Chuyện của tôi.(tiếp)
Tối hôm sau tạm biệt gia đình Hạnh và bà con Cự Nẫm chúng tôi hành quân vào Nam. Lại một đêm nữa từ Cự Nẫm chúng tôi được lên xe vân tải quân sự. Gần sáng có lệnh xuống xe, chúng tôi phải hành quân bộ thêm vài ba tiếng nữa, đến một khu rừng già thì dừng lại nơi có đỉnh núi không cao lắm. Tại đây chúng tôi đã nghe rõ tiếng máy bay địch quần đảo trên không và tiếng đạn cối 130 thỉnh thoảng điểm những tiếng ùng oàng. Đồng chí giao liên nói đây là Binh trạm 5. Nghỉ lại 3 ngày ở Binh trạm 5, trời lại đổ mưa. Mưa rừng, những hạt mưa to như hạt ngô rơi từ trên cao xuống. Chúng tôi mắc võng dưới những khóm lồ ô cao vút. Nước mưa theo thân cây lồ ô chảy xuống đầu võng. Có thằng chưa có kinh nghiệm, buộc dây võng vào thân cây, nước theo cây chảy vào võng ướt sũng. Tôi thì may mắn hơn, gặp được chổ của một đồng đội nào đã đi trước, có cọc đóng sẵn, có giá ba lô. Lần đầu tiên nằm võng ở chiến trường. Nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm được cán bộ đi lại kiểm tra, nhắc nhở tuyệt đối không để khói bốc lên. Nghe nói có loai máy bay U Ti Ti (lính ta gọi là Cán Gáo) thường bay là là sát ngọn cây có thể nhìn được cả khăn tay của bộ đội phơi nơi có khoảng không vài ba mét vuông. Vì vậy chổ nào nấu cơm là chổ đó đại đội bố trí sẵn vài đồng chí cầm cành cây đứng cạnh, sẵn sàng xua khói nếu thấy bốc lên. Ngày thứ nhất tôi được phân công gác từ 2h đến 3h sáng, gác quanh chổ bộ đội nằm ngủ khoảng dăm chục mét. Trời mưa, đất đỏ loét nhoét bám dính hết cả quần áo, chân tay, tôi bắt đầu thấm thía nổi vất vả, gian khổ của người lính. Tại đây đêm đứng gác đã nghe rõ tiếng động cơ rầm rì, nặng nề trong đêm từ phía trước. Hướng đó là đường mòn Hồ Chí Minh.
Ngày thứ hai tôi và Thành được phân công nấu ăn. Để nấu được cơm ăn chúng tôi phải chặt cây bương to, cắt thành khúc dài khoảng 2m, lộng hết chỉ để một mắt dưới cùng rồi xuống suối lấy nước. Từ chổ đơn vị đóng quân xuống suối lấy được nước cả đi về mất 40 phút. Nước không chỉ nấu cơm còn phải rót cho mỗi người một bi đông. Mỗi phiên nấu ăn chúng tôi phải vác mỗi thằng 3 ống bương nước như vậy.
3 ngày ở Binh trạm những thằng lính mới chúng tôi học được nhiều thứ, Đào lò Hoàng Cầm, cách nguỵ trang nghi binh, che giấu những cặp mặt điện tử của địch. Cách mắc tăng võng, làm giá ba lô, giá dày dép, cách đi không dấu, nấu không khói, nói không to… Đã ở sát chiến trường mọi thứ chúng tôi đều được cán bộ trung, đại đội chỉ vẽ chu đáo.
Chiều ngày thứ ba tiểu đội tôi theo đồng chí giao liên đi tìm rau rừng bởi mấy ngày nay cứ thịt hộp nấu với nước lã ăn nhiều cũng ngán. Đi khoảng 20 phút, lần đầu tiên tôi thấy chiếc máy bay C130 của địch bị ta bắn cháy rơi tại chổ, ngay trên khu đất trồng cây ăn quả của dân. Ngang qua, mùi tanh nồng từ chiếc máy bay bốc lên đến phát lợm. Nghe đồng chí giao liên kể mỗi chiếc C130 có đến 5 thằng ngồi trên đó. Hai tên giặc lái, một tên bắn đại liên, một tên bắn 14,5li, một tên phóng cối 81.
Tại đây rau quả nhiều vô kể, nào là rau tàu bay, rau lang: mít, đu đủ quả sai trĩu cành. Chúng tôi tranh thủ thu hái thật nhiều, ham quá nên được một bữa mang vác nặng đến còng lưng. Tối ngày 5/3/1971 một cuộc hành quân cơ giới nữa lại tiếp tục. Chúng tôi lên xe đi thêm một chặng dài rồi dừng lại ở một khu rừng rộng. Trong khu rừng đó phần lớn hầm trú ẩn, bếp Hoàng Cầm, các thứ khác phục vụ cho sinh hoạt ngủ nghỉ đã được đơn vị đi trước làm sẵn. Chúng tôi phấn khởi ra mặt, cũng vì thế mà có đồng chí trở nên chủ quan. Và vì vậy cái gì đến đã phải đến.