm mới 25 tuổi, từ Pháp về được một năm. Biết Lê Tâm chưa vợ, anh Mười cười nói: “Để tôi làm mai cho”. Tưởng anh nói chơi ai ngờ anh làm thiệt. Người anh định giới thiệu với Lê Tâm là một cô cháu gọi anh Mười bằng chú, là liên lạc thành, người tráng trẻo, rất xinh vừa tròn hai mươi. Nhưng lần gặp nhau, Lê Tám thường hỏi cô Giỏi - tên cô gái - về chuyện vô ra thành, vượt qua bao nhiêu trạm gác.

        Anh hồi hộp theo dõi nhưng pha đấu trí của cô Giỏi với bọn lính kín, lính hở ở các nút chân ven đô. Dần dần hai người gần gũi thân thiết nhau. Lê Tâm muốn chọn cô Giỏi làm bạn đời nhưng anh suy nghĩ: cô Giỏi là một liên lạc thành rất đắc lực. Tương lai của cô rất tươi sáng, nếu lấy chồng rồi có con, sợ không thể tiếp tục hoạt động đắc lực như trước. Anh tự thấy không thể ngăn trở bước tiến của cô gái đáng yêu này. Anh hoãn lại chuyện lập gia đình, chờ vài năm nữa.

        Nhưng chiến tranh đâu phải là thời bình, vài tháng sau anh đi công tác xa và từ đó mất liên lạc với cô liên lạc thành. Về sau nhớ lại chuyện cũ, Lê Tâm bồi hồi xao xuyến: “Suýt chút xíu mình đã làm rể Bình Xuyên!”
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #36 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 11:50:27 am »

Chương 36

Đầu 1947 Nguyễn Bình vào đảng
Vũ Huy Xứng nạp anh Ba





Cuối 1946 Tây đánh mạnh chiến khu D, phong toả các đường tiếp tế, Bộ chi huy Khu 7 phải dời về Đức Hoà Thành ở rìa Đồng Tháp Mười. Đánh dấu ngày này, Tám Nghệ làm bài thơ “Rừng nhớ người đi” đầy tình cảm thân thương:

        Từ độ Anh đi vung kiếm thép
        Mịt mù khói lửa khuất binh nhung
        Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
        Hồi hộp nghe từ tin chiến công
        Chòi cũ còn đây mái xác xơ
        Tro tàn bếp lạnh nhờ người xưa
        Còn đâu những sáng tưng bừng nắng
        Lời quốc ca vang động bóng cờ
        Còn đây mái suối chiếc cầu con
        Bên đá chân anh bước đã mòn
        Chim lắng, nước ngừng không hát nữa
        Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong
        Sân hoa đâu nữa nơi múa kiếm
        Thề với trăng khuya rửa sạch thù
        Ai kẻ đề thơ trên lá thắm
        Gởi dòng suối Ngọc nhắn kinh đô?
        Ngày đi có bướm, hoa đưa tiễn
        Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương
        Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp
        Thổn thức rừng ca khúc đoạn trường.
        Từ đó, Lạc An mang nhớ thương
        Sầu đông, rừng rụng lá muôn vàn
        Bốn phương khói lửa phun mờ mịt
        Rừng vẫn trông theo cánh phượng hoàng.

        Tháng 2-1947 là một thời điểm lịch sử trong đời anh Ba Bình. Văn phòng Bộ chỉ huy Khu đóng ở Giồng Lức. Đây là một bưng lớn ở rìa Đồng Tháp Mười. Kế bên có Giồng Lớn, rồi tới Quéo Ba, nơi bộ đội thường tới đóng quân. Trong Phòng tham mưu có các nhân vật Tạ Nhất Tứ, Bùi Thanh Khiết, Vũ Huy Xứng, Phan Trọng Bình, Nhuận, Thơm, Thanh cạn được gọi là Thanh kiếng. Thơm là thư ký của Nguyễn Đình Thâu sau làm thư ký cho anh Ba, Thanh kiếng là thư ký đánh nháy. Tạ Nhất Tú nguyên là thanh tra chính trị miền Đông, trước Cách mạng tháng Tám từng là quận trưởng Gò Vấp.

        Nhưng xin giới thiệu nhiều về Vũ Huy Xứng.

        Xứng quê Gia Lâm, ra Hải Phòng từ năm tuổi, học trường Kỹ Nghệ tới năm thứ hai thì bị đuổi. Xứng làm thợ trong nhà máy kẽm. Nhờ có trình độ văn hoá và tài tháo vát, Xứng được chủ Tây cất nhắc nắm toàn bộ nhà máy. Các phu mỏ gọi Xứng là chủ nhì, chỉ đứng sau chủ nhất là Tày chủ mỏ. Xứng được cấp nhà ở như nhà Tây, cho lãnh lương cao, 68 đồng trong khi chủ chỉ lãnh có hai cắc tám. Đó là năm 1939. Dù được biệt đãi như vậy Xứng vẫn không quên nhiệm vụ của mình là tranh đấu cho quyền lợi anh em công nhân. Anh được anh Đào Văn Trường kết nạp vào Đảng năm 1939. Trong một năm, Xứng xui anh em thợ đòi lên lương bốn lần. Năm 1940 công nhân Hòn Gai bị đàn áp, công nhân các mỏ Quảng Yên, Uông Bí, Hải Phòng hoạt động mạnh để hỗ trợ.

        Chính trong đợt đó Xứng bị bắt. Lúcc đó anh là bí thư chi bộ nhà máy kẽm Quảng Yên. Vừa được tự do năm 1941 anh vào Nam cùng với hai anh em Phan Trọng Thái và Phan Trọng Bình. Tại Sài Gòn, hai anh Xứng và Bình hoạt động trong giới công nhân, thanh niên, tổ chức được năm nghiệp đoàn. Ngày 9-1-1946 trên đường công tác, Xứng và Bình bị Tây bắt và đưa về bót Catinat tra tấn 17 ngày trước khi đưa qua Khám Lớn. Sau thoả hiệp án, Tây đưa Xứng ra toà xử chín tháng tù. Nhưng anh đã ở tù quá bản án một tháng nên chúng thả ra. Lập tức Xứng nhảy ra bưng.

        Trong bộ chỉ huy của Khu 7 cuối 1946 chưa có chi bộ. Xứng đề nghị lập chi bộ. Muốn mọi việc dễ dàng, phải tranh thủ sự đồng tình của Khu trưởng. Vũ Huy Xứng hỏi thăm những người từng ở gần Nguyễn Bình để tìm hiểu xu hướng chính trị của anh Ba. Người biết rõ anh Ba hơn ai hết là ông Trần Xuân Độ, nguyên là chánh trì bộ chủ nhiệm Khu 7. Qua ông Độ, Xứng biết anh Ba Bình đã là đảng viên Quốc Dân Đảng từ năm 1929-1930, nhưng ra đảo thì chuyển hướng và bị thanh trừng vì tội phản Đảng. Con mắt bên trái như là dấu tích kỷ niệm khó quên đó. Xứng nghĩ thầm: “Khó đấy”! Chim bị tên sợ cây cong. Nói thế nào cho “ông tướng” nghe đây? Sau mấy ngày nghiền ngẫm. Xứng đã tìm được bí quyết: Nguyễn Bình chỉ kính phục có một người trên đòi. Người đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đang làm tư lệnh chiến khu Đông Triều cũng là Đệ Tứ quân khu mà Nguyễn Bình bỏ hết, để vào Nam chỉ với cương vị phái viên của Trung ương thì biết anh Ba kính trọng và tin tưởng Bác Hồ như thế nào. Bây giờ chỉ cần nói mời anh Ba vào Đảng của Bác là xong ngay.

        Đúng như Vũ Huy Xứng nghĩ, anh Ba Bình không bác lời gợi ý của Xứng. Anh Bình chỉ nói:

        - Chọn lựa bao giờ cũng đi đôi với mất mát. Hễ chọn cái này thì phải bỏ cái kia. Nhưng đến một lúc nào đó thì cũng phải chọn. Để tôi suy nghĩ thêm đã.

        Vài ngày sau, anh Ba nói với Xứng:

        - Tôi biết có nhiều người nói sau lưng tôi đủ thứ chuyện. Họ nói tôi là Quốc dân Đảng Họ nói đúng có một nửa. Đó là những năm tôi và Trần Huy Liệu hoạt động cho Quốc Dân Đáng và bị đày ra Côn Đảo. Nhưng từ năm 1935 tôi đã ra khỏi Đảng với cái kỷ niệm xốn xang nhức nhối này đây - Anh Ba đưa tay chỉ còn mắt trái và thở dài nói tiếp - Tôi chúa ghét đầu óc bè phái. Nói tới đảng này phái kia là mặc nhiên thừa nhậu có một sự chia rẽ nào đó. Trong lúc này cần đoàn kết, nhất trí mới thắng được giặc. Bác Hồ đã nêu khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” thật chí lý. Nếu toàn dân ta trên dưới một lòng chung sức đánh Tây thì cuộc kháng chiến sẽ mau tới thắng lợi.

