Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:30:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Mỹ  (Đọc 208842 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #20 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:07:42 am »

ANH HÙNG HỒ DỤC



   Hồ Dục, sinh năm 1942 dân tộc Pa Cô, quê ở xã Hồng Kim, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế, nhập ngũ tháng 3 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc Binh trạm trung, phòng hậu cần, Mặt trận Tây Nguyên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Hồ Dục tham gia hoạt động bí mật ở địa phương từ khi còn nhỏ, hăng hái nhận mọi nhiệm vụ cấp trên giao, như đi rải truyền đơn, tuyên truyền vận động thanh niên tòng quân, vào du kích, tham gia chiến đấu chống càn, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành xuất sắc.

   Vào bộ đội được 1 tháng Hồ Dục xung phong làm liên lạc, chuyển công văn cho đơn vị. Nhiều đêm đồng chí phải chuyển công văn hòa tốc từ Thừa Thiên ra Quảng Trị. Một mình đi trên đoạn đường rừng núi thường có hổ hoặc có địch phục kích, đồng chí vẫn dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Làm công tác vận tải ở Tây Nguyên, tuy công việc nặng nhọc, gian khổ, nhưng nhận rõ ý nghĩa quan trọng của công tác là phục vụ cho mặt trận đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng đồng bào, quê hương, Hồ Dục vẫn hăng hái, kiên trì, lao động quên mình, vui vẻ nhận những việc khó, phát huy sáng kiến trong công tác, bảo đảm thường xuyên năng suất cao. Bốn năm liền làm công tác vận tải ở chiến trường rừng núi, nhiều đèo dốc, sông suối, có nhiều khó khăn, thiếu thốn, đồng chí thường xuyên mang nặng gấp hai lần so với mức quy định. Có năm, Hồ Dục công tác trên đường gần 300 ngày liên tục, có lúc do yêu cầu khẩn trương, đồng chí công tác liên tục trong 3 tháng, mỗi ngày đi tăng chuyến, có chuyến đột xuất mang tới hơn trăm ki-lô-gam.

   Năm 1962, Hồ Dục được điều lên công tác ở Quảng Trị. Điều kiện nơi công tác mới có nhiều khó khăn, phức tạp, đồng chí đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và kiên trì làm công tác lãnh đạo tư tưởng, động viên mọi người nên trong vận chuyển anh em đều thường xuyên mang 45 ki-lô-gam trở lên (riêng đồng chí mang 70-75 ki-lô-gam), so với chỉ tiêu trên đề ra là 30 ki-lô-gam/người.

   Năm 1963 Hồ Dục, được chuyển về phụ trách một tổ vận tải ở Thừa Thiên, đồng chí đã cùng anh em trong tổ thường xuyên vận chuyển vượt chỉ tiêu đề ra. Có những đợt mang hàng đặc biệt phải 2 người khiêng 1 hòm, dồng chí đã suy nghĩ cải tiến cách mang nên mỗi người đã mang được một hòm vừa an toàn, vừa tăng năng suất gấp đôi.

   Năm 1966, Hồ Dục được bổ sung về Binh trạm trung, phòng hậu cần B3, phụ trách một tiểu đội vận tải xung kích. Có lần, tổ Hồ Dục nhận nhiệm vụ chuyển 3 kho muối và hàng quan trọng trong thời gian 4 ngày để tránh bọn địch đi càn. Hồ Dục đã quán triệt nhiệm vụ, động viên xây dựng cho anh em trong đơn vị có quyết tâm cao, bản thân gương mẫu nhận việc khó, mang nặng hơn anh em, nên chỉ trong 3 ngày, Hồ Dục đã cùng tiểu đội chuyển hết số hàng trên, vượt thời gian quy định. Sau đó được phân công bám địch, khi thật cấp bách mới nổ súng bảo vệ kho, đồng chí vẫn bình tĩnh giữ được bí mật, nên khi chúng vào cách 15 mét, không phát hiện được vị trí để kho phải quay ra.

   Hồ Dục thường xuyên nêu cao tinh thần đoàn kết thương yêu đồng đội, động viên, giúp đỡ khi khó khăn, nhường cơm khi thiếu thốn, tận tình chăm sóc khi ốm đau, nên được anh em tín nhiệm, yêu mến.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, đồng chí Hồ Dục được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.



ANH HÙNG ĐẶNG VĂN ĐÂU



   Đặng Văn Đâu sinh năm 1940, dân tộc Kinh, quê ở xã Phước Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé nhập ngũ năm 1962, khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng thuộc sư đoàn 5, bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ.

   Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, 11 tuổi Đặng Vãn Đâu đã phải chịu cực khổ của cảnh đi ở đợ, đồng chí sớm mang nặng lòng căm thù bọn cướp nước và bè lũ tay sai bán nước.

   Sáu năm trong quân đội (tính đến ngày tuyên dương) Đặng Văn Đầu đã tham gia trên 40 trận đánh, góp phần tích cực cùng đơn vị tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Từ một chiến sĩ trinh sát, liên lạc quả cảm, Đặng Văn Đâu đã tiến bộ nhanh chóng, trở thành một cán bộ chỉ huy xuất sắc, có quyết tâm diệt địch cao, chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh, Đặng Văn Đâu có tác phong chỉ huy xông xáo, linh hoạt, thường chỉ huy mũi tiến công chủ yếu, đánh nhanh, đánh gần, thọc sâu đánh hiểm, đã đánh là kiên quyết dứt điểm.

   Trong trận phục kích địch trên đường số 20, khi nổ súng, đồng chí chỉ huy một tổ xung kích nhanh chóng đánh thẳng vào giữa đội hình, chia cắt địch, tạo thuận lợi cho đơn vị diệt gọn 1 đại đội địch cùng nhiều xe cơ giới.

   Trong trận đánh đồn Gia Ray, sau khi chỉ huy tiểu đội mũi nhọn đánh chiếm được lô cốt đầu cầu, Đặng Văn Đâu đã mưu trí điều một tổ bí mật tiến sát sau lưng quân địch, dùng thủ pháo dập tầt các hỏa điểm bên trong và nhanh chóng cướp thời cơ, chỉ huy phân đội xông vào đánh chiếm ngay sở chỉ huy của bọn cố vấn Mỹ, góp phần quan trọng cùng đơn vị tiêu diệt khu trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan, giết và bắt sống 400 tên, thu hàng trăm súng các loại.

   Trong một trận đánh, Đặng Văn Đâu bị thương 2 lần, một mảnh đạn làm thủng ruột, nhưng đồng chí vẫn cố nén đau, tiếp tục diệt nốt hỏa điểm cuối cùng của địch rồi mới để đồng đội băng bó đưa về phía sau.

   Là một cán bộ chỉ huy, Đặng Văn Đâu luôn luôn chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt, tận tình, chăm sóc, giúp đỡ đồng đội, dũng cảm bảo vệ thương binh, được đồng đội tin yêu, mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, được bầu là Chiến sĩ thi đua.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Đặng Văn Đâu được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #21 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:11:05 am »

ANH HÙNG TRẦN VĂN ĐÌNH



   Trần Văn Đình, sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nhập ngũ tháng 8 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đội phó đặc công thuộc sư đoàn 2, Quân khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Được cách mạng giáo dục và giác ngộ, tháng 8 năm 1960, Trần Văn Đình đã vận động 2 thanh niên nữa bí mật trốn ra vùng căn cứ của ta tham gia bộ đội. Trong những năm đầu cuộc sống chiến đấu gặp muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, đồng chí được điều về đơn vị bộ binh, rồi làm chiến sĩ nuôi quân, đi sản xuất, nhưng vẫn luôn luôn thể hiện rõ tinh thần tích cực, cần cù, tận tụy, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

   Tháng 1 năm 1965, Trần Văn Đình được điều về đơn vị đặc công, đồng chí rất hăng hái luyện tập để nhanh chóng được tham gia chiến đấu. Mới học được 9 ngày, Trần Vãn Đình xin đi làm nhiệm vụ điều tra, chuẩn bị chiến trường.

   Trong 2 năm (1965 - 1966), Trần Văn Đình đã tham gia điều tra, chuẩn bị cho nhiều trận đánh, trực tiếp chiến đấu 9 trận, diệt 36 tên địch (có 7 tên Mỹ), bắt sống 5 tên, thu 21 súng các loại.

   Trong công tác điều tra, Trần Văn Đình có tác phong cụ thể, tỉ mỉ, chính xác. Trong chiến đấu, đồng chí luôn luôn thể hiện rõ tinh thần tiến công dũng cảm, kiên cường, tác phong đánh nhanh, đánh mạnh, đánh thọc sâu, đánh bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay.

   Trong trận đánh đồn Chà Vu (tháng 4 năm 1965), vừa được lệnh nổ súng, Trần Văn Đình đã nhanh chóng đánh thốc vào tung thâm vị trí địch. Bị thương vẩn không rời vị trí, đồng chí đã dũng cảm dùng tiểu liên, thủ pháo tiêu diệt từng hỏa điểm địch, chi viện tốt cho bạn diệt địch. Chỉ sau mấy phút, phân đội đồng chí đã diệt gọn vị trí địch và rút ra an toàn.

   Trong trận Ba Gia (tháng 5 năm 1965), vừa ở bệnh xá ra, vết thương chưa lành hẳn, Trần Văn Đình đã xin đi làm nhiệm vụ. Trận địa ta vừa bố trí xong thì địch phát hiện và nổ súng trước. Đồng chí dũng cảm lao lên như một mũi tên, giành quyền chủ động dùng tiểu liên diệt địch ngay từ đầu, truy kích sát gót địch, diệt 3 tên, bât sống 2 tên nứa. Sau đó đồng chí cùng phân đội làm nghi binh, tạo điều kiện cho đơn vị bạn diệt gọn 1 tiểu đoàn địch.

   Trong trận Chóp Chai (tháng 3 năm 1966), Trần Văn Đình được phân công đi chuẩn bị chiến trường, đồng chí đã kiên trì bám địch và chuẩn bị đường tốt, đưa bộ đội vào nhanh và an toàn. Khi nổ súng, thấy mũi chính diện chưa lên được, Trần Văn Đình dẫn phân đội xông thẳng vào dùng thủ pháo đánh sập ba gian nhà rồi vượt đoạn hào giao thông đánh chiếm ổ đại liên của địch. Hỗ trợ cho mũi chính diện, Trần Văn Đình chủ động, dũng cảm lao vào đánh khu nhà chỉ huy, nhà điện đài, trận địa cối, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị vào diệt gọn 1 đại đội địch, làm chủ trận địa.

   Trong mọi mặt công tác, Trần Văn Đình luôn luôn gương mẫu đi đầu, sống khiêm tốn, giản dị, đoàn kết thương yêu đồng đội, xây dựng đơn vị mạnh toàn diện, bảo đảm đã chiến đấu là giành thắng lợi.

   Trần Văn Đình đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 bằng khen và giấy khen, đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp 3, Dũng sĩ Quyết thắng, Chiến sĩ thi đua năm 1966 - 1968.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Trần Văn Đình được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG TÔ VĂN ĐỰC



   Tô Văn Đực, sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, vào dân quân tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tổ trưởng tổ sản xuất và sửa chửa vũ khí xã Nhuận Đức, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Tháng 2 năm 1962, Tô Vãn Đực được phân công phụ trách công xưởng của xã. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: "Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước", đồng chí kiên trì, nhẫn nại khắc phục rất nhiều khó khăn của những ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ. Với cái bễ lò rèn và dăm cái giũa, Tô Văn Đực đã lập được thành tích xuất sắc trong việc nghiên cứu và sản xuất, chế tạo vũ khí diệt địch. Chỉ với những đồ dùng thô sơ, đồng chí đã làm được cả súng trường, súng ngắn, và đặc biệt đã chế tạo ra nhiều loại mìn chống tăng có hiệu quả lớn, giải quyết một phần khó khăn về thiếu vũ khí và góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua diệt Mỹ trên đất thép Củ Chi. Ngoài ra, Tô Văn Đực còn dũng cảm chiến đấu phá hủy 13 xe M113, diệt 32 tên Mỹ.

   Lúc mới thành lập công xưởng, các đồng chí chỉ mò mẫm sửa chữa các loại súng bị hỏng hóc ở các nơi gửi về. Sau nhiều lần nghiên cứu, sản xuất thử, Tô Văn Đực sản xuất thành công được hàng chục khẩu súng trường phục vụ kịp thời cho dân quân và bộ đội chiến đấu.

   Đầu năm 1965, địch ném bom xuống ấp Bầu Trong, trong đó có 13 quả chưa nổ; tuy chưa biết cách tháo gỡ, đống chí vẫn một mình dũng cảm, xung phong tìm cách gỡ thử, Tô Văn Đực đã nghiên cứu tháo được quả đầu tiên, sau đó hướng dẫn cho anh em tháo hết 12 quả khác, lấy thuốc đem về chế tạo mìn đánh địch.

   Sản xuất mìn và lựu đạn cũng là công việc mới và khó, đồng chí đã kiên trì và dũng cảm, một mình ra chỗ vắng tháo các quả mìn và lựu đạn ra nghiên cứu, sau đó làm thử. Vừa làm, vừa trực tiếp mang đi đánh địch để nghiên cứu bổ sung, cuối cùng Tô Văn Đực đã cùng anh em sản xuất được nhiều loại mìn chống tăng như mìn gài, mìn giật.

   Năm 1966, bọn Mỹ liên tục dùng xe cơ giới đánh phá vào vùng giải phóng. Tô Văn Đực cùng anh em dũng cảm đánh chận xe cơ giới, phá vỡ nhiều cuộc càn của địch. Qua thực tế chiến đấu đánh xe cơ giới của địch, đồng chí đã suy nghĩ và nghiên cứu cải tiến mìn chập điện thành loại mìn gài, rồi từ mìn gài cải tạo thành loại mìn gạt áp dụng đảnh xe cơ giới địch có sức công phá lớn. Thành công của đồng chí được phổ biến rộng rãi và áp dụng trong toàn quân khu, góp phần thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh ở địa phương tiến lên một bước mới.

   Trong khi nghiên cứu và đi đánh thử để rút kinh nghiệm, Tô Văn Đực đã hai lần bị thương, nhưng không hề nản chí. Đồng chí luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự lực khắc phục khó khăn, đoàn kết, dìu dắt đồng đội, cùng nhau chung sức hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, Tô Văn Đực luôn luôn chú trọng xây dựng và phát triển công xưởng lớn mạnh toàn diện, đáp ứng kịp thời, các yêu cầu phục vụ cho chiến đấu, được cấp trên tin tưởng, đồng đội mến phục.

   Tô Văn Đực đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 năm liền (1965 -1966) là Chiến sĩ thi đua.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Tô Vãn Đực được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #22 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:14:47 am »

ANH HÙNG NGUYỄN THỊ HẠNH



   Nguyễn Thị Hạnh (tức Trần Thị Bé) sinh năm 1937, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng du kích xã, đảng viên Đảng Cộng sảnViệt Nam.

   Là một cán bộ cơ sở hoạt động trong vùng địch kiểm soát, Nguyễn Thị Hạnh luôn luôn nêu cao tinh thần triệt để cách mạng, kiên cường chống Mỹ và bè lũ tay sai, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, vượt mọi khó khăn, gian khổ, bền bỉ, kiên trì vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh, góp phần xứng đáng vào thành tích chung của địa phương.

   Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, cha mất sớm, có anh, chị tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Thị Hạnh bị địch theo dõi, kiểm soát gắt gao. Mặc dù vậy, đồng chí vẫn không hề nao núng, vừa làm ruộng nuôi mẹ, vừa tfch cực tham gia hoạt động cách mạng. Ngoài nhiệm vụ thường xuyên nuôi giấu cán bộ, Nguyễn Thị Hạnh còn hoạt động trong tổ thanh niên, hăng hái làm nhiệm vụ canh gác, điều tra, phát hiện bọn điệp ngầm trà trộn phá hoại trong xóm, ấp.

   Đầu năm 1963, 3 tiểu đoàn chủ lực và biệt động ngụy về xã càn quét suốt 1 tháng, gom dân lập ấp chiến lược. Xã có 5 ấp thì địch đã gom 4, chỉ còn lại 1. Được cấp trên giao nhiệm vụ tổ chức cơ sở bí mật trong các ấp chiến lược, Nguyễn Thị Hạnh đã tìm mọi cách thực hiện: lúc kiếm cớ đi làm gần các mối đường ra vào ấp chiến lược để tiện gặp bà con, hỏi han tin tức, lúc giả bệnh mất trí, ăn mặc rách rưới, lân la đi hết ấp này sang ấp khác để bắt mối hoạt động. Đồng chí khéo thuyết phục, động viên bà con, nên mặc dù bị địch thường xuyên o ép, hăm dọa, bắt bớ, đánh đập, các gia đình vẫn một lòng tin tưởng ở cách mạng, sẵn sàng cho con em tham gia công tác. Do đó, Nguyễn Thị Hạnh đã xây dựng được đội du kích mật 37 người và hàng chục hạt nhân nòng cốt trong phong trào cách mạng ở địa phương.

   Nhận chỉ thị phá ấp chiến lược, tuy bị địch để ý nghi ngờ, đồng chí vẫn tìm cách phổ biến đầy đủ nhiệm vụ đến từng cơ sở, rổi trực tiếp đi đón bộ đội về phối hợp với đội du kích mật của xã, đánh phá đồn, bốt địch, cảnh cáo và trừng trị bọn tề, điệp, ác ôn, hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy phá ấp, dỡ nhà, trở về làng cũ.

   Từ năm 1963 đến năm 1966, Nguyễn Thị Hạnh đã trực tiêp tham gia chiến đấu và phục vụ bộ đội huyện, tỉnh đánh nhiều trận, diệt hơn 300 tên địch, 10 xe cơ giới (có 1 xe M.113), phá hủy 2 khẩu pháo, thu 50 súng các loại. Ngoài ra, đồng chí còn cùng với đội du kích đánh nhỏ, lẻ hàng trăm lần, diệt 345 tên địch, riêng Nguyễn Thị Hạnh diệt 19 tên.

   Trận nào đồng chí củng thể hiện tinh thần gan dạ, dúng cảm, có tác phong tỉ mỉ, thận trọng, mưu trí, linh hoạt. Một lần đi trinh sát, Nguyễn Thị Hạnh ngồi trên xe bò chở lúa quan sát và ghi nhớ kỹ cách bố trí hỏa lực và đội hình quân địch, khi trở về vẽ lại sơ đồ, giúp bộ đội tiến đánh có kết quả; lần khác, đồng chí dắt xe đạp đi qua chỗ địch đóng quân, nhẩm đếm số bước chân để tính cự ly chính xác cho bộ đội pháo kích.

   Đồng chí táo bạo giấu mìn, lựu đạn, truyền đơn... trong làn đựng quần áo rồi mang đi qua mặt lính gác của địch, hoặc tổ chức cho chị em cắt rào thép gai, rải truyền đơn, phục kích địch ngay trong ấp chiến lược. Để phá trò hề bầu cử quốc hội bù nhìn của địch, tổ du kích do Nguyễn Thị Hạnh phụ trách đã khéo léo cải trang lẫn vào dân, gài mìn trên đường và ném lựu đạn vào khu vực đặt hòm phiếu của ấp, khiến chúng rất hoang mang. Thiếu mìn để đánh địch, Nguyễn Thị Hạnh cải tạo đạn pháo 105 mi-li-mét, mang đi phục kích suốt 3 ngày. Trong trận này, ta giết chết 2 tên địch, làm bị thương nặng 3 tên, phá hủy 1 trung liên. Đánh xong, đồng chí còn ở lại kiểm tra kết quả và thu dây, hộp pin đem về cất giấu. Trong một đợt hoạt động vũ trang tuyên truyền, gây thanh thế cho cách mạng, Nguyễn Thị Hạnh vạch kế hoạch chu đáo cho đội du kích để chỉ trong một buổi, vừa phối hợp với bộ đội huyện chặn đánh bọn bảo an, lùng bắt bọn tề, điệp, ác ôn, vừa tổ chức mít tinh đón cán bộ về nói chuyện với đồng bào trong ấp chiến lược.

   Cuối năm 1966, trong khi chờ đợi đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua của tỉnh, thấy bộ đội chuẩn bị đánh cứ điểm địch, Nguyễn Thị Hạnh tự nguyện xin được dẫn anh em đi trinh sát trước. Ngày hôm sau, phát hiện 3 tên ác ôn khét tiếng đi xe "gíp" rẽ vào nhà một đồng bào đòi làm thịt gà ăn uống, đồng chí lập tức tổ chức anh em du kích đến đánh úp, giết chết 2 tên, làm bị thương nặng 1 tên.

   Nguyễn Thị Hạnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ một cán bộ cơ sở hoạt động trong vùng địch tạm chiếm, góp phần làm chuyển biến phong trào đấu tranh của xã trong hoàn cảnh rất khó khăn, bản thân luôn luôn khiêm tốn, gương mẫu, tận tụy, được bà con hết lòng thương yêu, giúp đỡ.

   Đồng chí đá được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, là chiến sĩ thi đua 2 năm liền 1965 - 1966.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Thị Hạnh được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG TRƯƠNG VĂN HÒA



   Trương Văn Hòa, sinh năm 1937, dân tộc Kinh, quê ở xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, tỉnh QuảngNam-Đà Nẵng, tham gia đội du kích năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội phó trực tiếp làm trung đội trường trung đội du kích tập trung của xã, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Được cán bộ giáo dục, Trương Văn Hòa sớm giác ngộ cách mạng và hăng hái tham gia kháng chiến ở địa phương. Đồng chí là một trong số những du kích hoạt động bí mật đầu tiên của xã. 5 năm liên tục chiến đấu, Trương Văn Hòa tỏ rõ là người đội trưởng du kích mưu trí, sáng tạo, có nhiều cách đánh táo bạo, đạt hiệu suất cao. Đồng chí đã cùng đội du kích giết chết 1.249 tên giặc (có 584 tên Mỹ), bắt sống 108 tên, thu 137 súng các loại, đánh nhào 3 đoàn xe lửa, làm mìn tự tạo diệt 14 xe bọc thép, bắn rơi 6 máy bay. Riêng Trương Văn Hòa đã diệt 440 tên (có 160 tên Mỹ), diệt 13 xe bọc thép, bán rơi một máy bay, thu 16 súng các loại.

   Tháng 2 năm 1962, Trương Văn Hòa cùng đội công tác, vừa diệt tề điệp, vừa tuyên truvền giáo dục, tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa. Từ một thôn trong xã được giải phóng, đã tiến lên cả xã được hoàn toàn giải phóng.

   Tháng 3 năm 1963, địch cho 2 tiểu đoàn đến khủng bố, tàn sát nhân dân, lùng bắt cán bộ, phá hoại phong trào du kích trong xã. Đưực sự giúp đỡ của nhân dân, kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, đồng chí tổ chức lực lượng du kích liên tục tập kích, diệt 163 tên giặc, thu 17 súng, buộc chứng phải co cụm lại rồi sau phải rút hẳn.

   Năm 1964, Trương Văn Hòa cùng đội du kích và nhân dân trong xã củng cố làng xã chiến đấu, đồng thời phối hợp với lực lượng của tỉnh và quận hỗ trợ nhân dân các xã Thanh Phong, Mỹ Ngọc, Hòa Phước, Điện Chính, Điện Phong vùng lên tự giải phóng. Đồng chí trực tiếp chỉ huy đội du kích độc lập, tổ chức nhiều đợt tiên công bọn địch canh gác công trường đường sắt trong khu vực cầu Bến Sâu, La Họ, đánh 3 đoàn tàu, 1 đầu máy, 12 toa xe, tiêu diệt 441 tên, thu 207 súng, cắt đứt giao thông địch, bức rút nhiều đồn bốt.

   Năm 1965, Trương Văn Hòa dũng cảm, mưu trí chỉ huv du kích chống đợt càn quy mô lớn, phá kế hoạch "bình định" của địch, diệt 168 tên địch, thu 34 súng, 2 súng cối 60 mi-li-mét, 4 máy thông tin PRC.10 và 1 xe M.118, buộc địch phải rút khỏi xã, bỏ dở cuộc càn quét, bảo vệ toàn vẹn mùa lúa cho dân. Tình nguyện đi đầu trong phong trào "tìm Mỹ mà diệt", tự tạo vũ khí” để diệt xe cơ giới địch, chỉ trong 4 tháng từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1965, riêng Trương Văn Hòa đã phá 2 xe bọc thép, 1 xe "gíp", diệt 78 tên Mỹ. Chỉ 2 tháng sau khi đồng chí đi dự Đại hội Chiến sĩ thi đua về, đội du kích hoạt động mạnh hẳn lên, tiêu diệt và bắt gọn 1 đại đội bảo an 105 tên trong 20 phút giữa ban ngày; 10 ngày đêm liền bao vây, bắn tỉa diệt 142 tên Mỹ, 24 tên ngụy, hạ 1 máy bay, bức rút 1 đồn và 11 lô cốt; đánh phá giao thông bằng mìn tự tạo phá hủy 5 xe M.113, diệt 18 tên Mỹ, 5 tên ác ôn. Riêng Trương Văn Hòa tiêu diệt 33 tên Mỹ, 4 tên ngụy, 5 xe bọc thép chở lính, bắn rơi 1 máy bay.

   Trương Văn Hòa luôn luôn nêu cao tinh thần tự lực vượt mọi khó khăn, chủ động, kiên quyết tiến công địch, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, được đồng bào thương yêu, đồng đội tin tưởng, mến phục.

   Trương Văn Hòa đá được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 3 năm liền là Chiến sĩ thi đua (1964 - 1966), được tặng danh hiệu Kiện tướng diệt Mỹ, 7 lần đạt Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, 8 lần Dũng sĩ diệt cơ giới, 1 lần Dũng sĩ diệt máy bay; được tặng thưởng 2 bằng khen, 6 giấy khen.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Trương Văn Hòa được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #23 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:21:17 am »

ANH HÙNG VÕ LAI



   Võ Lai, sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Giang, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, nhập ngũ tháng 1 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó thuộc tiểu đoàn 52 bộ đội địa phương tỉnh Bình Định, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sống trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống cách mạng bất khuất (bà con đều tham gia công tác cách mạng, ba anh em đều gia nhập bộ đội), Võ Lai hiểu rõ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuối năm 1959, đồng chí trốn khỏi vùng địch tạm chiếm lên căn cứ tham gia lực lượng vũ trang và là một trong số những chiến sĩ giải phóng đầu tiên của tỉnh.

   Võ Lai đã tham gia chiến đấu 48 trận, giết 40 tên giặc, thu 2 súng, trận nào cũng thể hiện rõ tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, có tác phong chỉ huy mưu trí, xông xáo. Trong nhiều trận chiến đấu chống càn rất gay go, quyết liệt, đồng chí đã bình tĩnh xử lý nhiều tình huống phức tạp rất thông minh và táo bạo.

   Ngày 16 tháng 12 năm 1965, hành quân đến xã Bình Thuận - nơi mới giải phóng - giúp dân củng cố cơ sở và xây dựng làng chiến đấu, đại đội tổ chức đi nghiên cứu địa hình ngay và vạch ra nhiều phương án tác chiến, sẵn sàng đánh địch càn vào xã. 5 giờ 30 ngày 18 tháng 12 năm 1965, sau khi máy bay ném bom và pháo binh bắn dữ dội, từng đàn máy bay lên thẳng tới đổ quân Mỹ càn vào xã. Đại đội trưởng đi vắng, Võ Lai chỉ huy đơn vị vừa chiếm lĩnh vị trí chiến đấu như phương án đã định, vừa cơ động bắn máy bay lên thẳng, bắn rơi liền 2 chiếc khi chúng chưa kịp đổ hết quân. Đồng chí điều thêm lực lượng kịp thời đánh chặn ngay 5 đại đội Mỹ đổ xuống bãi phía bắc trận địa. Phán đoán địch sẽ đổ quân thêm hướng tây nam để đánh vào, Võ Lai dũng cảm băng qua lửa đạn, trực tiếp chỉ huy một phân đội tới trước chiếm vị trí có lợi. Ta vừa bố trí xong, địch đổ quân ngay xuống bãi trước mặt. Bị diệt một số và 1 máy bay lên thẳng, địch phải giãn ra xa, hình thành thế bao vây ta. Suốt cả ngày hôm đó, Võ Lai như một con thoi lao dưới làn đạn của địch, kiểm tra, đôn đốc, chi huy các phân đội, cổ vũ, động viên anh em giữ vững quyết tâm chiến đấu, đánh lui nhiều đợt phản kích điên cuồng của bọn Mỹ. Đại đội của đồng chí đã tiêu diệt 376 tên Mỹ, bắn rơi 10 máy bay lên thẳng, giữ vững trận địa. Đến tối, được lệnh, Võ Lai đã tổ chức cho đơn vị đưa toàn bộ thương binh, tử sĩ về vị trí an toàn.

   Trong trận đánh quân Nam Triều Tiên tại xã Bình An (tháng 4 năm 1966), đồng chí bình tĩnh, dũng cảm đi sát từng phân đội, giành giật từng vị trí với địch, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chỉ huy phân đội xuất kích diệt từng bộ phận địch. Tới 10 giờ, Võ Lai bị thương vào cổ, máu ra nhiều, anh em định đưa về tuyến sau, nhưng đồng chí vẫn kiên quyết ở lại chỉ huy trận đánh, giữ vững trận địa cho đến tối. Được lệnh chuyển đơn vị ra ngoài, đồng chí mưu trí tổ chức cho anh em đưa thương binh và nhân dân ra nơi an toàn.

   Trong công tác chỉ huy và xây dựng đơn vị, cũng như trong việc chấp hành mọi chính sách, giữ nghiêm kỷ luật, Võ Lai đều gương mẫu, xung phong đi đầu, có tác dụng lôi cuốn mọi người. Sống khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, tận tình chăm sóc, giúp đỡ đồng đội và nhân dân trong lúc thường cúng như ỉúc chiến đấu gay go, quyết liệt, được mọi người tin yêu, mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Võ Lai được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG LÝ VĂN LÂM


   Lý Văn Lâm (tức Lý Ngọc Báu) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ơ phường 4 thị xã Cà Mau, tỉnh Minh Hải, tham gia du kích năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội trưởng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân từ một gia đình nghèo khổ, lại sống ở vùng địch chiếm, hàng ngày chứng kiến tội ác của kẻ thù, Lý Văn Lâm sớm chịu ảnh hưởng của bố là người kháng chiến cũ, một lòng hướng theo cách mạng, thiết tha với nhiệm vụ chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

   Khi chưa vào du kích, đồng chí đã hăng hái, tự giác làm nhiều việc của cán bộ giao cho: rải truyền đơn của cách mạng, tham gia phá cầu trên đường địch thường đi tuần tra, nắm tình hình hoạt động của chúng báo cáo kịp thời.

   Hoạt động thoát ly từ năm 1959 đến năm 1967, lúc nào Lý Văn Lâm cũng nêu cao quyết tâm diệt địch, vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Suốt 8 năm tham gia chiến đấu, Lý Văn Lâm đánh 56 trận, luôn luôn thể hiện tinh thần gan dạ, có nhiều cách đánh mưu trí, táo bạo, đã diệt và làm bị thương 101 tên địch, bắt sống 4 tên, thu nhiều vũ khí.

   Có lần, một mình Lý Văn Lâm táo bạo gỡ dây thép gai và lựu đạn gài, đột nhập đồn giặc, bí mật luồn sâu dùng ét-xăng đốt cháy cơ quan hội đồng xã.

   Nhiều lần đồng chí dẫn anh em du kích đi đánh địch cả trên bộ, trên sông, hoặc vào tận hang ổ của chúng để trừ diệt bọn tề điệp gian ác.

   Từ năm 1959 đến cuối năm 1961, Lý Văn Lâm đã chiến đấu 35 trận, diệt 29 tên địch, làm bị thương 17 tên, bắt sống 4 tên, thu một số vũ khí, tài liệu.

   Tháng 11 năm 1961, trong một trận đánh, đồng chí bị thương mờ cả hai mắt, cụt bàn tay phải, bàn tay trái cũng bị cụt ngón giữa rất khó cử động. Sau khi đi điều trị về, đồng chí một mực xin được tiếp tục chiến đấu. Làm ấp đội trưởng ấp Giồng Kè, Lý Văn Lâm tận tình hướng dẫn anh em cách dùng vũ khí thô sơ để diệt địch, đồng thời kiên trì tập kéo cò súng bằng cùi tay phải. Mỗi lần bắn, súng giật khiến vết thương cũ lại chảy máu, đau nhức, song đồng chí vẫn quyết tâm rèn luyện đến khi bắn được thành thạo.

   Đồng chí thường xuyên dẫn anh em đi phục kích, tập kích địch, làm công tác vũ trang tuyên truyền. Với tài trí linh hoạt, nhiều mưu mẹo đánh địch, trận nào đồng chí cũng giành thắng lợi. Từ sau khi bị thương đến tháng 3 năm 1967, Lý Văn Lâm đánh thêm 21 trận, tự tay diệt 55 tên địch.

   Nắm vững phương châm đánh địch bằng cả quân sự, chính trị và binh vận, từ năm 1960 đến năm 1966, Lý Văn Lâm đã trực tiếp xây dựng nòng cốt và lãnh đạo 180 cuộc đấu tranh chính trị ở xã, ấp chống địch bắt người, đòi bồi thường tài sản; đồng thời vận động 60 binh lính ngụy đấu tranh với bọn chỉ huy, trong đó có một số người nhận làm nội ứng cho cách mạng.

   Lý Văn Lâm còn góp phần xây dựng cơ sở ở ấp tiếp giáp với vùng địch kiểm soát, tuyên truyền, giáo dục hàng chục thanh niên để giới thiệu vào Đoàn, vào Đảng, để bổ sung cho lực lượng du kích và bộ đội.

   Bất kỳ trong hoàn cảnh khó khăn nào, Lý Văn Lâm củng luôn luôn bám đất, bám dân, dũng cảm, ngoan cường, tích cực tiến công địch, lập nhiều thành tích, được đồng chí, đồng bào thương yêu, tin cậy.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Lý Văn Lâm được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #24 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:24:48 am »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN LÊN



   Nguyễn Văn Lên (tức Nguyễn Văn Tới), sinh năm 1942, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng thuộc, đội trinh sát đặc công huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân từ một gia đinh nông dân nghèo, có cha và anh là bộ đội hy sinh trong chiến đấu, Nguyễn Văn Lên phải ở đợ coi trâu cho địa chủ từ năm lên 6 tuổi. Đến năm 15 tuổi, đồng chí bỏ trốn đi cạo mủ cao su cho đến năm 1961 mới trở về quê làm ruộng, tham gia hoạt động kháng chiến, làm công tác thông tin, liên lạc, rải truyền đơn... Từ năm 1962 đến đầu năm 1967, đóng chí đã chiến đấu 66 trận, giết và làm bị thương trên 760 tên giặc (có hơn 400 tên Mỹ, phá hủy 24 xe cơ giới (có 18 xe tăng), 3 khẩu pháo 105 mi-li-mét, thu 20 khẩu súng các loại, diệt 1 máy bay lên thẳng.

   Nguyễn Văn Lên nêu tấm gương sáng về tinh thần tích cực, chủ động tiến công tiêu diệt địch, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, táo bạo, hết lòng thương yêu, giúp đỡ đồng đội và nhân dân.

   Trận đánh "ấp chiến lược" Bình Mỹ tháng 9 năm 1963, khi phát triển vào sâu gặp khó khăn, đồng đội bị thương vong, Nguyễn Văn Lên một mình ở lại đánh chặn địch và cử 3 chiến sĩ ra ngoài lấy thêm thủ pháo vào tiếp tục chiến đấu. Kết quả, tổ vượt qua được 3 tuyến phòng thủ, chiếm sở chỉ huy của địch, phối hợp cùng đơn vị tiêu diệt hoàn toàn 1 đại đội lính ngụy, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược.

   Trận đánh bốt Tống Bảng tháng 6 năm 1964, trong lúc đang cắt rào thì cả tổ bị thương vì địch ném lựu đạn ra, Nguyễn Văn Lên bình tĩnh động viên đồng đội quyết tâm chiến đấu. Tiến vào một đoạn nữa, tuy chỉ còn một mình và vết thương chảy máu nhiều, đồng chí vẫn kiên quyết xông lên ném lựu đạn đánh chiếm lô cốt. Phát hiện địch có hầm ngầm, đồng chí gọi trung liên của ta ở bên ngoài bắn chi viện rồi dùng thủ pháo diệt hỏa điểm, tạo điều kiện cho đơn vị xung phong diệt địch và hoàn toàn làm chủ trận địa. Sau trận đánh, tuy rất mệt vì bị thương, chảy nhiều máu, Nguyễn Văn Lên vẫn cố gắng cõng anh em thương binh nặng hơn đến trạm cấp cứu.

   Cuối tháng 11 năm 1966, giặc Mỹ mở cuộc càn quét dọc đường số 16. Suốt 7 ngày đêm, đồng chí dẫn anh em trong tổ liên tục đi bám địch, dùng mìn định hướng, lựu đạn tập kích, diệt trên 100 tên, 2 khẩu pháo 105 mi-li-mét, 5 xe tăng và xe bọc thép.

   Tháng 1 năm 1967, giặc Mỹ lại càn lớn vào căn cứ của ta. Nguyễn Văn Lên đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy đơn vị liên tục đánh nhiều trận, có ngày đồng chí bị ngất đến hai lần vì quá mệt, nhưng khi tỉnh dậy lại tiếp tục chiến đấu, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của giặc. Qua 6 ngày chống càn, Nguyễn Văn Lên đả chỉ huy đơn vị giết và làm bị thương 450 tên Mỹ, thu nhiều súng, đạn.

   Nguyễn Văn Lên nhiều lần mưu trí, linh hoạt dùng mìn định hướng diệt máy bay lên thẳng, dùng thủ pháo, lựu đạn diệt xe tăng và xe bọc thép.

   Đồng chí rất chú trọng xây dựng đơn vị, chăm sóc giúp đỡ đồng đội lúc thường củng như trong chiến đấu hết lòng bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

   Nguyễn Văn Lên đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 lần Chiến sĩ thi đua tỉnh, 1 lần Chiến sĩ thi đua quân khu, 4 lần đạt các danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú Dũng sĩ diệt Mỹ cấp I, Dũng sĩ Quyết thắng, Dũng sĩ diệt cơ giới.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Văn Lên được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG KPA-KƠ-LƠNG



   Kpa-Kơ-Lơng, sinh năm 1948, dân tộc Gia Rai, quê ở xã I-a Pia, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, nhập ngũ tháng 3 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội phó trinh sát quận 5, Gia Lai, Quân khu 5.

   Sống trong một gia đình nông dân nghèo, cha mất sớm, hai anh bị giặc đánh đập tàn phế, Kpa-Kơ-Lơng sẵn có lòng căm thù sâu sác giặc Mỹ và bè lũ tay sai. Năm 15 tuổi, đồng chí vào du kích. Trong quá trình hiến đấu, đồng chí đã cùng đội du kích đánh địch 32 trận, tự tay diệt 124 tên giặc (trong đó có 6 tên Mỹ), phá hủy 7 xe quân sự, 25 lần tham gia phá đường giao thông, phá ấp chiến lược, khi vào bộ đội chiến đấu 7 trận, cùng đơn vị diệt 18 tên giặc, 1 xe M.113, thu 4 súng.

   Khi còn ít tuổi chưa được chấp nhận vào du kích, Kpa-Kơ-Lơng một mình tự động vót chông, đào hầm, làm cạm bẫy, dùng ná, tên thường và tên thuốc dộc diệt 8 tên giặc. Năm 15 tuổi khi được vào du kích, nhiều lần đồng chi xin nhận vũ khí, tự chọn lấy trận địa, kiên trì phục kích, bám địch diệt 32 tên, bắn bị thương 22 tên, phá hủy 1 xe, thu nhiều vũ khí mang về trang bị cho du kích. Thành tích đánh xe của đồng chí đả thúc đẩy mạnh mẽ phong trào du kích diệt xe địch trong vùng.

   Kpa-Kơ-Lơng là một chiến sĩ trinh sát gan dạ, đánh mìn giỏi, bắn súng tài, phục vụ chiến đấu tốt, là một trong những người đạt thành tích diệt nhiều địch nhất trên chiến trường Tây Nguyên.

   Trong trận phục kích 1 trung đội địch trên đường dinh điền Lệ Ngọc, bọn địch phát hiện trận địa của ta trước. Thấy nguy hiểm, đồng chí nhanh chóng giật mìn, diệt một số tên. Khi đơn vị rời khỏi trận địa, đồng chí rút sau và bị thương nên phải dừng lại trên đường. Bọn giặc hò hét, kêu nhau lần vết máu đuổi theo. Mặc cho vết thương đau nhói, Kpa-Kơ-Lơng bình tĩnh ném một quả lựu đạn diệt 3 tên đi đầu. rồi bần liên tiếp vào đội hình chúng. Bọn địch thấy bắn rát liền hốt hoảng rút lui. Đồng chí tự băng bó vết thương rồi trở về căn cứ.

   Trong các trận chống càn, đồng chí dũng cảm bám sát địch. Có lần, với 3 viên đạn còn lại, Kpa-Kơ-Lơng bám riết địch từ sáng đến chiều, đứng núp cách 5 mét, chờ chúng tập hợp hàng dọc mới bắn diệt 7 tên, làm bị thương 1, rồi băng rừng chạy về phía sau. Một lần khác, khi đang làm nhiệm vụ canh gác trên rẫy thì phát hiện địch kéo vào, Kpa-Kơ-Lơng mưu trí tìm vị trí có lợi bắn 2 phát diệt 4 tên, bọn còn lại hoảng hốt tháo chạy.

   Kpa-Kơ-Lơng quyết tâm diệt Mỹ khi chúng vừa đặt chân lên chiến trường Tây Nguyên. Biết bọn Mỹ khi chiến đấu thường hay chiếm điểm cao, đồng chí bố trí nìn trên đường, rồi chiếm điểm cao trước nằm phục vích. Bọn địch từ Plây Me hành quân bị trúng mìn, chết một số tên. Một tốp xách súng chạy lên điểm cao bị đồng chí ném lựu đạn, diệt 4 tên.

   Tháng 3 năm 1965, Kpa-Kơ-Lơng vào bộ đội huyện làm trinh sát; trong điều kiện ác liệt của chiến trường Plây Me, đồng chí dũng cảm, không ngại khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Một lần trên đường đi công tác, thấy đơn vị bạn đang đánh địch, đồng chí chủ động ghép mình vào đơn vị bạn chiến đấu, tự tay diệt 2 tên Mỹ và 2 tên ngụy. Đến nơi làm nhiệm vụ lại gặp quân Mỹ đi càn, Kpa-Kơ-Lơng cùng du kích địa phương tổ chức đánh mìn, phá hủy 1 xe địch trên đường số 19.

   Tháng 5 năm 1966, địch càn vào khu căn cứ, đồng chí cùng tổ trinh sát vừa bám địch, vừa chiến đấu tiêu diệt 5 tên ngụy và 1 tên Mỹ.

   Kpa-Kơ-Lơng là một chiến sĩ trẻ luôn luôn xông xáo, gương mẫu trong mọi công tác, vui vẻ nhận khó khăn về mình, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cán bộ, đồng đội, nhân dân. Đoàn kết, tận tình giúp đỡ nhau, đồng chí được đồng đội yêu mến. Mấy năm liền, đồng chí được bầu là Chiến sĩ thi đua ở cơ sở, là Chiến sĩ thi đua miền Trung Trung Bộ, được thưởng 3 bằng khen và giấy khen, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Kpa-Kơ-Lơng được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #25 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:27:22 am »

ANH HÙNG KAN LỊCH



   Kan Lịch sinh năm 1943, dân tộc Tà Ôi (Pa Cô), quê ở xã Hồng Bắc, huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên phó huyện đội vùng B, tỉnh Thừa Thiên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Từ một cô gái nghèo khổ người dân tộc thiểu số, được sự giáo dục của cách mạng, Kan Lịch giác ngộ nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước và trở thành một cán bộ xuất sắc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân, luôn luôn hăng hái, đi đầu trong mọi nhiệm vụ, chiến đấu dũng cảm, linh hoạt, có quyết tâm cao tiêu diệt địch, góp phần tích cực đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích của địa phương.

   Kan Lịch đã chiến đấu nhiều trận, tự tay bắn chết 49 tên địch (chưa kể số địch thương vong vì chông, mìn và số địch bị diệt trong các trận đồng chí chỉ huy đánh tập trung), bắn rơi 1 máy bay vận tải và bắn hỏng 1 chiếc khác, phá sập 2 nhà ở của địch.

   Năm 1961, vào du kích, lúc đầu được phân công làm nhiệm vụ canh gác và phục vụ cơm nước cho anh em, Kan Lịch vui vẻ chấp hành nhiệm vụ, đồng thời tranh thủ thời gian hăng say luyện tập quân sự và vận động chị em làm chông, bẫy, tham gia chiến đấu, dần dần gây được lòng tin trong bà con buôn làng là con gái cũng đánh được giặc.

   Năm 1963, trong một trận đánh, mặc dù chân bị chông đâm bị thương, Kan Lịch vẫn Kiên quyết xin được nhận nhiệm vụ. Cùng tổ du kích lọt vào bốt địch giữa lúc chúng đang ngủ, nhưng do đêm tối khó nhìn, Kan Lịch dùng mưu cất tiếng gọi to, làm chúng hốt hoảng ngồi dậy. Lập tức, các đồng chí nổ súng tiêu diệt được 4 tên, riêng đồng chí bắn chết 1 tên.

   Hai ngày sau khi địch càn lên khu căn cứ, Kan Lịch cùng tổ bò vào nơi địch đóng quân để cắm chông, gài lựu đạn, khiến chúng bị thương vong một số, sau đó đợi địch đến thật gần các đồng chí mới nổ súng, diệt tại chỗ 2 tên và tiếp tục đánh lui các đợt tiến công của địch.

   Tháng 5 năm 1964, Kan Lịch dẫn tổ du kích vào nằm phục sát sân bay A Lưới, giữa đồi tranh nắng gắt như thiêu, nhịn đói, khát liền 2 ngày rưỡi, kiên trì chờ bắn rơi chiếc máy bay vận tải, diệt cả bọn, trong đó có tên đại tá Mỹ, đồng thời bắn chết 4 tên địch trong sân bay.

   Tháng 3 năm 1965, sau một đêm vào điều tra trong sân bay A Lưới, khi trở ra, tổ du kích bị giặc phục kích bất ngờ, bắt mất một tổ viên. Qua phút bị động ban đầu, đồng chí bình tĩnh tổ chức chiến đấu giành lại chủ động giết chết 3 tên địch, cứu thoát đồng đội từ tay giặc, đưa cả tổ trở về hậu cứ an toàn.

   Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1965, chỉ huy cụm du kích các xã Hồng Bắc, Hồng Nam, Hồng Trung và 1 trung đội bộ đội địa phương bao vây đồn A Lưới, Kan Lịch đã lãnh đạo anh chị em khắc phục mọi khó khăn, gian khổ giữa mùa mưa, liên tục vây hãm địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại, khiến chúng hoảng sợ không dám ra khỏi chỗ đóng quân.

   Trong trận đánh lô cốt Tà Rê, do tính toán kỹ và tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, đồng chí chỉ huy rất tài tình, diệt tên gác và đồng loạt nổ súng tiến công đúng lúc bọn địch tập trung giữa sân ăn cơm chiều, diệt gọn 1 trung đội địch (trong đó có 2 tên Mỹ).

   Bị thua đau, địch xây lại lô cốt kiên cố và canh gác nghiêm ngặt hơn. Sau khi đã điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình địch, đồng chí lại dẫn tổ du kích đi đánh tiếp trận nữa, diệt thêm hàng chục tên, buộc địch phai bỏ chạy khỏi lô cốt Tà Rê. Kan Lịch còn nhiều lần dẫn các tổ nam, nữ du kích còn ít kinh nghiệm chiến đấu đi đánh bọn địch tuần tiễu, hoặc bí mật lọt vào lô cốt của chúng để rải truyền đơn, cắt dây điện thoại..., lần nào cũng thu được thắng lợi, khiến anh chị em rất phấn khởi, tin tưởng, trưởng thành mau chóng.

   Kan Lịch luôn luôn chú ý xây dựng đội du kích ngày càng vững mạnh, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương phát triển không ngừng. Đồng chí thường xung phong nhận làm trước những việc khó khăn, lấy kết quả để động viên mọi người cùng tin tưởng làm theo. Ngoài nhiệm vụ đánh giặc, giữ làng, Kan Lịch còn gương mẫu và vận động nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, được bà con rất tin yêu, mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Kan Lịch được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG TRẦN VĂN LƯ



   Trần Văn Lư sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xã An Trường, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, nhập ngủ tháng 5 năm 1947. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là bác sĩ, đội trưởng đội phẫu thuật sư đoàn 5, bộ đội chủ lực Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Đồng chí sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo, cha bị bọn ấp trưởng bắt đánh chết, mấy mẹ con phải đi ở đợ, làm thuê kiếm sống. Cách mạng tháng Tám thành công, được giác ngộ cách mạng, 5 anh em đều lần lượt gia nhập quân đội cầm súng giết giặc. Vào bộ đội, Trần Văn Lư được điều về bệnh xá thuộc chi đội 20 làm liên lạc. Căm thù sâu sắc bọn đế quốc, phong kiến, suốt những năm kháng chiến chống Pháp, đồng chí không quản gian khổ, khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng chí còn luôn luôn chịu khó học tập để phục vụ cách mạng nhiều hơn nữa.

   Cuối năm 1954, đồng chí tập kết ra Bắc. Trong những năm ở miền Bắc, Trần Văn Lư gương mẫu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ và kiên trì học tập văn hóa và chuyên môn. Vừa học tập trung, vừa tự học, từ trình độ lớp 3, đồng chí học xong lớp 10 và tốt nghiệp bác sĩ y khoa trong nhà trường xã hội chủ nghĩa.

   Sau khi học xong, ra công tác (năm 1963), Trần Văn Lư xin tình nguyện trở về miền Nam tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần vào công cuộc chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đồng chí tham gia phục vụ 8 chiến dịch và nhiều trận đánh lớn ở chiến trường, luôn luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, bám sát đơn vị chiến đấu, kịp thời cứu chữa thương binh ở hỏa tuyến. Trong hoàn cảnh chiến đấu gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, Trần Văn Lư nêu cao quyết tâm phục vụ thương binh, bệnh binh vô điều kiện, nỗ lực khác phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

   Tháng 10 năm 1964, lần đầu tiên Trần Vãn Lư được giao phụ trách tổ phẫu thuật phục vụ trận đánh đồn Gò Dầu. Tuy chưa có kinh nghiệm tổ chức và hoạt động trong chiến đấu, người phục vụ ít, thương binh dồn về nhiều, đồng chí kiên trì động viên đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ, bản thân đồng chí đứng mổ liên tục 1 ngày, 1 đêm, bảo đảm an toàn tuyệt đối các ca mổ.

   Trong chiến dịch Bình Giã, đội phẫu thuật của Trần Văn Lư đi phục vụ một mũi của chiến dịch. Có lúc bị địch cản, đội mất liên lạc với trên, đồng chí cùng 4 y tá, phục vụ hơn 200 thương binh suốt 4 đêm ngày. Đặc biệt có một số ca cấp cứu thương binh nặng vượt quá khả năng của mình, nhưng đồng chí kiên trì tìm mọi cách để cứu sống đồng đội. Ca phẫu thuật một đồng chí bị vết thương ở túi phồng động mạch cổ, khi mổ tới phần trong túi, máu chảy ra nhiều, tưởng như thương binh có thể chết trên bàn mổ, Trần Văn Lư tỉnh táo, bình tĩnh tìm được động mạch, kẹp lại rồi khâu bảo đảm an toàn ca mổ.

   Trong trận Bù Đốp, do yêu cầu cấp bách phải giải quyết tại chỗ, Trần Văn Lư mạnh bạo tiến hành ca mổ cho một đồng chí thương binh vỡ gan 15 cen-ti-mét, thủng 4 lỗ ruột. Suốt 2 giờ liền, đồng chí mổ, khâu gan, cắt nối lại ruột, cứu sống được đồng chí thương binh, được sự tin yêu và cảm phục của toàn đơn vị.

   Có lúc gặp khó khăn thiếu gạo, hoặc trời mưa, không đủ vải ni-lông che, Trần Văn Lư gương mẫu làm trước và vận động anh em nhân viên ăn cháo, nhường gạo cho thương binh, chịu ướt, rét để bảo đảm cho thương binh có vải che mưa.

   Trong cuộc sống, đồng chí có tác phong khiêm tốn, giản dị, chịu khó học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, hết lòng thương yêu đồng đội, giúp đỡ, hướng dẫn những đồng nghiệp, xây dựng phân đội tiến bộ toàn diện.

   Trần Văn Lư đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 10 bằng khen và giấy khen, 3 năm (1964 - 1965 - 1966) là Chiến sĩ thi đua.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967; Trần Văn Lư được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #26 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2012, 09:31:28 am »

ANH HÙNG ĐOÀN HOÀNG MINH



   Đoàn Hoàng Minh (tức Đoàn Văn Tới) sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở xã Hương Mỹ, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ tháng 2 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đổng chí là trung đội trưởng thông tin, bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, ở một địa phương có phong trào cách mạng và kháng chiến cao, Đoàn Hoàng Minh sớm giác ngộ và tích cực tham gia hoạt động ở cơ sở, đấu tranh chống giặc Mỹ và bè lũ tay sai, chống bọn địa chủ ngóc đầu dậy cướp đất của nông dân.    Cuối năm 1959, đồng chí vào du kích, chiến đấu 22 trận, diệt ác ôn, trừ tề điệp, hỗ trợ tích cực cho đồng bào trong xã đồng khởi, giải phóng quê hương. Năm 1961, Đoàn Hoàng Minh vào bộ đội chủ lực được phân công làm chiến sĩ thông tin liên lạc, sau đó được chọn đi học trường huấn luyện kỷ thuật thông tin chiến đấu. Ra trường, phục vụ đơn vị, đồng chí đã tham gia đánh 29 trận lớn nhỏ, luôn luôn tỏ ra một chiến sĩ dũng cảm khác phục khó khăn, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo nghiệp vụ luôn luôn thông suốt, phục vụ đắc lực cho chỉ huy chiến đấu.

   Một lần, Đoàn Hoàng Minh cùng đi trong đoàn gần 100 cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị chiến trường. Sau khi vượt qua những đoạn đường sát đồn bốt địch trên đường số 20, khi đến sông Bé thì nước sông đang dâng lên cuồn cuộn, trong đêm tối không có một chiếc thuyền. Nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường khẩn trương, lúc này gặp nhiều khó khăn chưa có gì khác phục, Đoàn Hoàng Minh xung phong băng sông lặn lội tìm kiếm mang về một chiếc xuồng, sau đó tự tay chèo chống lần lượt đưa hết đoàn cán bộ, chiến sĩ vượt lủ sang sông an toàn, trước trời sáng.

   Phụ trách một tổ thông tin vô tuyến điện, đồng chí cùng anh em trong tổ nhiều lần mưu trí linh hoạt, tìm đặt vị trí có lợi nhất phục vụ đắc lực cho cấp trên nắm chắc tình hình diễn biến khẩn trương, điều động lực lượng chủ động đánh địch giành thắng lợi.

   Đặc biệt, trong 2 trận liền 3 ngày từ 10 đến 12 thang 5 năm 1965, ở Thuận Lợi, tổ thông tin vô tuyến điện của đồng chí có 2 người làm đài liên lạc giữa trung đoàn và các tiểu đoàn, đã bí mật trèo lên chiếm lĩnh một điểm cao đột xuất rất bất ngờ đối với địch ở sát sân bay, ở đó có thể quan sát rộng bao quát toàn khu vực dự kiến tác chiến. Địa điểm rất hẹp, không đủ chỗ ngồi cho 2 người, đặt chân rất vướng, bốn bề nắng chói chang hun nóng, lại rất dễ bị địch phát hiện, nhưng tổ của đồng chí khắc phục khó khăn, nguy hiểm, bám vững ở đó. Sau khi địch đổ quân xuống, trận chiến đấu diễn ra rất ác liệt ngay chung quanh vị trí của tổ thông tin. Có lúc hàng đàn máy bay lên thẳng quần đảo, rà sát ngay dưới chỗ các đồng chí đang nép mình, đạn bay chéo qua trên đầu, bom nổ dưới chân.

   Trong tình huống như vậy, Đoàn Hoàng Minh kịp thời báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn nhiều tin tức quan trọng để cấp trên ra mệnh lệnh cho bộ binh, pháo binh diệt nhiều địch mới đổ xuống. Có lần, phát hiện 1 đại đội địch hoảng loạn đang rút về phía tây sân bay, đồng chí thấy tình huống rất khẩn trương, phải giải quyết thật nhanh, nên qua làn sóng điện, Đoàn Hoàng Minh vừa báo cáo về sở chỉ huy trung đoàn, vừa đề nghị thẳng với tiểu đoàn ở gần đấy nhất vận động kịp thời đến, nên đã diệt gọn đại đội này trong vòng 7 phút. Đến ngày thứ 3, lúc trận đánh đang diễn biến mau lẹ, quan sát thấy quân địch đang rút vào khu rừng cao su, đồng chí vừa báo cáo về trung đoàn, vừa đề nghị một cánh quân của ta đánh vào bên sườn và một đơn vị khác vòng ra lộ khóa đuôi, diệt gọn bọn địch này.

   Liền trong 3 ngày đêm, trụ bí mật trên "điểm cao" theo dõi, nắm chắc tình hình địch vận động như nhìn trên bàn cờ, Đoàn Hoàng Minh báo cáo kịp thời, chính xác tình hình và truyền đạt mệnh lệnh của trung đoàn chỉ huy tiến công, bao vây, chặn địch, truy kích, bắn súng cối đúng mục tiêu, diệt gọn 1 tiểu đoàn địch trong trận chặn viện ở Thuận Lợi. Có lần máy liên lạc bị hỏng, Đoàn Hoàng Minh bàn bạc cùng đồng chí tổ viên bí mật lợi dụng đêm tối vượt qua nhiều chỗ địch bố trí, trở về sở chỉ huy lấy máy khác lên vị trí tiếp tục nhiệm vụ.

   Sau trận chiến đấu, Đoàn Hoàng Minh bị cảm nắng, khắp mình tê dại, nhưng đồng chí vẫn vui vẻ vì tổ thông tin đã giữ vững làn sóng điện phục vụ liên tục cuộc chiến đấu thắng lợi giòn giã.

   Đoàn Hoàng Minh nêu cao tinh thần quên mình vì nhiệm vụ, sẵn sàng vượt mọi khó khăn, không kể ntruy hiểm đến tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ phục vụ chiến đấu thắng lợi, luôn luôn đoàn kết thương yêu đồng đội, gương mẫu, khiêm tốn, được cấp trên tin tưởng, đồng đội mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 6 bằng khen, 8 giấy khen, là Chiến sĩ thi đua trung đoàn, Dũng sĩ Quyết thắng.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Đoàn Hoàng Minh được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.




ANH HÙNG NGUYỄN VĂN MỐT



   Nguyễn Văn Mốt sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Thới Trung, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 1 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đoàn 149, Cục hậu cần Miền, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sớm giác ngộ cách mạng, Nguyễn Văn Mốt tham gia hoạt động bí mật ở thành phô Sài Gòn, đến tháng 7 năm 1960 cơ sở bị lộ, đồng chí được tổ chức cho thoát ly. Sau một thời gian, bị địch bắt, đồng chí tìm cách trốn thoát và sau đó được điều lên công tác tại khu căn cứ và được giao nhiệm vụ quân lương, vận tải lương thực, thực phẩm. Nhận công tác mới, gặp nhiều khó khăn, lúng túng, đồng chí luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, tìm nhiều biện pháp tốt hoàn thành nhiệm vụ, khi đánh địch để bảo vệ tài sản, kho tàng của cách mạng, thì tỏ ra dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, lập công xuất sắc.

   Trong công tác, Nguyễn Văn Mốt tìm cách cải tiến để hợp lý hóa động tác, đỡ lãng phí thời gian và sức người. Hàng ngày, đồng chí tranh thủ mọi lúc chuẩn bị sẵn sàng tranh, tre, lạt, cây cột để khi làm kho là có đủ, khỏi mất thời gian chờ đợi, rút ngắn thời gian làm kho xuống còn 1, 2 ngày. Khi chuyển hàng, mặc dù ít người, phải đảm bảo mỗi đêm từ 80 đến 100 xe, nếu gặp trời mưa, mỗi người chỉ vận tải được 25 đến 30 ki-lô-gam lương thực, Nguyễn Văn Mốt nghĩ cách cải tiến mang vác và tìm ra con đường mới vừa gần, vừa khô ráo, dễ đi, nên đưa năng suất vận chuyển lên 120 ki-lô-gam/chuyến, đảm bảo vượt mức kế hoạch vận chuyển.

   Trong lúc giữ kho, đồng chí không quản ngại nắng, mưa thường xuyên kiểm tra, ngăn chặn kịp thời mối mọt, chuột bọ phá hoại. Nguyễn Văn Mốt thường nghĩ: "Đây là tài sản của cách mạng, người giữ kho phải biết bảo vệ cho tốt, để phục vụ bộ đội được đầy đủ". Khi kho bị máy bay địch oanh tạc, đồng chí không sợ hy sinh, vượt qua lửa đạn, xông vào cứu kho, đồng thời động viên anh em phải bám chắc lấy kho, phải bảo vệ kho. Nguyễn Văn Mốt đào hào giao thông tránh máy bay oanh tạc ở ngay tại kho để khi ngớt bom lại tiếp tục công tác và nhanh chóng sửa chửa lại kho tàng. Việc làm gương mẫu của đồng chí lôi cuốn anh em trong đơn vị làm theo, nên mỗi khi ngớt bom đạn, kho vẫn giao hàng kịp thời cho các đơn vị.

   Ngày 22 tháng 6 năm 1966, địch cho máy bay đánh phá khu vực kho rồi bất ngờ đổ xuống 2 tiều đoàn hòng phá hoại căn cứ hậu cần của ta. Mặc dù hầu hết anh em chưa trải qua chiến đấu, nhưng đồng chí bình tĩnh, mưu trí phán đoán các hướng tiến công của địch, căn cứ vào kế hoạch tác chiến, bố trí các tổ chiến đấu. Nguyễn Văn Mốt đi sát các tổ, động viên anh em kiên quyết bám địch, đánh địch, bảo vệ kho tàng. Suốt cả ngày 23 tháng 6, tiểu đội Nguyễn Văn Mốt đã kiên cường chiến đấu đánh lui 8 đợt xung phong của địch, bảo vệ được kho, diệt được nhiều địch. Đến ngày 24 tháng 6, tiểu đội Nguyễn Văn Mốt được lệnh rút, nhưng lúc đó địch lại mở đợt tiến công mới, đồng chí động viên 11 anh em trong tiểu đội quyết tâm chiến đấu đánh lui 4 đợt tiến công của địch, diệt 30 tên, phá hủy 1 đại liên. Đến chiều, đồng chí đã cùng một tổ bí mật ở lại bám địch, chờ cho địch kéo vào cách 20 mét, mới nổ súng. Bị đánh bất ngờ, địch chết nhiều, phải dùng máy bay lên thẳng đến chở xác. Sau khi địch rút, đồng chí và tổ lạị xông lên cứu chữa kho, thu nhặt tài sản.

   Nguyễn Văn Mốt luôn luôn gương mẫu đi đầu trong mọi mặt công tác và chiến đấu, nêu cao tinh thần không ngại gian khổ, khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, dũng cảm, mưu trí đánh địch bảo vệ kho tàng, tài sản của cách mạng. Đồng chí vui vẻ, cởi mở và thương yêu đồng đội nên được anh em trong đơn vị và khách hàng tin yêu, quý mến.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 12 giấy khen, 4 năm liền là Chiến sĩ thi đua và Dũng sĩ diệt Mỹ cấp I.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Văn Mốt được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #27 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2012, 04:06:36 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN ĐỨC NGHĨA



   Nguyễn Đức Nghĩa, sinh năm 1945, dân tộc Kinh quê ở xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 7, trung đoàn 16 bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Đồng chí vừa là một chiến sĩ bộc phá xuất sắc, vừa là một chiến sĩ xung kích dũng cảm, mưu trí, táo bạo, cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh địch trong công sự vững chắc, nhiều trận tập kích với quy mô lớn. Trong tình huống chiến đấu gay go, Nguyễn Đức Nghĩa dũng cảm, mưu trí tìm cách vượt qua khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Cuối năm 1964, trong trận đầu đánh quân địch ở trong công sự vững chắc, đồng chí dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh bộc phá, phá thong cửa mở, sau đó tiếp tục cùng tổ xung kích đánh mạnh, thọc sâu, tạo điều kiện cho đơn vị đánh nhanh, diệt gọn đồn địch.

   Đầu năm 1965, đánh chi khu của địch ở Tây Nguyên, tuy đồng chí đã bị thương nhưng vẫn bình tĩnh, dũng cảm vượt qua lưới lửa của địch, nhiều lần xông vào đánh bộc phá, mở được cửa mở cho đơn vị tiến lên diệt địch. Mặc dù bị sức ép của bộc phá làm chảy máu, Nguyễn Đức Nghĩa vẫn cùng tổ xung kích tiếp tục lao vào chiến đấu cho đến khi tiêu diệt toàn bộ quân địch.

   Trong một trận khác, đơn vị đang gặp khó khăn ở cửa mở vì địch ngoan cố dùng hỏa lực đại liên kiềm chế mạnh, ngăn chặn xung kích của ta, đồng chí kịp thời phát hiện và báo cáo với ban chỉ huy xin lên diệt hỏa điểm địch. Được lệnh, đồng chí dũng cảm mưu trí tìm cách đến gần tiêu diệt hỏa điểm lợi hại của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị tiến lên diệt gọn đồn địch, giảm bớt được thương vong cho đồng đội.

   Trận đầu đánh Mỹ ở Chà Dơ (Dương Minh Châu - Tây Ninh), trong 2 ngày 8 và 9 tháng 11 năm 1966, Nguyễn Đức Nghĩa chỉ huy trung đội chặn đánh một cánh quân Mỹ tiến công vào trận địa. Tuy địch đông gấp bội và có máy bay, pháo binh đánh phá rất ác liệt mở đường, đồng chí vẫn bình tĩnh đến từng công sự động viên anh em chờ địch đến thật gần mới nổ súng, đánh lui nhiều đợt xung phong của địch. Trận đánh kéo dài 2 ngày, Nguyễn Đức Nghĩa động viên anh em lấy súng địch để tiếp tục chiến đấu. Riêng đồng chí bò dưới làn đạn địch, cướp được khẩu đại liên bắn diệt hàng chục tên, góp phần đánh lui nhiều đợt tiến công của địch. Trung đội Nguyễn Đức Nghĩa đã cùng toàn trung đoàn đánh quỵ lữ đoàn 196 Mỹ, diệt trên 800 tên, góp phần đánh bại cuộc càn lớn của Mỹ vào vùng căn cứ kháng chiến.

   Nguyễn Đức Nghĩa là một cán bộ gương mẫu, luôn luôn nêu cao ý chí quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn, hết lòng thương yêu, giúp đỡ đồng đội, chú ý xây dựng phân đội trưởng thành toàn diện, được anh em yêu mến, tín nhiệm.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 5 bằng khen và được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp II.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Đức Nghĩa được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG PHẠM ĐÌNH NGHIỆP



   Phạm Đình Nghiệp, sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nhập ngũ tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là đại đội phó đại đội đặc công bộ đội địa phương tỉnh Quãng Ngãi, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Được sự giáo dục của cán hộ cách mạng và gia đình (cha va mẹ đều là đảng viên), Phạm Đình Nghiệp rất thiết tha với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với lòng yêu nước nồng nàn đó, đồng chí tham gia hoạt động ở cơ sở, góp phần diệt tề, phá ấp chiến lược, giải phóng nhân dân.

   Vào bộ đội, từ năm 1962 đến năm 1966, Phạm Đình Nghiệp tham gia chiến đấu 30 trận, tự tay diệt và bắt sống 79 tên giặc, thu 33 khẩu súng các loại, đánh hỏng một xe M.113. Đồng chí có quyết tâm chiến đấu rất cao, dám xả thân mình để cứu đồng đội, trận đánh nào cũng tỏ ra ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, xử trí linh hoạt những tình huống khó khăn, đảm bảo đơn vị đánh thắng.

   Trận Bến Thóc (xã Đức Thọ, huyện Mộ Đức), ngày 5 tháng 2 năm 1964, tuy địch đông gấp nhiều lần, Phạm Đình Nghiệp và anh em trong tổ vẫn quyết tâm tập kích. Bò tới cách địch 10 mét, đồng chí một tay lựu đạn, một tay thủ pháo ném liên tiếp vào quân địch, phối hợp với anh em tiêu diệt một số tên giặc ngay từ phút đầu. Đang đuổi theo tốp địch trước mặt, chợt thấy phía sau có 1 tên giặc cầm trung liên, Phạm Đình Nghiệp định bắn nhưng súng hết đạn. Đồng chí nhanh trí hô nghi binh, đồng thời ra hiệu cho tổ trưởng vòng sau lưng diệt tên này, lấy súng địch tiếp tục chiến đấu. Kết qua chỉ có 4 người đã tiêu diệt gọn 2 trung đội biệt kích địch, riêng đồng chí giết chết 8 tên, bắn bị thương 6 tên, bắt sống 2 tên, thu 8 khẩu súng, 1 máy bộ đàm.

   Đêm 15 tháng 1 năm 1965, đánh địch ở Liên Trì (huyện Bình Sơn), Phạm Đình Nghiệp chỉ huy tiểu đội diệt Sở chỉ huy địch. Sau khi dẫn tiểu đội bí mật vào cách địch 20 mét, Phạm Đình Nghiệp cùng một đồng chí nữa luồn qua toán lính gác, dùng bộc phá, lựu đạn, tiêu liên đánh mạnh từ trong ra. Lúc này đồng đội bị thương, lại chưa bắt được liên lạc với anh em bên ngoài, nhưng khi nghe thấy bọn địch trao đổi, nói lộ mật khẩu, đồng chí bình tĩnh mưu trí, dùng mật khẩu của địch để tiến gần chúng, diệt hết toán này đến toán khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ tiến vào. Trận này, tiểu đội của đồng chí diệt gọn 1 trung đội địch, thu nhiều súng, đạn.

   Đêm 28 tháng 11 năm 1965, đánh đồn Đầu Voi (xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh) ở trên đồi cao, dốc đứng, Phạm Đình Nghiệp bình tĩnh, lên xuống nhiều lần theo con đường độc nhất mà địch thường báo động bắn ra, dẫn từng chiến sĩ vào vị trí chiến đấu. Khi ta nổ súng, địch đối phó mạnh. Phát hiện 2 khẩu trung liên bắn ra cửa mở, đồng chí dùng lựu đạn diệt ngay rồi cùng anh em đánh thẳng vào sở chỉ huy. Phạm Đình Nghiệp nhanh như sóc, lúc nhặt lựu đạn địch ném trở lại, diệt địch dưới chiến hào, lúc dùng tiểu liên quét bọn đang nhốn nháo chạy trên sân. Sau 20 phút chiến đấu, trung đội của đồng chí diệt 75 tên và 1 sở chỉ huy đại đội địch. Riêng đồng chí diệt 17 tên, thu 7 khẩu súng (có 1 súng cối, 1 đại liên).

   Đêm 12 tháng 9 năm 1966, đánh trận Núi Giàng (cách quận lỵ Đức Phổ 1 ki-lô-mét về phía đông bắc), Phạm Đình Nghiệp dẫn một tổ đột phá đi trước cắt rào, gỡ mìn, rải lộ tiêu rồi đưa đơn vị bí mật tới bố trí sát hàng rào thứ nhất. Đồng chí bắn một phát B.40 làm cho hỏa lực chính của địch tê liệt ngay từ phút đầu, rồi nhanh chóng chỉ huy các tổ đánh vào sở chỉ huy, khu điện đài và trận địa pháo binh địch. Chỉ trong 7 phút, trung đội của đồng chí hoàn toàn làm chủ trận địa, tiêu diệt 6 trung đội địch, thu 85 súng các loại, phá hủy 2 khẩu pháo 105 mi-li-mét, 2 đại liên, 2 kho đạn, phá tan 10 lô cốt, 2 hầm ngầm.

   Phạm Đình Nghiệp thường xuyên sâu sát chiến sĩ, tận tình giúp đỡ đồng đội, tranh thủ mọi thời gian để huấn luyện đơn vị, gương mẫu chấp hành chính sách dân vận, chính sách chiến lợi phẩm, phát huy bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng, được đồng đội và đồng bào tin yêu, mến phục.

   Phạm Đình Nghiệp đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, là Chiến sĩ thi đua liền 2 năm 1965 - 1966.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Phạm Đình Nghiệp được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #28 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2012, 04:09:06 pm »

ANH HÙNG ĐINH NGHÍT


   Đinh Nghít, sinh năm 1941, dân tộc Hrê, quê ở xã Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi, nhập ngũ tháng 10 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội phó thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 20, Quân khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Nhà nghèo, cha mất sớm, lại được cách mạng giáo dục và giác ngộ, Đinh Nghít hiểu rõ nhiệm vụ thiêng liêng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tố quốc. Năm 17 tuổi, đồng chí bắt đầu tham gia kháng chiến, trước làm giao liên, rồi vào du kích, sau lên bộ đội huyện. Từ tháng 10 năm 1961, Đinh Nghít chuyển về tiểu đoàn 20 trực thuộc Quân khu 5.

   Đồng chí đã chiến đấu 59 trận, diệt 38 tên giặc, thu 25 súng các loại, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, phá hủy 1 xe vận tải. Những lần được giao nhiệm vụ số 1 trong tiểu đội bộc phá hoặc nhiệm vụ xung kích bám giữ đầu cầu, hoặc nhiệm vụ đánh thọc sâu, Đinh Nghít đều nêu cao tinh thần bình tĩnh, dũng cảm, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ, lập công xuất sắc, tạo thuận lợi cho đơn vị diệt gọn cứ điểm địch, hạn chế thương vong.

   Tháng 1 năm 1965, đánh đồn Ruộng Khoai (Sơn Hà), khi dẫn tiểu đội bộc phá bí mật lọt vào đồn địch thì có lệnh nổ súng, đồng chí vừa đánh bộc phá mở đường, vừa tiến công mãnh liệt, diệt gọn bọn lính gác, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị xung phong trong 5 phút đã hạ xong đồn, cả tiểu đội không ai bị thương vong.

   Tháng 2 năm 1965, Đinh Nghít chỉ huy tiểu đội đánh chặn đầu 1 đại đội địch trên đường từ Hà Thành đi đèo Eo Gió. Bất ngờ, địch chia làm 2 cánh hành quân băng ruộng tiến vào. Đồng chí linh hoạt chỉ huy tiểu đội chặn đánh cả 2 cánh quân, buộc cả đội hình địch phải nằm phơi giữa ruộng, để đơn vị nổ súng xung phong tiêu diệt gọn cả đại đội địch, thu 47 súng (có 7 trung liên).

   Tháng 4 năm 1965, đánh đồn Hòa Một lần thứ nhất, Đinh Nghít dũng cảm dẫn đầu tiểu đội đánh thọc sâu, góp phần đác ỉực cùng đơn vị tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch.

   Tháng 12 năm 1965, đánh đồn Hòa Một lần thứ hai, Đinh Nghit làm nhiệm vụ mở cửa ở hướng đột kích chủ yếu, vừa mới bí mật mở được một lớp rào thì có lệnh nổ súng, Đinh Nghít lập tức chỉ huy tiểu đội đánh bộc phá liên tục, nhanh chóng mở thông cửa mở. Địch tập trung hỏa lực bắn chặn, đồng chí liền cùng các tổ viên công kênh nhau vượt hào sâu lút đầu người, rộng 2 mét rưỡi, dùng lựu đạn diệt bọn địch đang dựa vào bờ thành đối phó quyết liệt với ta. Tuy bị thương ở mặt và đùi, Đinh Nghít vẫn tiếp tục chiến đấu, thừa thắng xông lên cắm cờ trên nóc lô cốt, cùng đơn vị nhanh chóng tiêu diệt cả đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí, giải phóng hoàn toàn xã Tịnh Giang. Trận này, riêng đồng chí diệt 10 tên địch, bắt 1 tên, thu 5 súng, được binh công đầu.

   Tháng 2 năm 1966, đánh đồn Hùng Vờ lần thứ hai, tiểu đội của Đinh Nghít lại được giao nhiệm vụ mở cửa và sau đó chuyển sang xung kích. Giữa lúc trận chiến đấu còn đang diễn ra quyết liệt ở cửa mở, địch điên cuồng phản kích lại ta, đồng chí dẫn đầu tiểu đội, cơ động sang hướng khác, lợi dụng lỗ tường thủng, xông thẳng vào đồn địch, đánh chiếm lô cốt, diệt bọn giặc đang chạy hỗn loạn trên sân và trong các hào giao thông, phối hợp chặt chẽ với đơn vị đang đánh mạnh ở hướng chủ yếu, tiêu diệt toàn bộ quân địch.

   Ngoài thành tích chiến đấu, Đinh Nghít còn tích cực, góp nhiều công trong các công tác vận chuyển, tăng gia sản xuất. Đồng chí hết lòng thương yêu đồng đội, bao giờ cũng nhận phần việc khó khăn, vất vả về mình. Trong hoàn cảnh thiếu thốn ở chiến trường, có quần áo mới, đồng chí nhường cho anh em, bản thân chỉ mặc đồ cũ vá lại. Có lần đi trinh sát, một đồng chí bị vướng mìn địch, Đinh Nghít cõng đồng đội bị thương suốt 4 ngày liền đưa về tới đơn vị.

   Đinh Nghít là một chiến sĩ xuất sầc toàn diện, gương mẫu chấp hành các chính sách dân tộc, thương binh, liệt sĩ, được đồng bào các dân tộc và đồng đội rất tin yêu, mến phục.

   Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, là Dũng sĩ Quyết thắng cấp ưu tú, Dũng sĩ diệt máy bay, Dũng sĩ diệt cơ giới.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Đinh Nghít được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN VIẾT PHONG



   Nguyễn Viết Phong, sinh năm 1945, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Thủy, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là xã đội trưởng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Nguyễn Viết Phong sống dưới ách kìm kẹp của Mỹ -ngụy, tận mắt chứng kiến tội ác của chúng đối với đồng bào, trong gia đình có cha bị giặc bắt mang đi biệt tích và anh hy sinh trong chiến đấu, đồng chí mang nặng lòng căm thù địch. Năm 16 tuổi, được cán bộ hướng dẫn, đồng chí bắt đầu hăng hái tham gia kháng chiến. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, Nguyễn Viết Phong luôn luôn nêu cao dũng khí tiến công, chiến đấu vô cùng gan dạ, mưu trí, lập nhiều thành tích xuất sắc, góp phần tích cực đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh của địa phương.

   Nguyễn Viết Phong đã chiến đấu 45 trận, diệt 112 tên địch (có 34 tên Mỹ), cùng anh em đánh sập 2 trụ sở xã, 3 chiếc cầu xe lửa, 12 cột điện cao thế, phá hủy 10 xe quân sự, thu nhiều vũ khí, tài liệu.

   Nhiệm vụ đầu tiên Nguyễn Viết Phong được giao là bí mật theo dõi tình hình địch, rải truyền đơn, tổ chức cơ sở... Khi vào đội du kích, đồng chí đã cùng anh em liên tiếp diệt tề, trừ gian và đến tháng 7 năm 1964 phát động nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, giải phóng toàn xã Mỹ Thủy, xây dựng chính quyền và các đoàn thể cách mạng. Được bổ sung vào tổ biệt động của huyện, đồng chí nhiều lần cùng tổ đột nhập vùng địch kiểm soát giữa ban ngày, cảnh cáo, bắt đi cải tạo, trừ diệt hàng trăm tên tề, điệp, ác ôn, khiến giặc rất hoang mang, khiếp sợ.

   Đầu năm 1965, Nguyễn Viết Phong phụ trách trung đội du kích của xã, thường xuyên bám sát cơ sở, đánh địch trên các trục đường giao thông, đồng thời vận động nhân dân góp tiền nuôi quân, giúp đỡ bộ đội và các cơ quan tỉnh, huyện, vận chuyển lương thực, thực phẩm lên căn cứ.

   Trưa ngày 18 tháng 4 năm 1965, sau trận đánh vào trụ sở xã, đồng chí cùng tổ phục kích trên đường, diệt 3 xe GMC, 7 tên địch (có 5 tên Mỹ). Gần 1 giờ sau, 5 xe bọc thép cùng 2 đại đội lính ngụy đến tiếp viện, chiếc xe đi đầu bị trúng mìn nổ tan xác, chết 9 tên giặc. Đây cũng là trận đánh phủ đầu ngay khi bọn lính thủy đánh bộ Mỹ mới đặt chân tới Phú Bài, có ảnh hưởng chính trị rất lớn vào các thành phố Huế, Đà Nẵng.

   Tháng 5 năm 1965, anh ruột Nguyễn Viết Phong là xã đội trưởng xã Mỹ Thủy hy sinh trong một trận chống càn. Sáng sớm ngày 13 tháng 7 năm 1965, 2 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ có máy bay lên thẳng yểm hộ lại càn vào ấp 5, xã Mỹ Thủy. Đồng chí cùng 2 tổ viên đang trên đường công tác lập tức triển khai chiến đấu. Đợi địch đến chỉ cách 10 mét, Nguyễn Viết Phong mới ra lệnh đồng loạt nổ súng, giết chết một số tên. Địch cậy đông, vây ba mặt ép lại, nhưng chúng liên tiếp bị đánh bật ra. Đồng chí linh hoạt chỉ huy anh em nhanh chóng cơ động, khi trên đồi cao, khi dưới mương cạn, dũng cảm quần nhau với địch. Một tổ viên bị hóc súng phải về phía sau, một đồng chí nữa bị thương rồi hy sinh, tuy còn một mình, Nguyễn Viết Phong vẫn kiên quyết chặn đánh địch suốt đến buổi chiều, diệt 25 tên Mỹ. Trận đánh này của các đồng chí đã mở đầu cho phong trào "tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt" trong toàn huyện và các đơn vị bạn.    Trong đợt hoạt động từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 9 năm 1966, Nguyễn Viết Phong chỉ huy chiến đấu 7 trận, diệt 18 tên địch (có 14 tên Mỹ). Có trận, đồng chí cùng 2 tổ viên táo bạo ra giữa đường số 1 chỉ cách đồn địch 200 mét, phục kích 1 chiếc xe "gíp", diệt 2 tên sĩ quan Mỹ. Có trận, đồng chí tổ chức đánh mìn trên đường phố, diệt 6 tên Mỹ đi trên xe. Trận khác, Nguyễn Viết Phong và anh em trong tổ cải trang đến gần vị trí địch, diệt bọn lính gác cổng rồi xộc thẳng vào trong, đánh lên các tầng lầu, giặc không kịp trở tay đối phó. Với lối đánh dũng cảm, tài trí, đồng chí đã làm cho kẻ thù liên tiếp bị phục kích, tập kích trên các đường giao thông và cả trong căn cứ, nhiều cầu xe lửa bị đánh sập, nhiều ô tô bị phá hủy. Giặc Mỹ vì hoảng hốt, tinh thần bạc nhược, mà bắn nhầm nhau.

   Đồng chí còn rất chú trọng xây dựng đội du kích làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh ở địa phương, được nhân dân hết lòng thương yêu, giúp đỡ.

   Nguyễn Viết Phong đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì và 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 năm là Chiến sĩ thi đua của tỉnh.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Viết Phong được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #29 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2012, 04:21:10 pm »

ANH HÙNG TỪ VĂN PHƯỚC



   Từ Văn Phước (tức Từ Văn Phao), sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Chuân, huyện Thuận An, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 9 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung đội trưởng trinh sát đặc công quận Lái Thiêu (Thủ Dầu Một), đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, ý chí quyết thẳng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước luôn luôn là động lực thúc đẩy Từ Văn Phước chiến đấu lập công.

   Thời kỳ còn ở địa phương, đồng chí hoạt động trong tổ chức tự vệ bí mật, làm các công tác: thông tin, dẫn đường đưa đón cán bộ, tham gia phá ấp chiến lược. Từ năm 1963 đến đầu năm 1967, Từ Văn Phước đã chiến đấu 37 trận, diệt 266 tên địch (có 105 tên Mỹ), bắt sống 6 tên, diệt 14 xe cơ giới, đánh sập 2 cầu, 4 công sở ngụy quyền.

   Năm 1964, chấp hành nhiệm vụ luồn sâu phá ấp chiến lược, đồng chí đả cùng cán bộ địa phương vào hoạt động ở vùng yếu xã An Thạnh, suốt nửa tháng trời ăn cơm vắt, ban ngày nằm hầm bí mật, tối đến lại đi bắt mối xây dựng cơ sở, phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh trừ diệt bọn ác ôn và giải tán các tổ chức chính trị phản động. Kết quả, ấp chiến lược đã bị phá, địa phương được giải phóng, có điều kiện xây dựng đội du kích bám trụ hoạt động, phong trào ngày một lên cao.

   Lần khác, Từ Văn Phước dẫn một tổ vào vùng yếu xã Tân Ba hoạt động, do không có cơ sở quần chúng, nên gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, đồng chí đã động viên anh em trong tổ giữ vững quyết tâm, tích cực điều tra, nghiên cứu tình hình, tìm cách đánh địch. Sau một thời gian ngắn, bằng những hoạt động nhỏ lẻ, tổ đồng chí đã giết chết và làm bị thương 19 tên địch, số sống sót co lại, sau phải rút chạy. Từ đó, thế kìm kẹp của địch bị phá vỡ, cơ sở địa phương được xây dựng, phong trào quần chúng có bước phát triển mới.

   Tháng 11 năm 1965, giặc Mỹ huy động lực lượng lớn có cả không quân, pháo binh và cơ giới mở cuộc càn vào khu vực Thuận Giao. Từ Văn Phước đã hướng dẫn đồng đội cơ động chiến đấu theo địa đạo bám sát địch, dũng cảm chiến đấu, tiêu diệt lính bộ binh và xe bọc thép của chúng. Khi được lệnh rút quân, do địa đạo bị xe tăng địch đè sập nhiều đoạn, bịt mất lối đi, đồng chí phải kiên trì dùng tay moi đất để mở lối. Nhiều đoạn gặp rễ cây, đồng chí phải dùng dao cắt dần từng chút một. Suốt mấy tiếng đồng hồ kiên trì mở lối trong địa đạo, thiếu không khí, thiếu ánh sáng, phía trên thì xe cơ giới địch liên tiếp gầm rú, đồng chí có lúc mệt lả, ngất đi, khi tỉnh dậy lại tiếp tục làm nhiệm vụ. Cuối cùng, Từ Văn Phước đã mở được lối thoát thông lên mật đất, chỉ cách bọn lính Mỹ có 10 mét và đưa được tất cả anh em về vị trí an toàn.

   Năm 1966, Từ Văn Phước nhiều lần đi nghiên cứu thực địa, tổ chức những trận gài mìn phá đường giao thông của địch, hoặc đánh úp bọn lính Nam Triều Tiên; có trận, Từ Văn Phước cải trang làm dân thường, bất ngờ diệt địch ngay trên những đoạn đường trống trải.

   Tháng 2 năm 1967, đổng chí dẫn một số anh em lọt vào vùng Bình Nhâm, đào hầm bí mật, bám sát địch trong ngót một tuần lễ, sau đó đánh liên tiếp 2 trận phá vỡ kế hoạch bình định của chúng.

   Trải qua chiến đấu trên chiến trường trọng điểm bình định của địch, Từ Văn Phước luôn luôn nêu cao ý thức phục vụ nhân dân và tinh thần cách mạng tiến công "tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt", bển bỉ, kiên trì khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu dũng cảm, sáng tạo, góp phần làm thất bại âm mưu bình định của kẻ thù, xây dựng địa phương trở thành ngọn cờ đầu của phong trào diệt Mỹ trong toàn quân khu miền Đông Nam Bộ.

   Từ Văn Phước đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, là Chiến sĩ thi đua 2 năm 1965 - 1966, 17 lần đạt các danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt cơ giới, Dũng sĩ Quyết thắng.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Từ Văn Phước được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.





ANH HÙNG NGUYỄN VĂN QUANG



   Nguyễn Văn Quang (tức Sên), sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Phước Lai, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, nhập ngũ tháng 10 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là tiểu đội trưởng đại liên thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 445, bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

   Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo khổ, Nguyễn Văn Quang phải đi ở cho địa chủ ngay từ bé, sống cuộc đời vô cùng cơ cực. Cha, mẹ và chị gái đồng chí đã bị bọn thực dân Pháp bắn chết.

   Căm thù sâu sắc bọn đế quốc, phong kiến, năm 1960 dồng chí trốn khỏi nhà địa chủ để đi theo cách mạng. Năm 1964, đồng chí xung phong vào lực lượng vũ trang để được trực tiếp cầm súng giết giặc đền nợ nước, trả thù nhà.

   Nguyễn Văn Quang tham gia chiến đấu 20 trận (tính đến khi tuyên dương). Là một xạ thủ súng máy, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần gan dạ, chủ động tiến công rất mãnh liệt, tiêu diệt địch, thu vũ khí, chi viện cho đồng đội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nguyễn Văn Quang đã diệt được 180 tên địch (có 73 lính Mỹ và 25 lính Úc), diệt 1 xe M.41 và 1 xe quân sự địch, thu 27 súng các loại và 2 máy thông tin.

   Trong trận An Ngãi (tháng 5 năm 1965), khẩu đội súng máy của Nguyễn Văn Quang có nhiệm vụ bảo vệ sườn và chi viện cho đơn vị đánh chia cắt đội hình địch. Khi chiến đấu, đội hình địch lại tiến thẳng về hướng khẩu đội. Đồng chí cùng đồng đội dũng cảm đánh trả địch, sau loạt đạn đầu diệt 4 tên, đồng chí xông lên thu 1 trọng liên và 1 máy thông tin. Khẩu đội tiếp tục chi viện cho đơn vị đánh tan cuộc hành quân của địch.

   Trận Đá Giàng (tháng 1 năm 1966), được lệnh đi phục kích, Nguyễn Văn Quang cùng đồng đội khẩn trương chuẩn bị và hăng hái hành quân suốt hai ngày đêm liền tới vị trí tập kết. Được lệnh nổ súng, đổng chí nhanh chóng vận động lên trước, đặt súng bắn diệt một số tên địch và chỉ huy đồng đội xông lên lấy được 2 khẩu trung liên. Bọn bộ binh địch cụm lại ngoan cố chống cự, làm cho đội hình đơn vị ùn lại, Nguyễn Văn Quang ôm nòng súng xông lên trước, nhưng đồng chí vác chân đại liên chưa lên kịp, Nguyễn Văn Quang đã kê nòng đại liên vào cây bắn diệt 15 tên, kịp thời chi viện cho đồng đội tiến lên diệt địch và thu được 3 trung liên. Trận chiến đấu vẫn tiếp diễn, khẩu đại liên bắn nhiều bị đỏ nòng, Nguyễn Văn Quang liên tiếp sử dụng 3 khẩu trung liên lấy được của địch tiếp tục chiến đấu, góp phần cùng đơn vị hoàn thành thắng lợi trận đánh.

   Trận đánh chống càn tại Sông Cầu (tháng 5 năm 1966), bọn địch bắn pháo dữ dội vào khu vực, sau đó cho máy bay lên thẳng đổ 2 tiểu đoàn quân Mỹ xuống đi càn quét. Tuy khẩu đội đại liên còn bố trí ở xa, nhưng khi được lệnh, đồng chí cùng đồng đội lập tức rời công sự, vận động trên địa hình trống dưới làn đạn của địch. Bọn địch phát hiện ta trước, ồ ạt xông tới, Nguyễn Văn Quang bình tĩnh đặt súng bắn quyết liệt quét diệt nhiều tên địch, bọn còn lại tháo chạy về phía sau. Trận chiến đấu vẫn diễn ra gay go, quyết liệt, khẩu đội bị thương vong chỉ còn lại hai người, rồi sau chỉ còn lại một mình đồng chí. Bị địch đánh cả hai phía, nhưng Nguyễn Văn Quang vẫn kiên cường đánh lui 8 đợt tiến công của địch, đến khi súng hết đạn, còn dùng lựu đạn tiếp tục chiến đấu rồi tìm đường rút về đơn vị an toàn.

   Trong trận phục kích xe địch ở Cà Mum (tháng 4 năm 1967), do địa hình khó khăn, đồng chí trèo lên một cây cao chờ địch. Hai xe địch (1 xe M.41 và 1 xe "gip") dừng lại sát nhau cách đồng chí 40 mét. Bất chấp nguy hiểm phía sau 2 chiếc xe địch đang kéo tới, đồng chí bắn 1 phát B.40 diệt cả 2 xe rồi nhanh chóng tụt xuống cùng tổ rút về an toàn.

   Trong mọi mặt công tác, đồng chí luôn luôn gương mẫu đi đầu, đoàn kết, thương yêu, tận tình giúp đỡ đồng đội trong lúc thường củng như khi chiến đấu nguy nan.

   Nguyễn Văn Quang đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 3 lần Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, 3 lần Dũng sĩ Quyết thắng cấp ưu tú, 1 lần là Dũng sĩ diệt cơ giới, 2 năm liền (1965 -1966) là Chiến sĩ thi đua.

   Ngày 17 tháng 9 năm 1967, Nguyễn Văn Quang được Ủy ban trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM