Nguyễn Quang Sáng
Trên góc trái của phong thư thường là tên và địa chỉ của người gửi.Phong thư không tên mà cũng không địa chỉ mà là một câu dài “Nhớ anh trên bước đường về” như một câu thơ.Phong thư lại dày cộm.Chắc là một chùm thơ hay một trường ca của một tác giả nào đó gửi cho tôi,nhờ đọc giùm?Dòng chứ trên phong bì đúng là câu mở đầu của một bài thơ sáu tám.
Mở ra.Không phải.Là một bức thư nhiều trang viết trên giấy học trò.Lướt qua đoán biết người viết là người miền Bắc.Dấu hỏi ngã rõ ràng.
Thư viết.
“Tôi có người bạn,trước khi chết nó có nhờ tôi tìm anh và xin lỗi anh.Nhưng từ đó đến nay đã hơn hai mươi năm.Tôi không quên,có lúc nhớ dến dây dứt nhưng tôi lại bỏ trôi,tệ quá.Đêm rồi tôi nằm mơ thấy nó về - tôi nằm trên chiếc võng,nó hiện lên từ trong một chòm lá của cây rừng già.Đúng là gương mặt của nó,cả đám mày rậm,mắt vừa to lại vừa sâu vừa sáng.Nó giận giữ rung cây và hét:”sao mày không xin lỗi cho tao,hả,hả?”.Hai con mắt của nó,hai luồng sáng chiếu thẳng vào mặt tôi.Rắc một cái,nó ôm cả cành cây lao xuống tôi.Ngực đau nhói,tôi giật mình.Trời đang mưa giông sấm chớp,có lẽ sấm to con mèo giật mình,phóng ngả chai rượu từ trên đầu tủ xuống ngực tôi.
Tôi bật đèn,dây điện đứt,đèn không cháy.Tối âm u.Tôi sợ,vội vàng đi tìm bó hương,tôi đốt ba nén,tôi vái: “Tấn ơi!Tao sẽ làm theo lời trăn trối của mày”.
Nỗi ám ảnh bấy lâu đã biến thành giấc mơ hay là nó hiện hồn về thật?Không hiểu.
Sau đó,tôi dò tìm chỗ ở của anh,biết chắc,tôi mới ghi lá thư này.
Anh có nhớ trên Trường Sơn năm 1966,một buổi sáng có một người lính lên đạn,chĩa súng vào người anh.”
Tôi nhớ:
Buổi sáng hôm ấy ,tôi chột bụng,Chỗ tôi nghĩ là rừng.Đi tìm chỗ cùng là rừng.Một đơn vị quân đội dừng lại và ngủ cạnh bên chúng tôi lúc nào không biết.Bước ra khỏi võng,chung quang,trong sáng mờ mờ,võng giăng đầy cả rừng.Tay ôm bụng,tay vạch lá,tôi lom khom len qua đầu võng này đến đầu võng khác,bỗng một tiếng hét giật nảy người.
-Đứng lại!
Rốp,đạn lên nòng,mũi súng đen ngòm chĩa vào ngực tôi,Một người lính trẻ hầm hừ:
-Anh đi đâu?
Bất ngờ đến nỗi tôi không còn cảm giác.Nếu đó là một tên giặc tôi có thể sợ,có thể tức,có thể đối phó cách này cách khác.Đằng này,người chĩa súng vào tôi lại là một anh bộ đội.Tôi đứng chết trân.
-Tôi đang đau bụng-Tôi đáp.
-Anh chưa đi được.- Anh bộ đội trẻ quay lại đầu võng:”Còn” anh ta nói rồi quay lại:
-Tôi tưởng anh ăn cắp nắm cơm của tôi,thôi anh đi....
Thư viết.
“Sau khi đoàn các anh đi rồi,nó mới đuổi theo hỏi.Nó bám được người cuối cùng trong đoàn anh,sau khi tả lại hình dáng của anh,người trong đoàn cho nó biết,anh là nhà thơ.Nó muốn đuổi theo anh,nhưng các anh đang leo dốc,nó vừa sốt lại vừa đói...
Nó chạy theo anh để xin lỗi anh bằng cách tặng anh vài điếu thuốc.Anh có nhớ không?”
Tôi nhớ.
Vì sao buổi sáng hôm ấy tôi đau bụng.Trước đó hai ngày(có nghĩa là trước đó hai trạm).Sau này,nhắc lại,chúng tôi gọi đó là “trạm khắc nghiệt”.
Sụp mặt trời.đoàn chúng tôi đến trạm - trạm là một con suối cạn,nước rỉ rỉ mà đá thì nhiều,lởm chởm cục nhỏ,cục to.Người của trạm,cũng là một anh bộ đội,chúng tôi chỉ nghe giọng chứ không rõ mặt tròn hay méo,giọng sang sảng.
-Thưa các đồng chí.Trạm ngày mai và trạm ngày kia,các đồng chí sẽ hành quân qua một dãy rừng thưa.Trên đầu lúc nào cũng rè rè thằng máy bay trinh sát,chỉ cần một tia khói là bom bi đổ xuống như rang muối.Do đó,hai trạm tới,không được quyền nấu cơm.Cho nên,ở trạm này,các đồng chí phải nấu luôn cho hai ngày ăn.Xin phổ biến cho các đồng chí một kinh nghiệm.Để cơm không bị thiu,nấu xong nắm lại từng nắm,rồi nướng.Hết.
Anh ta vừa hết thì một trận mưa đổ xuống.Mưa rừng.Mưa xối xả.Mưa mù mịt.Với cơn mưa này củi cho một “hăng gô” cơm đã khó,củi đâu cho bốn “hăng gô” cho bốn buổi ăn,rồi phải có củi đun thành than để nướng.Thật gian nan!Nhưng đã là rừng thì phải có củi!Mỗi người một cái bếp đỏ lập loè,lửa vừa cháy,mưa lại dập tắt.Phải che hai cái tăng cho cái bếp.Mưa quật bay cả tấm tăng,dập luôn ngọn lửa vừa bắt cháy.Bình - hoạ sĩ – cái bếp của nó cạnh bếp tôi.Cái bếp của nó tắt cháy không biết bao nhiêu lần,nó vừa nhúm vừa chửi thề.Nó chổng khu,thổi một hơi dài,ngọn lửa vừa bùng lên thì cái tăng của nó bị gió thổi tạt,nước ào xuống cái bếp,xèo,khói bay,tắt ngấm.Nó bật đứng dậy,đưa chân đá bay cái “hăng gô” đi.”Đ.mẹ”!Rồi nó quay ngay lại,ngã mình lên võng,càu nhàu,”Nhịn,nhịn luôn!”...Và nó nhịn thật.Mệt,nó ngủ ngon lành.
Chúng tôi lui cui,kiên nhẫn.Sau cơn mưa chúng tôi lại có củi đun thành than,nướng đủ cho bốn nắm cơm cho hai ngay sau.Hôm sau,lên đường,tôi chia cho nó nửa nắm cơm.nó lắc đầu không nhận.”Đ.mẹ.Nhịn”.Tôi không nài mà thấy mừng.
Chiều hôm sau đến trạm,chúng tôi mở cơm ra ăn thì nó biến mất
Cơm nước xong,nằm lắc võng,mới thấy nó về.Mặt nó tươi rói lại nhe răng cười.
-Dù không nhận,nhưng tao cũng cám ơn mày!
-Nhưng mày đã ăn gì chưa?
Nó vỗ bụng:
-Tao ăn cho cả ngày mai.
-Cơm đâu mày ăn?
Nó cười vẻ tự hào:
-Tao biết thằng trạm!Tao đi tìm nó.Gặp tụi nó.Tao không nói gì.Lấy giấy và bút tao vẽ cái trạm của tụi nó.Bọn lính trạm cứ vây lấy tao,khen tao nức nở.Tao lại “cờ rô ki” cho tay trưởng trạm.Tao rà rề cho tới bữa cơm.Thế là nó mời tao xơi,cơm xong lại có chuối “đết xe”.Mẹ,nó sống như cha.Gà nó nuôi hàng đàn.Nó nấu cơm rồi nấu nước pha chè.Khói um.Còn mình thì không được một tia khói.Mẹ! – nói xong,nó dúi cho tui một trái chuối “Ăn đi!”.
Nằm lên võng,nó lắc rung cả hai cây mồi.
-Mai mày đi với tao,tao thì vẽ còn mày thì làm thơ.No.
-Mày vẽ thì được,còn thơ?
-Cần chó gì,có vần là được,cứ lục bát mà làm tới,trên vần màng thì cứ tàng,làng,sàng màl làm tới.Có cơm là được!....
-Buổi sáng hôm ấy,tôi bị chột bụng vì nằm cơm thiu cuối cùng.
Thư viết:
“Đơn vị chúng tôi nắm đó và đoạn đường đó,mỗi ngày một đứa chỉ một nắm cơm.Đói,vai vác nặng lại đồi rồi dốc nối nhau trùng trùng điệp điệp.Không may cho Tấn,chỉ có một nắm cơm mà cũng bị đánh cắp.Đói,nó đi lảo đảo rớt lại sau cùng.Thủ trưởng thúc nó,nó quác lại:
-Đói!
-Sao lại đói.
-Bị cắp cơm!
Rồi sau hôm đó nó lại bị mất.Thấy vậy chúng tôi chia cho nó mỗi người một tí cầm hơi.Nó lại lảo đảo rơi lại dưới chân đồi.Nó nhìn thấy vẻ nghi ngờ trong cáo nhìn của đại đội trưởng,ức nó hét:
-Thưa thủ trưởng!Xin báo với thủ trưởng bắt được bắt được thằng ăn cắp cơm tôi là tôi bắn.Tôi phê bình bằng súng.
Nó nói,mặt tái,người run bần bật,thật khiếp.
Xin giới thiệu với anh đôi lời về Tấn.Tấn là học sinh miền Nam.Đúng ra là Tấn không đi nghĩa vụ như chúng tôi.Theo chánh sách chiếu cố miền Nam lúc ấy,Tấn được đi học nước ngoài.Tấn theo ba má,tập kết ra Bắt từ năm lên tám.
Cũng cái tuổi hai mươi,cùng một tiểu đội,hai đứa thường mắc võng bên nhau,trò chuyện.
Chuyện gì anh biết không?Ông bà ta có câu:”Đói nói ăn,nó nói địt”.Đêm nào cũng nói chuyện ăn,anh ạ.Nó thường kể cho tôi nghe món ăn Nam Bộ.
Mắm thì nào là mắm ruột(làm bằng ruột cá)mắm thái,mắm cá trèn,mắm lóc,mắm sặc,mắm cá linh...Từ mắm đến hoa quả nào xoài,nào chôm chôm,lại có cái quả tôi chưa từng nghe:Sầu riêng...
Một hôm nó kể:
-Mày có biết cái món nhậu này không?Khô sặc trộn với lá sầu đâu,ngon phải biết.Mỗi một gắp là một cốc đế.
-Lúc mày đi mày mới có tám tuổi,mày biết gì mà nhậu với nhẹt.Phét!-Tôi chọc quê nó
Tưởng nó giận,nó bật cười ha hả:
-Tao không nhậu nhưng ba tao nhậu...Hô hô...
Người kể người nghe đều rõ dãi.Đêm nào cũng như đêm nào,toàn nói ăn.
Nhưng sau ngày xảy ra với anh,nó không còn hào hứng nữa.
Đêm nó nằm im,thỉnh thoảng lại trở mình.
-Tao bậy quá!
-Nếu lúc đó,quay lại,không thấy nắm cơm thì mình làm sao?
-Không biết nổi.Nếu không bắn thì cũng một bắng súng vô ngực,thấp nhất là một cái đá.Hễ nhớ lại là tao rùng mình,nổi gai ốc.
-Thôi đừng nhắc nữa.
Nó bảo tôi đừng nhắc nhưng lại nói.Nó bảo nó có đọc thơ của anh,những bài thơ về quê hương,nơi chôn nhau cắt rún của nó,dù đã ra đi từ năm lên tám,nhưng vẫn đầy kỷ niệm tuổi thơ.
-Tội nghiệp ông nhà thơ,gầy gò ốm yêu vậy mà vượt Trường Sơn,suýt chút nữa thì tao giết một nhà thơ!Đ.mẹ mày.Đói!
Rồi,những ngày đôi chân phải bấm đầu ngón chân cái đổ xuống những cái dốc dài,chân đặt lên đồng bằng với trời đất bao la,cơm no đủ.
-Mình sắp đụng trận rồi,nếu tao có bề gì,mày nhớ tìm ông nhà thơ cho tao,mày xin lỗi giùm tao.
-Đừng nói gở! – Không hiểu sao tôi phát nổi giận,quát vào mặt nó.
Nó nằm im,hồi sau,nó bảo.
-Tao sẽ làm một bài thơ.
-Ý hay đấy,tặng cô nào?
-Không!Tao làm bài thơ dành tặng cho ông nhà thơ.
-Được!đọc cho tao nghe.
Nó dẫy tay,dẫy chân quầy quậy trên chiếc võng.
-Chưa,chưa,còn lổn cổn lắm.
-Được câu nào cho nghe câu ấy đi.
-Chưa,chưa được.Đái khái nội dung là mình có lỗi với ông ấy.Chỉ mới một câu vô đầu thôi.
-Thì cứ đọc.
Nó tằng hắng:
-Nhớ anh trên bước đường về.
-Nghe êm êm,được đấy.
-Tiếp!-Tôi khuyến khích.
-Thôi mày im,để tao làm tiếp-Tôn trọng nó,tôi nằm im.
Nửa đêm,giật mình,tôi thấy đóm thuốc trên môi nó đỏ rực.Nó đang thao thức với bài thơ.
Anh ạ!Sáng hôm sau,chúng tôi đụng trận.Chúng tôi quần nhau với một bầy trực thăng.Đông trống không có rừng che chở.Trận đấu thật vất vả.Tấn,thằng bạn tôi hy sinh – Tôi nhớ như in cái tư thế của nó.Trong chiến tranh,mỗi người hy sinh một tư thế khác nhau.Tôi chưa từng thấy tư thế nào thanh thản như nó.Nó sải tay,sải chân trên cánh đồng.Tư thế nằm của một người sau một ngày mệt nhọc.Nó nằm như để hưởng niềm vui trọn bổn phận.Nó như đang nhìn bầu trời mênh mông của quê hương,bầu trời vời vợi,trong xanh,với những cánh chim và mây vừa bay vừa tan đi trong cõi hư vô – Và gió!Gió về vuốt qua tóc của nó,rì rào ru cho nó giấc ngủ nghìn năm.
Trong balô nó không có gì.Tôi cố ý lục tìm bài thơ của nó.Cuốn sổ tay nhỏ và giấy mỏng không thấy một dòng chữ nào của bài thơ.Chắc nó chưa kịp viết,kịp ghi.Nó mang theo cả bài thơ gửi cho anh.Nó chỉ để lại cho tôi có một câu mở đầu “Nhớ anh trên bước đường về”.Anh là nhà thơ,xin anh viết tiếp cho nó những vần sau...”
17.7.1993