Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:40:34 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Mỹ  (Đọc 208874 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #50 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2012, 03:09:17 pm »

ANH HÙNG TRƯƠNG VĂN THÀNH



   Trương Văn Thành, sinh năm 1948, dân tộc Kinh, quê ở xã Tăng Nhơn Phú, huyện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 7 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thông tin thuộc bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo ở địa phương có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường chống đế quốc và phong kiến, bản thân thấy rõ cảnh đồng bào bị Mỹ - ngụy đàn áp, bóc lột dã man, nên khi mới 14 tuổi, Trương Văn Thành đã tình nguyện xin vào bộ đội với ý nghĩ được góp phần chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng Tô quốc. Hoạt động trên một chiến trường có nhiều gian khổ, khó khăn, ác liệt, làm nhiệm vụ thông tin, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy với nhiệm vụ, kiên trì chịu đựng gian khổ, dũng cảm vượt mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

   Là một chiến sĩ thông tin vận động, trong 7 năm công tác, Trương Văn Thành hàng trăm lần xuyên rừng vượt suối, có khi đi mấy ngày đêm liền chuyển công văn hỏa tốc đến các đơn vị. Trên đường đi có nhiều lần phải len lỏi sát đồn, bốt địch, qua những nơi địch thường phục kích, dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, Trương Văn Thành củng đảm bảo đưa công văn đúng thời gian quy định, an toàn, phục vụ kịp thời yêu cầu chiến đấu.

   Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, Trương Văn Thành chỉ huy một tổ chốt trên đường dây ở vùng ven Sài Gòn làm nhiệm vụ đảm bảo thông tin liên lạc và đưa đón cán bộ, bộ đội, thương binh vào và ra nội thành Sài Gòn. Khu vực tổ đồng chí làm nhiệm vụ là nơi địch cho máy bay, pháo binh đánh phá liên tục nẹày, đêm rất ác liệt. Trương Văn Thành cùng đồng đội kiên cường bám trụ gần 100 ngày trên địa bàn được giao, tìm mọi cách khác phục khó khăn gian khổ, phát huy sáng kiến, hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí nhiều lần ngụy trang bằng rạ, bò trên đồng trống giữa ban ngày trong lúc máy bay địch đang bắn phá để nối dây điện thoại đảm bảo thông tin thông suốt kịp thời. Nhiều đêm chở bộ đội qua sông bị máy bay địch rà thấp lùng sục, đồng chí vẫn bình tĩnh, mưu trí chèo chống đưa thuyền cập bến an toàn. Suốt mùa Xuân 1968, tổ công tác do Trương Văn Thành chỉ huy đã đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, kịp thời, phục vụ đắc lực cho công tác chỉ huy và cho các đơn vị đánh địch ở vùng ven và nội thành Sài Gòn. Ngoài ra, tổ của đồng chí còn làm tốt công tác hiệp đồng chiến đấu với dân quân xã, tích cực giúp đỡ nhân dân, do đó tạo điều kiện bám trụ được dài ngày trên địa bàn vô cùng ác liệt.

   Trương Văn Thành có tác phong khiêm tốn, giản dị, đoàn kết quý trọng đồng đội, thường xuyên nhận việc khó về mình, gương mẫu trong công tác và sinh hoạt, được đồng đội hết lòng yêu mến và giúp đỡ, cấp trên tin tưởng.

   Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 7 năm liền được bầu Chiến sĩ thi đua.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Trương Văn Thành được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGÔ VĂN NHẠC
(LIỆT SĨ)


   Ngô Văn Nhạc, sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Lợi, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, tham gia cách mạng tháng 12 năm 1959. Khi hy sinh đồng chí là chính trị viên xã đội xã Mỹ Lợi, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Ngô Văn Nhạc sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo giàu lòng yêu nước. Ngay trong những năm Mỹ - Diệm điên cuồng tàn sát đồng bào, gia đình đồng chí vẫn một lòng hướng về cách mạng, không sợ hiểm nguy đã bí mật nuôi 6 cán bộ cách mạng. Đồng chí cũng hăng hái tham gia hoạt động từ năm 1959, lúc đầu làm giao thông liên lạc, sau tham gia phong trào đồng khởi ở địa phương. Năm 1960, đồng chí gia nhập lực lượng vũ trang.

   Đồng chí là một tấm gương tận trung với nước, tận hiếu với dân, chiến đấu anh dũng, kiên cường, quyết tâm tiêu diệt địch đến hơi thở cuối cùng.

   Năm 1964, trong thời gian làm trung đội trưởng trung đội địa phương của huyện đội Cái Bè, Ngô Văn Nhạc đã 2 lần bị thương trong chiến đấu. Do sức yếu, đồng chí dược huyện đội điều về phụ trách tổ trưởng dân quân huyện Cái Bè. Đến năm 1965, trong một lần đi công tác, bị mìn nổ, cụt một chân, Ngô Văn Nhạc được cấp trên điều về công tác ở xã, phụ trách công tác trị an. Năm 1967, đồng chí làm chính trị viên xã đội xã Mỹ Lợi vả thường trực ban quân sự xã, trực tiếp phụ trách 3 ấp loại yếu của xã nằm ở ven đường số 4.

   Lúc mới về xã, phong trào quần chúng còn chưa mạnh do địch khủng bố đàn áp. Ngô Văn Nhạc kiên trì cùng cán bộ cơ sở củng cố dân quân, phát động phong trào tận dụng mọi vũ khí tự tạo, vũ khí thô sơ đánh địch. Đội dân quân từ chỗ diệt ít địch, dần dần có kinh nghiệm diệt được nhiều địch hơn. Phong trào đánh giặc trừ gian phát triển ra khắp xã và sang cả xã bạn. Ngô Văn Nhạc đã góp phần chỉ đạo đội dân quân xã diệt 250 tên địch, làm bị thương 179 tên khác, phối hợp với xã An Thới Đông diệt gọn 1 trung đội lính ngụy, phá hủy 55 xe các loại. Riêng đồng chí dù thương tật nặng nề cũng tham gia đánh địch bằng chông, mìn, lựu đạn, diệt 3 tên, làm bị thương 6 tên.

   Khi phong trào toàn dân đánh giặc ở 3 ấp yếu nằm ven đường số 4 đã tiến mạnh. Ngô Văn Nhạc được phân công trở về chỉ đạo các ấp trong vùng giải phóng chống địch càn phá. Lúc này địch mở chiến dịch giải toả đường số 4. Chúng càn quét liên miên, có đợt càn liền 25 ngày, nhưng do phong trào được kịp thời củng cố, không những xã đánh địch tại chỗ mà còn huy động nhân lực đi phục vụ bộ đội trong đợt tổng tiến công và nổi dậy đầu năm 1968. Tháng 5 năm 1968,đồng chí tình nguyện đón một đồng chí thương binh cụt 2 chân về bảo vệ và nuôi dưỡng. Sau khi bàn bạc trong cấp ủy Đảng, đồng chí thành lập tổ thương binh gồm 3 người: Ngô Văn Nhạc thương binh, con trai anh cũng bị thương được giải ngũ và một thương binh nữa. Tổ đồng chí tận dụng các loại pháo lép, lựu đạn hỏng chế tạo thành các loại cạm bẫy kết hợp với hầm hố chông chiến đấu có hiệu quả, diệt nhiều địch. Những trận đánh thắng lợi của tổ thương binh đã góp phần thúc đẩy phong trào toàn dân giết giặc bằng các loại vũ khí thô sơ của toàn xã. Riêng tổ thương binh của đồng chí Ngô Văn Nhạc từ tháng 6 năm 1968 đến tháng 2 năm 1969, đã diệt được 85 tên địch. Trong một trận chống càn quy mô lớn của địch, có máy bay, pháo binh yểm hộ, Ngô Văn Nhạc đã anh dũng hy sinh.

   Ngô Văn Nhạc sống giản dị, hết lòng thương yêu đồng bào, đồng chí, gương mẫu đi đầu trong mọi hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, được bà con và đồng đội rất mến phục, tin yêu.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Ngô Văn Nhạc được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #51 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 03:58:43 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN CHO


   Nguyễn Văn Cho, sinh năm 1949, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ ngàv 11 tháng 11 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn đoàn 261 (tiểu đoàn Hi-rôn), đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, anh em, họ hàng đều tham gia kháng chiến, ở một địa phương Mỹ -ngụy khủng bố tàn sát dã man đồng bào, Nguyễn Văn Cho sớm có lòng căm thù bọn cướp nước và bè lũ bán nước. Năm 15 tuổi, đồng chí xin phép gia đình xung phong nhập ngũ giết giặc, cứu nước.

   Nguyễn Văn Cho đã tham gia 35 trận đánh, diệt 138 tên địch, bắt 5 tù binh (trong đó có 1 trung úy), bắn cháy 3 xe GMC, bắn hỏng 2 xe M.113.

   Trong chiến đấu, Nguyễn Văn Cho là một tay súng xuất sắc dù gặp địch nhiều cũng kiên quyết tiến công, bị thương, không rời trận địa.

   Trong trận đánh thị trấn Cai Lậy (năm 1967), đồng chí dùng đại liên chi viện rất đắc lực cho bộ binh tiến công thuận lợi sâu vào trong thị xã. Giữa cuộc chiến đấu thì bị thương vào đùi, nhưng vì nhiệm vụ cấp bách đang chế áp hỏa điểm địch, Nguyễn Văn Cho không kịp băng, mà nén đau không rời tay súng, bắn chính xác đến khi diệt mục tiêu xong mới tự băng bó vết thương. Khi rút ra ngoài thị xã, đồng chí nhường cáng cho đồng đội bị thương, cố sức tự trở về căn cứ.