        Xứng im lặng để nghe anh Ba nói hết ý. Anh Ba tiếp tục:

        - Rất tiếc là trên thực tế có nhiều Đảng phái đang tranh nhau quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ngoài Đảng Cộng Sản của Bác Hồ còn có Việt Nam Quốc Dân đảng của Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội, gọi tắt là Việt Quốc, Việt Cách. Hai đảng này theo Tàu chống phá công cuộc kháng chiến của Việt Minh. Những người rỉ tai bảo Nguyễn Bình là Quốc Dân đảng là có ý đồ lên án tôi là tay phản động chui vào phá hoại Việt Minh. Đó là thủ đoạn cực kỳ nguy hiểm, có thể là một đòn ly gián của địch. Để đối phó chiến dịch rỉ tai này, chi có một cách hay nhất: Nguyễn Bình phải gia nhập Đảng Cộng Sản.

        Vỗ vào cánh tay Vũ Huy Xứng, anh Ba Bình nói:

        - Anh Xứng gợi ý rất đúng lúc. Tôi phải vào Đảng thôi. Để cho cuộc kháng chiến lược thuận lợi hơn. Anh Xứng coi ngày nào tốt thì tiến hành lễ kết nạp đi!

        Vào một ngày đẹp trời tháng 2-1947, Vũ Huy Xứng làm lễ kết nạp trung tướng Nguyễn Bình tại Giồng Lức. Cùng ngày ấy có hai người cũng được kết nạp. Đó là Bùi Thanh Khiết và Nguyễn Văn Nhuận. (Có người quả quyết Nguyễn Bình và Phạm Thiều được kết nạp cùng lúc do Hà Huy Giáp và Nguyễn Đức Thuận chủ trì).

        Vũ Huy Xứng thấy rõ từ ngày vô Đảng, anh Ba Bình cố phấn đấu bản thân để giữ đúng kỷ luật Đảng với hai nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số và hạ cấp phải phục tùng thượng cấp. Nguyên tắc thứ hai thì không đụng tới anh Ba bởi vì không ai cao cấp hơn ông trung tướng. Nhưng còn nguyên tắc thứ nhất thì có đôi lúc anh Ba khó chịu vì phải tôn trọng ý của số đông dưới quyền mình. Có một lần anh Thơm là thư ký của anh Ba phê bình anh Ba khá gay gắt trong một cuộc họp tổ Đảng về việc anh Ba nuông chiếu Hoàng Thọ, để Hoàng Thọ xem thường mọi người kể cả ông chánh uỷ Khu là Hai Trí. Rõ ràng là anh Ba bực mình ghê gớm nhưng anh cố giằn xuống nhận sự phê bình của đồng chí. Sau phiên họp, với tư cách là tổ trưởng, anh Xứng phải “tốp” bớt Thơm:

        - Mày vừa vừa thôi nghe Thơm. Tao thấy đêm rối anh Ba bực mấy lắm đó.

        Thơm nói tỉnh bơ:

        - Phê tự phê là võ khí tu dưỡng đảng viên mà. Sao anh không cho tôi phê bình xây dựng anh Ba!

        Xứng nhấn mạnh:

        - Đồng ý rối. Nhưng phê bình cũng tuỳ đối tượng, phải chọn lời lẽ. Với ông tướng mà mày nói xáng xả như đêm qua sao được!

        - Tướng thì tướng chớ, đã cùng một tổ Đảng thì bình đẳng như nhau.

        - Thôi thôi! Chớ có đòi dân chủ quá trớn. Trong Đảng cũng phải có tôn ti trật tự chớ. Tao thất anh Ba giằn lắm vì mấy phê bình anh trong tổ Đảng. Chớ bên ngoài thì coi chừng à...

        Thơm cười rất hóm:

        - Bên ngoài cha tôi cũng khỏng dám phê ổng như vậy!

        ***
        Trung tướng Nguyễn Bình đã chánh thức vào Đảng rồi mà chung quanh hãy còn không ít kẻ tung tin đồn tai hại như Nguyễn Bình là Nguyễn Phương Thảo, là đảng viên Việt Nam Quốc Dân đảng. Trước tình trạng này, anh Ba bình tâm bình với anh em trong tổ Đảng:

        - Rõ ràng đây là chủ trương của Phòng Nhì. Tây gọi là “jeter le doute” tức là gieo sự nghi ngờ dễ bề chia rẽ. Về hai đảng Việt Quốc và Việt Cách thì khi tướng Lư Hán kéo bọn Tàu Tưởng từ Hoa Nam xuống miền Bắc nước ta để giải giới quân Nhật theo quyết nghị của Đồng Minh, hai đảng này cũng kéo bọn thổ phỉ theo nhũng nhiễu dân mình. Tôi đã từng diệt bọn nầy trong nhiều trận ở Tiên Yên và Móng Cáy. Có trận đánh thẳng vô bọn Tàu, không thèm đánh các cánh Việt Quốc hay Việt Cách. Có một trận tôi diệt gần ba trăm tên. Diệt một cách im lặng không ồn ào. Bọn Quốc Dân Đảng nghe tên Nguyễn Bình là khiếp vía kinh hổn. Nhỏ không ồn ào mà không xảy ra vụ Lư Hán làm ầm ĩ như vụ Chèm. Dù vậy Bác Hồ vốn thấy xa trông rộng nên đưa tôi vào Nam để tránh rắc rối về sau. Một người đã diệt cả trăm thổ phỉ Việt Quốc Việt Cách ở miền Bắc mà vô Nam lại bị chụp mũ Quốc Dân Đảng thì thật là chuyện trớ trêu đến buồn cười. Cho nên tôi khẳng định: Đây là chủ trương của địch. Hễ nghe ai rỉ tai nói bậy thì các đồng chí bắt ngay cho tôi.

        Vũ Huy Xứng cũng đồng ý với anh Ba.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #37 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 12:14:24 pm »

Chương 37

Phong trung tướng, Nguyễn Bình nở mặt
Huỳnh Thế Phương tiếp khách Sài Gòn




Ngày 25-1-1948 chánh phủ Trung ương kiện toàn bộ máy quân dân chánh ở Việt Bắc, Bác Hồ phong quân hàm tướng cho các cán bộ quân sự cao cấp. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong đại tướng, Nguyễn Bình ở Nam Bộ được phong trung tướng và Nguyễn Sơn phụ trách miền Trung được phong thiếu tướng. Ở cấp thiếu tướng còn có năm vị nữa. Đây là tám vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

        Điện phong trung tướng cho Nguyễn Bình tới Nam Bộ tạo một niềm phấn khỏi cho toàn thể quân và dân miền Nam. Ai nấy đều hồ hởi vì Trung ương thấy công lao của vị phái viên Trung ương đã giữ được miền Nam trong những năm cuồng phong bão tố bẻ gãy được mũi nhọn viễn chinh của danh tướng Leclerc đã từng giải phóng nước Pháp và dẫn đầu Sư đoàn 2 thiết giáp thừa thắng xốc tới vượt hai sông Rhin và Danube góp phần đánh bại quân Đức hung hăng của Hítle. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Nguyễn Bình, các bộ đội địa phương được tập hợp lại: chánh qui hoá, đi vào nề nếp, đặt trọng tâm đánh Tây lên trên hết, dẹp bỏ nhưng tị hiềm cá nhân kiểu thập nhị sứ quân. Thống nhất được các bộ đội giang hồ mà đứng đầu là Bình Xuyên là một thành công lớn không ai phủ nhận được. Kế đó là sáng kiến tuyệt vời: đào tạo binh chủng tinh nhuệ luồn sâu đánh hiểm, đột nhập vào thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn là hang ổ của địch, ngày đêm khuấy rối, rải truyền đơn, ném lựu đạn, làm cho địch ăn không ngon, ngủ không yên: biến thiên đàng thành địa ngục. Thời chiến quốc bên Tàu chỉ có một Kinh Kha, một Tào Mạt, một Chuyên Chư, một Dự Nhượng, một Nhiếp Chính, một Cao Tiệm Ly mà để lại cho ngàn đời sau những trang sử hào hùng. Nhưng với sáng kiến lập 10 Ban công tác Thành, Nguyễn Bình đã tạo ra không biết bao nhiêu Kinh Kha, Nhiếp Chính Việt Nam.

        Trước tin điện phong trung tướng không bao lâu thì báo chí Sài Gòn loan tin một thợ hớt tóc cắt cổ tên đại tá uỷ viên cộng hoà Pháp tại Lào tên là Hans Imfelt. Vụ ám sát diễn ra trong phòng số 28 khách sạn Hotel des Nations số 68A Charner (Nguyễn Huệ). Anh thợ hớt tóc này là một đội viên Ban Công Tác Thành tên là Vô Hồng Tâm, mới mười tám tuổi. Điều quan trọng là tên đại tá Imfelt không chỉ là uỷ viên cộng hoà (tương đương thống đốc cũ) ở Lào mà thật ra là một sĩ quan tình báo lợi lại. Chính Imfelt đã vạch kế hoạch tấn công Việt Bắc, định diệt đầu não chánh phủ Trung ương. Sau đó chính nó lại vạch kế hoạch đánh toàn lực vào Đồng Tháp Mười để “hốt trọn” Uỷ ban kháng chiến - hành chánh Nam Bộ. Hắn chưa kịp ra tay thì ta đã đánh trước. Ngày 8-4-1946 ta đốt kho đạn lớn nhất của địch tại Thị Nghè. Kho đạn này Tây gọi là Pyrotechnie, ở góc đường Chasseloup Laubat-doctetư Angier (Xô viết Nghệ Tĩnh- Nguyễn Bỉnh Khiêm). Kho đạn chiếm một diện tích lớn, mặt tiền ngó ra đài phát thanh Sài Gòn, còn mặt hậu thì chạy dài tới rạch Thị Nghè. Bởi vậy mới được gọi là Kho đạn Thị Nghè. Vụ nổ cháy này kéo dài trong ba ngày ba đêm. Khói bốc lên đen cả một góc trời. Tây hoang mang không kể xiết. Càng hoang mang dữ khi biết hệ thống phòng vệ kho đạn này thật kiên cố, lính gác nhiều vòng trong vòng ngoài. Thế mà vẫn bị Việt Minh đánh phá. Có tin được xác nhận là Việt Minh đã đột nhập kho đạn bằng đường cống ngầm trổ miệng ra con rạch Thị Nghè từ trong Sở thú bên kia đường Chasseloup.

        Như sóng trường giang lớp sau đè lớp trước, cơn chấn động về kho đạn Thị Nghè chưa tan thì xảy ra chuyện đại tá uỷ viên cộng hoà Pháp ở Lào bị cắt cổ ngay trong phòng khách sạn giữa trung tâm Sài Gòn...

        Đánh địch một lúc hai chiến trường, tiền tuyến và hậu phương, mỗi chiến trường có một thứ binh chủng tinh nhuệ. Trong vùng giải phóng có Vệ Quốc Đoàn, ở vùng tạm chiếm có Ban công tác Thành. Về sau có thêm các đội Công an xung phong cũng không kém lợi hại... Tóm lại, với tài chỉ huy của Nguyễn Bình, kháng chiến đã bẻ gãy các mưu đồ xâm chiếm của địch về quân sự cũng như về chính trị. Vụ giết tên bác sĩ Trần Tấn Phát, báo chí Sài Gòn đều đăng tin sôi nổi. Các báo Pháp còn nói rõ hơn: Nguyễn Bình đã bóp nát chánh phủ Nam Kỳ tự trị từ trong trứng nước khi loại trừ vị thủ tướng đã được quan thầy Pháp chọn. Cố nhiên là không có Trần Tấn Phát thì cũng có Nguyễn Văn Thinh. Nhưng Nguyễn Văn Thinh bản chất hiền lành, không hiếu chiến như Trần Tấn Phát. Đưa Thinh lên là vì nhu cầu cấp thời mà thôi. Quả đúng như chúng nhận định, Nguyễn Văn Thinh vừa ra mắt chánh phủ ở nhà thờ Đức Bà ngày 1-6-1946 thì năm tháng chín ngày sau, ngày 9-11-1946, Thinh đã thắt cổ tự tử vì ăn năn đã đi ngược lại con đường của dân tộc.

        Công điện phong chức trung tướng cho Nguyễn Bình tạo một không khí tưng bừng chưa từng thấy. Tất cả ba khu 7, 8 và 9 đều đánh điện về chia vui.

        Nhưng không đâu hồ hởi cho bằng Khu 7 là nơi đầu sóng ngọn gió. Tất cả các trung đoàn đều làm lễ liên hoan ăn mừng thắng lợi tuy là vinh dự dành riêng cho vị uỷ viên quân sự Nam Bộ nhưng cũng là niềm vinh dự chung của mọi người trong chiến khu.

        Lễ thụ phong trung tướng được Bộ tư lệnh Nam Bộ tổ chức hết sức trọng thể. Cả nước Việt Nam chỉ có một vị trung tướng. Đó là nhân vật số hai, sau đại tướng Võ Nguyên Giáp. Địa điểm làm lễ là xã Nhơn Hoà Lập, nơi các cơ quan Nam Bộ đóng. Xã này chạy dài theo con kinh Lagrange, vừa được đổi tên kinh Dương Văn Dương, vị lãnh tụ của Bình Xuyên đã tử trận sau Tết Bính Tuất (1946) tại Châu Bình (Bến Tre).

        Để có đủ thành phần xã hội tham dự, ban tổ chức mời một số nhân sĩ trí thức ở Sài Gòn ra. Tất nhiên giới văn nhân ký giả được nghĩ tới đầu tiên. Trong danh sách được liên lạc thành tới mời và đưa đón có nhà báo Thiếu Sơn Lê Sỹ Quý, Tam Ích (XXX) và nhà văn Lý Văn Sâm. Ba vị này viết báo công khai tỏ quan điểm ủng hộ kháng chiến, là ba tay cự phách trong làng báo chí thống nhất bút chiến ác liệt với nhóm báo chí phân ly mà dẫn đầu là hai tờ Phục Hưng và Tương Lai.

        Mời trí thức ở thành ra, phải có người đón tiếp cẩn thận. Người được trung tướng giao trọng trách đó là trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương. Anh Phương là ai vậy? Phương là dân miền Trung lưu lạc giang hồ từ nhỏ, đã từng ra Huế học Lycéum Việt Anh, qua Nam Vang học Lycée Sisawath. Năm 1945 về Sài Gòn học trường sĩ quan Nhật sau ngày 9-3. Ta cướp chánh quyền, Phương vận động binh lính Heiho (do Nhật đào tạo) gia nhập Cộng hoà vệ binh cũng gọi là Đệ nhất sư đoàn. Do vậy mà số Heiho trong Cộng hoà vệ binh rất đông, chỉ đứng sau anh em Garde Civile Locale và Brigade Mobile tức lính Bảo an mà dân Nam gọi là “mã tà chân xanh mắt ếch”. Đơn vị Phương thủ ở Bình Điền, đánh một trận ra trò tại Gò Đen. Lúc đó Phương đã là trung đội trưởng. Trận này báo Kèn gọi lính của Trần Bửu Kiếm đã viết bài tường thuật. Tây đánh mạnh, ta rút xuống Mỹ Tho rồi Bến Tre. Tại mặt trận An Hoá - Giao Hoà, Phương đã gặp anh Ba Dương, và sau khi Ba Dương hy sinh, Phương đã yểm trợ bộ đội Bình Xuyên lúc đó do Sáu Đối chỉ huy về Rừng Sác. Ban đầu định đi đường biển. Xuống tới Bình Đại thì có tin Tây chiếm Bà Rịa. Phải đi đường bộ. Bộ chỉ huy họp bàn lộ trình hành quân. Anh em vẽ bản đồ trên cát. Đang phân vân không biết đi qua những nơi nào thì Sáu Đối rút gươm thọc một đường thẳng trên bản đồ cát nói: “Đi đường này”. Thế là “đại quân” gồm khoảng bốn trăm binh sĩ cứ cương quyết ra đi, đụng địch thì đánh mở đường máu. Ngày nghỉ đêm đi. Về tới Rừng Sác, một bất ngờ khó chịu chờ đón anh Phương: Bảy Viễn muốn “Bình Xuyên hoá” cánh quân Cộng hoà vệ binh của Huỳnh Thế Phương. Tất nhiên Phương không đồng ý. Anh đã làm xong nghĩa vụ yểm trợ Bộ đội Bình Xuyên trở về Rừng Sác an toàn. Giờ thì anh phải đưa quân của mình về Khu Tám. Trong cuộc tranh chấp này, anh Phương thất thế vì anh chỉ là một nhóm nhỏ. Mà luật giang hồ bây giờ là cá lớn nuốt cá bé. Thời may có Mai Văn Vĩnh can thiệp. Bảy Viễn nể Chi đội 7 của cha con ông Tám Mạnh - Hai Vĩnh bỏ ý định sát nhập Cộng hoà vệ binh của Huỳnh Thế Phương. Trở về Khu Tám, Phương làm phó cho ông Đồng Văn Cống (Trung đoàn 99) một thời gian rồi qua bộ đội hải ngoại Trần Phú. Có thể nói cuộc đời của Huỳnh Thế Phương từ lúc đi học tới lúc đánh giặc rất long đong, không ở nơi nào lâu.

        Long đong vì tánh tình ngay thẳng, thấy sai không thể làm ngơ, chẳng hạn như trong chủ trương tảo thanh Hoà Hảo ở hai Khu 8 và 9, Phương rất xót xa vì cảnh nồi da xáo thịt.

        Trong trận vây bắt Hoà Hảo hành quân trong xã Bình Tiên, ngoại vi thị xã Sa Đéc, lần đầu tiên Phương trông thấy nữ binh Hoà Hảo xuất viện. Thật không thể tưởng tượng được. Nữ tướng tự xưng là Phàn Lê Huê được khiêng trên kiệu. Cô còn trẻ măng, khoảng mười tám. Nữ binh Hoà Hảo với gươm giáo làm sao đương cự với bộ đội Hải ngoại là đơn vị có súng ống tối tân từ Xiêm về.

        Phương cho bao vây và bắt sống Phàn Lê Huê sau khi đánh tan đội bảo vệ. Cô ta khai tên là Thanh, quê xã Bình Tiên học trên Sài Gòn năm thứ tư trung học. Sắp thi đíp-lôm thì xảy ra chiến tranh. Về làng cô được Hoà Hảo chọn làm nữ tướng Phàn Lê Huê nhờ đẹp gái và có ăn học... Phương nhìn kỹ trong lúc thẩm vấn, nữ tướng mặc bộ đồ hàng đen viền chỉ vành. Trước khi đóng vai Phàn Lê Huê, cô Thanh làm y tế huyện. Phương suy nghĩ: phải cứu cô gái này. Cô ta chỉ là nạn nhân của Hoà Hảo. Nếu giao đám nữ binh Hoà Hảo này vào các tay hiếu sát thì cái chết rùng rợn chờ đợi các cô: mò tôm. Lúc đó ta không có chánh sách tù binh. Giam giữ vừa tốn cơm vừa tốn người canh gác. Khử là nhanh gọn nhất. Anh chuyển Phàn Lê Huê tới một trại tù binh mới thành lập mà trưởng trại là người hiền lành. (Về sau, năm 63, anh Phương gặp lại cô Thanh tại Hà Nội, bấy giờ nguyên nữ tướng Phàn Lê Huê nghiễm nhiên là bác sĩ quân y)

        Nhưng hãy trở lại lễ thụ phong trung tướng của Nguyễn Bình. Trong một cuộc họp quân sự cao cấp ở Nam Bộ, Nguyễn Bình đã để mắt xanh tới trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương: “Đây là cán bộ trung đoàn trẻ nhất, có trình độ văn hoá, có khả năng chỉ huy”. Lời nhận xét này khiến Phương phục Nguyễn Bình là “quân tử” vì trước đó anh đã từng “nói lén” trung tướng với một số anh em: “Nguyễn Bình nặng đầu óc huynh trưởng, pha thêm chất lưu manh. Ông dùng đám giang hồ tự do phóng túng chỉ biết phục tùng cá nhân Nguyễn Bình, còn chánh uỷ Hai Trí thì coi không có ra ký lô nào hết. Về cái mà thiên hạ thán phục, gọi là dũng cảm phi thường như mạo hiểm về thành quan sát tình hình, tôi cho là liều mạng làm hy sinh cả trung đội có nhiệm vụ yểm trợ...“. Không ngờ trong đánh bạn bè thân cận có người lén “méc” anh Ba. Nếu là kẻ tiểu nhân thì Nguyễn Bình đã “đì” kẻ nói xấu mình. Nhưng không, anh Ba còn chọn Phương thay mặt cho mình đón tiếp đoàn nhà văn nhà báo Sài Gòn. Suốt mấy ngày ba anh Lý Văn Sâm, Thiếu Sơn, Tam Ích xuống Đồng Tháp Mười, Phương lo cho họ thật chu đáo. Sáng đưa họ đi ăn hủ tiếu; tối đưa họ đi ăn chè ở quán Dì Ba, một quán của nhóm Dân Chủ lập trên bờ kinh Nhơn Hoà Lập để cho căn cứ Nam Bộ có chất tươi mát, giải trí anh em cán bộ xa nhà. Từ ngày đầu đến ngày cuối ba anh em trí thức Sài Gòn rất hài lòng về tổ chức trong lễ thụ phong trung tướng. Họ được thấy tận mắt sinh hoạt vui tươi, lạc quan, tin tưởng của nhân dân trong Đồng Tháp Mười. Người mà họ khoái nhất tất nhiên là trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương đã phục vụ hết mình “khách đô thành viếng chiến khu xanh”.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #38 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 12:17:41 pm »

Chương 38

Ấp An Điền nhiều dân thổ mộ
Theo Bảy Quới hăm hở đánh Tây




Ấp An Điền nằm trong làng Bình Quới quận Thủ Đức cách Sài Gòn có ba ngàn thước, nhờ tinh thần đánh Tây mà nổi tiếng như cồn. Đặc điểm của ấp này là dân đa số sống nghề đánh xe thổ mộ tuyến đường Thủ Đức - Sài Gòn và Thủ Đức- Giồng Ông Tố.

        Đất nghèo nhưng thuộc địa linh nhơn kiệt, ấp An Điền cũng sản sanh một sinh viên ra Hà Nội học. Đó là anh Trần Văn Quới - dân trong vùng gọi thân mật là Bảy Quới - sanh năm 1916 ở xã Bình Quới. Có lẽ cha mẹ lấy tên đất đặt tên người cho đậm đà tình quê hương. Bảy Quới theo ngành quật, mới học có một vài năm thì Tây trở lại tái chiếm thuộc địa. Bảy Quới xếp bút nghiên lập bộ đội đánh Tây. Phất cờ tại ấp nhà nên bộ đội Bảy Quới lấy tên là bộ đội An Điền. Nhiều người tưởng An Điền là một xã trong quận Bến Cát, nhưng An Điền đây chỉ là một ấp nhỏ mà thôi.

        Bảy Quới đang cần một người có khả năng để chia bớt gánh nặng thì có bạn cũ là Nguyễn Văn Hoài từng bôn ba ở Thái Lan về. Hoài đi lính Pháp, lên tới adjudant (ông ách) vốn là người xã Linh Đông, ngay thị trấn Thủ Đức, chỉ cách Bình Quới có ba ngàn thước. Lập tức Quới kéo Hoài về Bình Quới với mình.

        Không bao lâu lại có thêm một chiến hữu nữa. Đó là Chấn, nguyên là “recevetư”(1) trên bến bắc Mỹ Thuận. Quới phân công Chấn tiếp tế bộ đội còn Hoài và anh lo về mặt chỉ huy tác chiến. Hoài là cựu quân nhân nên giữ chức chỉ huy còn Quới làm chánh trị viên.

        Lúc đầu bộ đội An Điền chỉ có hai trung đội. Đa số là “xà ích” (đánh xe thổ mộ) và công nhân cao su. Nổi bật nhất có hai tay anh chị Năm Xê, Năm Ký. Khí thế bộ đội An Điền rất cao nhờ chiến công sốt dẻo: chụp đồn Thủ Đức trước ngày Sài Gòn cướp chánh quyền ngày 25-8-1945. Lập đầu công là do anh em đánh xe ngựa hàng ngày chạy qua chạy lại trước bót, biết rõ giờ giấc sinh hoạt trong đồn. Ta thừa lúc bất ngờ bắt sống tên Tây xếp bót, tịch thu súng. Thừa thắng xông lên, hôm sau ta họp mít-tinh tại chợ cá Thủ Đức. Anh Chấn là diễn giả kêu gọi đồng bào ủng hộ cuộc kháng chiến. Trong dịp này ta vây bắt tên cai tổng Định, nhưng lão nhanh chân chạy thoát.

        Hai ngày sau, hai anh Bảy Trấn (Nguyễn Văn Trấn) và Huỳnh Tấn Phát về Thủ Đức phổ biến đường lối chánh sách Việt Minh. Cờ vàng sao đỏ của Thanh niên tiền phong biến thành cờ đỏ sao vàng của Việt Minh.

        Kỷ niệm nhớ đời là trong cuộc biểu tình vĩ đại ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn, bộ đội An Điền đã lập thành tích: anh Hoài đã bắt một thằng Tây núp trong hãng Jean Comte bắn lén đoàn biểu tình nạp cho chủ tịch Lâm uỷ Hành Chánh Nam Bộ Trần Văn Giàu. Tới chiều tối anh em bộ đội An Điền mới về tới nhà.

        Trước đó có tin bộ đội An Điền bị Tây bắn chết hết. Chừng các anh về, cha mẹ các anh vui mừng tới chảy nước mắt. Ngày bộ đội An Điền chánh thức ra mắt đồng bào là ngày 13-9-1945. Trận đầu tiên là trận ngã ba bến đò Bình Quới vào ba giờ chiều. Ta phục kích đánh ba xe GMC chở Chà Chớp. Đánh rất có bài bản: chặt mấy cấy dừa ngay cua(2) để buộc xe địch chạy chậm lại. Ta giết 15 địch, bên ta hy sinh ba chiến sỹ trong đó có con chị Năm Cò. Đó là ngày 20-9-1945. Ta đưa xác về trường Linh Đông làm lễ truy điệu rồi mai táng tại Gò Cầy.

        Sau đó có tin một tên quan tư từ Đà Lạt về, có bốn xe lính hộ tống. Ta liền phục kích trên nóc nhà lồng chợ Thủ Đức. Đoàn xe chạy tới, ta nổ súng, tên quan tư bị thương. Bốn xe hộ tống dừng lại nổ súng như mưa. Ta chết ba, rút khỏi vòng vây an toàn bằng cách giả dạng thường dân.

        Trận thứ ba nhằm mùng ba Tết. Ta đánh Chợ Nhỏ (Thủ Đức). Nắm quy luật Tây chở súng hàng tuần vào sáng thứ hai từ Thủ Đức tới Chợ Nhỏ, ta nổ hai loạt súng, địch bỏ chạy, ta cướp bốn súng đại liên, với thùng đạn 50 viên, 30 Mút Anh, 10 tôm-xông đem về Tăng Nhơn Phú. Chiến thắng này do anh Tư Mọi lập đầu công với cách đánh cực kỳ gan dạ. Anh giả là hương chức hội tề, mặc áo dài the, khăn đóng, cặp tôm-xông như xách dù, chờ xe Tây tới gần mới nổ cả hai băng. Một giờ trưa Tây trở lại tấn công ba mũi Dĩ An, Chợ Nhỏ, Thủ Đức. Ta chống cự tới bốn giờ, diệt thêm ba mươi tên nhưng anh Tứ Mọi tử thương. Sau trận này ta rút về Long Phước Thôn dưỡng quân.

        Năm ngày sau Bảy Quới nhận được thư Nguyễn Bình “hoan hô các anh đánh trận Mít Nài và tặng một số tiền để khao quân”. Đó là bức thư đầu tiên bộ đội An Điền nhận được của khu trưởng Nguyễn Bình. Ai nấy đều phấn khởi, chỉ có một mình Bùi Hữu Phiệt thắc mắc. Hắn la lớn: “ Nguyễn Bình là thằng nào? Nó muốn tước vũ khí mình à?”. Mặc kệ hắn, anh em bộ đội An Điền phấn khởi, bất liên lạc với Nguyễn Bình. Đó là ngày mùng 4 Tết.

        Nhưng hãy nói về tên Bùi Hữu Phiệt.

        Sau trận đánh ở Ngã ba Bình Quới, bộ đội An Điền đóng trong nhà mát của thanh tra học chính Taboulet. Có một toán mười người miền Bắc tới xin gia nhập bộ đội An Điền. Chỉ huy là Btù Hữu Phiệt, tự xưng là chánh trị phạm từ Côn Đảo về. Quới và Hoài vui lòng nhận họ và phân công họ Bùi lo việc văn phòng. Nhưng qua hai trận đánh tiếp theo thì anh em thấy nhóm người Bắc mới đầu quân này không có tinh thần chiến đấu, lại tỏ ý “lánh nặng tìm nhẹ”. Hai anh Năm Xệ và Năm Ký vốn tánh lỗ mãn đòi “giết mấy thằng Bắc Kỳ này cho rảnh”. Nhưng hai anh Quới và Hoài khuyên anh em chớ nóng...

        Về Long Phước Thôn, ta bị Tây tấn công ác liệt. Rồi lại đụng một trận chống càn tại Dốc 1947 gần Long Thành, nhóm Bùi Hữu Phiệt chạy dài. Anh em đánh xe thổ mộ gọi họ là “cá sọc dưa”; hay là “gà chạy rót”. Đã không có gan đánh đấm, Bùi Hữu Phiệt lại ngấm ngầm tuyên truyền trong số anh em công nhân cao su người Bắc chống Nguyễn Bình. Một số anh em này nghe Bùi Hữu Phiệt. Nhưng anh em đánh xe thổ mộ nhất định không thèm nghe “thằng Phiệt ọ ẹ”.

        Phiệt rất mê cầu cơ. Đêm nào cũng xúm xít cầu cơ rồi bàn bạc về Thánh ngôn. Hắn giao du với Nguyễn Thành Long là tay dựa hơi Cao Đài, tìm cách liên lạc với nhóm Năm Hà đóng ở Phước An, Long Thành.

        Lúc Tây đánh mạnh, hắn cứ một hai đòi rút đi, tìm nơi an toàn mà đóng quân. Không được tín hiệu gì về Liên Chi 2-3 của Năm Hà, Bùi Hữu Phiệt quay sang Mười Trí. Hắn đề nghị với hai anh Quới và Hoài:

        - Nếu anh Bảy và anh Tám đồng ý, ta bắt liên lạc ngay với Chi đội 4 của anh Mười Trí.

        Tháng 5-1946, bộ đội An Điền lên ấp 4 Vĩnh Lộc. Bị Chi đội 12 của Tô Ký theo dõi, Bùi Hữu Phiệt than với Quới và Hoài: “Tụi nó muốn giết tôi”. Quới cười bảo “Anh làm gì sai trái mà người ta giết?”. Anh Quới cương quyết tới ấp 4 Vĩnh Lộc đóng quân. Chi đội 12 chận lại tại Bà Quẹo, nhưng Quới tranh thủ Mười Trí để tiến về ấp 4. Mười Trí đồng ý và đưa quân lên ấp 8 đóng yểm trợ. Sáng hôm sau Tây vô, bộ đội An Điền rút xuống bưng. Chưa quen địa hình, anh em hoàn toàn bị động. Trận này bộ đội An Điền bị thiệt hại nặng: chết gần 70 đội viên. Thế là bộ đội An Điền với khoảng 300 kể như tan rã. Chuyện đáng đánh dấu hỏi là cả văn phòng của Bùi Hữu Phiệt biến mất. Tây rút đồng bào trong vùng giúp bộ đội tìm xác và mai táng anh em tử trận. Ngày ấy, về sau là ngày giỗ hội trong vùng Vĩnh Lộc. Không nhớ rõ ngày, chỉ biết là vào cuối tháng 5-1946. Trong số tử vong có một lính Nhật theo ta. Anh này tên Nô và là xạ thủ đại liên.

        Hoạ vô đơn chí, sau trận này, Tám Hoài về Thủ Đức thăm nhà cha và vợ, tới cầu Bến Phân thì bị bắn chết. Về sau Quới mới biết Bùi Hữu Phiệt và Nguyễn Thành Long âm mưu thủ tiêu hai anh Hoài và Quới để cướp bộ đội An Điền, liên kết với bộ đội Cao Đài của Nguyễn Thành Long.

        Sau biến cố ấp 4 Vĩnh Lộc, Bùi Hữu Phiệt và Nguyễn Thành Long tham gia Mặt trận Liên hiệp Quốc gia chống Việt Minh. Bảy Quới tự phê bình nghiêm khắc đã “nuôi ong tay áo”, chứa chấp tên phản động Bùi Hữu Phiệt. Anh thấy các tay giang hồ Năm Xệ và Năm Ký đòi giết Phiệt là có lý.

        Phiệt và Long đưa bộ đội An Điền còn sống sót về tá túc với Chi đội 4 của Mười Trí. Vốn tánh mạnh thường quân, Mười Trí sẵn sàng giúp đỡ những người nhờ mình, vô tình phạm phải khuyết điểm của Bảy Quới là “nuôi ong tay áo”.

        Tháng 10-1946, Bảy Quai bị cảm thương hàn sau trận Rau Râm. Anh được chở về Bình Hoà điều trị, khi mạnh rồi nhận quyết định của Nguyễn Bình, lập Chi đội 25 với bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn của Tư Tỵ và hai trung đội Cao Đài của Nguyễn Thành Long.

        Cũng nói qua về Tự Tỵ. Đây là tay giang hổ xuất thân từ Cầu Bót ở Bình Đông. Mặt chữ điền, miệng giống mỏ chim sẻ, lực lượng chi có một tiểu đội nhường lại được đưa lên làm chỉ huy trưởng, còn Bảy Quới chỉ làm phó. Chánh trị viên là anh Nguyễn Văn Tốt, công nhân Ba Son.

        Chi đội 25 là thối thân của bộ đội An Điền mà linh hồn là Bảy Quới. Sau khi thành lập, Chi đội kéo về Giồng Dinh để huấn luyện. Tại đây Chi đội có tham mưu trưởng là Bảy Cao vốn là thủ lãnh Thanh niên ái quốc Đoàn cùng với Nguyễn Văn Tư. Vừa củng cố đội nghũ xong, Chi đội 25 được thử lửa ngay.

        Ngày 20-3-1947 Tây nhảy dù xuống Giồng Dinh. Đây là trận nhảy dù đầu tiên trên Đồng Tháp Mười. Lúc đó Chi đội 25 đóng ở Giồng Nhỏ, cách Giồng Dinh năm cây số Tư Tỵ được mời đi đón bộ đội Hải Ngoại ngày 19-3. Sáng sớm hôm sau Tây nhảy dù trắng đồng. Phía Bình Hoà có tàu lồng cu lên khoá mặt sông.

        Tham mưu trưởng quận khu 7 Tạ Nhứt Tứ ra lịnh Chi đội 25 đánh giải vây Chi đội 6 của Hai Dung đang mở đường máu. Bộ tham mưu bàn kế hoạch, xạ thủ Nhật góp ý: hành quân trên đồng trống, máy bay bắn chết. Nên bám trụ chiến đấu. Thế nào chiều bọn Tây cũng rút qua ba xóm giữa đồng. Ta liền phục kích ở Giồng Dinh, Giồng Nhỏ và Hiệp Hoà.

        Một giờ trưa, Tây từ Giồng Dinh kéo qua Hiệp Hoà. Chúng đụng bộ đội Hải ngoại, liên quân với Chi đội 25. Pháo dưới tàu lồng cu giã ác liệt dọn đường cho bộ binh rút. Ta mằm êm nhìn xe lội nước băng đồng. Lúc đó là mùa khô, từ xa thấy xe lội nước “nhảy cà còng” lên lau sậy, đựng năn, như bầy trâu động cỡn. Đến hai giờ ba mươi, ba xe lội nước đi đầu tới gần nơi ta phục kích. Nguyễn Bình và Tạ Nhứt Tứ leo lên ngọn cây quan sát. Lần đầu tiên ta dùng súng Piat của Hải ngoại đem về từ Thái Lan. Ngay những phát đầu, ba chiếc xe lội nước đã cháy tức khắc. Piat là chữ tắt của Protectile anti-tank - tức súng chống tăng. Loại đạn này có sức nóng chảy thép, đã đánh tan binh chủng thiết giáp cực kỳ lợi hại của tướng Đức Rommel, tư lệnh quân đoàn Afrika Korps ở Châu Phi. Địch hoảng kinh co cụm lại, cho pháo dưới tàu giã vào nơi ta phục kích, nhưng ta vẫn nằm im trong công sự. Chúng phản công ba lần đều thất bại. Anh xạ thủ đại liên Nhật bắn phát một hay từng loạt thật chính xác khiến bọn Dù thiện chiến cũng phải nằm lại Giồng Dinh. Còn bọn đầm cứu thương thì chạy bò càng tốc bùng-rền trông thật buồn cười. Đến sáu giờ chiều ta rút lên kinh Lý Văn Mạnh. Vừa tắm rửa xong thì được thư khen của Khu trưởng Nguyễn Bình kèm theo 10.000 và một cặp heo để khao binh sĩ Chi đội 25 đã chống trận càn một trận tuyệt vời. Bộ đội Hải ngoại cũng được khu trưởng khen thưởng như vậy. Cuộc đời binh nghiệp Bảy Quới không suôn sẻ. Tư Tỵ tìm mọi cách để đưa tay trí thức này ra khỏi Chi đội 25 để độc chiếm Chi đội 25 mặc dầu thực lực ban đầu của hắn chỉ có một tiểu đội. Một hôm Trưởng phòng quân Pháp khu 7 Lê Đình Chi mời Bảy Quới qua nhà ăn cơm. Trong bữa ăn, ông Chi cho biết Tư Tỵ gởi đơn tố cáo Bảy Quới theo Cao Đài. Biết Bảy Quới là sinh viên Luật Hà Nội, ông Chi nói tiếp:

        - Trong nội bộ chú lộn xộn, nó định làm hại chú. Chú ở đây với tôi.

        Vậy là Bảy Quới bị giữ tại Phòng Quân pháp. Đồng thời bộ đội An Điền bị đưa hết vô Hội đồng Sầm, nơi giam giữ tội nhân cũng như những người bị tình nghi. Năm Xê chịu không nổi nạn bị bắt một cách vô cớ, đánh cắp một chiếc ghe chạy trốn, không may bị bắt và bị giết.

        Bảy Quới bị “kẹt” tại Phòng Quân pháp trên một năm, từ tháng 7-1947 tới tháng 8-1948. Trong cái rủi có cái may. Lê Đình Chi cùng học Luật ở Hà Nội với Quới và Dương Minh Châu. Hồi ấy Châu và Quới cùng ở chung một gác trọ. Nhờ vậy mà ông Chi đối xử với Quới rất đẹp, coi như bạn chứ không như kẻ bị quản thúc. Trong một năm này, Quới đọc lại bộ Luật “Code pénal modfié” (luật hình sự sửa đổi).

        Vài tháng sau Nguyễn Bình hỏi ông Chi: “Anh Quới có vấn đề gì không?”. Ông Chi đáp:”Quới chỉ mê đánh giặc. Mấy tháng nay ở với tôi, ngày đêm nghiền ngẫm sách Luật với anh Tiến, chánh trị viên Chi đội 16”. Nguyễn Bình gật: “Vậy Phòng Quân pháp sẽ có thêm lai cán bộ có khả năng tăng cường, tiếp tay với anh”. Ông Chi cười nói: “Đọc sách luật chỉ là “để giết thời giờ”. Theo tôi biết thì Quới chỉ mong được cho tiếp tục đánh giặc”.

        Nhờ ông Chi mà sau vài tháng bị quản chế, bộ đội An Điền được thả ra. Trong khi Bảy Quới còn kẹt ở phòng quân pháp, Nguyễn Bình chỉ định Thiết Sơn thay Quới chỉ huy chi đội 25 với cương vị chính trị viên...

        Chú thích:

        (1) Receveur: Công chức trung cấp ngành giao thông công chánh thời Pháp.
        (2) cua: khúc quanh
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #39 vào lúc: 24 Tháng Bảy, 2008, 12:22:07 pm »

Chương 39

Mượn danh Mười Trí giết Nguyễn Bình
Bọn Phiệt, Anh lộ mặt lưu manh


Chi đội 4 đóng trên bờ sông Vàm Cỏ giống như một tụ nghĩa đường của một Mạnh Thường Quân.

        Mười Trí là tay giang hồ theo lối xử thế “tứ hải vi gia”. Ông luôn luôn chiêu hiền đãi sĩ. Khách tới nhà không gà cũng vịt. Bà Mười cũng là tay mến khách.

        Dưới trướng Mười Trí có “giáo chủ“ Huỳnh Phú Sổ đang bị truy nã vì âm mưu chống lại Việt Minh. Sổ muốn nắm Chi đội 4 để mặc cả với Việt Minh nhưng Mười Trí không dễ mua mặc dầu Sổ tung đủ “bửu bối”.

        Bộ chỉ huy Đệ tam sư đoàn cũng tấp vô xin tá túc. Đám này gồm Nguyễn Hoà Hiệp, hai anh em Lai Văn Sang, Lai Hữu Tài, Lý Hồng Chương, Ngô Đình Đẩu Các tay này là nhân viên Phòng Nhì. Lúc mới cướp chánh quyền thì vỗ ngực xưng tên “cách mạng”, yêu nước hơn ai hết. Lúc đó Sài Gòn có bốn sư đoàn. Đệ nhứt do Kiều Công Cung, Trần Tử Oai, Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quan chỉ huy. Đệ nhị do Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt cầm đầu. Đệ tam do Nguyễn Hoà Hiệp năm. Đệ tứ của Lý Huê Vinh...

        Nguyễn Bình không tín nhiệm các sư đoàn nói trên vì khi tiếng súng xâm lăng vừa nổ thì các tay “cách mạng sa-lông” thi nhau chạy như chuột. Kiều Công Cung, Trần Tử Oai đầu hàng trước nhất. Trần Tử Oai là cháu nội Trần Tử Ca, tên quận trưởng Hóc Môn đã bị Quản Hớn chặt đầu trong cuộc khởi nghĩa Mười tám thôn vườn trầu nổi tiếng với tên Thập bát phù viên. Tên Oai chạy về Xóm Củi đầu Tây. Lúc đó Oai chẳng oai tí nào. Trong khi Cộng hoà vệ binh do hai anh em Giàu và Quán chỉ huy đánh Tây nhiều trận ra trò thì Đệ nhị sư đoàn chỉ lo rút chạy. Vũ Tam Anh vốn con địa chủ, tên cúng cơm là Nguyễn Ngọc Nhẫn không đánh đấm gì. Vì tên có ba chữ N đứng đầu nên tự đặt là Tam Anh, thêm họ Vũ cho ra vẻ con nhà võ tướng. Chọn họ Vũ nhưng gốc là dân Mỹ Tho. Vũ Tam Anh cấu kết cùng Bùi Hữu Phiệt, Sáu Section, (tức Nguyễn Văn Sạch), lính mã tà trong lội section de lutte (trung đội dẹp loạn), Nguyễn Thành Long và Trần Xuân Nam để thao túng.

        Còn Đệ tam sư đoàn thì Nguyễn Hoà Hiệp là con cường hào Lái Thiêu rớt đíp-lôm, làm thư ký Bưu điện Lái Thiêu cưới con địa chủ ở Bình Hoà, làm thầu khoán cho Nhật.

        Tư lệnh Đệ tứ sư đoàn thì Lý Huê Vinh là chệt lai, đậu đíp-lôm của Pháp nhường lại làm gián điệp cho Nhật. Tây tới là Vinh “nhảy nai”.

        Nắm được tình hình này, Nguyễn Bình cương quyết giải giới các sư đoàn đã trở thành quân phiệt.

        Bắt đầu từ Đệ tam sư đoàn. Tây đánh lấn ra ngoại vi Sài Gòn Chợ Lớn, Nguyễn Hoà Hiệp dẫn quân chạy xuống Cao Lãnh. Tại đây chúng tha hồ vơ vét, bắt bớ các trí thức tản cư theo kháng chiến. Chừng tàu Tây thọc sâu vô sông rạch, uy hiếp các thị trấn nằm dọc hai con sông Tiền và Hậu, Nguyễn Hoà Hiệp lại kéo quân trở lên miền Đông. Xuồng ghe chở quân và chiến lợi phẩm cướp đoạt của dân như máy may, máy hát kéo dài mấy cây số. Gặp những nơi. đường nước khô cạn, chúng bắt dân kéo, để lại những luồng lạch mà dân gọi là đường nước Đệ Tam sư đoàn.

        Nguyễn Bình ra lệnh cho Huỳnh Văn Một, Chi đội 15 tước súng đám này. Do sáng kiến tổ chức đưa ghe thuyền rước binh lính Đệ Tam sư đoàn qua sông Vàm Cỏ, ông Một phân tán chúng từ tiểu đội, đưa về nhà dân cho ăn uống, đồng thời cho du kích giả làm dân hiếu kỳ đi xem tổng bộ đội. Hay tin “đại quân” đã bị Huỳnh Văn Một tước hết khí giới, bộ chỉ huy hốt hoảng bỏ chạy. Chúng tấp vô Chi đội 4 của Mười Trí xin tá túc để rồi “hồi sau phân giải”. Tại đây Nguyễn Hoà Hiệp vui mừng gặp hai tay tổ của Đệ Nhị sư đoàn là Vũ Tam Anh và Bùi Hữu Phiệt.

        Nhưng hắn chỉ ở lại Chi đội 4 có một ngày rồi lật đật chạy ra thành đầu hàng Tây tại ấp Vĩnh Lộc. Thế là công lao cướp bóc suốt mấy tháng trời của chúng bỗng chốc trắng tay: Chiến lợi phẩm Huỳnh Văn Một tịch thu của Đệ Tam sư đoàn gốm có: 52 súng mút, 27 súng lục, 30 máy may, 15 máy hát...

        ***
        Trở lại đám Vũ Tam Anh, Bùi Thế Phiệt. Vũ Tam Anh cao to để râu mép, thiên hạ gọi là ông Phán râu kẽm. Ngoài tên Nhẫn hắn còn có tên Niên. Tên nào cứng bắt đầu từ chữ N. Nhờ nắm được Sáu Section, vũ Tam Anh lui tới “tụ nghĩa đường” của Mười Trí.

        Anh và Phiệt mưu tính ám sát Nguyễn Bình, bèn bàn với Sáu Section: kiếm được chữ ký của “anh Mười” là kể như đạt kết quả 75%. Có chữ ký rồi, Sáu Section tập ký cả buổi để sau cùng ký vô một thiệp mời: “Mười Trí kính mời anh Ba Bình dùng bữa cơm gia đình vào chiều mai. Rất mong anh Ba tới.

        Ký tên Mười Trí”.

        ***
        Nhận được thư Mười Trí, Nguyễn Bình sửa soạn đi một mình. Nơi anh Ba đóng không xa mấy tổng hành dinh Chi đội 4. Thấy anh Ba nai nịt trước khi xuống tam bản, đại đội trưởng Hứa là Văn Yến hỏi:

        - Anh Ba đi một mình à?

        - Người ta mời qua ăn cơm gia đình, đi nhiều người sao được?

        - Nhưng bên anh Mười như cái chợ, anh Ba đi một mình không tiện. Để tôi đem vài đứa theo...

        Anh Ba khoát tay:

        - Khỏi. Đây qua đó cũng gần mà. Có gì thì tôi đã có cái này!

        Anh vỗ khẩu Wicker bên hông. Nói xong anh bước xuống tam bản chèo đi.

        Đúng lúc đó Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt cùng Sáu Section bí mật tới một miếu hoang gần Lò Đường dọc bờ sông. Tại đây chúng đã bố trí một thiện xạ thủ súng chờ con mồi tới nạp mạng. Vũ Tam Anh nôn nóng, chốc chốc lại nhìn xuống phía Nguyễn Bình sẽ tới. Bùi Hữu Phiệt nói:

        - Làm thịt được hắn thì bọn mình mới dễ thở. Ai hắn cũng nghi không triệt để cách mạng như hắn...

        Vũ Tam Anh cười:

        - Mà hắn nghi đúng. Bọn mình làm sao triệt để cách mạng được! Đâ quen với nếp sống đế vương, sáng cà phê hủ tiếu, bánh bao xíu mại, chiều tôm khô củ kiệu la ve. Vô đây thiếu mấy thứ đó, buồn chết.

        Sáu Section xía vô:

        - Bởi vậy anh em mới gọi anh là ông Phán râu kẽm - Hít một hơi khói thuốc Cotab, nói tiếp - Tướng độc nhãn rất đa nghi, nhưng có một người ông ta không nghi, mà người này mới là đáng ngại hơn hết. Hà hà...

        - Ai vậy? Phiệt và Anh cùng hỏi.

        Sáu hất hàm về phía văn phòng Chi đội 4:

        - Mười Trí chớ ai!

        - Anh nghĩ về Mười Trí như thế nào mà nói là đáng nghi? Mà nghi cái gì?

        - Nghi về điểm có triệt để cách mạng hay không.

        Theo tôi dân giang hồ đi theo kháng chiến một lúc nào đó thôi. Họ là hảo hán Lương Sơn, không ưa triều đình nên rút ra rừng lập giang san riêng. Nếu cách mạng kìm chế họ quá thì ngày nào đó họ sẽ bung ra thôi.

        Bùi Hữu Phiệt gật lia:

        - Anh Sáu nói rất đúng. Tôi thấy Mười Trí khí phách lắm. Đi theo kháng chiến mà ông ta không bỏ thói quen của một sơn trại chủ: vận xà-rông, sáng trà, trưa rượu, tối lai rai... nghĩ sao nói vậy chớ không ý tứ như mấy cha cộng sản.

        Vũ Tam Anh đắc ý:

        - Cũng nhờ Nguyễn Bình không nghi Mười Trí nên mình mới dùng được độc kế hôm nay. Một mũi tên, hai con nhạn. Cao Đăng Chiếm sẽ thấy lá thư mời ăn cơm gia đình của Mười Trí trong túi áo xá xẩu của Nguyễn Bình... Còn bằng chứng nào hùng hồn hơn? Nghĩ mà phục bọn mình sát đất!

        Bộ ba đang hí hửng bỗng xạ thủ đưa tay làm hiệu. Tất cả đều ngó xuống mé sông. Trên con sông vắng, buổi chiều tà, một bóng thuyền lướt êm. Tam bản chỉ có một người chèo. Sáu Section khẽ nói:

        - Nguyễn Bình đi có một mình. Dễ xơi quá!

        Xạ thủ nâng súng lên rà họng súng theo tam bản, đầu ruồi nhắm ngay ngực người chèo. Tất cả hồi hộp chờ đợi. Chiếc tam bản vô tình cứ lướt chầm chậm.

        Khi nó tới thật gần, xạ thủ sửa soạn bóp cò thì Sáu Section sốt ruột kêu lên: “Bắn đi?” Tiếng kêu bất ngờ đó làm xạ thủ giật mình, lúc bóp cò, nòng súng hơi nhích một chút. Do vậy mà đạn không ghim ngay vào ngực mà bay qua bả vai. Nguyễn Bình ngã xấp xuống ván thuyền ngay loạt súng đầu. Đạn trúng bả vai và cánh tay mặt. Anh Ba dùng tay trái móc khẩu wicker đưa lên miệng đẩy chót an toàn bắn ngay vào đám người lô nhô trong miếu hoang. Xạ thủ điều chỉnh mục tiêu nổ tiếp loạt thứ hai. Sanh mạng Nguyễn Bình như chỉ mành treo chuông. Cuộc đấu súng diễn ra vô cùng thất lợi cho ông: xạ thủ chiếm ưu thế tuyệt đối, có công sự phòng ngự và nắm chủ động. Bất ngờ một yếu tố đột xuất làm thay đổi tình hình: tiếng súng nổ vang từ trên sông. Nguyễn Bình đã có đội bảo vệ theo sau. Hoàng Thọ nghe súng nổ lập tức chạy tới. Xạ thủ và bộ ba sát nhân co giò chạy. Tam bản của Hứa Văn Yến cùng ba binh sĩ ào tới đúng lúc. Nguyễn Bình bị thương nhiều nơi, máu thấm đỏ bộ đồ xá xẩu. Hai Yến cấp tốc đưa anh về cho y sĩ khám và băng bó các vết thương. Anh Ba bắt tay Hai Yến, xúc động:

        - Cám ơn anh. Không có anh thì tôi nguy rồi. Thật không ngờ chuyện lại như thế...

        Hứa Văn Yến nói:

        - Tôi đã nói mà anh Ba không nghe. Tin người là đức tánh tốt của vị tướng, nhưng tin mà cũng phải ngờ...

        Ba Bình gật:

        - Đây là bài học đáng giá. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu được vì sao lại có chuyện này. Phải gặp Mười Trí mới được.

        Sáng hôm sau, Nguyễn Bình qua văn phòng Chi đội 4. Mười Trí vui mừng ra đón. Thấy khu trưởng băng bó nhiều chỗ, lấy làm ngạc nhiên, chú Mười hỏi:

        - Chuyện gì vậy anh Ba?

        - Anh Mười không biết thật sao? Súng nổ ở gần lò đường, sát một bên mà...

        Mười Trí gật:

        - Súng nổ thì tôi có nghe. Tụi nhỏ báo cáo có mấy thám báo địch mò vô bị mình bắn chạy trở ra. Tôi đâu có ngờ anh Ba bị thương trong vụ đó.

        Ba Bình cười:

        - Chỉ huy như anh Mười là khơi lắm! Chuyện không đơn giản như anh nghĩ đâu. Anh xem đây thì rõ!
        Ba Bình trao lá thư, Mười Trí càng ngẩn ngơ. Vài giây sau, ông chợt hiểu, nét mặt bình thản biến thành cơn thịnh nộ:

        - Ai? Thằng nào mạo chữ ký của tôi mời anh Ba qua đây để ám sát dọc đường? Nó phải chết? Ba Chiêu! Mầy đâu?

        Ba Chiêu là đại đội trưởng kiêm thư ký riêng của Mười Trí. Anh là dân Bà Quẹo, theo bộ đội Mười Trí ngay từ đầu.

        - Có đây, chú Mười?

        Mấy cho tập hợp tất cả ngay bây giờ. Điểm danh coi vắng mặt thằng nào?

        Ba Chiêu tập hợp ngay, điểm danh thì thấy thiếu ba người: Sáu Section, Bùi Hữu Phiệt và Vũ Tam Anh. Sáu Section cũng là đại đội trưởng, theo anh Mười ngay từ đầu. Còn hai tay Phiệt và Anh là “tân khách” dưới trướng Mạnh thường quân Huỳnh tướng quân.

        Nghe Ba Chiêu báo cáo, Mười Trí nói với Nguyễn Bình:

        - Vậy là quá rõ rồi! Ba thằng này bấy lâu ăn nhậu với nhau, tính toán cái gì đó. Tôi không ngờ chúng “ăn cơm tui mà hại tao”. Tôi thành thật xin tôi anh Ba. Vụ này tôi hoàn toàn không biết gì. Nếu biết thì tôi đã bẻ họng vặn cổ tụi nó rồi!

        Nguyễn Bình cười thoải mái:

        - Trọn đêm rồi tôi cứ thắc mắc: không lẽ anh Mười lại hại mình? Bây giờ mới rõ. Sáu Section thì tôi không chú ý. Còn hai tay Bùi Hữu Phiệt với Vũ Tam Anh thì tôi đã nghi ngờ từ lâu. Bùi Hữu Phiệt dựa vô bộ đội An Điền của Bảy Quới, rồi liên kết với bộ đội Cao Đài của Nguyễn Thành Long, đưa hết về ấp 4 Vĩnh Lộc cho Tây tiêu diệt trong một trận càn. Sau đó chúng âm mưu sát hại Tám Hoài tại cầu Bến Phân... Còn Vũ Tam Anh thì nắm Đệ nhị sư đoàn để làm lãnh chúa. Hắn cấu kết với Bùi Hữu Phiệt và Sáu Section ám hại tôi vì tôi biết rõ căn cội của chúng.

        Mười Trí hối hận, làm gà nấu cháo đậu xanh đãi anh Ba. Chú Mười đem chai rượu thuốc ra rót hai ly.

        - Xin mừng anh Ba tai qua nạn khỏi. Tôi biết anh Ba không uống rượu, nhưng mà “vô tửu bất thành lễ” Phải có rượu trong những tiệc mừng. Anh Ba chỉ “nhúng môi” cũng được.

        Hai bên cụng ly. Dù không uống rượu, anh Ba cũng nốc cạn một chung nhỏ - loại chung Duralex bán tràn các chợ vườn.

        - Tôi không uống rượu, nhưng nay phá lệ để đánh dấu ngày kết bạn tri âm với anh Mười...

        Mười Trí châm thêm chung nữa:

        - “Anh hùng tri ngộ tam bôi thiểu”, kết bạn tri âm uống ba chấm rượu là yếu lắm. Vô tiếp đi anh Ba. Hôm nay là một ngày vui đối với tôi: được kết bạn tri âm với trung tướng Nguyễn Bình, đặc phái viên Trung ương của Bộ Tổng.

        - Đây là chung thứ hai. Trước khi uống, tôi có một lời khuyên anh Mười. Có được không?

        Mười Trí hạ chung rượu giữa chừng, cười lớn:

        - Được quá chớ anh Ba.

        - Anh Mười đúng là một Mạnh Thường Quân, dưới trướng luôn có cả chục tân khách. Tôi thấy đó là chuyện thường tình của một tay giang hồ mã thượng. Tuy nhiên trong đánh tân khách có người này người khác, không ai giống ai. Một Mạnh Thường Quân tài đức song toàn phải biết phân biệt, người tốt với kẻ xấu...

        Mười Trí nhăn mặt:

        - Vụ vừa rồi tôi đã tự mắng đã nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Tôi quyết sẽ không tha ba tên khốn kiếp đó, nhất là thằng Sáu Section. Nó đã theo tôi ngay từ đầu mà bây giờ nó chạy theo hai cha chánh khách “si-kên” phản lại tôi... Lời khuyên của anh Ba, tôi sẽ nhớ đời. Bây giờ mời anh Ba một chung thứ ba cho đủ tam bôi...

        Nguyễn Bình đưa tay lên cản:

        - Cho tôi thiếu chung thứ ba. Tửu lượng tôi không kém. Nhưng vì con mắt yếu. Hai chung là vừa. Thêm chung tía là quá sức. Mà cái gì quá là không hay. Bây giờ tôi còn phải về làm việc với chú Hoàng Thọ.

        Mười Trí cười:

        - Đã kết nghĩa anh em thì cho tôi khuyên anh Ba một câu để trả lễ: anh Ba chớ nuông chiều thằng đệ tử của anh. Coi chừng có ngày anh Ba mệt vì nó.

        Nguyễn Bình gật gù:

        - Anh Mười nói chí lý. Có điều này chắc anh Mười chưa biết: trong vụ mưu sát vừa rồi, Hoàng Thọ cũng đã xách lính chạy tới Lò Đường. Chính nhờ súng nổ cùng lúc trên bờ và dưới sông mà bọn sát nhân phải bỏ chạy. Hứa Văn Yên và Hoàng Thọ đã kịp thời cứu tôi
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM