" Nếu một mai anh chiến thắng trở về , đôi vai gày và đôi mắt sâu , tóc đã điểm bạc , làn da nay rám màu sương giớ ..ơ ..ớ ..ơ " Đây là lời bài hát được cho là bôi xấu hình ảnh người lính khi trở về nên cấm lính không được hát . Ông chính trị viên đấy cũng không ngờ chỉ vài năm sau mình cũng trở về với hình ảnh còn tệ hơn người lính trong bài hát , không bằng cấp ,không nghề nghiệp , không vốn liếng , không có mối quan hệ xã hội . Những kỷ năng , kinh nghiệm giết người , bảo toàn mạng sống không làm ra cơm gạo để nuôi thân . Ông ấy cũng như bao thằng lính khác phải lao vào trận chiến mới cũng không kém phần gian khổ ác liệt : mưu sinh kiếm sống .
Người lính trở về với đời thường lăn lộn đã vài mươi năm vẫn không thoát được kiếp sống của dân nghèo thành thị hoặc chân lắm tay bùn bữa đói bữa no ở nông thôn .
Những người một thời dọc ngang oanh liệt , xem cái chết nhẹ như lông hồng từng được xã hội tôn vinh giờ đây chỉ là những chiếc bóng còm cỏi bên lề đường chờ khách đi xe ôm hoặc cày thuê cuốc muốn nơi 1 vùng quê nào đó .
Vẫn biết thành công là 99% cần cù lao động cộng 1 % may mắn nhưng cái may mắn đó sao ít rơi vào người lính trở về xã hội quá . Cũng có thể ngày xưa ông trời đã dành 1% may mắn đó cho người để còn sống trở về , sài hết vốn rồi bây giờ kêu trời trời không nghe .
Đây, tôi xin tham gia với bạn Haanh một bài bên M&H "Những mẫu chuyện về đồng đội cùng sư đoàn"
Phạm Minh Thuyết (phó chính uỷ trung đoàn 266) Phó chính uỷ Phạm Minh Thuyết sinh năm 1939, nhập ngũ 1958, quê Nghi Lộc Nghệ An.
Sinh ra, lớn lên từ vùng quê nông nghiệp anh có sức khoẻ cường tráng hơn người. Nhập ngũ trong kỳ đầu tiên của lính nghĩa vụ quân sự, thời đó được tuyển chọn sức khoẻ rất chu đáo nhưng trình độ văn hoá có chiếu cố phần nào. Khi vào lính anh chỉ học hết tiểu học. Quá trình trong quân ngũ anh được bồi dưỡng thêm mọi mặt trong đó có học thêm văn hoá đến hết lớp 7 bổ túc. Các năm huấn luyện xây dựng thời bình tác phong người lính chính quy bám theo anh hàng ngày. Tuy cố gắng rèn luyện mình một cách nghiêm túc nhưng bản năng người nông dân vẫn lấn át quá nhiều làm anh mặc dù tự rèn mình có lúc thái quá vẫn không thể chuẩn mực hơn đồng đội khác. Bù lại tính anh chất phác, thật thà, thẳng thắn và chân thành nên dễ mến, dễ gần anh em cấp dưới. Văn hoá không cao nhưng chữ anh viết rành rọt, cân đối, không liến láu. Nghe nói những người có chữ viết như vậy thường có cuộc sống nội tâm chân thành và trung thực.
Năm 1974 với quân hàm đại uý anh về nhận chức phó chính uỷ trung đoàn 266. Khi vào Nam chiến đấu anh được phong hàm thiếu tá. Quân hàm thiếu tá thời ấy với anh đã là nhanh và “oai” lắm rồi. Trong trận đánh Xuân Lộc Long Khánh anh rất xông xáo. Khi bộ đội tác chiến phía trước, tại sở chỉ huy trung đoàn anh cũng la hét, nhắc nhở om sòm. Trung đoàn trưởng Nguyễn Quang Thuật cũng quân hàm thiếu tá thấy vậy nhìn anh trừng trừng rồi buông một câu: “ Cái anh phó chính uỷ này…muốn thay trung đoàn trưởng chắc!” Như sực nhớ ra mình hơi quá đà anh cười trừ thay cho lời xin lỗi người chỉ huy cùng cấp. Mọi chuyện lại trở về đâu vào đấy.
Trong cuộc chiến ở biên giới Tây Nam anh bám đơn vị, cũng lăn lộn cùng các đại đội chiến đấu phía trước rồi chạy về phía sau lo toan chu đáo chính sách thương binh, liệt sỹ. Khi chính uỷ Nguyễn Tấn Miên lên làm chủ nhiệm chính trị sư đoàn, anh được giao nhiệm vụ chính uỷ trung đoàn 266. Đầu năm 1979 chiến tranh biên giới phía Bắc bùng nổ, anh lại được điều động ra chiến trường mới đánh Trung Quốc xâm lược. Ý định lúc đầu là thành lập Quân Đoàn 65 chuẩn bị cho cuộc chiến đánh Trung Quốc xâm lược dài dài nhưng tình thế đã đổi khác, Phạm Minh Thuyết được giải quyết chính sách nghỉ hưu khi vừa đủ 25 năm tuổi quân (1983), với hàm trung tá.
Lớn lên đi lính, hết lính về nhà, nghề nghiệp không biết làm gì ngoài công việc cày cấy. Ruộng đất vùng Nghi Đức nhập vào thành phố Vinh không còn được bao nhiêu, anh trở thành người thất nghiệp. Tiền hưu lúc đó không đủ mua gạo cho vợ con. Buôn bán không phải nghề của anh mặc dù cố gắng rất nhiều, anh không nói được lời tráo trở khi tiếp xúc với người mua, người bán. Anh đánh liều vác bị đi xin cấp trên. Năm 1986 khi từ trường Quân chính QK4 ở Huế về BTL QK4 ở Nam Đàn học tập nghị quyết về khởi xướng đường lối đổi mới của Đảng, tôi gặp anh. Anh mang một bộ quần áo bốn túi vải Sănggai bạc màu, rách gấu, sờn tà, đầu đội nón, chân đi đôi dép rọ bộ đội màu nâu mòn vẹt gót, quai dép chằm vá bằng những sợi dây vải đủ màu. Nhìn anh tiều tuỵ, lôi thôi đến phát ghét(!)
Tôi mời anh vào phòng chúng tôi ở, hỏi hết chuyện gia đình và tình cảnh éo le của anh. Anh than vãn rất nhiều về mình. Nhìn anh chúng tôi vừa thương, vừa dận. Dận anh, dận cả chúng tôi vì chẳng làm được gì giúp anh và tự giúp cả chính mình.
Bẵng đi một thời gian khi tôi đã nghỉ hưu làm trưởng ban LLTT sư đoàn 341-Hà Tĩnh, liên hệ được với nhiều người mới phát hiện ra rằng anh đã chết năm 1992 lúc 53 tuổi. Anh chết vì trèo lên mái nhà lợp ngói Proximen, ngói nứt vỡ, rơi từ trên mái ngói xuống nền nhà. Bị chấn thương nặng rồi anh mất sau đó ít lâu.
Được tin QĐ4 có chủ trương hổ trợ tiền làm nhà cho những đồng chí trước đây đã từng chiến đấu trong đội hình Quân đoàn là cán bộ từ cấp tiểu đoàn và tương đương trở lên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Báo cáo hoàn cảnh Phạm Minh Thuyết hơi muộn vì cứ nghĩ rằng Ở Nghệ An đồng đội chúng tôi đã đề nghị cho anh. Nhưng may thay khi đặt vấn đề của anh với QĐ4 thì đồng chí tư lệnh Quân đoàn chuẩn bị bàn giao đi nhận nhiệm vụ mới nhưng hứa sẽ cố gắng khi đang có thể. Bằng sự nhiệt tình và uy tín của mình, đồng chí Nguyễn Tấn Miên nhờ Trần Đức Bành ra tại quê chụp hình ngôi nhà Phạm Minh Thuyết đưa vào QĐ xin được hổ trợ. Thế là một quyết định hổ trợ tiền làm nhà tình nghĩa cho Phạm Minh Thuyết được Đảng Uỷ BTL QĐ4 chấp thuận.
Phạm Minh Thuyết không còn nữa. Bà Lê Thị Vân (vợ đồng chí Thuyết) sống trong ngôi nhà tình nghĩa do QĐ4 và đồng đội trao tặng chưa được hai năm, đã qua đời. Hưởng chút tình nghĩa của đơn vị và anh em đồng đội chẳng được bao lâu nhưng chúng tôi thấy dù sao cũng đã trọn tình với anh và vợ con anh.
Chắc dưới tận cùng sâu thẳm, vợ chồng anh cũng ngậm cười nơi chín suối.