   Đặc biệt, trong trận đánh thị xã Mỹ Tho (đầu Xuân 1968), Nguyễn Văn Cho là khẩu đội trưởng chỉ huy đại liên dũng mãnh yểm hộ bộ binh, diệt nhiều địch, phối hợp với súng B.41 bẳn cháy 4 xe M.113, rồi phát, triển đánh dinh tỉnh trưởng ngụy. Sang ngày thứ hai, địch phản kích dữ dội, mặc dù bị mất liên lạc với đại đội, theo mệnh lệnh của cấp trên, đồng chí vẫn chỉ huy anh em kiên trì bám trụ, diệt địch. Máy bay và pháo binh địch tập trung bắn vào chốt khẩu đội làm cho khẩu đội có 5 người thì 2 hy sinh, 1 bị thương nặng. Sau khi chuyển thương binh, tử sĩ ra vòng ngoài cho dân công, Nguvễn Văn Cho cùng một chiến sĩ kiên quyết quay lại giữ vị trí. Vừa lúc địch cho 2 xe GMC chở đầy lính đến phản công. Đồng chí lập tức nổ súng, khoảng 30 phút diệt một số lớn địch, 10 tên còn lại vội giơ tay xin hàng. Nhưng khi bọn địch thấy ta chỉ có 2 người xông lên, chúng bắn lại. Nguyễn Văn Cho hạ nòng súng đại liên quét một loạt, diệt tại chỗ 6 tên và làm 2 xe GMC bốc cháy, chỉ có 4   tên chạy thoát. Lúc này đạn chỉ còn 50 viên, 2 anh em nhảy lên xe kiếm đạn. Vừa lắp đạn vào súng thì 1 xe GMC chở lính chạy đến. Bình tĩnh để địch đến gần, Nguyễn Văn Cho bất ngờ nổ súng mãnh liệt diệt gọn trung đội trên xe. Hai anh em lại thu nhặt đạn của địch và khi bắt liên lạc được với đại đội, Nguyễn Văn Cho tiếp tục dùng đại liên, chi viện cho đơn vị tiến công. Thấy hỏa điểm đại liên của ta rất nguy hiểm cho chúng, địch cho 1 đại đội đánh thẳng vào vị trí của khẩu đại liên Nguyễn Vãn Cho. Lúc này tuy vẫn chỉ còn 2 người, các đồng chí dũng cảm chiến đấu, cơ động vị trí, đánh bật nhiều đợt xung phong của địch khiến chúng cuối củng phải bỏ chạy. Đến trưa ngày hôm sau, địch huy động một lực lượng lớn đánh vào trận địa ta, có 1 đại đội đánh vào khẩu đại liên của đồng chí. Dũng cảm chiến đấu trước số quân rất đông của giặc, Nguyễn Văn Cho bị thương thêm 2 vết ở đầu và khóe mắt làm cho mắt phải không nhìn được. Đồng chí dùng mắt trái ngắm bắn địch, diệt tại chỗ gần 20 tên, làm chúng phải bỏ chạy, bảo vệ được sở chỉ huy tiểu đoàn. Tuy trên người đã có 5 vết thương, Nguyễn Văn Cho còn tiếp tục tham gia nhiều trận đánh trong thị xã, diệt nhiều địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

   Nguyễn Văn Cho luôn luôn nêu cao tinh thần triệt để chấp hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, đoàn kết tốt, khiêm tốn, giản dị, được đồng đội tin yêu, cấp trên tin tưởng.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giai phóng hạng nhì, được bầu là Chiến sĩ thi đua quân khu, nhiều lần được cấp giấy khen, bằng khen.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Văn Cho được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN THẾ ĐOÀN



   Nguyễn Thế Đoàn ( tức Hai Thủy), sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Phú A, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, nhập ngũ nãm 1953. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là y sĩ, đội phó đội phẫu thuật tiền phương tỉnh Bến Tre, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sinh trưởng trong một gia đình có cha và em tham gia kháng chiến, năm 14 tuổi Nguyễn Thế Đoàn đã tham gia dân quân ở địa phương, năm 15 tuổi vào quân đội. Thời gian đầu, đồng chí được phân công làm các nhiệm vụ liên lạc, trinh sát ở Đồng Tháp Mười, sau được cấp trên cho đi học cứu thương. Năm 1954, đồng chí tập kết ra miền Bắc, được đào tạo trở thành quân y sĩ. Năm 1962, Nguyễn Thế Đoàn trở về Bến Tre, làm đội trường đội phẫu thuật tiền phương của tỉnh.

   Đồng chí đã cùng anh em trong đội cứu chữa hơn 1.000 thương binh trong đó có trên 400 trường hợp bị thương vừa và nặng, tiến hành 55 ca giải phẫu; góp sức xây dựng tổ phẫu thuật cấp cứu và đào tạo được 17 người có trình độ chuyên môn tốt. Nguyễn Thế Đoàn đã cùng đội phẫu thuật nhiều lần dũng cảm chiến đấu, bảo vệ thương binh, toàn đội diệt 45 tên địch (có 22 tên Mỹ), làm bị thương 30 tên khác, bắn rơi 6 máy bay lên thẳng, bắn bị thương 6 chiếc khác. Riêng Nguyễn Thế Đoàn, với sự phối hợp chiến đấu của đồng đội, đã diệt được 6 tên Mỹ, 4 tên ngụy, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng và bắn bị thương 4 chiếc khác.

   Do trình độ chuyên môn có hạn, dụng cụ thiếu thốn, trong mấy năm đầu Nguyễn Thế Đoàn phải ra sức vượt qua biết bao khó khăn về dụng cụ và trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ. Năng lực chuyên môn nhanh chóng tiến bộ, đồng chí đã thành công trong các ca mổ khó khăn như thủng ruột, vỡ thận và đưa tỷ lệ tử vong giảm hẳn xuống.

   Trong trận tiến công thị xã Bến Tre đầu mùa Xuân năm 1968, khi được tin có thương binh bị kẹt trong thị xã, đồng chí đã xin cấp trên cho đưa một tốp mổ vào phục vụ. Trên đường vào thị xã, địch phản kích chặn đường rất gắt gao, nhưng đồng chí vẫn cùng một số anh em len lỏi vào được vị trí quy định. Mặc dù thiếu hẳn một nửa tốp mổ không vào được Nguyễn Thế Đoàn vẫn kiên quyết tổ chức, động viên anh em làm việc và vận động bà con trong thị xã giúp đỡ, lo liệu chỗ nghỉ cho anh em thương binh. Đồng chí không quản khó khăn nguy hiểm xông pha dưới bom đạn địch, cùng với anh em trong tổ băng bó cho 82 thương binh và tổ chức đưa anh em ra vùng giải phóng an toàn.

   Trong đợt tiến công vào thị xã Bến Tre lần thứ 2, lúc Nguyễn Thế Đoàn đang mổ một ca vỡ lá lách thì bom nổ rất gần, hất anh ngã xuống đất. Khi vùng dậy được, Nguyễn Thế Đoàn tiếp tục mổ. Ngay sau đó, trong một ca mổ vết thương ở bụng, công việc đang tiến hành thì một quả bom na-pan nổ, nhà bị cháy. Nguyễn Thế Đoàn buộc phải cùng kíp mổ tạm khép vết mổ lại rồi làm những động tác kỹ thuật cần thiết, sau đó di chuyển sang hầm khác tiếp tục mổ. Hành động mau lẹ, bình tĩnh của anh đã cứu sống được đồng đội trong hoàn cảnh cực kỳ ác liệt. Suốt 5 ngày đêm liền, thiếu ăn, thiếu ngủ, Nguyễn Thế Đoàn vẫn không ngừng làm việc. Có lúc cần phải cấp tốc tiếp máu cho thương binh, đồng chí không ngần ngại đã tự trích máu mình tiếp cho đồng đội.

Không những làm công tác chuyên môn giỏi, Nguyễn Thế Đoàn còn là một chiến sĩ dũng cảm, mưu trí, tích cực diệt địch, bảo vệ thương binh. Trong trận Mỹ Long (tháng 10 năm 1967), đang giải phẫu thì 1 tiểu đoàn địch đổ xuống gần trạm. Tình thế hết sức khẩn trương Nguyễn Thế Đoàn xử trí mau lẹ và dũng cảm: tạm khâu vết mổ, tổ chức chiến đấu và chuyển thương binh về địa điểm phía sau, đến vị trí mới cuộc giải phẫu sẽ tiếp tục. Trong cuộc di chuyển thắng lợi đó, đồng chí luôn luôn có mặt ở chỗ khó khăn nhất.

   Hôm sau, địch lại sục sạo đến gần khu rừng đội trú quân. Đồng chí tổ chức và động viên mọi người sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thương binh. Không chịu bị động ngồi chờ địch đến gần, Nguyễn Thế Đoàn phân công người ở nhà chỉ huy đơn vị, rồi tự mình xách tiểu liên đi bám sát địch. Đến gần bãi thu quân của địch ở bìa rừng, lợi dụng chúng sơ hở, Nguyễn Thế Đoàn bất ngờ nổ súng vào máy bay lên thẳng, bắn cháy 3 chiếc, diệt 2 tên ngụy, làm 3 tên khác bị thương. Số máy bay còn lại phải bay vọt lên, chuyển sang thu quân ở một bãi khác xa hơn. Do đó địa điểm trú quân giữ được bí mật, thương binh an toàn. Trong quá trình làm công tác chuyên môn gần mặt trận, thường gặp quân địch, Nguyễn Thế Đoàn đã nhiều lần dẫn đầu tổ xung kích của đội phẫu thuật đánh địch, chặn đứng cả đại đội địch để bảo vệ thương binh.

   Nguyễn Thế Đoàn luôn luôn gương mẫu trong mọi công tác và sinh hoạt, nghiêm chỉnh chấp hành mọi mệnh lệnh của trên, hết lòng thương yêu đồng đội, tận tình giúp đỡ nhân dân, được anh em tin yêu, đồng bào mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 6 bằng khen, 3 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua của tỉnh.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Thế Đoàn được Chmh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #52 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 04:02:03 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN TÒNG


   Nguyễn Văn Tòng (tức Nguyễn Công Sanh), sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Phú Quý, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thôn đội trưởng dân quân xã Phú Quý, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân trong một gia đình tích cực tham gia kháng chiến, cha bị giặc Pháp giết năm 1948, anh là dân quân hy sinh trong kháng chiến, Nguyễn Văn Tòng còn có lòng căm thù sâu sắc bọn đế quốc và phong kiến. Tháng 7 năm 1963, đồng chí nhập ngũ với quyết tâm chiến đấu đền nợ nước, trả thù nhà. Nhưng vì bị thương trong khi hành quân, tháng 12 năm 1963, Nguyễn Văn Tòng được giải ngũ về tham gia phong trào dân quân xã.

   Nguyễn Văn Tòng đã tham gia 69 trận, diệt và làm bị thương 92 tên Mỹ, ngụy, bắt 1 tên, thu 1 súng. Trong chiến đấu, đồng chí dũng cảm, luôn luôn xung phong đi đầu trong mọi khó khăn gian khổ, động viên anh em nêu cao tinh thần tích cực, chủ động tiến công địch.

   Tháng 6 năm 1968, giặc từ lộ 4 càn quét lớn vào xã. Đi đến đâu chúng tàn sát, phá phách rất dã man đến đó. Lúc này, trong tay chỉ có 2 trái lựu đạn, Nguyễn Vãn Tòng bí mật bò theo kênh, ra đón đầu đoàn xe chở bộ binh địch và gài lựu đạn. Bọn địch từ trên xe nhảy xuống, bị lựu đạn nổ làm cho 2 tên bỏ mạng và 1 tên khác bị thương. Đoàn xe của chúng phải dừng lại. Quan sát hành động của địch, phát hiện một cánh quân từ xã Long Điền đang kéo vào ấp, Nguyễn Văn Tòng nhanh chóng về nhà lấy thêm lựu đạn gài đón đầu. Sau đó, đồng chí mưu trí làm động tác nghi binh giả chạy để cho chúng đuổi theo. Bọn địch mắc mưu, ùa theo đuổi bắt. Chúng vấp phải bẫy lựu đạn, 2 tên chết và 4 tên khác bị thương.

   Nhiều lần bị dân quân đánh đau, địch rất hoảng sợ, co lại trong đồn bốt. Một lần, tên đồn trưởng ác ôn đứng trên nóc lô cốt, dùng loa kêu gọi dân quân chiêu hồi. Nguyễn Văn Tòng trèo lên cây me đầu ấp, giương súng bắn vỡ đầu tên ác ôn này. Ngay ngày hôm sau, bọn địch cử một tên ác ôn có rất nhiều nợ máu với đồng bào ta ở Ba Dừa về thay để chống phá phong trào đấu tranh của nhân dân. Nghe tin này Nguyễn Văn Tòng hạ quyết tâm diệt nó để cảnh cáo bọn chúng và để gây lòng tin cho nhân dân. Nguyễn Văn Tòng cùng một tổ dân quân nằm phục sẵn trước bốt. Đợi đến 5 giờ sáng, khi tên này vừa ra khỏi bốt, Nguyễn Văn Tòng nổ súng bắn xuyên ngực, diệt tên này, làm cho đồng bào hết sức phấn khởi và tin tưởng, còn kẻ địch thì hoang mang khiếp sợ.

   Nguyễn Văn Tòng cùng đơn vị dân quân trong thôn tích cực tuyên truyền vận động nhân dân rào làng, đào hầm chông, dùng vũ khí thô sơ đánh địch, do đó đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và binh vận phá tan nhiều âm mưu thâm độc của Mỹ, ngụy “bình định”, càn quét trong thôn.

   Tháng 12 năm 1969, Nguyễn Văn Tòng cùng 3 dân quân chiến đấu chống gần 2 trung đội địch có hỏa lực mạnh yểm trợ. Trong tổ đã có 1 đồng chí hy sinh và 2 bị thương. Nguyễn Văn Tòng bình tĩnh cơ động, thu hút hỏa lực địch, yểm hộ cho các đồng chí bị thương mang tử sĩ ra trước. Quân địch bao vây và tập trung bắn vào ngôi nhà trong đó đồng chí đang chiến đấu. Đồng chí mưu trí đánh lạc hướng địch, trèo lên mái nhà thoát ra ngoài, mang theo cả 4 khẩu súng.

   Nguyễn Văn Tòng gần bó mật thiết với phong trào đấu tranh của quần chúng, chăm lo xây dựng vả bồi dưỡng cho lực lượng dân quân trong thôn lớn mạnh, được nhân dân tin cậy, anh em mến phục.

   Đồng chí đã được tặng 3 bằng khen, 2 giấy khen. 1 Huy hiệu của Bác Hồ.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Văn Tòng được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN THỊ VIỆT HỒNG
(LIỆT SĨ)


   Nguyễn Thị Việt Hồng, sinh năm 1951, dân tộc Kinh, quê ở xã Long Tri, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ, nhập ngũ năm 1968. Khi hy sinh đồng chí' là chiến sĩ biệt động thành đội Cần Thơ, Quân khu 9, đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

   Sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng, có cha bị Mỹ - ngụy giết hại, hàng ngày lại thấy rõ quân địch khủng bố tàn sát dã man nhân dân, Việt Hồng sớm có lòng căm thù địch sâu sắc và quyết tâm chiến đấu đền nợ nước, trả thù nhà. Đồng chí xin phép mẹ rời ghế nhà trường giữa năm 17 tuổi để đi tìm cách mạng. Được cách mạng đón nhận, Việt Hồng vô cùng sung sướng và thiết tha xin được gia nhập quân đội, trực tiếp cầm súng giết giặc. Năm 1968, được nhận vào đơn vị biệt động hoạt động bí mật ở nội thành Cần Thơ, nơi địch phòng thủ rất nghiêm ngặt, đồng chí đã luôn luôn nêu cao ý chí kiên cường, dũng cảm, mưu trí, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn thử thách, làm tròn những công tác được cấp trên giao. Hoạt động giữa sào huyệt địch, đầy hiểm nguy, Việt Hồng vẫn lạc quan, tin tưỡng, giữ vững phẩm chất trong sáng của người đoàn viên thanh niên Cộng sản, không sợ gian khổ, hy sinh, luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Đặc biệt đầu năm 1969, phối hợp với kế hoạch chiến đấu của mặt trận, Việt Hồng nhận nhiệm vụ đánh vào ty cảnh sát ngụy trong thành phố Cần Thơ, nơi tập trung bọn đầu sỏ ác ôn có rất nhiều nợ máu với nhân dân. Mặc dù địch bố phòng cẩn mật, Việt Hồng mưu trí vượt qua nhiều trạm kiểm soát của địch, đặt mìn vào nơi đã nghiên cứu kỹ và rút ra ngoài an toàn. Nhưng không may, mìn không nổ. Mặc dù lọt vào hang ổ địch lần thứ hai là rất nguy hiểm, nhưng quyết tâm giữ bí mật cho trận đánh, Việt Hồng tìm cách vào ty cảnh sát ngụy, lấy quả mìn ra với ý định để sửa chữa rồi sẽ đánh lại một lần nữa. Rất mưu trí và bình tĩnh vượt bao khó khăn, đồng chí lấy được quả mìn đem ra một phố bên cạnh. Nhưng bất ngờ mìn nổ làm Việt Hồng bị thương nặng ở hai chân. Bà con trong phố chạy ra vực đồng chí dậy, nhưng bọn cảnh sát ngụy cũng lao tới cướp Việt Hồng mang đi. Dù bị kẻ thù dùng cực hình tra tấn rất dã man, đồng chí vẫn kiên cường giữ vững khí tiết cách mạng, không khai một lời. Bọn chúng đưa Việt Hồng vào bệnh viện để điều trị, hòng dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đồng chí giữ vững lòng trung kiên, bất khuất, tiếp tục vạch trần tội ác của lũ bán nước và quân cướp nước, hiên ngang tiến công địch đến hơi thở cuối cùng. Nguyễn Thị Việt Hồng đã anh dũng hy sinh ngày 17 tháng 3 năm 1969.

   Nguyễn Thị Việt Hồng nêu tấm gương sáng về lòng trung thành vô hạn với dân, với nước và tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời, được nhân dân cảm phục, khiến kẻ thù phải khiếp sợ.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Thị Việt Hồng được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #53 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 04:06:05 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN TRƯỜNG



   Nguyễn Văn Trường, sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã An Bình, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ nhập ngũ năm 1961. Khi được tuyên đương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn phó đặc công thuộc mặt trận miền Tây Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,

   Căm thù bè lũ Mỹ, ngụy tàn sát dã man đồng bào, Nguyễn Văn Trường có quyết tâm chiến đấu cao để giành độc íập, tự do cho Tổ quốc. Đồng chí đã trực tiếp tham gia 15 trận đánh, cùng đơn vị tiêu diệt 936 tên địch, chủ yếu là sĩ quan, nhân viên kỹ thuật và giặc lái máy bay, thu 70 súng, phá hủy 85 máy bay và nhiều xe quân sự.

   Nguyễn Văn Trường là một chiến sĩ dũng cảm, mưu trí, tiến công địch quyết liệt, là một cán bộ chỉ huy có tác phong sâu sát, tỉ mỉ, linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống. Đi nghiên cứu các mục tiêu được phân công để chuẩn bị cho các trận đánh, Nguyễn Văn Trường đã vượt mọi khó khăn nguy hiểm, lọt qua hệ thống phòng thủ bảo vệ của địch, vào tận các cãn cứ quân sự, sân bay của địch điều tra nắm chắc tình hình mọi mặt, có kết luận chính xác, xây dựng phương án tác chiến tỉ mỉ, cụ thể, đảm bảo đã đánh là nắm chắc thắng lợi.

   Tháng 2 năm 1968, trong trận đánh sân bay Trà Nóc (Cần Thơ), sau khi đơn vị hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt nhiều mục tiêu trong sân bay, địch phản kích rất ác liệt. Nguyễn Văn Trường cùng một đồng chí khác dũng cảm trụ lại chiến đấu chặn địch để cho đơn vị rút ra ngoài trận địa an toàn. Bị kẹt lại trong sân bay, suốt ngày 2 người mưu trí, linh hoạt, cử động rất khôn khéo làm cho quân địch dùng 1 đại đội và 14 xe M.113 càn đi quét lại nhiều lần mà không phát hiện được.

   Tháng 1 năm 1969, trong trận đánh sân bay Lộ Tẻ (Cần Thơ), do điều tra nắm chắc đặc điểm địa hình, cách bố phòng của địch, Nguyễn Văn Trường táo bạo đưa cả đội hình lọt vào tận bãi để máy bay mới nổ súng. Trong chiến đấu gặp lúc có tình huống phức tạp, đồng chí vẫn bình tĩnh xử trí, điều động lực lượng, động viên đơn vị quyết tâm tiêu diệt địch. Trong trận này, Nguyễn Văn Trường chỉ huy 24 đồng chí phá hủy 75 máy bay, 8 lô cốt, diệt 200 tên địch, chủ yếu là giặc lái và nhân viên kỹ thuật không quân.

   Nguyễn Văn Trường luôn luôn xung phong đi đầu trong những lúc khó khăn, gian khổ, ác liệt, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần khắc phục khó khăn, tìm ra cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ, Có tác phong sâu sát, hết lòng bồi dưỡng chiến sĩ, nhất là các đồng chí mới, được tập thể mến yêu và ủng hộ.

   Đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và được đi dự Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn Miền lần thứ 2.
   Ngày 10 tháng 2 nãm 1970, Nguyễn Văn Trường được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN VĂN HÙNG
(LIỆT SĨ)


   Nguyễn Văn Hùng (tức Nguyễn Văn Hộ) sinh năm 1945, dân tộc Kinh, quê ở xã An Phú, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ năm 1964. Khi hy sinh là trung đội phó công binh, bộ đội địa phương Sài Gòn - Gia Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Lớn lên trong lúc nhân dân ta kháng chiên chống thực dân xâm lược Pháp, Nguyễn Văn Hùng sớm được bồi dưỡng lòng yêu nước và chí căm thù giặc. Sau ngày hòa bình lập lại, 1954 đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, hất cẳng thực dân Pháp, nhảy vào xâm lược đất nước ta. Chúng tàn phá quê hương, giết hại đồng bào ta, đồng chí càng nung nấu ý chí căm thù quân xâm lược, quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc.

   Nguyễn Văn Hùng đã đánh 9 trận lớn nhỏ, phá sập 6 cầu, trong đó có cầu Bến Lức, đánh chìm 3 tàu, diệt nhiều tên địch.

   Trong chiến đấu, đồng chí luôn luôn xung phong nhận bất cứ nhiệm vụ gì, dù khó khăn, nguy hiểm cũng tận tâm, tận lực hoàn thành một cách xuất sắc.

   Lần đầu tiên đánh địch trên sông Sài Gòn, Nguyễn Văn Hùng ngày đêm miệt mài nghiên cứu tình hình, tìm ra cách đánh tốt nhất, luyện tập rất công phu từ cách bơi lặn, đến cách thả thuốc nổ, khi vào trận thì dũng cảm, mưu trí, lọt qua các vọng gác của địch, đánh trúng mục tiêu. Do đó, trong 3 trận đầu, đồng chí đánh chìm 3 tàu địch.

   Đầu năm 1967, Nguyễn Văn Hùng làm tổ trưởng chịu trách nhiệm đánh cầu Ông Nhiên ở Thủ Đức. Cầu sắt này dài 80 mét, nằm giữa ấp chiến lược, lúc nào địch cũng có 1 đại đội canh gác. Địch chặt hết cây cối quanh cầu nên việc điều tra, nghiên cứu rất dễ bị lộ. Sau một tuần lặn lội, kiên trì điều tra tỉ mỉ tình hình, Nguyễn Văn Hùng xác định được phương án tác chiến, vì thiếu mìn, đồng chí cùng 2 tổ viên đi thu nhặt bom bi của địch, gom góp được hơn 100 ki-lô-gam thuốc nổ đem về tự chế tạo mìn để đánh cầu. Kết quả cầu bị đánh sập, giao thông bị cắt đứt, địch gặp rất nhiều khó khăn trở ngại giữa lúc chúng chuẩn bị những cuộc càn quét lớn.

   Cách 1 tháng sau, chữa xong cầu, địch bố trí canh gác tuần tra nghiêm ngặt hơn ở hai đầu cầu và dọc hai bờ sông. Chúng cho đèn pha quét mặt sông suốt đêm và bắn súng bừa bãi xưống nước bất kể lúc nào. Lại nhận nhiệm vụ phá cầu, Nguyễn Văn Hùng cùng 2 tổ viên chỉ trong vòng 3 đêm điều tra, nghiên cứu đã lập xong phương án tác chiến. Đúng 7 giờ sáng ngày thứ tư, khi tên quận trưởng bắt đầu tuyên bố lễ khánh thành, cắt băng cho xe chạy qua thì một tiếng nổ long trời phá hủy hoàn toàn chiếc cầu này.

   Tháng 10 năm 1968 Nguyễn Văn Hùng nhận nhiệm vụ phá cầu Bến Lức. Chiếc cầu này nối Sài Gòn với miền Tây Nam Bộ cầu dài 530 mét, có 8 trụ , đã 2 lần bị quân ta đánh sập, được xây lại. Ngoài một lực lượng lớn canh gác và một hệ thống đèn điện bảo vệ, địch còn rào trên và dưới mặt nước một hệ thống dây dẫn điện cao thế mà sức mạnh của dòng điện có thể giật chết người. Trên sông thường xuyên có 1 tàu lớn và 3 tàu nhỏ túc trực bảo vệ, tuần tra. Vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, Nguyễn Văn Hùng cùng tổ vào điều tra, nghiên cứu tình hình và chuẩn bị cách đánh cầu. Công việc khó khăn nhất là phải chuyển ngược dòng nước khối thuốc nổ nặng 500 ki-lô-gam cách xa mục tiêu 2 ki-lô-mét. Vì vậy khi đến cách mục tiêu 700 mét, trời đã gần sáng, anh em phải kéo khối thuốc nổ lên bờ chôn giấu và chờ 2 hôm sau mới tiếp tục nhiệm vụ được. Sau khi đặt khối thuốc nổ vào đúng vị trí Nguyễn Văn Hùng không kể nguy hiểm, ở lại sau cùng kiểm tra thật tỉ mỉ. Do đó khi rút ra khoảng 300 mét thì mìn nổ, đồng chí bị hất văng lên bờ và ngất đi. Chiếc cầu kiên cố vững chắc nhất trên lộ 4 bị phá hủy hoàn toàn.

   Trong một trận chiến đấu cuối tháng 5 năm 1969, Nguyễn Văn Hùng đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

   Nguyễn Văn Hùng là một chiến sĩ dũng cảm, mưu trí, đánh cầu rất tài giỏi. Đồng chí chịu khó học tập, nghiên cứu tìm ra cách đánh tốt nhất, trong công tác luôn luôn vui vẻ nhận phần khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, đoàn kết chân thành, được anh em yêu mến.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 2 bằng khen, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Nguyền Văn Hùng được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #54 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 04:08:12 pm »

ANH HÙNG VŨ TIẾN TRUNG
(LIỆT SĨ)


   Vũ Tiến Trung (tức Vũ Hữu Bảy) sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Ninh Hải, huvện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1962. Khi hy sinh đồng chí là trung đội trưởng bộ binh, bộ đội địa phương Sài Gòn - Gia Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Lớn lên trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, được giác ngộ về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, năm 18 tuổi Vũ Tiến Trung vào bộ đội hải quân. Năm 1965, đồng chí được vào chiến trường miền Nam và chiến đấu trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định.

   Vũ Tiến Trung đã tham gia nhiều trận đánh lớn nhỏ, đánh sập 2 cầu (trong đó có cầu Bến Lức), đánh chìm 1 tàu, diệt 17 tên địch.

   Trong chiến đấu, Vũ Tiến Trung rất dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, kiên quyết khắc phục mọi khó khăn gian khổ, linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

   Năm 1966, trận đầu tiên nhận nhiệm vụ đánh một đoàn tàu 7 chiếc trên sông Nhà Bè, Vũ Tiến Trung cùng tổ hành quân từ địa điểm cách địch 6 ki-lô-mét, mỗi người mang ngầm dưới nước một trái mìn nặng 100 ki-lô-gam. Tuy thời gian nghiên cứu chỉ một đêm, nhưng với quyết tâm tiêu diệt địch cao, đánh bí mật bất ngờ, các đồng chí đã đánh chìm 5 chiếc, làm bị thương 2 chiếc khác, tiêu diệt nhiều địch và phương tiện chiến tranh của chúng.

   Trong trận địch càn vào xã Long Đức, huyện Nhà Bè, chúng đổ bộ 1.000 quân có máy bay, pháo binh yểm hộ khá mạnh. Đơn vị Vũ Tiến Trung đã hiệp đồng với đơn vị bạn chống càn suốt một ngày, diệt 500 tên. Đồng chí bám trận địa, cơ động, linh hoạt đánh địch suốt ngày, tiết kiệm từng viên đạn, bắn chính xác diệt 17 tên địch. Khi có lệnh rút quân, phát hiện địch có sơ hở, Vũ Tiến Trung dũng cảm, bí mật một mình lọt sâu vào nơi địch đóng quân lấy về 2 súng máy và 1 máy thông tin.

   Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy lần thứ 2 của quân và dân ta tháng 6 năm 1968, Vũ Tiến Trung nhận nhiệm vụ đánh cầu Bến Lức (cầu này quân ta đã có một lần đánh sập). Chiếc cầu quan trọng nhất trên lộ 4, từ Sài Gòn đi miền Tây Nam Bộ, được địch phòng thủ rất chu đáo. Các trụ cầu rất lớn, muốn đánh sập phải dùng lượng thuốc nổ đến hàng tạ, đưa ngầm dưới nước từ xa vào. Lần đầu khi đến cách mục tiêu 200 mét, nước xoáy mạnh làm dây tời bị đứt. Lúc này khối thuốc nổ đã gắn kíp, chỉ còn 45 phút nữa thì nổ, chìm xuống đáy sông. Quyết không để lộ nhiệm vụ, Vũ Tiến Trung bình tĩnh, lặn xuống 3 lần tháo 3 kíp nổ ở độ sâu hơn 7 mét. Khi tháo xong kíp trời đã gần sáng, đồng chí nhanh chóng buộc khối thuốc nổ vào chân cầu để giữ khỏi trôi và chờ đến đêm hôm sau, một mình đồng chí lặn lội vượt mọi nguy hiểm đưa khối thuốc về căn cứ an toàn. Ba ngày sau, nhận nhiệm vụ tiếp tục đánh cầu Vũ Tiến Trung lại cùng tổ bơi lặn đưa thuốc nổ buộc vào trụ cầu. Không quản nguy hiểm vì địch đang đi tuần tra trên cầu và kíp đang chờ nổ, đồng chí bình tĩnh kiểm tra tỉ mỉ, áp thật sát khối thuốc nổ vào trụ cầu được chắc chắn rồi mới thoát ra. Khi ra cách mục tiêu khoảng 300 mét thì mìn nổ, anh bị ngất đi cạnh bờ sông, nhưng chiếc cầu bị phá hủy hoàn toàn.

   Ngày 28 tháng 8 năm 1968, trong một trận chiến đấu với lực lượng địch đông gấp bội Vũ Tiến Trung đã anh dũng hy sinh bảo vệ an toàn cho đồng đội.

   Vũ Tiến Trung rất giản dị, khiêm tốn trong công tác, luôn luôn nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, hết lòng đoàn kết, thương yêu đồng đội, được anh em mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 bằng khen, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.
   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Vũ Tiến Trung được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN THANH PHÚ


   Nguyễn Thanh Phú, sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nhập ngũ tháng 4 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 bộ binh, bộ đội địa phương Sài Gòn - Gia Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cha Nguyễn Thanh Phú bị giặc bắn chết. Được cách mạng giáo dục, đồng chí có lòng căm thù sâu sãc bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai, nên đã hăng hái hoạt động dân quân trước khi vào bộ đội.

   Từ khi nhập ngũ cho đến cuối năm 1969, đồng chí đã tham gia chiến đấu 65 trận, diệt nhiều địch, thu 18 súng, 1 máy thông tin.

   Nguyễn Thanh Phú có quyết tâm chiến đấu cao, chỉ huy bình tĩnh, gan dạ, xử trí các tình huống linh hoạt, kiên quyết, đánh nhanh, đánh mạnh, chủ động hiệp đồng tiêu diệt địch.

   Trận đánh Đức Lập đêm 27 tháng 5 năm 1965, phối hợp với đơn vị bạn chiến đấu, giữa lúc tình huống diễn biến gay go ác liệt, đồng chí mưu trí tập trung lựu đạn, trực tiếp dẫn 1 tổ bí mật đánh vào sau lưng địch, diệt một ổ đề kháng, thu 1 súng và 1 máy thông tin, chuyển thành thế có lợi cho quân ta phát triển.

   Tháng 11 năm 1966, trong trận đánh một đồn cảnh sát ở quận 6 Sài Gòn, Nguyễn Thanh Phú được giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị đi trên đường phố. Khi cách đồn địch 50 mét thì một mũi bị lộ, đồng chí lập tức ra lệnh cho đơn vị xung phong vượt qua hàng rào vật cản, đánh bọc sườn. Riêng Nguyễn Thanh Phú trực tiếp chỉ huy một mũi đánh qua cửa lớn của đồn, phát triển vào trong. Sau 10 phút chiến đấu, đơn vị làm chủ trận địa, diệt 20 tên, thu 38 súng các loại, riêng Phú thu 9 súng.

   Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Sài Gòn đợt 2, Nguyễn Thanh Phú chỉ huy 1 đại đội chọc thủng hệ thống phòng thủ bên ngoài, sau đó nhanh chóng đánh chiếm toàn bộ khu vực Nhị Tỳ. Mặc dù địch nhiều lần phản kích bằng cơ giới và bộ binh hòng đánh bật ta ra, nhưng đại đội vẫn kiên cường bám trụ trong 2 ngày, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của chúng, diệt 145 tên.

   Đêm 24 tháng 5 năm 1969, trong đội hình của tiểu đoàn đánh địch tại Phú Định, Nguyễn Thanh Phú được giao trách nhiệm chỉ huy đại đội 1, đánh bọn địch ở hướng trọng yếu. Địch chiếm 5 nhà lầu, bố trí hỏa lực nhiều tầng chống cự ác liệt. Đồng chí cho B.40 và B.41 đánh bọc phía sau, đồng thời cho các mũi xung kích tiếp cận sát lầu đánh thốc từ dưới lên. Kết quả ta tiêu diệt hoàn toàn 1 đại đội lính thủy đánh bộ ngụy. Trong trận này, Nguyễn Thanh Phú bị thương ở chân nhưng vẫn không rời trận địa, tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu và chủ động hỗ trợ cho đơn vị bạn đang gặp khó khăn.

   Nguyễn Thanh Phú là một cán bộ chỉ huy gương mẫu về mọi mặt, chấp hành nghiêm chỉnh mọi mệnh lệnh của cấp trên, có tác phong sâu sát, tỉ mỉ, cùng tập thể xây dựng đơn vị vững mạnh mọi mặt. Đồng chí đoàn kết săn sóc anh em, làm tốt công tác thương binh, tử sĩ, được cấp dưới yêu mến, cấp trên tin tưởng.

   Đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, được bầu là Chiến sĩ thi đua số 1 của phân khu, được tặng 5 bằng khen.

   Ngày 10 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Thanh Phú được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #55 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 04:12:43 pm »

ANH HÙNG PHẠM NGỌC KHÁNH
(LIỆT SĨ)



   Phạm Ngọc Khánh sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã Nam Nhuế, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ tháng 10 năm 1962. Khi hy sinh đồng chí là thiếu úy, trung đội trưởng bộ binh đại đội 10, tiểu đoàn 3, trung đoàn 246, Mặt trận Đường số 9, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng, lại được rèn luyện dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, Phạm Ngọc Khánh được bồi đưỡng lý tưởng chiến đấu cao đẹp của người thanh niên, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Khi vào bộ đội anh luôn luôn thể hiện nhiệt tình cao, hăng hái học tập, công tác, tha thiết được vào chiến trường miền Nam, giết giặc Mỹ, góp phần vào sự nghiệp thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước. Trong chiến đấu, Phạm Ngọc Khánh nêu cao tinh thần tích cực tiến công, dũng cảm, kiên quyết, bị thương không rời vị trí chiến đấu, trận đánh nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ.

   Đặc biệt, trong trận đánh chiếm điểm cao 689, ngày 28 tháng 6 năm 1968 trong chiến dịch Khe Sanh, hỏa lực địch từ trong căn cứ, từ trên máy bay bắn rất ác liệt hòng ngăn chặn đường tiến của đơn vị. Vượt qua bom đạn, bãi mìn Phạm Ngọc Khánh nhanh chóng dẫn đầu một tổ xông lên phá 2 lớp rào dây thép gai, rồi chỉ huy trung đội liên tục phát triển sâu vào trong căn cứ dịch. Mặc dù địch đối phó quyết liệt bán chặn từ nhiều hướng, đồng chí vần bình tĩnh quan sát phán đoán tình huống, chỉ từng hỏa điểm địch cho các tiểu đội tiêu diệt. Bị thương vào đầu, Phạm Ngọc Khánh vẫn xông xáo chỉ huy đơn vị chiến đấu thọc sâu chia cắt địch, bản thân dùng lựu đạn, tiểu liên đánh vào hầm ngầm diệt địch. Bị thương lần thứ hai, Khánh ngất đi, nhưng khi tỉnh dậy, anh tiếp tục chỉ huy đơn vị phát triển. Từ trong hầm ngầm, 1 đại liên địch bắn ra chặn đường tiến của quân ta. Phạm Ngọc Khánh cố trườn đến gần ổ đại liên địch, ném lựu đạn dập tắt hỏa điểm này, tạo thuận lợi cho đơn vị phát triển chiến đấu. Phạm Ngọc Khánh bị thương lần thứ ba vào lúc quân ta đánh chiếm hoàn toàn điểm cao 689 và anh đã anh dũng hy sinh. Kết quả trận đánh, trung đội do đồng chí chỉ huy đã diệt 60 tên Mỹ, phá hủy 5 lô cốt, 13 hầm, góp phần tích cực vào thắng lợi chung. Riêng Phạm Ngọc Khánh diệt 26 tên Mỹ, phá hủy 4 hầm, nêu gương sáng cho đơn vị học tập về tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên quyết tiến công địch, vượt mọi hy sinh, gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ.

   Phạm Ngọc Khánh đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Phạm Ngọc Khánh được Chinh phủ cách mạng lầm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN VĂN NUÔI



   Nguyễn Văn Nuôi, sinh năm 1949, dân tộc Kinh, quê ở xã Vân Trường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, nhập ngũ ngày 30 tháng 4 năm 1966. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chuẩn úy đại đội phó vận tải, Mặt trận B5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trước cách mạng, gia đình Nguyễn Văn Nuôi nghèo đói, chuyên đi làm ruộng thuê, ông bà đều chết trong nạn đói năm 1945. Sau cách mạng, gia đình được chia ruộng, vào hợp tác xã, cuộc đời được thay đổi. Nguyễn Văn Nuôi lớn lên trong chế độ xã hội chủ nghĩa và được giáo dục trong các tập thể nên anh sớm nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của người thanh niên trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Khi vừa tròn 17 tuổi, Nguyễn Văn Nuôi tình nguyện nhập ngũ sẵn sàng làm tròn bất cứ nhiệm vụ gì của quân đội giao cho.

   Tháng 11 năm 1966, đơn vị Nguyễn Văn Nuôi nhận lệnh lên đường chiến đấu, anh được phân công về đơn vị vận chuyển hậu cần. Đồng chí vừa nêu gương sáng về sự nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ, vừa tổ chức, động viên đơn vị làm tròn mọi đợt vận chuyển trong các chiến dịch.

   Hơn 2 năm phục vụ chiến trường, Nguyễn Văn Nuôi nêu cao tinh thần xung phong gương mẫu trong mọi công tác khó khăn, gian khổ cũng như trong chiến đấu ác liệt, hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Trong những đợt vận chuyển luồn sâu phục vụ chiến đấu cho các trung đoàn 270, 138, 27, Nguyễn Văn Nuôi vượt qua bom đạn, bám sát tuyến giao thông góp phần xứng đáng vào thành công của các trận đánh.

   Với ý thức chuyển được một cân gạo, một viên đạn là góp phần diệt một tên Mỹ, trả thù cho đồng bào hai miền Nam Bác, nên khi bốc vác loại bao nặng 50 ki-lô-gam trên chặng đường 500 đến 1.000 mét, Nguyễn Văn Nuôi vác một mình một bao, trong khi bình thường phải 2 người khiêng. Đột xuất khi có loại bao 100 ki-lô-gam, đồng chí cũng vác một mình. Trên các cung đường dài, đồng chí luôn luôn đảm nhiệm khối lượng hàng vận chuyển nặng từ 40 đến 50 ki-lô-gam, liên tục đạt năng suất cao nhất trong đại đội. Hành động của anh thúc đẩy khí thế hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, anh em đã phát động thi đua phấn đấu đạt năng suất cao như đồng chí.

   Ngày 20 thảng 5 năm 1967, trong đợt phục vụ cho trưng đoàn 2 chiến đấu ở bờ nam sông Bến Hải, khi địch đổ bộ đánh ra khu phi quân sự, Nguyễn Văn Nuôi chỉ huy tiểu đội chiến đấu bảo vệ trung đoàn bộ tại An Xuân. Mặc dù địch có lực lượng đông, có phi pháo bắn phá ác liệt, nhưng tiểu đội gồm 7 chiến sĩ do anh chỉ huy vẫn bám sát chiến hào, kiên cường chiến đấu. Trong hoàn cảnh mất liên lạc với đại đội, tiểu đội chiến đấu suốt 6 giờ , đánh lui 5 đợt tiến công, diệt 150 tên Mỹ, ngụy, trong đó đồng chí diệt 23 tên, đạt Dũng sĩ diệt Mỹ cấp I. Trận đánh đó đã ghìm địch tại chỗ suốt 6 tiếng đồng hồ không cho chúng vào làng An Xuân, bảo vệ được hậu cứ của trung đoàn, tạo điều kiện cho bà con trong làng sơ tán an toàn.

   Trong đợt phối thuộc phục vụ trung đoàn 270 tháng 5 năm 1968 tại khu đông đường số 9, một chiến trường ác liệt, mặc dù nhiều lần bị địch pháo kích chặn đường, Nguyễn Văn Nuôi vẫn tổ chức chỉ huy trung đội đưa đạn, gạo ra tuyến trước kịp thời. Có lần địch đánh thẳng vào đội hình từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa, Nguyễn Văn Nuôi bình tĩnh động viên anh em sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ. Bom đạn địch vừa dứt, anh em lại lên đường tiếp tục chuyển gạo cho đơn vị chiến đấu. Suốt 4 đêm liền mất ngủ, Nguyễn Văn Nuôi vẫn gắng sức bò vào tận trận địa chuyển thương binh ra tuyến sau, làm gương cho anh em trung đội noi theo. Đêm thứ 5, Nguyễn Văn Nuôi bị thương nhưng vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị vận chuyển thương binh đầy đủ và kịp thời.

   Từ tháng 2 năm 1969 đến tháng 9 năm 1969, Nguyễn Văn Nuôi hai lần chỉ huy đơn vị phục vụ chiến đấu cho trung đoàn 27 với cương vị đại đội phó. Do đơn vị chiên đấu liên tục làm nhiệm vụ luồn sâu vào sau lưng địch, bộ phận phục vụ phải vượt qua nhiều vùng có thám báo, biệt kích địch hoạt động. Nguyễn Văn Nuôi dũng cảm, kiên quyết chỉ huy đơn vị thay đại đội trưởng đi vắng, bám sát trung đoàn, bất chấp mọi hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, làm tròn nhiệm vụ tải đạn, gạo ra chiến hào, đưa thương binh về tuyến sau.

   Nguyễn Văn Nuôi nêu cao tinh thần bảo vệ nhân dân. Trong trận chiến đấu ở làng An Xuân, khi nhận được lệnh rút về phía sau, anh tổ chức tiểu đội đưa 30 đồng bào đi sơ tán. Mặc dù địch giội bom đạn chặn đường, đồng chí bơi qua lại 6 lượt trên sông Bến Hải để đưa hết các em thiếu nhi và cụ già về vị trí an toàn.

   Nguyễn Văn Nuôi gương mẫu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, chấp hành nghiêm mọi mệnh lệnh cấp trên giao, thương yêu, tận tình giúp đỡ đồng đội trong mọi hoàn cảnh, được anh em tin yêu, mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, nhiều giấy khen và bằng khen.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Văn Nuôi được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #56 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 04:15:24 pm »

ANH HÙNG HOÀNG KIM NÔNG



   Hoàng Kim Nông, sinh năm 1945, dân tộc Kinh, quê ở xã Thanh Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ ngày 26 tháng 6 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là phân đội phó đội 1 đặc công, Đoàn 126, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trưởng thành dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, được Đảng và Bác Hồ giáo dục, nhận rõ nhiệm vụ vẻ vang của thanh niên đối với sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, năm 18 tuổi Hoàng Kim Nông gia nhập quân đội với quyết tâm sẵn sàng hoàn thành bất kỳ nhiệm vụ nào, chiến đấu ở bất kỳ chiến trường nào.

   Năm 1965, Hoàng Kim Nông làm nhiệm vụ lái tàu vận tải trên biển, anh đã tham gia hơn 50 trận đánh máy bay và tàu chiến địch, trận nào cũng dũng cảm, mưu trí hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có trận tuy bị thương, nhưng Hoàng Kim Nông vẫn tiếp tục chiến đấu không rời vị trí trên tàu.

   Được vào miền Nam chiến đấu Hoàng Kim Nông ra sức luyện tập kỹ thuật, chiến thuật đặc công nhằm nâng cao hiệu suất chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Chiến đấu ở Cửa Việt (Quảng Trị), Hoàng Kim Nông thể hiện lòng dũng cảm và mưu trí, đã vượt qua các tuyến phòng thủ nghiêm ngặt của địch, hơn 20 lần vào ra bến cảng điều tra nghiên cứu, nắm chắc tình hình trên bộ, dưới nước, quy luật đi lại, bố phòng của địch. Trên cơ sở đó anh lập phương án tác chiến chính xác và đã đánh chìm 2 tàu vận tải của địch trong năm 1968.

   Trận ngày 20 tháng 2 năm 1969, trời rét buốt, tàu địch tuần tiễu liên tục trên sông và ném lựu đạn xuống nước, Hoàng Kim Nông khắc phục mọi khó khăn, bình tĩnh, bí mật bơi lặn ngược dòng sông, tiếp cận bến cảng, rồi luồn lách qua 4 chiếc tàu nhỏ, đến chiếc thứ 5 có trọng tải lớn hơn cả mới gắn mìn vào khoang máy, phá hủy chiếc tàu này.

   Trận ngày 13 tháng 4 năm 1969, dù địch tăng cường đối phó, bố trí hệ thống đèn pha chiếu sáng suốt đêm, tàu tuần tiễu liên tục ném lựu đạn, bắn súng xuống nước, Hoàng Kim Nông dùng kỹ thuật điêu luyện bơi lặn vẫn đưa được mìn vào bến cảng, đánh chìm tại chỗ chiếc tàu chở 8.000 tấn vũ khí, đạn dược.

   Hoàng Kim Nông là một cán bộ gương mẫu, khiêm tốn, chiến đấu anh dũng, đoàn kết chân thành, chịu khó học tập, được anh em trong đơn vị yêu mến, sẵn sàng tạo điều kiện cho đồng chí hoàn thành nhiệm vụ.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Hoàng Kim Nông được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG LÊ TRUNG KIÊN
(LIỆT SĨ)


   Lê Trung Kiên, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1941, dân tộc Kinh, quê ờ xã Hòa Hiệp, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, nhập ngũ ngày 20 tháng 10 năm 1960. Khi hy sinh đồng chí là đại đội trưởng đại đội 202 đặc công, bộ đội địa phương của tỉnh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Lê Trung Kiên sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo sống bằng nghề đánh cá và làm ruộng. Được cán bộ giáo dục, anh sớm giác ngộ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, hăng hái tham gia công tác cách mạng ở địa phương. Trước khi vào bộ đội đồng chí đã xây dựng được 7 cơ sở, vận động 15 thanh niên địa phương gia nhập lực lượng vũ trang.

   Lê Trung Kiên luôn dũng cảm, không sợ hy sinh gian khổ, xông xáo vào những nơi khó khăn nhất, mặc dù trong chiến đấu đã 5 lần bị thương, anh vẫn bám sát chiến trường, liên tục chiến đấu. Nhờ có chuẩn bị chiến trường kỹ càng, có phương án chiến đấu tốt, có tinh thần anh dũng, luôn luôn có mặt trong các mũi nhọn tiến công, cho nên trong các trận đánh do Lê Trung Kiên chỉ huy, đơn vị của anh đều hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao phó.

   Qua 48 trận đánh, với những cương vị khác nhau, nhưng trận nào Lê Trung Kiên cũng đem hết sức mình góp phần vào thắ   ng lợi của đơn vị, riêng bản thân đã diệt được 150 tên địch, thu 15 súng các loại.

Trong trận đánh ấp Phú Cần (tháng 7 năm 1964), khi mở cửa đột phá, bị địch chống trả quyết liệt, Lê Trung Kiên vừa bình tĩnh chỉ huy đơn vị, vừa kiên quyết xông lên dập tắt hỏa điểm địch. Trận đánh phát triển thuận lợi, đơn vị anh diệt toàn bộ bọn tề ngụy ác ôn trong ấp, tạo thời cơ cho bà con nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng thêm vùng giải phóng.

   Tháng 10 năm 1964, Lê Trung Kiên chỉ huy một tổ bộ đội đặc công của tỉnh luồn sâu vào vùng địch kiểm soát để đánh sân bay Tuy Hòa. Trận đánh diễn biến gay go, địch chống trả quyết liệt với ý định đến sáng sẽ phản kích. Lê Trung Kiên một mình mưu trí và dũng cảm xông lên dùng bộc phá và thủ pháo phá hủy hoàn toàn kho đạn địch đặt trong sân bay, tạo thuận lợi cho đơn vị phát triển tiêu diệt địch.

   Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy đầu năm 1968, Lê Trung Kiên hai lần chỉ huy đơn vị đánh vào sở chỉ huy của trung đoàn 47 ngụy đóng ở thị xã Tuy Hòa. Đây là trung đoàn chủ lực của ngụy có nhiệm vụ kìm kẹp đồng bào Phú Yên, càn quét và đánh phá vùng giải phóng. Trong cả hai trận đánh này, đơn vị do Lê Trung Kiên chỉ huy diệt nhiều địch, gây khí thế cho đồng bào thị xã nổi dậy giành quyền làm chủ. Lê Trung Kiên đã anh dũng hy sinh ngày 3 tháng 3 năm 1968, trong trận đánh sở chỉ huy trung đoàn 47 ngụy lần thứ 2 tại thị xã Tuy Hòa.

   Lê Trung Kiên luôn luôn nêu cao ý chí tiến công quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng đồng bào, dù khó khăn gian khổ củng kiên quyết chấp hành mọi mệnh lệnh chỉ thị của cấp trên, giành khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho đồng đội, sống khiêm tốn, giản dị, được anh em tin yêu, mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 năm liền được bầu là Chiến sĩ thi đua, được tặng 23 bằng khen, 11 giấy khen.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Lê Trung Kiên được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #57 vào lúc: 23 Tháng Tư, 2013, 04:18:51 pm »

ANH HÙNG LÊ VĂN QUÝ
(LIỆT SĨ)



   Lê Văn Quý, sinh năm 1926, dân tộc Kinh, quê ở xã Hoài Đức, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nhập ngũ tháng 10 năm 1948. Khi hy sinh đồng chí là tiểu đoàn trưởng đặc công, bộ đội địa phương tỉnh Bình Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở, địa phương có phong trào cách mạng và kháng chiến cao, lại trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến, nên Lê Văn Quý có tinh thần chiến đấu kiên cường chống quân xâm lược, có quyết tâm giải phóng đồng bào, giành độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước.

   Lê Văn Quý là một cán bộ chỉ huy có tác phong linh hoạt, kiên quyết, mưu trí, triệt để chấp hành mọi mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên.

   Những ngày cuối năm 1967, Lê Văn Quý chỉ huy đơn vị đánh chiếm quận ly Tuy Phước, diệt hơn 200 xe địch, diệt gọn 2 trung đội, thu 48 súng, phá hủy nhiều kho tàng, vũ khí, các kho chứa xăng của giặc, giải thoát hàng trăm cán bộ bị địch bât. Sau đó, đơn vị phát triển đánh vào ấp Vĩnh Quan, diệt 1 trung đội bảo an, 18 dân vệ và hầu hết bọn ác ôn ở các xã Phước Sơn, Phước Lý, Phước Hải, gồm 58 tên, thu 26 súng, giải phóng 3.000 đồng bào.

   Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đầu Xuân 1968, đơn vị Lê Văn Quý nhận lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận đánh bọn ngụy quân, ngụy quyền trong thị xã Quy Nhơn. Tuy gặp nhiều khó khăn về quân số, vũ khí, thời gian chuẩn bị, Lê Văn Quý cùng tập thể ban chỉ huy hạ quyết tâm tổ chức đơn vị chia làm 2 cánh quân đánh vào thị xã: một cánh đánh chiếm dinh tỉnh trưởng, một cánh do anh trực tiếp chỉ huy đánh thọc sâu vào thị xã. Sau khi cánh này chiếm được đài phát thanh, nhà thông tin, ty cảnh sát, quân vụ thị trấn, Lê Vãn Quý được báo cáo là cánh quân thứ nhất gặp khó khăn chưa tiến lên được. Đồng chí nhận định thời cơ đang có lợi cho ta cần phải liên tục chủ động tiến công địch, nên chỉ huy cánh thứ hai đánh chiếm luôn dinh tỉnh trưởng. Đơn vị Lê Văn Quý chiếm giữ các mục tiêu trong mấy ngày, riêng đài phát thanh trong 7 ngày, và liên tục đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, diệt hàng trăm tên tại chỗ, bắt giáo dục 200 tên rồi thả về. Khi được lệnh rời khỏi thị xã, Lê Văn Quý tổ chức đánh kiềm chế địch, chỉ huy các bộ phận lần lượt chuyển ra ngoài, đảm bảo cho đại bộ phận di chuyến an toàn. Trên đường hành quân trở về căn cứ, Lê Văn Quý đã anh dũng hy sinh trong sự thương tiếc, cảm phục của tất cả anh em trong đơn vị và đồng bào thị xã Quy Nhơn.

   Lê Văn Quý là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở, qua hai cuộc kháng chiến, có tác phong khiêm tốn, giản dị, luôn luôn gương mẫu dẫn đầu đơn vị trong các trận đánh, cùng ban chỉ huy đơn vị có mặt, ở những nơi khó khăn nhất để động viên và chỉ huy đơn vị giành chiến thắng vẻ vang. Đồng chí hết lòng thương yêu và chân thành giúp đỡ anh em nên được cấp dưới mến phục. Anh đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng đại đội đặc công đầu tiên của tỉnh Bình Định.

   Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí đã được 4 lần khen thưởng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Lê Văn Quý được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN CHƠN



   Nguyễn Chơn, sinh năm 1927 dân tộc Kinh, quê ở xã Hòa Thắng, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nhập ngũ tháng 2 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là sư đoàn phó sư đoàn 2 bộ binh, Quân khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Chơn chiến đấu ở Quảng Nam, lập nhiều thành tích, được tặng thưởng I Huân chương Chiến công hạng ba.

   Sau một thời gian học tập ở miền Bắc, tháng 4 năm 1959, đồng chí trở lại chiến trường cũ với ý nghĩ mãnh liệt: quyết chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, sẵn sàng hy sinh, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, vì thống nhất Tổ quốc. Trưởng thành từ cán bộ đại đội lên sư đoàn phó, ở cương vị nào Nguyễn Chơn cũng đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Anh luôn luôn có tinh thần kiên quyết tiến công địch, chiến đấu dũng cảm, chỉ huy mưu trí, có tác phong tỉ mỉ, sâu sát làm việc có kế hoạch. Ở các cương vị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, được sự giúp đỡ của cấp trên và tập thể, Nguyễn Chơn đã chỉ huy đơn vị đánh nhiều trận xuất sắc, diệt gọn 1 tiểu đoàn và 10 đại đội địch, đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn, 7 chiến đoàn và tiểu đoàn khác. Đồng chí đã đóng góp xứng đáng vào chiến công chung đó.

   Trận Ba Gia (Quảng Ngãi) tháng 5 năm 1965, với cương vị tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Chơn chỉ huy đơn vị tiến cồng kiên quyết và mưu trí diệt 1 tiểu đoàn ngụy, bắt 217 tên địch, có tên chỉ huy tiểu đoàn, thu 180 súng các loại.

   Trận Quang Thanh năm 1967, Nguyễn Chơn chỉ huy tiểu đoàn khắc phục nhiều khó khăn trong hành quân, trú quân, đến vị trí đúng thời gian quy định. Khi nổ súng, anh chỉ huy và động viên đơn vị tiến công kiên quyết đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn lính Nam Triều Tiên, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của chiến dịch.

   Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Nguyễn Chơn chỉ huy trung đoàn hiệp đồng chặt chẽ với đơn vị bạn tiến công giải phóng các quận lỵ Duy Xuyên, Khâm Đức (Quảng Nam). Trong trận này, tuy quân Mỹ đông lại có ưu thế tuyệt đối về máy bay và pháo binh, Nguyễn Chơn vẫn kiên quyết chỉ huy đơn vị táo bạo thọc sâu một mũi vào sở chỉ huy lữ đoàn địch, đánh thiệt hại nặng 3 đại đội Mỹ.

   Được tập thể bồi dưỡng trưởng thành nhanh chóng, Nguyễn Chơn là một cán bộ gương mẫu, tích cực rèn luyện nâng cao bản lĩnh chỉ huy, chịu khó học tập đường lối chủ trương chính sách của Đảng, những kinh nghiệm tổng kết trong các chiến dịch, các trận đánh và kinh nghiệm chiến đấu của bản thân. Đồng chí luôn nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, kỷ luật chiến trường, đoàn kết thương yêu đồng đội, tích cực xây dựng đơn vị trưởng thành, lập công xuất sắc.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công giải phóng hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Chơn được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #58 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2013, 10:32:33 am »

ANH HÙNG NGUYỄN HỮU QUANG



   Nguyễn Hữu Quang, sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, nhập ngũ tháng 9 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 90 công binh, sư đoàn 3, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân từ một gia đình có bố, mẹ và em đều tham gia công tác cách mạng, bản thân thấy rõ tận mắt bè lũ Mỹ - ngụy tàn sát đồng bào rất dã man, Nguyễn Hữu Quang sớm có lòng căm thù sâu sắc quân giặc và quyết tâm chiến đấu giành tự do, độc lập cho Tổ quốc.    Nguyễn Hữu Quang đã tham gia 54 trận đánh, bản thân diệt 105 tên địch (trong đó có 29 tên Mỹ, 5 ác ôn), bắt 2 tù binh, phá 18 xe quân sự, thu 16 súng và chỉ huy đơn vị phá sập 7 cầu lớn, 1 đoàn xe lửa quân sự 13 toa.

   Trong chiến đấu và chỉ huy đơn vị, Nguyễn Hữu Quang bình tĩnh, mưu trí, có quyết tâm cao tiêu diệt địch, gan dạ, xung phong vào những nơi ác liệt, cổ vũ đơn vị noi theo.

   Năm 1965, đơn vị Nguyễn Hữu Quang được giao nhiệm vụ đánh sập cầu Phú Phong và cắt đứt đường số 19 trong 15 ngày. Lúc đó đơn vị anh hầu hết là chiến sĩ mới. Tin tưởng ở sức mạnh tiềm tàng của quần chúng, Nguyễn Hữu Quang ra sức huấn luyện kỹ thuật bơi lặn cho anh em. Và sau một thời gian ngắn anh em thành thạo kỹ thuật đánh cầu. Nhờ vậy đơn vị của anh đã hoàn thành nhiệm vụ đánh sập chiếc cầu dài 120 mét, có 8 trung đội địch canh gác. Ngay sau trận đánh, địch gấp rút sửa cầu nhằm khôi phục lại tuyến giao thông quân sự quan trọng này. Quyết không cho địch thực hiện âm mưu nối lại tuyến đường, với số thuốc nổ còn lại, sau khi xin ý kiến tập thể, Nguyễn Hữu Quang quyết định đánh thêm cầu Bà Lá. Kế hoạch đã được thực hiện. Cầu Bà Lá bị sập, đơn vị anh đã thực hiện được nhiệm vụ cắt đứt đường số 19, vượt thời gian quy định.

   Năm 1967, sau khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra cầu Bồng Sơn, lúc trở ra Nguyễn Hữu Quang bị địch phát hiện. Lính địch chạy dọc theo sông, trên trời máy bay lên thẳng bắn pháo sáng, dưới sông ca nô đuổi theo ném lựu đạn. Tình thế hết sức hiểm nghèo. Khi ca nô đuổi kịp, bọn địch xúm lại định kéo anh lên để bắt sống. Quyết không chịu sa vào tay giặc, Nguyễn Hữu Quang bình tĩnh nổ súng ngắn diệt ngay tên Mỹ rồi tiếp tục lặn. Bọn địch lại đuổi theo. Chúng vừa bắn vừa ném lựu đạn để chặn đường, cố tình bắt sống đồng chí. Biết rõ ý đồ đen tối đó của địch, Nguyễn Hữu Quang vừa đánh trả địch vừa tìm cách vượt vòng vây. Để cho một chiếc ca nô đến gần, Nguyễn Hữu Quang nổ tiếp 3 phát súng ngắn, diệt 1 tên Mỹ nữa. Trong lúc bọn địch hốt hoảng vớt tên giặc này lên, anh nhanh nhẹn lặn vào bờ và lấy rơm đắp lên người và ngất đi. Khi tỉnh lại, thấy mắt mình không mở ra đứợc vì sức ép của lựu đạn dưới nước, anh tìm đường ra, không may lại sa vào hố chông, chân bị thương. Tuy vậy, Nguyễn Hữu Quang vẫn kiên trì tìm về được với đơn vị.

   Năm 1968, đơn vị Nguyễn Hữu Quang nhận nhiệm vụ đánh sập cầu Ông Diệu, khơi ngòi nổ cho chiến dịch, với thời gian chuẩn bị chỉ có một đêm. Đồng chí tự vào tận nơi nghiên cứu địa hình, chuẩn bị phương án tác chiến, do đó đã góp phần với đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh sập cầu, diệt gọn trung đội bảo an, mở màn cho chiến dịch.

   Nguvễn Hữu Quang là một cán bộ gương mẫu, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và chỉ huy. Trong mọi hoàn cảnh, đồng chí luôn luôn có ý thức tổ chức, kỷ luật, có tinh thần khiêm tốn học tập, được tập thể hết lòng bồi dưỡng, được anh em yêu mến, tin cậy.

   Đồng chí nhiều lần được bầu là Chiến sĩ thi đua, được tặng thưởng 2 giấy khen, 4 bằng khen, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Hữu Quang được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG NGUYỄN HỒNG QUẢNG



   Nguyễn Hồng Quảng, sinh năm 1942, dân tộc Mường, quê ở xá Phú Long, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, nhập ngũ tháng 4 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội trưởng đại đội 48 cao xạ, tiểu đoàn 44, Mặt trận Tây Nguyên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Được sự giáo dục của chế độ xã hội chủ nghĩa, Nguyễn Hồng Quảng hiểu rõ nghĩa vụ vẻ vang của tuồi trẻ các dân tộc trên đất nước phải cùng nhau đoàn kết, sản sàng đi bất cứ đâu khi Tổ quốc cần. Khi vào bộ đội, anh nguyện hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì cấp trên giao cho.

   Nguyễn Hồng Quảng đã tham gia 330 trận, cùng đơn vị bân rơi nhiều máy bay địch.

   Trong thời gian làm nhiệm vụ quốc tế, phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào, Nguyễn Hồng Quảng nêu cao tinh thần dũng cảm tiến công tiêu diệt địch, gương mẫu động viên anh em chiến đấu trong những điều kiện rất gay go ác liệt.

   Ngày 19 tháng 2 năm 1965, ở Sầm Nưa, đơn vị hành quân vừa nghỉ lại thì máy bay địch ập đến đánh thẳng vào đội hình. Các khẩu đội khác sau một hồi chiến đấu đều có thương vong nặng, chỉ còn khẩu đội của Nguyễn Hồng Quảng, anh tiếp tục nổ súng đánh trả địch, trả thù cho đồng đội. Đồng chí cùng chính trị viên đơn vị động viên khẩu đội còn lại kiên quyết chiến đấu. Kết quả các anh bắn rơi 8 chiếc F.105, trong đó có 1   chiếc rơi cách trận địa 500 mét.

   Hồi 17 giờ ngày 15 tháng 6 năm 1965, trong khi đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ khu căn cứ của bạn, máy bay địch chia làm nhiều tốp đến bắn phá dữ dội. Đơn vị kịp thời nổ súng, nhưng một loạt bom rơi vào giữa trận địa làm cho chính trị viên và trung đội trưởng hy sinh, một số anh em khác bị thương, chỉ còn ba khẩu súng chiến đấu được. Trong tình thế hết sức khó khăn đó, Nguyễn Hồng Quảng động viên 3 khẩu đội chiến đấu, bắn mãnh liệt, chính xác vào lũ máy bay địch. Đồng chí chỉ huy anh em kịp thời đào đất cứu đại đội trưởng và anh em khác bị vùi lấp. Trận chiến đấu kết thúc lúc trời tối, ta bắn rơi 3 phản lực Mỹ, bảo vệ được mục tiêu căn cứ của bạn.

   Trở về nước, thạm gia bảo vệ khu vực Hàm Rồng -Thanh Hóa, Nguyễn Hồng Quảng chỉ huy đại đội chiến đấu hơn 200 trận bắn rơi nhiều máy bay giặc, có trận diệt 5 chiếc.

   Đầu năm 1968, đại đội Nguyễn Hồng Quảng hành quân vào chiến trường miền Nam.

   Trong trận ngày 24 tháng 2 năm 1969, đơn vị Nguyễn Hồng Quảng chiến đấu bảo vệ trận địa pháo 85 và 105 mi-li-mét, đơn vị anh chiến đấu suốt từ 12 giờ đến 17 giờ. Nguyễn Hồng Quảng bình tĩnh chỉ huy, ra lệnh nổ súng kịp thời, bắn rơi 1 máy bay địch ngay loạt đạn đầu.

   Ngày 4 tháng 3 năm 1969, địch sử dụng 56 lần chiếc máy bay ném 42 tấn bom, phóng 3 quả tên lửa xung quanh trận địa. Nguyễn Hồng Quảng đứng vững trên công sự theo dõi mục tiêu, hạ lệnh nổ súng kịp thời, chính xác. Một quả bom nổ gần hất anh xuống đất ngất đi, Khi tỉnh dậy, Nguyễn Hồng Quảng đứng ngay vào vị trí, chỉ huy đơn vị tiếp tục chiến đấu. Trong trận này, đơn vị bắn rơi 4 máy bay địch (3 F.105 và 1 AD.6).

   Ngày 10 tháng 5 năm 1969, chỉ huy đơn vị đánh bọn biệt kích, Nguyễn Hồng Quảng để cho bọn chúng đến gần mới hạ lệnh nổ súng bất ngờ, đồng loạt, diệt 44 tên. Sau đó, đơn vị đánh lui 9 đợt phản kích của địch, bắn rơi 2 trực thăng, thu 4 súng.

   Nguyễn Hồng Quảng liên tục chiến đấu ở nhiều chiến trường, luôn luôn nêu cao tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị. Trong những tình huống gay go, ác liệt, Nguyễn Hồng Quảng đi sát cổ vũ anh em lập công xuất sắc. Đồng chí đã góp phần tích cực xây dựng và giữ vững danh hiệu Đơn vị anh hùng cho đại đội, nên được anh em tin yêu, mến phục, cấp trên tin tưởng.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 7 bằng khen, 2 giấy khen, 3 năm liền là Chiến sĩ thi đua, 1 lần Chiến sĩ Quyết thắng, đạt danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng, Dũng sĩ diệt máy bay.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Nguyễn Hồng Quảng được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dần giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #59 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2013, 10:36:00 am »

ANH HÙNG LÊ HỮU TỰU


   Lê Hữu Tựu, sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, nhập ngũ tháng 4 nãm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó đại đội 3, tiểu đoàn 14 phòng không, thuộc sư đoàn 2, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Trong kháng chiến chống Pháp, gia đình Lê Hữu Tựu là cơ sở cách mạng, cha là đảng viên, cán bộ xã, anh đi bộ đội. Được giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa và phát huy truyền thống của gia đình, trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ đối với Tổ quốc, đang làm nhiệm vụ người công nhân tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, anh xung phong tòng quân trực tiếp cầm súng đánh giặc, cứu nước.

   Lê Hữu Tựu đã tham gia 13 chiến dịch, đánh hơn 50 trận (trong đó có 28 trận trực tiếp bắn máv bay),  bắn rơi 31 chiếc trực thăng, diệt 64 tên giặc lái và lính bộ binh.

   Lê Hữu Tựu là một xạ thủ mưu trí, linh hoạt, dũng cảm, trong hoàn cảnh nào cũng tích cực tiêu diệt địch, bắn rơi máy bay địch.

   Mùa Thu năm 1967, qua quá trình rèn luyện, thử thách, Lê Hữu Tựu được xếp vào chân xạ thủ phụ. Tuy là xạ thủ phụ nhưng anh rất hăng hái. Có lần trận địa bị máy bay địch đánh phá, thêm vào đó, lại bị cây to che khuất nên không đánh trả được. Bất chấp nguy hiểm, Lê Hữu Tựu trèo lên cây chặt cành, tạo thuận lợi cho khẩu đội nổ súng đánh địch, bảo vệ trận địa. Trong trận này, riêng anh bắn rơi 8 mấy bay lên thẳng, vì thế được chuyển lên làm xạ thủ chính.

   Mùa Đông năm 1967, đơn vị Lê Hữu Tựu chiến đấu với bọn không quân Mỹ trong 5 ngày. Ngay từ ngày đầu, khi 3 chiếc máy bay lên thẳng lao đến, bằng 2 loạt đạn chính xác, Lê Hữu Tựu bắn rơi 2 chiếc, chiếc còn lại tháo chạy. Hôm sau địch rải chất độc hóa học xuống trận địa và cho 2 trung đội bộ binh đánh lên chốt. Đơn vị dùng nước uống để rửa mắt khắác phục chất độc, vừa xong thì đã thấy địch ở phía sau. Lê Hữu Tựu nhanh trí cùng đồng đội hạ nòng súng xiết cò diệt nhiều tên Mỹ. Địch bỏ chạy tán loạn, các đồng chí nhanh chóng chiếm lại điểm cao. Buổi chiều, địch dùng 4 chiếc máy bay lên thẳng bắn rốc két vào trận địa. Lê Hữu Tựu bình tĩnh với 3 điểm xạ ngắn, diệt 3 chiếc rơi tại chỗ. Khẩu đội bạn nắm thời cơ diệt chiếc còn lại. Sau trận này Lê Hữu Tựu được đề bạt làm khẩu đội trưởng.

   Mùa Hè năm 1968, đại đội chốt trên núi ngang. Trận địa được bố trí giữa 2 cứ điểm địch. Lê Hữu Tựu đã chỉ huy khẩu đội chiến đấu suốt 40 ngày đêm khi bắn máy bay địch tại chỗ, lúc cơ động săn máy bay địch sát cứ điểm của chúng. Bị thương Lê Hữu Tựu vẫn chống gậy hành quân cùng khẩu đội. Nhưng khi máy bay địch đến là anh lại nén đau cùng khẩu đội bắn rơi 2 chiếc máy bay lên thẳng.

   Lê Hữu Tựu đã gương mẫu rèn luyện, khiêm tốn học tập, đoàn kết và chăm lo xây dựng khẩu đội tiến bộ về mọi mặt, góp phần xây dựng đại đội thành đơn vị Anh hùng.

   Lê Hữu Tựu đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.
   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Lê Hữu Tựu được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG RƠ CHĂM ỚT


   Rơ Chăm Ớt, sinh năm 1949, tại làng Ó, B5 khu 4 nay là xã Yasao, Chưpâh, Gia Lai, dân tộc Gia Rai, tham gia cách mạng năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội phó xã B5. Đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ đầu năm 1969 đến năm 1970, Ớt đã chiến đấu 51 trận, diệt 124 địch, có 70 Mỹ, bắn cháy 12 xe quân sự, có 9 xe bọc thép, bắn rơi 2 máy bay, có chiếc bị bắn rơi bằng 2 viên đạn súng trường, đánh sập 13 lô cốt, 5 nhà kho, nhà lính, nhà xe, 19 lần đạt danh hiệu Dũng sĩ, được biểu dương ở Hội nghị du kích toàn huyện. Đại hội thi đua tỉnh và được mặt trận B3 tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.

   Trong trận đánh ngày 16 tháng 4 năm 1969, chỉ huy 2 tổ du kích tập kích vào nhà chiếu bóng (khu điện ảnh của quân đoàn 2 ngụy), Ớt phân công một tổ ở lại cảnh giới sẵn sàng đánh địch, còn mình và ba đồng chí nhanh chóng thọc vào bên trong. Ớt lướt qua lô-cốt 2 tầng ở ngoài cùng vào đến nhà chiếu bóng thấy bọn địch đang ngồi xem liền bắn một quả B40 vào nhà, ba đồng chí khác, dùng lựu đạn, thủ pháo lần lượt đánh sập 3 lô-cốt rồi bắn luôn 3 quả B40 diệt 3 xe bọc thép đang nổ máy chuẩn bị chạy trốn. Địch bắn loạn xạ, anh em nhanh chóng lợi dụng tường đất ẩn mình lúc địch ngừng bắn, Ớt lao lên ném thủ pháo vào lô-cốt ngoài cùng rồi rút an toàn. Trong trận này với 7 quả đạn B40, 1 thủ pháo Ớt đã diệt 8 mục tiêu địch.

   Ngày 24 tháng 4 năm 1969, du kích phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu, Ớt chỉ huy 6 đồng chí tập kích vào vị trí Cơ-ty-pơ-rông. Để nắm chắc địch, Ớt cải trang đi xe đạp ở mép rào để điều tra và tối dẫn tổ vào. Sau khi phân công cụ thể từng mục tiêu, chỉ trong ít phút chiến đấu ta đã làm chủ trận địa. Trận này, Ớt diệt 4 lô cốt và 3 xe M113. Khi rút ra, không may bị mảnh đạn bắn vào mắt, vào lưng và tay, không đi được đồng chí được anh em du kích cõng về đơn vị. Sau một thời gian nằm viện một mắt bị hỏng, vết thương vừa lành, Ớt xin ra viện, trở lại chiến đấu.

   Tháng 6 năm 1969, vừa ở viện về, đồng bào báo cho du kích biết có 3 xe địch chốt trên đường. Ớt dẫn 4 đồng chí ra đánh. Lần này, Ớt giao súng B40 cho Nhợi để Nhợi cũng bắn được như mình. Nhợi kê súng lên ngắm chiếc xe đầu bóp cò, chiếc xe bị diệt tại chỗ, chiếc thứ hai bị thương nhẹ tháo chạy, chiếc thứ ba bò qua chỗ Ớt nằm. Ớt nhanh chóng cầm thủ pháo lao ra xe, hai tên Mỹ nhìn thấy sợ quá nhảy ra ngoài không kịp lấy súng. Ớt dùng thủ pháo tung vào thùng xe rồi nhảy xuống nép vào phía dưới. Thủ pháo nổ, xe bị diệt, khẩu đại liên trên xe bị gẫy nòng, hai tên Mỹ trong xe cũng bị diệt, Ớt đuổi theo 2 tên Mỹ vừa chạy trốn diệt nốt.

   Rơ Chăm Ớt là xã đội phó du kích chiến đấu gan dạ, lập công xuất sắc trên vành đai diệt Mỹ Plây Cu, dẫn đầu phong trào du kích chiến tranh các tỉnh Tây Nguyên, được bà con buôn làng và anh chị em du kích mến phục.

   Ngày 15 tháng 2 năm 1970, Rơ Chăm Ớt được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM