Chuyện của tôi
(Viết theo lời kể của Nguyễn trọng Dũng chiến sỹ c1,d2,e19 sư đoàn 968) Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thạch Linh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Mảnh đất nghèo khó xưa nay. Quê tôi giàu truyền thống cách mạng và hiếu học. Đi học cách trường gần chục cây số. Có hôm Mỹ ném bom nổ chậm khắp nơi, chặn đường bọn học sinh, chúng tôi phải vòng đường khác đi-về. Những năm cả nước đánh Mỹ thanh niên mới lớn như bọn tôi đều hăng hái tòng quân. Tôi học xong lớp 10 người nhỏ thó, gầy nhom, không đủ cân nhập ngũ nhưng thấy chúng tôi tỏ ra quyết tâm quá cán bộ nhận quân đồng ý cho chúng tôi đi.
Tôi nhập ngũ ngày 24 tháng 9 năm 1970. Cùng bọn có cả số học sinh đang học giở lớp 9, lớp 10 của trường Lý Tự Trọng. Vào quân ngũ mang bộ quân phục trông cứ như mang áo tơi, nó rộng thùng thình. Cán bộ không cho sửa vì nếu sửa quần áo chật quá tập quân sự bị gò bó, mau rách. Mang bộ quân phục trên người, trông thằng nào cũng giống như khoác một tấm vải vào người rồi dùng thắt lưng buộc túm lại. Quần áo ôm lấy tấm thân nhỏ thó, ống quần phải cài cúc, tay áo dài lòng thòng phải kéo lên cài cúc, trông thằng nào cũng co rúm như con ếch buộc bụng. Lại còn cái dày không đúng cở, xỏ chân vô dày hình như bàn chân chẳng đụng vào phía nào trong dày cả.. Hôm nào tập ở thao trường gặp mưa to hay phải lội ruộng bàn chân phải mang thêm hai bịch nước nặng như chôn chân dưới sình lầy. Lâu rồi cũng quen, chúng tôi trưởng thành dần lên. Một tháng sau chúng tôi những thằng lính mới to toe ngày nào giờ cũng oai ra phết khi đi trong đội ngũ một, hai đều bước.
Tôi ở trung đội 1 đại đội 6, tiểu đoàn 2 Đoàn 22B Quân Khu 4. Đơn vị huấn luyện ở vùng Cẩm Lạc, Kỳ Tây (Hà Tĩnh). Tôi còn nhớ ngày đó đại đội trưởng là Lê Hải Anh người Thanh Hoá(sau này là trung tướng phó TTMT QĐNDVN) chính trị viên đại đội là đồng chí Nguyễn Văn Viên. Trung đội trưởng của tôi là Nguyễn Hồng Nhạ nghe nói anh Nhạ mới được điều về từ chiến trường B3. Có được người cán bộ đã kinh qua thử thách chiến đấu ở chiến trường chúng tôi càng thêm tin tưởng, kính phục.
Thời kỳ này ở Miền Nam cuộc chiến đấu vẫn diễn ra ngày càng quyết liệt. Ban ngày huấn luyện kỷ chiến thuật, tối về đại đội sinh hoạt nghe đài, đọc báo, theo giõi tình hình thời sự trong nước, thế giới…Giặc Mỹ càng đánh phá miền Bắc nhiều chúng tôi càng nghe tin thời sự về cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam càng thu nhiều thắng lợi. Chúng tôi lại hăng say rèn luyện nhiều hơn ai cũng háo hức nhanh được vào Nam chiến đấu. Vùng rừng núi miền tây Cẩm Xuyên, Kỳ Anh chúng tôi khá thông thạo bởi những cuộc hành quân mang vác nặng. Ban đầu chỉ đi 10, 15km mang vác quân tư trang là chủ yếu nhưng cũng phải đến 30kg. Tuần sau, tháng sau nâng lên dần, đi xa dần mang vác 40, 45kg đi bộ cả ngày cả đêm, có tháng kết hợp đi giả ngoại cả tuần. Mang vác nặng hơn trọng lượng cơ thể nhưng chúng tôi cứ phăng phăng. Phần vì không có cách nào khác, phần vì sự háo hức từ chiến trường đang thắng lớn thúc dục. Bây giờ tuổi già nghĩ lại, không hiểu tại sao thanh niên thời chống Mỹ lại hào hùng đến vậy. Người nhỏ, sức yếu lại có thể vượt qua được những thử thách tưởng chừng không thể đến vậy.
Rồi một ngày cái gì đến sẽ phải đến, chúng tôi có lệnh lên đường vào Nam chiến đấu. Trước khi đi chiến đấu chúng tôi được lên Hương Sơn Hà Tĩnh an dưỡng 20 ngày. Gọi là an dưỡng cho oai thực ra chỉ khác hơn huấn luyện một chút. Buổi sáng ăn một bánh bao không tới một lạng bột mì. Hai bận khác trong ngày mỗi bận ba lạng hai gạo và vài miếng thịt lợn anh nuôi thái mỏng như tờ giấy. Chúng tôi an dưỡng tại xã Sơn Hàm. Ngày đó dân Sơn Hàm nói riêng và có lẽ cả Hương Sơn cũng vậy, rất đói. Hàng ngày bà con phải vào rừng chặt đọt cây Móc về đâm nhỏ ra, ngâm nước rồi gạn lấy bột lắng dưới chậu cho thêm nắm gạo nấu cháo ăn. Sống trong nhà dân mình được ăn như vậy thấy cũng đã ưu tiên lắm rồi. Nghĩ lại một thời quân và dân hy sinh tất cả vì “Không có gì quý hơn đọc lập tự do”, ngày nay đáng lẽ thế hệ ấy cho họ ăn gì, được ưu tiên gì gì đi nữa cũng không xứng đáng với sự hy sinh của họ.
Xong 20 ngày an dưỡng ở Hương Sơn cũng là dịp bước vào Tết Nguyên Đán Tân Hợi (1971) đơn vị chúng tôi lên đường vào Nam. Ngày đầu xuất quân, đi qua phà Linh Cảm sang bến Tam Soa vùng đất Đức Thọ chúng tôi gặp một vị tướng và đoàn tuỳ tùng. Họ bắt tay chúng tôi, chúc chúng tôi vào chiến trường đánh to, thắng lớn. Tôi thật sự cảm kích vì ra đi có một vị tướng đưa tiễn dặn dò bộ đội chu đáo đến như thế. Sau này tôi mới rõ vị tướng đó là Song Hào tư lệnh kiêm chính uỷ QK4.
(Còn tiếp)