Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:38:05 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến - Tập 1 (1945-1954)  (Đọc 113225 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 12 Tháng Tám, 2012, 07:18:57 am »

Sau chiến dịch Hòa Bình, rút kinh nghiệm chiến dịch Trung du và Đồng bằng, Quân đội nhân dân Việt Nam hướng tiếp lên phía Tây Bắc và mở Chiến dịch Tây Bắc, giải phóng toàn bộ Tây Bắc vào năm 1953, mở ra vùng biên giới thông suốt với Thượng Lào. Đó là một trong những tiền đề quan trọng để chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ vào đầu năm 1954.

Bước vào năm 1951, trên chiến trường Nam Bộ, ở nhiều nơi ta cũng mắc sai lầm “ham ăn to, đánh lớn”, tập trung quân chủ lực thành lập trung đoàn, liên trung đoàn, làm lỏng lực lượng địa phương, còn phong trào du kích chiến tranh bị lơ là, sa sút… Tình hình kháng chiến ở Nam Bộ gặp nhiều khó khăn. Cho đến giữa năm 1951, phạm vi chiếm đóng của Pháp đã mở rộng đến mức cao. Hàng nghìn đồn bốt, tháp canh được xây dựng từ đời tướng De la Tour đã được gia cố thêm bằng bê tông cốt thép, tăng thêm hỏa lực, tăng thêm tầm quan sát từ xa.

Tháng 1-1951, tuy Pháp rút bớt 7 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn pháo ở phía Nam để đưa đi yểm trợ cho chiến trường Bắc Bộ, nhưng chúng vẫn tiếp tục đẩy mạnh các cuộc hành quân bình định ở Nam Bộ để thực hiện chủ trương chiến tranh tổng lực. Đặc biệt, chúng xây dựng lực lượng UMDC do Lêon le Roy (đơn vị lưu động bảo vệ Thiên Chúa giáo) ở Bến Tre. Chính lực lượng này đã gây ra nhiều cuộc thảm sát nhân dân ở đây, gây nhiều khó khăn cho phong trào kháng chiến ở Bến Tre.

Để tăng quân số, theo yêu cầu của Pháp, Bảo Đại ra lệnh tổng động viên để bắt thêm lính, tăng quân số ngụy từ 65.000 (1949) lên 110.000 (1951), thành lập được 68 tiểu đoàn các loại. Quân chinh quy (BVN) của ngụy ở Nam Bộ chiếm 24%, 69 khinh binh 21%, quân địa phương vệ binh 82 đại đội, phụ lực quân chiếm 65% quân số (189/433 đại đội cả Việt Nam). Như thế là quân ngụy ở Nam Bộ chiếm tỉ lệ cao so với cả nước. Pháp đã lấn chiếm khống chế vùng đông dân, có nhiều tín đồ theo đạo; “thân binh hóa” số quân do các tôn giáo này nắm,. còn quân Pháp thì được tổ chức thành 2 tiểu đoàn cơ động: Tiểu đoàn 1 (thuộc Binh đoàn BMEO) từ Pháp đưa qua hoạt động ở phia bắc Tiền Giang; Tiểu đoàn 2 (BMEO) hoạt động ở các tỉnh Hậu Giang.

Sau khi bình định lấn chiếm tỉnh Bến Tre và phần lớn hai tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, địch tiếp tục hành quân càn quét ở tỉnh Cần Thơ và Rạch Giá, trọng điểm là hai huyện Châu Thành của hai tỉnh này.

Địch dùng 15 tiểu đoàn càn quét 6 xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ va 3 huyện Long Mĩ, Giồng Riềng và Châu Thành, tỉnh Rạch Giá; đóng lại một số đồn bốt ở các huyện Giồng Riềng, Tri Tôn và Sóc Xoài.

Tình hình chiến sự diễn ra gay gắt. Địch ra sức càn quét lấn chiếm. Ta kiên quyết chống trả, bẻ gãy các cuộc đánh phá của địch, đồng thời thường xuyên tập kích, phục kích, đẩy mạnh du kích chiến tranh, gây cho địch nhiều tổn thất.

Trong thời gian từ giữa tháng 2 đến giữa tháng 5-1951, Bộ Tư lệnh Khu 9 quyết định mở hai chiến dịch Long Châu Hà 2 và Sóc Trăng 2.

- Chiến dịch Long Châu Hà 2, nhằm mục tiêu tiến công chính là hai huyện: Châu Thành và Châu Phú A. Lực lượng ta gồm có 3 tiểu đoàn của Trung đoàn Tây Đô, 2 đại đội địa phương quân của Long Châu Hà, đội biệt động của ban Hòa Hảo vận và các đội du kích tập trung của 3 huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú A. Ban chỉ huy Chiến dịch gồm có: Võ Quang Anh, Tư lệnh phó Quân khu 9 làm Chỉ huy trưởng; Nguyễn Văn Thân, Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Hà làm Chính trị viên, Huỳnh Thủ, Trung đoàn trưởng Tây Đô và Hoàng Thế Thiện, Chính ủy trung đoàn Tây Đô làm Phó chỉ huy trưởng.

Sau 3 đợt tiến công từ ngày 10-2 đến ngày 13-3-1951, với nhiều đợt đánh đồn, phục kích, tập kích, nghi binh và vũ trang tuyên truyền…, ta diệt được hơn 300 tên địch, bắt sống nhiều tên, chiếm 1 đồn, bức rút 2 đồn, phá hủy 4 lô cốt, nhiều tháp canh, thu 2 đại liên, 1 trung liên, 3 tiểu liên, một số sống trường và nhiều đạn. thắng lợi quan trọng về chính trị là ta đã tiến sâu vào vùng sau lưng địch, vùng Hòa Hảo, giải thích cho đồng bào tín đồ hiểu rõ về tính chất của cuộc kháng chiến, về chính sách đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh - Liên Việt và Chính phủ kháng chiến, gây dựng được một số cơ sở dân vận.

Tiếp sau đó, theo sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Nam Bộ, lực lượng của Khu 9 và Khu 8 phối hợp mở tiếp chiến dịch “phá ngụy” ở huyện Phú Châu (Long Châu Sa) ngày 16-3-1951. Sau 7 ngày liên tục hoạt động, ta diệt 150 tên, bắt sống 16 tên, bắn hỏng 2 tàu, thu 5 trung liên, 2 súng cối và nhiều súng trường… Chiến dịch phối hợp này, tuy về quân sự, ta đạt thành tích chưa cao, nhưng về chính trị ta có bước thắng lợi quan trọng là mở được “đột phá khẩu” vào vùng Hòa Hảo, nơi Pháp và bọn tay sai phản động đang kiểm soát, khống chế lâu năm, nơi ta đã tốn nhiều xương máu mà chưa vào được.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 12 Tháng Tám, 2012, 07:20:24 am »

- Chiến dịch Sóc Trăng 2 cũng nhằm tiến vào vùng sau lưng địch, có nhiều “sóc” Khơme, giành lại đồng bào Khơme đã bị Pháp kìm kẹp, mở rộng vùng kiểm soát của ta, củng cố và phát triển thêm cơ sở cách mạng. Địa bàn hoạt động là các huyện Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Long Phú, Châu Thành thuộc tỉnh Sóc Trăng, trọng điểm làm huyện Thạnh Trị. Lực lượng chiến đấu là Trung đoàn Tây Đô cùng quân dp và du kích tại chỗ. Ban chỉ huy chiến dịch gồm: Nguyễn Chánh, quyền Tư lệnh Quân khu 9 chỉ huy trưởng, Huỳnh Thủ và Hoàng Thế Thiện (Trung đoàn Tây Đô) làm Chỉ huy phó và Phan Văn Chiêu, Phó Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng phụ trách chính trị.

Chiến dịch mở màn ngày 13-5-1951, ta đột kích đồn Xã Sang xã Tuân Túc (Châu Thành) đánh thiệt hại nặng đồn chính, diệt 1 lô cốt, tiêu hao một bộ phận địch từ Sóc Trăng vào tiếp viện. Ngày 15-5-1951, ta đánh đồn Xẻo Me (Vĩnh Châu), diệt đồn chính, 4 lô cốt, đánh tiêu hao lực lượng tiếp viện từ Bạc Liêu đến, diệt 2 trung đội địch, phá hủy 7 xe quân sự… Địch điều thêm Tiểu đoàn 2 (BMEO) từ Cần thơ đến ứng cứu và cho máy bay ném bom, bắn phá dữ dội, nhưng quân ta đã phản công, diệt thêm 50 tên địch; ta cũng bị thiệt hại khá nặng, 30 chiến sĩ hi sinh và bị thương.

Trên mặt trận phụ, lực lượng ta còn đánh nhiều trận, diệt nhiều địch, phá lộ, cắt đứt đường giao thông. Một tiểu đoàn địch đi càn ở Phụng Hiệp bị ta diệt 70 tên, bắn rơi 1 máy bay khu trục. Ta còn phối hợp diệt thêm 1 trung đội biệt kích ở Phú Hữu (huyện Châu Thành - Cần Thơ).

Cùng với chiến thắng quân sự, chiến dịch Sóc Trăng 2 còn giành được ảnh hưởng lớn về chính trị trong đồng bào Khơme ở hai huyện Thạnh Trị và Vĩnh Châu, gây được nhiều cơ sở cách mạng trong vùng địch chiếm đóng.

Tiếp sau 2 chiến dịch trên, ngày 31-7-1951, tại thị xã Sa Đéc, viên tướng Chanson (Tư lệnh Pháp ở Nam Bộ) và Thái Lập Thành (Thủ hiến Nam Việt của Chính phủ Bảo Đại) đến dự cuộc duyệt binh đã bị cảm tử quân Phan Văn Út (còn gọi là Út Ngọ, tức Triệu Hoàng Minh) ném lựu đạn. Thái Lập Thành chết tại chỗ, Chanson bị trọng thương và chết sau vài giờ, 4 sĩ quan Pháp bị thương, Phan Văn Út hi sinh.

Điều đặc biệt là sau cơn hoảng loạn, số binh sĩ Pháp còn lại đã tập hợp hàng ngũ, đứng nghiêm để chào hành động anh hùng của một cảm tử quân cách mạng!

Sau tháng 7-1951, Bộ Tư lệnh Nam Bộ quyết định giải thể Trung đoàn Tây Đô, nhưng sau đó không lâu lại thành lập Trung đoàn Cửu Long. Trung đoàn này chưa ổn định, lại có quyết định giải tán theo chủ trương chung của Trung ương Cục là: Bố trí từng tiểu đoàn chủ lực hoạt động ở từng tỉnh cho thích hợp với tình hình chung, đồng thời tăng cường các đơn vị trợ chiến như công binh, pháo nhẹ, đặc công… để phát huy được hiệu quả tác chiến. Trong thời gian này, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Tây cũng được tăng cường: Nguyễn Hữu Xuyến làm Tham mưu trưởng, Hoàng Thế thiện làm Trưởng phòng chính trị, bác sĩ Nguyễn Thiện Thành và Trương Công Trung làm Trưởng và Phó phòng Quân y, Vương Nhị Chi (Nguyễn Văn Trản) làm Trưởng phòng Quân giới Nam Bộ) (lúc này đã sản xuất được nhiều vũ khí mới như DKZ, SKZ..).

Như trên đã nói, cuối năm 1951 là lúc quân đội Pháp đánh chiếm Hòa Bình, thực hiện chiến lược hành lang đông - tây. Ngày 24-11-1951, Ban Chấp hành Trung ương có Chỉ thị về nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch. Trong Chỉ thị này, Trung ương giao nhiệm vụ cho Nam Trung Bộ và Nam Bộ phối hợp với chiến trường chính, hạn chế lực lượng của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ bằng cách phát triển mạnh chiến tranh nhân dân ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Chỉ thị viết:

“Đối với miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ phải tùy hoàn cảnh ở đó, tùy công tác đang tiến hành mà ra sức hoạt động mạnh hơn, nhất là chiến tranh du kích, để tiêu diệt địch và kìm hãm địch không cho chúng điều động ra Bắc Bộ”(1).

Để Nam Bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ phối hợp với chiến trường Bắc Bộ, ngoài việc giao nhiệm vụ, Trung ương cũng đặt vấn đề chi viện cho miền Nam. Ngày 7-12-1951, Ban Chấp hành Trung ương đã có nghị quyết về vấn đề tiếp tế cho miền Nam. Trong Nghị quyết này đã xác định tầm quan trọng của việc tiếp tế cho miền Nam, nhằm tạo điều kiện về vũ khí, cán bộ, tiền bạc để tăng cường hoạt động. Đê thực hiện điều đó, Trung ương yêu cầu:

“Trung ương Cục miền Nam có trách nhiệm coi nhiệm vụ chuyển vận hàng cần thiết cho chiến tranh là một trong những nhiệm vụ chính. Khi có hàng đến phải đôn đốc cho các ban tiếp vận miền Nam chuyển ngay cho kịp thời, khỏi bị hư hỏng. Riêng Nam Bộ, vì đường đi không thuận tiện phải cử người ra Khu V để phối hợp tổ chức việc chuyển vận hàng vào Nam Bộ”(2).


(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.598.
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.600.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Tám, 2012, 03:59:16 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 12 Tháng Tám, 2012, 07:21:42 am »

Bước qua năm 1952, thế giằng co giữa ta và địch càng diễn ra quyết liệt, khắp các tỉnh Phân liên khu miền Tây, quân ta đều lập được chiến công.

Dưới đây là những trận đánh chú ý ở các tỉnh:

- Ở Cần Thơ, đầu năm 1952, Tiểu đoàn 308 diệt hàng trăm tên địch ở Ô Môn và Châu Thành, thu 60 súng các loại.

Giữa tháng 6-1952, Pháp mở cuộc càn quét lớn, lây tên là Zéphyr (Gió hiu hiu) đánh vào vùng Giồng Riềng, Vị Thanh, qua Thới Lai, Ô Môn, bắt và giết 150 cán bộ và dân thường, phá 2 công binh xưởng của ta. Cũng trong thời gian này, 1 đoàn tàu địch 4 chiếc càn quét vào hai huyện Châu Thành và Giồng Riềng. Quân dân Cần Thơ đã dùng thủy lôi diệt 1 tàu và 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 16 BVN để trả thù cho đồng bào ta bị chúng giết hại.

Đêm ngày 16-8-1952, Tiểu đoàn 307 tiến công diệt đồn Bảy Ngàn, trên kinh Xáng Xà No. Đây là trận đầu tiên chủ lực ta đánh công kiên một cứ điểm do 1 đại đội địch chốt giữ, có sĩ quan Pháp chỉ huy. Ta thu trên 100 súng, 2 tấn đạn, bắt sống 95 tên, trong đó có 2 anh em chủ đồn điền Grassier, tịch thu và phân phát cho đồng bào chung quanh hàng chục ngàn giạ lúa. Sau khi khai thác và giáo dục, ta trả tự do cho 95 tù binh (trong đó có 2 người Pháp). Viên chỉ huy Pháp cám ơn bộ đội ta đã khoan hồng thả chúng và chúng càng xúc động khi biết chiến sĩ Tiểu đoàn 307 đã cứu vợ con người Pháp từ trên lầu xuống, vì cầu thang đã bị đánh gãy.

- Tại Vĩnh - Trà, trong 3 tháng cuối năm 1952, bộ đội ta đã đánh giòn giã 60 trận, phá 22 đồn bót, phối hợp nội ứng lấy thêm 10 đồn, diệt 215 tên địch, bắt 111 tên, có 73 tên đầu hàng, thu 5 trung liên, 41 súng trường và nhiều đạn.

Trong hai tháng 8 và 9-1952, bộ đội dùng chiến thuật đặc công phá 12 tàu địch chở quân tại bến Phú Vĩ (thị xã Vĩnh Long), diệt 1 đại đội lính thủy (có 6 sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp). Đặc công tỉnh còn đánh cứ điểm địch tại ngã tư Long Hồ, diệt 1 đại đội Commandos.

Trên mặt trận giao thông lộ 16 B (nay là quốc lộ 1A) từ bến phá Mĩ Thuận đến bến phà Cần Thơ và trên sông Măng Thít, sông Trà Ôn, quân và dân Vĩnh - Trà đã diệt và đánh hỏng 100 xe quân sự, làm hư và chiếm được nhiều tàu địch, đánh hư hỏng 2 phà ở bến Mĩ Thuận. Đặc công thủy đánh sập cầu Nổi của bến phà (Ponton). Địch bị gián đoạn giao thông cả 10 ngày.

Trong 3 tháng cuối năm 1952, lực lượng vũ trang Vĩnh - Trà đánh 60 trận, phá 22 đồn bót, phối hợp nội ứng lấy 10 đồn, diệt 215 tên địch, bắt 111 tên, 75 tên đầu hàng, thu 5 trung liên, 41 súng trường và nhiều đạn.

Phong trào kháng chiến ở Vĩnh - Trà đang vượt qua thế giằng co quyết liệt, tiến lên từng bước mới.

- Tại Sóc Trăng, từ tháng 5 đến tháng 11-1952, Tiểu đoàn 308 phối hợp với lực lượng địa phương đã đánh nhiều trận giòn giã. Trong hai trận ngày 4-5 và đêm 6-5-1952, Tiểu đoàn 308 đã chặn đánh Tiểu đoàn 19 BVN do đại úy Tiểu đoàn trưởng Dương Văn Đức(1), chỉ huy trưởng bảo an binh tỉnh Sóc Trăng chỉ huy vào yểm trợ xây đồn Chắc tức. Ta diệt và bắt sống hầu hết tiểu đoàn này, trong đó có cả Dương Văn Đức. Nhưng vì chiến sĩ ta không biết mặt hắn, nên hắn lợi dụng lúc ta sơ hở trốn thoát. Đầu tháng 9-1952, 1 đại đội của Tiểu đoàn 308 chặn đánh 1 đơn vị địch tại Ngã Năm, diệt 2 trung đội, thu 32 súng (có 2 trung liên và 1 VTĐ). Tháng 11-1952, 1 đại đội khác của Tiểu đoàn 308 diệt 2 xe địch tại Tam Sóc, bắt 14 tên, thu 12 súng. Trong số bị bắt có đại úy Nguyễn Văn Hoành, chỉ huy bảo an tỉnh Sóc Trăng và thiếu úy Bùi Quang Việt, tình báo. Qua khai thác ta bắt được nhiều cơ sở gián điệp của địch cài vào vùng độc lập của ta…

Cũng trên chiến trường Sóc Trăng, ngày 6-7-1952, 2 tiểu đoàn địch có xe lội nước và máy bay yểm trợ càn quét vào vùng Long Mĩ, bị lực lượng của 2 tiểu đoàn 307 và 410 chặn đánh ở Giồng Sao. Trận đánh kéo dài suốt ngày; đến tối, địch kéo quân qua Trà Bang Nhỏ, đóng tại Trà Kết, bị Tiểu đoàn 308 tập kích diệt 2 đại đội…

- Tại Long Châu Hà, tháng 3-1952, địch dùng 3 tiểu đoàn Âu - Phi đánh vào Ba Chúc để yểm trợ cho bọn đóng đồn và tiến công vùng căn cứ của ta ở Bảy Núi. Lực lượng vũ trang của ta phục kích diệt gần hết 1 đại đội Lê Dương tại Cầu Sắt Vĩnh Thông, bẻ gãy cuộc càn quét của địch. Ta còn tiến đánh đồn Phổ Đà, phá thế bao vây vùng Ba Chúc…

- Ở Bạc Liêu, lực lượng vũ trang của ta phát triển khá tốt, tỉnh có thêm 1 đại đội cơ động. Các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Cà Mau mỗi nơi đều có 1 đại đội địa phương quân, riêng An Biên có 1 trung đội.

Tiểu đoàn 307 đã phối hợp với địa phương đánh diệt 100 tên ở Lai Hòa và phá hàng chục xe quân sự của địch. Đại đội địa phương huyện Giá Rai đã phối hợp với đại đội cơ động của tỉnh diệt đồn Cây Giang và đồn Cầu Sập cùng nhiều tháp canh trên lộ Đông Dương 16 từ Bạc Liêu đi Cà Mau.

Đội vũ trang tuyên truyền của ta trừng trị viên thiếu tá Trương Văn Xương giữa ban ngày ngay tại thị xã Bạc Liêu, làm cho bọn ác ôn tại đây phải khiếp đảm…

Ngày 19 tháng 2 năm 1952, địch mở trận càn “Gió lốc 2” vào chiến khu Đồng Tháp Mười với lực lượng 3.000 quân, 75 xe lội nước, 29 tàu. Trong trận càn “Gió lốc 2”, quân và dân Đồng Tháp Mười đã đánh địch suốt 17 ngày đêm liền, diệt gần 800 tên, bắn chìm ba tàu, ba xe lội nước(2).


(1) Ngày đó, Tiểu đoàn 19 là tiểu đoàn nòng cốt của BVN. Mặc dù thua trận nhưng nếu sống sót trở về đều được cho lên chức, không kể ngụy hay Pháp. Sau trận này, Dương Văn Đức được phong thiếu tá. Sau theo Ngô Đình Diệm thì lên tới cấp tướng, mở chiến dịch Đinh Tiên Hoàng thời chống Mĩ.
(2) Lịch sử kháng chiến chống Pháp, sđd, t.IV, tr. 212.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:05:00 pm »

2. Tiếp tục xây dựng vùng căn cứ cách mạng, tăng cường công tác mặt trận, bồi dưỡng sức dân

Tây Nam Bộ trở thành “thủ đô kháng chiến” của Nam Bộ

Trước năm 1949, các cơ quan đầu não của Nam Bộ như Trung ương Cục, Ủy ban kháng chiến hành chánh và các sở, ngành… đóng ở Đồng Tháp Mười. Nhưng từ cuối 1948 trở đi, được Mĩ viện trợ loại xe lội nước M113, Pháp đã tổ chức những mũi tiến công vào Đồng Tháp Mười, đặt trước các cơ quan đầu não của Nam Bộ nguy cơ bị bao vây và tiến công. Đồng Tháp Mười lại quá gần Sài Gòn và cũng không đủ rộng để đảm bảo an toàn. Trong khi đó, ở miền Tây Nam Bộ, tình hình khả quan hơn. Như đã nói ở trên, sau những trận đánh thủy lôi để phá các tàu chiến Pháp, thì con đường thủy để đánh vào khu căn cứ miền Tây không còn dễ dàng thuận tiện như trước, trong khi đường bộ đã bị cắt gần hết thì việc địch tổ chức càn quét ở miền Tây không còn dễ dàng. Ta đã hình thành được một vùng căn cứ địa rất rộng. Trên cơ sở đó, Xứ ủy Nam Bộ quyết định dời toàn bộ các cơ quan của Nam Bộ về khu rừng U Minh thuộc miền Tây. Từ giữa và cuối năm 1949, các cơ quan nặng và đông người đi trước, như: Đài tiếng nói Nam Bộ, Xưởng vô tuyến điện, các nhà in, Binh công xưởng, các Sở Thông tin, Sở Giáo dục, Viện Văn hóa kháng chiến… Đến cuối năm 1949 thì các cơ quan Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ di chuyển tiếp. Các vị lãnh đạo của Ủy ban như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Ung Văn Khiêm đã tới “thủ đô mới” vào đầu năm 1950.

Vùng giải phóng Tây Nam Bộ lúc này gồm một phần tỉnh Cần Thơ, một phần tỉnh Rạch Giá, một phần tỉnh Sóc Trăng và phần lớn tỉnh Bạc Liêu (lúc này Bạc Liêu bao gồm cả Cà Mau coi là một quận). Ở đây quân dân ta đã đắp các cản đất rất chắc chắn trên các cửa sông, chặn tất cả các ngõ. Tàu địch muốn vào được vùng này thì trên mỗi dòng sông phải phá ba, bốn cái cản, mà ở những chỗ đó thì rất dễ bị tập kích và chạm thủy lôi. Do đó xe lội nước M113 không phát huy được nhiều tác dụng ở vùng này, lại do nước thủy triều lên xuống rất nhanh, mực nước chênh lệch 1-2m nên tàu xe rất khó hoạt động. Đặc biệt là ở các rừng được, khi nước rút thì hệ thống rễ cây chặng chịt đã tạo thành một phòng tuyến dày đặc cản phá những mũi tiến công của xe M113. Còn máy bay thì từ trên cao không nhìn qua được các tán rừng. Vả lại, quân Pháp cũng không đủ máy bay để lùng sục tất cả một vùng rộng lớn này, trong khi phải tập trung phần lớn máy bay cho chiến trường miền Bắc.

Các cơ quan của Nam Bộ đóng ở vùng U Minh Thượng, sau đó dần dần dời chuyển về U Minh Hạ. Cơ quan đều ở nhà dân để tránh lộ mục tiêu đối với máy bay địch. Mỗi nơi chỉ ở một vài tháng, sau đó lại di chuyển đi nơi khác. Các cơ quan nặng như nhà in, binh công xưởng, đìa phát thanh, dân y viện… thì ở sâu trong rừng để ít phải di chuyển. Nhờ đó, suốt mấy năm không có cơ quan nào bị máy bay địch đánh trúng. Các địa danh mà các cơ quan Nam Bộ đã đóng tương đối lâu là Rạch Bà Đặng, Thới Bình, Tân Bằng, Cán Gáo, Biện Nhị Huyện Sử, Chắc Băng, Khánh An, Khánh Lâm, Khánh Bình, Phó Sinh.

Ở U Minh Hạ thì có các địa điểm Giáp Nước, Đầm Cùng, Quảng Phú, Thứ Vải, Rau Dừa, Cái Nước, Phú Mĩ, Tân Hưng Đông, Tân Hưng Tây, Tân Duyệt, Tân Đức, Tân Hòa, Cái Ngay, Thanh Tùng, Bầu Sen, Bà Hính, Cái Keo, Cái Bát, Rạch Cui, Rạch Giá…

Như vậy là từ đây, các khu căn cứ của miền Tây Nam Bộ không chỉ là nơi đóng quân của các bộ phận chỉ đạo quân, dân, chính, đảng của địa phương (khu, tỉnh), mà còn là nơi đóng các cơ quan đầu não của Xứ ủy, Ủy ban kháng chiến hành chánh, có các Sở Ngân khố, Sở Thu thuế, Sở Ngân sách, Sở Canh nông, Sở Y tế, Sở Thương binh, Sở Thông tin… Từ năm 1953 thì các sở liên quan đến kinh tế được tập hợp lại thành Ban Kinh tài Nam Bộ, do Ung Văn Khiêm làm Trưởng ban. Sau đó các cơ quan bên chính quyền đã sáp nhập với Văn phòng Trung ương Cục miền Nam thành Văn phòng Trung ương Cục, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ.

Khi các bộ phận đầu não của Nam Bộ đặt căn cứ tại miền Tây cũng là lúc kinh tế, chính trị và quân sự có những chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt. Do đó vùng căn cứ này đã trở nên sôi động hơn nhiều, mà một số anh em lúc đó thường gọi là “rừng U Minh tỏa sáng”. Đó là nhờ các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền, các cơ quan văn hóa như Viện Văn hóa Nam Bộ, Sở Giáo dục, Sở Y tế, với các trường học, bệnh viện, với các đoàn văn công, văn nghệ, các cán bộ tuyên truyền, giáo dục… hoạt động sôi nổi trong dân chúng, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của khu căn cứ nói chung và đời sống của nhân dân đã có nhiều cải thiện lớn.

Ông Nguyễn Trung Tín, một cán bộ của Văn phòng Trung ương Cục thời đó hồi tưởng lại: “Vùng tự do miền Tây hội đủ những điều kiện để xây dựng căn cứ địa an toàn lâu dài, vì có một vùng giải phóng rộng lớn, liên hoàn trên địa bàn các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu và tiếp giáp vùng giải phóng Đông Nam Campuchia, có hậu cứ vùng U Minh che chở, có trên một triệu dân cư, phân bổ đều các tuyến sông ngòi kinh rạch chằng chịt, với một vùng kinh tế nông lâm hải sản hong phú, đảm bảo cho việc xây dựng bổ sung lực lượng kháng chiên, đó là chỗ dựa vững chắc của căn cứ địa trong lòng dân”(1).


(1) Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi kí kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 531.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:05:44 pm »

Đẩy mạnh công tác tôn giáo vận ở Long Châu Hà

Trong thời gian ngắn này, gắn liền với các hoạt động vũ trang, công tác vận động đồng bào tôn giáo cũng được tăng cường. Tỉnh ủy và Mặt trận Liên Việt Long Châu Hà đã mở hội nghị đại biểu các tôn giáo: Hòa Hảo, Cao Đài, Công Giáo, Tin Lành, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo (cả 2 phái Đại thừa và Tiểu thừa) để cùng nhau trao đổi về vấn đề dân tộc và tôn giáo.

Nhiều vị chức sắc, linh mục, mục sư, sư sãi… đã bày tỏ thái độ chân thành đối với kháng chiến, đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc của Chính phủ Cụ Hồ. Nhiều vị đã thắng thắn tố cáo những âm chia rẽ và hành động tội ác của thực dân Pháp và bọn tay sai đội lốt tôn giáo.

Sau Hội nghị, nhiều vị đã tham gia vào các đoàn công tác thâm nhập vào đồng bào tín đồ các tôn giáo, kêu gọi mọi người tùy sức mình mà tham gia kháng chiến, ủng hộ kháng chiến ở các huyện Châu Phú A, Châu Thành, Long Xuyên, vùng Cái Dầu và ven thị xã Châu Đốc.

Từ đó, các cơ sở kháng chiến, các đội du kích mật được hình thức và phát triển, nhất là ở Định Mĩ, Phú Hòa, Mĩ Thới, Cần Đăng, Mĩ Đức, Vĩnh Thuận Trung… Nhiều chi bộ đảng lần lượt ra đời ở đây… Tên tuổi và uy tín của Sư thúc Hòa Hảo Huỳnh Văn Trí (Mười Trí) càng lan rộng. Bọn phản động trong đạo Hòa Hảo phải run sợ (Hái Ngoán tức Lâm Thành Nguyên, một chỉ huy của đơn vị quân đội Hòa Hảo phản động, hằng đêm phải trốn về thị xã ngủ…).

Tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất

Thực hiện chủ trương của Trung ương, trong 6 tháng đầu năm 1951, Tây Nam Bộ tiến hành cuộc vận động điền chủ hiến điền (lúc đó gọi điền chủ hiến điền là điền chủ khai minh). Phong trào yêu nước hiến điền đã diễn ra nô nức. Điền chủ trong vùng giải phóng hầu hết hưởng ứng tốt chủ trương hiến điền, tạo thêm quỹ đất cho nông dân.

- Tỉnh Rạch Giá, trong 6 tháng đã có 37 người hiến 2.785 ha ruộng đất, sau đó nâng lên 11.000 ha. Tỉnh Cần Thơ nhận được 50.000 ha ruộng hiến (trong đó có 20.000 ha đất hoang hóa). Tỉnh Bạc Liêu nhận được 8.263 ha. Tỉnh Sóc Trăng nhận 15.000 ha… Cuộc vận động hiến điền còn kéo dài đến năm 1953. Ngoài ra, chính quyền cách mạng còn tịch thu thêm ruộng đất của Pháp và Việt gian mà trước đây chưa nắm hết. Riêng Cần Thơ tịch thu thêm 25.000 ha, Sóc Trăng thêm 27.000 ha.

Cũng trong năm 1951, ta tiếp tục tạm cấp ruộng đất thêm cho nông dân chưa có đất hoặc còn thiếu đất canh tác và thực hiện giảm tô, giảm tức. Tỉnh Bạc Liêu tạm cấp cho nông dân vùng ta kiểm soát đến ven thị xã là 120.000 ha (chưa kể 2 huyện Phước Long và An Biên). Tỉnh Cần Thơ cấp được 45.000 ha. Tỉnh Sóc Trăng cấp 45.000 ha… Ngoài ra, hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng còn tạm giao cho nông dân 29.000 ha ruộng đất của điền chủ vắng mặt.

Tính chung đến tháng 6-1951, Phân liên khu miền Tây đã tạm cấp 171.051 ha cho 262.818 nông dân làm chủ.

Việc cấp ruộng đất được thực hiện ở cả vùng tranh chấp, nhưng nhiều nhất là ở vùng giải phóng miền Tây. Ở nhưng nơi này xuất hiện tầng lớp trung nông mới làm ăn khấm khá và gắn bó với cách mạng. Như vậy, đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, Nam Bộ đã thực hiện xong về cơ bản chủ trương “người cày có ruộng”.

Vào cuối năm 1953, những thông tin về phát động quần chúng cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc dội đến Nam Bộ và ít nhiều có kích thích xu hướng tả khuynh. Ở một vài nơi cán bộ địa phương cũng máy móc tổ chức đấu tố địa chủ. Trung ương Cục đã kịp thời ngăn lại không cho làm. Trong việc này, tư duy độc lập của Lê Duẩn có một ý nghĩa quan trọng.

Chính sách ruộng đất đúng đắn đã đưa đến kết quả là vừa nâng cao tinh thần cách mạng của nông dân, vừa đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết nông thôn và cũng tác động tốt đến thành thị. Đó là phong cách độc lập, sáng tạo của Nam Bộ (trong đó có ý kiến của Lê Duẩn, như đã nói ở trên). Đó cũng là vốn chính trị quý giá để lại ở Nam Bộ sau tập kết.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:06:14 pm »

Phong trào thi đua sản xuất

Thi đua sản xuất gắn liền với thi đua giết giặc lập công được phát động mạnh hơn từ tháng 4-1951 ở Tây Nam Bộ.

Riêng tỉnh Bạc Liêu năm 1948, nông dân đã thu hoạch được 4.600.000 giạ lúa (92.000 tấn), dư 2.500.000 giạ (bằng 50.000 tấn) bán cho Nhà nước. Năm 1950, các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá đều dồi dào lương thực. Ngoài sản lượng lương thực tăng nhanh, các ngành nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, khai thác thủy sản, trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, trồng bông, dệt vải, trồng mía làm đường, khai thác rừng, hầm lò than, làm muối ngày thêm phát triển (trước khi phát triển ở Cà Mau - Bạc Liêu, nay mở rộng ra một số tỉnh cả Trà Vinh, Hà Tiên). Các ngành nghề thủ công lần lượt được khôi phục và phát triển, đáp ứng được một phần nhu cầu về mặc cho nhân dân (khoảng 10%).

Ngày 3-7-1951, theo chỉ thị của Trung ương Cục, Tây Nam Bộ thành lâp nhiều đoàn kiểm tra về các tỉnh để phát triển canh nông và đẩy mạnh kinh tế ở nông thôn. Để thúc đẩy sản xuất, một số tỉnh còn cho nông dân vay vốn để phát triển sản xuất. Bạc Liêu trong hai năm 1951 - 1952 đã cho nông dân vay 26.000.000 đồng. Cần Thơ cho vay 36.000 giạ lúa. Sóc Trăng cho vay 39.280 giạ. Hai tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng còn cho vay với lãi suất thấp. Riêng với đồng bào Khơme, thay vì cho vay tiền mặt, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ còn quyết định giảm 50% mức thuế nông nghiệp phải nộp cho Nhà nước.



Một xưởng dệt ở miền Tây

Năm 1952, miền Tây nhận được sự chỉ đạo của Trung ương về chính sách kinh tế mới. Nội dung chính sách mới gồm 3 điểm chỉnh:

- Vận động phát triển sản xuất, bồi dưỡng sức dân.

- Thu thuế nông nghiệp lũy tiến bằng lúa, nuôi quân đánh giặc.

- Mở lại giao lưu kinh tế với vùng tạm chiếm, cho phép nhân dân đi lại mua bán với vùng tạm chiếm và thu thuế xuất nhập thị bằng tiền Đông Dương Ngân hàng.

Chính sách kinh tế mới đưa về những chuyển biến ngoạn mục chỉ trong vòng một năm. Sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sông trong vùng giải phóng được cải thiện rất nhanh, nhà nào cũng lúa đầy bồ và nộp thuế nông nghiệp đầy đủ. Giao lưu với vùng tạm chiếm được khôi phục, dân mang nông sản ra bán ở các chợ thị trấn, nhất là chợ Cà Mau. Các chợ trong vùng giải phóng như chợ Thới Bình, chợ Huyện Sử, chợ Cái Nước… hoạt động trở lại. Ghe chở hàng bách hóa bán dọc theo sông rạch, tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng chấm dứt. Các trạm thu thuế xuất nhập thị đặt trên các ngả ra, vào vùng địch tạm chiếm hoạt động ngày đêm.

Một trong những nội dung của chính sách kinh tế mới là mở rộng giao lưu kinh tế xuất nhập khẩu giữa hai vùng: Vùng ta và vùng địch tạm chiếm. Đời sống của nhân dân vùng độc lập của ta càng được cải thiện rõ rệt. Chẳng những đời sóng vật chất mà đời sống tinh thần (với sự phát triển văn hóa, giáo dục, y tế) cũng thêm phong phú, vui tươi, an ninh trật tự xã hội được ổn định… sức đóng góp người, của cho kháng chiến ngày một gia tăng.

Ngày 15-7-1951, Chính phủ ta ban hành điều lệ tạm thời về thuế nông nghiệp. Nông dân Tây Nam Bộ hưởng ứng rất tích cực.

Riêng tỉnh Bạc Liêu, trong năm đầu, nông dân tổ chức từng đoàn xuồng ghe, băng cờ, khẩu hiệu, đánh trống múa lân, đưa hơn 600.000 giạ lúa (12.000 tấn) đến các kho lúa của Chính phủ. Năm 1952, Bạc Liêu thu thuế được 800.000 giạ (16.000 tấn). Cần Thơ thu 700.000 giạ (14.000 tấn). Ngoài ra, còn đóng 98.400 giạ đảm phụ kháng chiến và 900.000 đồng (bạc Cụ Hồ) cho ngân quỹ kháng chiến. Năm 1953 - 1954, thuế nông nghiệp thu được nhiều hơn, gấp 2, 3 lần so với năm trước. Cần Thơ 1.800.000 giạ, Sóc Tăng 1.750.000 giạ, Bạc Liêu hơn 2.000.000 giạ…

Việc thu ngân sách của các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Trà ngày càng tăng. Nhiều tỉnh đóng góp nhiều tiền Đông Dương Ngân hàng cho Nam Bộ.

Với thuế nông nghiệp thu bằng lúa, thuế xuất nhập thị thu bằng tiền Đông Dương Ngân hàng, cộng với đồng tiền kháng chiến (bạc Cụ Hồ) do Nam Bộ phát hành, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ đã bảo đảm được hậu cần cho toàn Nam Bộ và còn viện trợ tài chính cho lực lượng Issarak ở Campuchia.

Cũng trong khi đó, miền Đông Nam Bộ vừa bị địch bao vây, chia cắt, vừa bị thiên tai (bão lụt 1952) nên Tây Nam Bộ đã tổ chức nhiều đoàn vận chuyển tiếp tế lương thực cho Đông Nam Bộ để vượt qua cơn hiểm nghèo.

Năm 1952 - 1953, để phá hoại kinh tế tiền tệ ta, Pháp tung bạc giả, loại giấy 100 đồng “bạc Cụ Hồ”, nhiều nơi chúng cho không những người ra vào mua bán giữa vùng ta, vùng tạm bị chiếm. Thậm chí, chúng còn dùng máy bay rải bạc giả vào vùng ta, nhằm làm cho đồng bạc của ta mất giá, kinh tế - tài chính của kháng chiến bị kiệt quệ. Sự thật, hành động phá hoại của Pháp có gây khó khăn cho quá trình phát triển đi lên của cuộc kháng chiến chính nghĩa của quân dân ta.

Ta đối phó bằng cách hướng dẫn cho nhân dân phân biệt giấy bạc giả và bạc thật, thu gom, thủ tiêu và từng bước in ra giấy bạc Cụ Hồ loạt mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:08:03 pm »

Cải thiện đời sống vật chất vùng căn cứ địa

Miền Tây đất rộng, kinh rạch, rừng mênh mông, nên sản vật thiên nhiên phong phú. Lúa gạo, tôm cá… dồi dào nên sinh hoạt của dân cư, cán bộ, bộ đội có phần dễ dàng hơn các khu căn cứ khác ở miền Đông, miền Trung và Việt Bắc. Nhưng ngược lại thì các hàng công nghiệp lại rất khan hiếm, khó khăn. Thậm chí có nơi cơm thì có nhưng không có nổi cái chén ăn cơm, phải ăn bằng mủng vừa (tức bát làm bằng sọ dừa). Từ khi có chính sách kinh tế mới, trao đổi được mở rộng thì những thiếu thốn này đã được khắc phục hẳn.

Một trong những cán bộ hoạt động ở miền Tây lúc này là Trần Bạch Đằng nhớ lại; “Vùng giải phóng Tây Nam Bộ, vùng do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát rộng nhất Nam Bộ, bao gồm phần lớn các tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Quân đội Pháp và ngụy chỉ chiếm đóng các tỉnh lị và theo trục lộ Cần Thơ - Cà Mau (qua Sóc Trăng, Bạc Liêu), Cần Thơ - Châu Đốc (qua Long Xuyên), Cần Thơ - Rạch Giá. Từ nam lộ Cái Sắn, vùng giải phóng trải dài tận mũi Cà Mau.

Một thay đổi đáng kinh ngạc vào năm 1952: Cả vùng giải phóng phồn vinh trở lại. Năm 1953 diện mao ấy tiếp tục cải thiện: Sản xuất tăng, lúa thuế đủ nuôi quân, thanh niên tòng quân đầy đủ, hàng hóa tràn ngập. Tận vùng xa vẫn có ghe hàng mang đủ thức bánh mì, kem, nước đá, máy may, máy hát, thậm chí máy đèn xuất hiện ở nhiều xóm”(1).


Có thuế nông nghiệp, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ chủ trương cấp phát chế độ sinh hoạt phí cho cán bộ, nhân viên, mỗi người 1 giạ rưỡi lúa (30 kg) 1 tháng (trước đó không có chế độ này). Mức cụ thể ở từng nơi, từng lúc có thể khác nhau, tùy theo hoàn cảnh kinh tế và chiến sự. Theo Trần Bạch Đằng, trong tài liệu trên đây thì mức trợ cấp là 2 giạ 27 lít, giạ rưỡi lúa là cán bộ, nhân viên thường, còn cán bộ cao cấp có chế độ cao hơn. Theo Huỳnh Minh Hiển thì mỗi người cán bộ dân, chính, đảng  miền Tây mỗi tháng được cấp 22 lít lúa và một khoản tiền tiêu vặt, mỗi năm 2 bộ quần áo…(2). Cán bộ ở mỗi tỉnh có khác tùy khả năng của mỗi tỉnh. Khi đi công tác, cán bộ mang gạo theo để đóng góp với nhân dân vì bà con đã đóng góp thuế nông nghiệp cho chính phủ kháng chiến nhưng đồng bào phần đông không nhận. Cán bộ, nhân viên, bộ đội cố gắng thuyết phục bà con để đóng góp gạo vào bữa ăn, nhưng bà con không những không nhận mà còn tránh móc là anh em đánh giá thấp tinh thần kháng chiến của bà con. Bà con cho rằng: Ở miền Tây, lúa gạo, cá mắm không thiếu ăn, còn dư. Bà con đóng thuế cho chính phủ là để chi vào nhiều việc khác, chớ anh em đi công tác ghé ăn cơm là tốt rồi, còn đóng góp gạo chi nữa…

Cải thiện đời sống văn hóa

Từ năm 1951, đời sống văn hóa ở miền Tây, nhất là ở vùng căn cứ địa đã có những chuyển biến rất lớn.

Về giáo dục, vì là “thủ đô” của kháng chiến Nam Bộ nên ở đây đã tập trung những trí thức lớn như giáo sư Hoàng Xuân Nhị, giáo sư Lê Văn Thiêm, các giáo sư của các trường trung học nổi tiếng ở Sài Gòn, Mĩ Tho, Cần Thơ như Nguyễn Văn Chì (Giám đốc Sở Giáo dục), giáo sư Ca Văn Thỉnh, Đặng Minh Trứ, Lê Văn Chí, Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Thượng Tứ, Lê Văn Cẩm, Trần Văn Hanh, Nguyễn Hòa Lạc… Những trí thức đó là những người xây dựng và trực tiếp giảng dạy ở các trường trung học ở miền Tây, như trường trung học bình dân và kháng chiến Nguyễn Công Mĩ và Huỳnh Phan Hộ, trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố, Thái Văn Lung, trường sư phạm tiểu học Rạch Tắt, trường tiểu học bình dân Hồ Văn Long… Tất cả những con người những cơ sở đó đã góp phần tỏa sáng về kiến thức và văn hóa trong các cơ quan cũng như trong toàn dân. Nhờ đó mà miền Tây Nam Bộ là một trong những vùng trước đây bị coi là ít phát triển nhất về giáo dục, thì cũng đã xóa mù chữ tới 90%, phần lớn con em đến tuổi đi học đã được đến trường.

Cùng với việc giáo dục phổ thông cho con em nhân dân, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ còn giao nhiệm vụ cho Sở Giáo dục phải tổ chức các lớp học bổ túc và nâng cao trình độ học vấn cho tất cả cán bộ của các ngành để có đủ kiến thức hoàn thành nhiệm vụ mới, mà trong thời kì đó gọi là phong trào “chuẩn bị tổng phản công”. Đặc biệt có một khóa học văn hóa mang tên Phan Chu Trinh được tổ chức để cấp tốc bồi dưỡng kiến thức văn hóa cho các cán bộ trong ngành giáo dục để họ tiếp tục sự nghiệp này tại các trường cơ sở trong dân cư.

Thời kì này ngành giáo dục Nam Bộ cũng bắt tay vào soạn thảo những chường trình và giáo tài trung học và tiểu học cho phù hợp với yêu cầu của kháng chiến, phù hợp với nền văn hóa của một quốc gia độc lập.

Ông Võ anh Tuấn, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Nam Bộ lúc đó kể lại: “Ở tại rừng U Minh hẻo lánh, các cán bộ giảng dạy trẻ, được sự dìu dắt của các giáo sư bên cạnh cây đèn dầu leo lét, chỉ với quyển danh từ khoa học Hoàng Xuân Hãn cộng với nhiệt tình và óc sáng tạo đã kiên trì tìm tòi và đã thành công trong việc soạn thảo tất cả các bài giảng về khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên bằng tiếng Việt. Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, khó khăn mọi bề, nhưng nhà trường rất quan tâm đến sự phát triển toàn diện của học sinh, thông qua việc giảng dạy các môn công dân giáo dục, thời sự chính sách để học sinh không tách rời cuộc sống kháng chiến, thông qua việc giảng dạy tất cả các môn âm nhạc, hội họa và ngoại ngữ. Giữa rừng U Minh sông nước mọc lên “nhà in giáo dục”, lúc đầu in bằng giấp sáp (stencil) quét bằng tay, sau in ronéo, rồi tiến lên chữ chì. Mội thứ, từ máy móc, mực in, giấy in đều lén lút đem từ vùng tạm chiếm vào chiến khu để in tài liệu các loại cung cấp cho học sinh các trường và phân phối đi các tỉnh”(3).


(1) Điện Biên Phủ - Tuyển tập những công trình khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 465.
(2) Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi kí kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.223.
(3) Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi kí kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.393-396.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:09:07 pm »



Thầy giáo và học sinh của một lớp ban đêm ở Bạc Liêu
(mỗi em mang theo 1 chiếc đèn chai)

Về các hoạt động văn hóa, dưới những tán là dày đặc và trong rừng ngập nước U Minh, đã xuất hiện những sản phẩm văn hóa mà thông thường người ta chỉ có thể thấy có ở những đô thị có đầy đủ phương tiện: Đó là Tạp chí Mácxít (sau đổi tên là Thống nhất), cơ quan ngôn luận của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Nam Bộ. Đó là Tạp chí Nghiên cứu, cơ quan ngôn luận của Trung ương Cục miền Nam. Đó là tờ báo Nhân dân miền Nam, cơ quan của Trung ương Cục miền Nam. Đó là tờ Cứu quốc, cơ quan của Mặt trận Liên Việt Việt Nam, đó là báo Lá lúa (của Hội văn nghệ Nam Bộ), đó là tờ Tiếng súng kháng địch của Khu 9 và nhiều tổ thông tin hằng tuần của các tỉnh, huyện trong vùng kháng chiến.

Cũng ở đây đã xuất hiện một nhà in lớn: Nhà in Trần Phú, với 200 công nhân, đặt bên bờ con kinh số 30 xã Trần Hợi, nơi in và phát hành một loạt những tờ báo kể trên và nhiều cuốn sách như Mấy vấn đề về dân quân của Lê Duẩn, Cách mạng dân chủ mới của Nguyễn Kim Cương, Trận chiến thắng Stalingrad của Nguyễn Văn Vịnh, Nguyên lí chủ nghĩa Lênin, Chủ nghĩa cộng sản sơ giải, Chủ nghĩa Mác phổ thông, Tu dưỡng thanh niên. Đặc biệt, có cả một tờ báo tiếng Pháp lấy tên là Le Voix du Maquis (Tiếng nói Bưng biền) với những cây bút như Phạm Ngọc Thuần, Trương Tấn Phát, Hoàng Xuân Nhị ở Pháp mới về… nhằm mục đích tuyên truyền quốc tế và phục vụ công tác địch vận.

Cũng trên vùng kinh rạch miền Tây, đã có cả một đại lí phát hành sách của thi sĩ Nguyễn Bính, mà trung tâm đặt tại thị trấn Huyện Sử, huyện Thới Bình.

Ngang dọc trên những kinh rạch, có các đoàn văn công của Sở Tuyên truyền - Văn nghệ (mà trước năm 1952 gọi là Sở Thông tin - Tuyên truyền) trình diễn ca nhạc, kịch nói, đọc thơ kháng chiến… phục vụ đồng bào và chiến sĩ.

Chính vùng Đầm Dơi là nơi đặt Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ, với gần 500 cán bộ công nhân, nhà báo, nhà văn làm công tác biên soạn tin tức và phát sóng đều đặn hằng ngày. Từ đây không chỉ có những đàn dơi bay lượn trên những cánh rừng hoang vắng nữa, mà hằng ngày phát đi tin tức, ca nhạc, lời Bác Hồ chúc Tết… Đặc biệt, mỗi ngày Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ còn có 15 phút phát tin bằng tiếng Pháp, do một chiến sĩ Cộng sản Pháp là G. Boudarel phụ trách. Hằng đêm trên các kinh rạch có tiếng loa thông tin của các cán bộ thông tin tuyên truyền ở xã ấp kịp thời phổ biến tin tức thời sự cho nhân dân.



Đài Tiếng nói Nam Bộ



Một chòi thông tin
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:10:42 pm »

Cuộc sống vùng căn cứ kháng chiến có khá nhiều đặc sắc. Trong đó, đám cưới ở vùng căn cứ kháng chiến Tây Nam Bộ cũng là một nét đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp của tình người trong kháng chiến.

Ông Lữ Minh Châu, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thời đó là cán bộ Văn phòng Xứ ủy Nam Bộ kể lại: “Hồi ấy tôi còn trẻ, được điều về làm cán bộ Văn phòng Xứ ủy. Là cán bộ văn phòng năng nổ nên thường là đầu sai của mọi thức công việc, trong đó có việc tổ chức đám cưới cho anh em. Tôi không phải chủ hôn, mà là người lo bưng bê, sắp xếp, chuẩn bị các thứ cho đàm cưới. Đám cưới thời đó thiếu thốn đủ thứ về vật chất. Cô dâu chú rể không có quần áo mới, mà chọn bọn nào khá nhất thì mặc. Tuy nhiên, cũng có món ăn mặn tự chế ra, có gì ăn nấy. Cũng có một chút bánh kẹo gửi trong thành phố ra, liên hoan, đọc thơ, kể chuyện vui vẻ, đầm ấm và chân thật”(1).



Ông Lữ Minh Châu kể về đám cưới thời đó

Hồi ức của bà Mai Thị Kim Cúc, lúc đó là cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Cần Thơ kể lại: “Hồi đó là năm 1951, Xứ ủy đóng tại vùng Bấu Tròn. Đám cưới của tôi với anh Kỉnh được tiến hành kết hợp với cuộc họp Xứ ủy. Vì thời đó đi lại rất khó khăn, nhân họp Xứ ủy thì anh em đồng chí dự được đông đủ, còn tự nhiên tổ chức đám cưới thì làm sao có điều kiện gặp gỡ đông vui như vậy. Tôi con nhớ, sau khi bế mạc cuộc hợp Xứ ủy thì tới đám cưới của tôi với anh Kỉnh. Anh Lê Đức Thọ là chủ hôn, anh Ba Châu là người tổ chức đám cưới. Anh Nguyễn Đức Thuận cho một con nai mà anh em bắt được. Anh đưa tôi để mừng đám cưới cũng là nguyên liệu chính cho bữa tiệc mặn hôm đó. Còn trang phục thì tôi chỉ có một bộ bà ba, tất nhiên là lành lặn nhất trong số quần áo tôi có. Anh Kỉnh cung mặc quần áo bà ba. Trong đám cưới, cô dâu chú rể mặc áo bà ba, không tặng nhẫn, cà rá, không có bông tai cho cô dâu… nhưng đám cưới thật vui vẻ. Mọi người đọc thơ, kể chuyện, ca hát, không khí thật đầm ấm, chân tình. Sau lễ cưới, chúng tôi cũng chỉ ở nhà dân. Đến năm 1952, tôi sinh cháu gái đầu lòng là Nguyễn Thị Kim Vũ, bà đỡ là mụ vườn nhưng cũng mẹ tròn con vuông”(2).



Bà Mai Thị Kim Cục hồi tưởng và kể lại

Bà Dương Thị Quyên, Trạm trưởng trạm cứu thương của Sở Y tế Nam Bộ, lúc đó đóng ở xã Thới Bình, thuộc Rạch Giá kể lại: “Năm 1948, được gia đình cho phép, cơ quan tán thành, lễ thành hôn của chúng tôi được tổ chức đơn giản trong hoàn cảnh kháng chiến, nhưng rất vui vẻ và ấm cúng. Bạn bè đồng chí tham gia nhiệt tình. Các anh chị tổ chức biểu diễn văn nghệ “cây nhà lá vườn” rất tình cảm và thật vui. Chúng tôi còn giữ được hình ảnh của đám dưới. Một chiếc thuyền đậu ở bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp có đại diện hai gia đình bác Ca Văn Thỉnh và bác Dương Văn Khuê. Có hai anh rể phụ là anh Nguyễn Đăng, Đặng Ngọc Tốt và có hai dâu phụ. Cô dâu chú rể mặc áo dài mượn nhưng trông cũng tươm tất. Cô dâu có thêm chiếc khăn rằm quàng trên vai”(3).

Nam Bộ là cái nôi của nền điện ảnh kháng chiến. Những thước phim đầu tiên về đời sống kháng chiến đã được quay ở đây, tráng phim vàn nhân bản cũng ở đây: Đó là những phim Chiến dịch Cầu Kè - Trà Vinh, Trường Quân chính Nam Bộ, Binh công xưởng Nam Bộ, Trường Trung học Kháng chiến Nguyễn Văn Tố ở miền Tây.


(1) Phỏng vấn ông Lữ Minh Châu, ngày 27-4-2007.
(2) Bà kết hôn với Nguyễn Văn Kỉnh (tức Thượng Vũ), lúc đó là Ủy viên Xứ ủy Nam Kì. Phỏng vấn bà Kim Cúc ngày 10-7-2007.
(3) Ngày trước bây giờ - Áo tím trên các nẻo đường đất nước, Nhà xuất bản Trẻ, tr.227.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2012, 09:13:40 pm »

III. CHUYỂN THẾ TIÊN CÔNG, GÓP PHẦN KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN (1953-1954)

1. Kế hoạch Navarre và vai trò của chiến trường Nam Bộ

Các thất bại liên tiếp của thực dân Pháp ở Hòa Bình, Tây Bắc (Bắc Bộ) và ở Thượng Lào trong những tháng cuối 1952 và đầu 1953 đã làm phá sản hoàn toàn kế hoạch của Pháp muốn giành lại quyền chủ động chiến lược. Sau khi De Lattre về Pháp, tướng Salan lên thay. Cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp lâm vào thế bế tắc nghiêm trọng và Pháp phải tính đến chuyện thay tướng.

Ngày 7-5-1953, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Henri Navarre sang Đông Dương thay cho tướng Salan.

Tháng 5-1953, tướng Navarre (lúc đó là Tham mưu trưởng lục quân khối quân sự Bắc Đại Tây Dương - NATO) tới nhận nhiệm vụ ở chiến trường Đông Dương. Sau hai tháng đi quan sát và nghiên cứu tình hình, viên tướng đầy tham vọng này cho ra đời một bản kế hoạch, thường được gọi là kế hoạch Navarre. Mục tiêu của Kế hoạch Navarre là giành cho được một thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng, từ đó từng bước chuyển bại thành thắng và mở được “một lối ra danh dự” cho nước Pháp. Xét về lí thuyết quân sự, đây là sản phẩm của một bộ óc chiến lược sắc sảo.

Trước hết, Navarre nhận định về những sai lầm của các tướng tá Pháp trước đây:

1. Không biết kìm chế đối phương trên các chiến trường toàn quốc để có thể dồn sức tập trung đánh những đòn quyết định vào một điểm trọng yếu nhất.

2. Không phán đoán được thực lực của đối phương và đưa ra những giả thuyết để đối phó trong mọi trường hợp.

Đồng thời Navarre cũng thừa nhận những sai lầm của quân Pháp trước đây nên đến lúc này lực lượng của đối phương đã mạnh hơn trước nhiều lần, địa bàn của đối phương đã được mở rộng và nối liền với nhau, đó là một thực tế rất cần phải tính đến.

Dựa trên hai nhận định đó, bản kế hoạch dự đoán tới 3 khả năng:

Thứ nhất, quân đội Việt Nam có thể sẽ đánh Tây Bắc.

Thứ hai, có thể quân đội Việt Nam sẽ tấn công vào vùng đồng bằng.

Thứ ba, cũng không loại trừ khả năng đối phương sẽ mở đầu cuộc tiến công ở miền Nam. Tấn công vào đó, đối phương có thể gây ra một sự đảo lộn lớn về thế trận ở Đông Dương. Nếu điều này xảy ra thì đó sẽ là điều nguy hiểm nhất cho Pháp, vì đây là nơi quân đội Pháp yếu hơn ở miền Bắc rất nhiều.

Về điều này, ông ta viết như sau: “Ở các vùng này chỉ có các chuộc hành quân mang tính địa phương, thé nhưng cũng không kém phần khó khăn vì không còn các đơn vị tinh nhuệ. Họ đã được chuyển đến các chiến trường ác liệt hơn. Tôi xin nhấn mạnh ở đây, những sự hi sinh rất lớn của tướng Bourgund, Tư lệnh quân đội ở Trung Bộ, và các tướng Bondiss, Gardet, những vị tư lệnh kế tiếp nhau ở Nam Bộ đã thi hành nhiệm vụ với những phương tiện tối thiểu có được trong tay”(1).

Dựa trên những phán đoán trên, Navarre quyết định loại trừ khả năng thứ 3 bằng cách tạm lui về thế cầm cự ở chiến trường Bắc Bộ trong Thu - Đông năm 1953 để rảnh tay tập trung “thanh toán” khả năng thứ 3 kể trên, rồi sang đông - Xuân năm 1954 mới chuyển sang thế tiến công quyết định ở chiến trường Bắc Bộ. Để làm việc đó, quân Pháp phải tạo ra một “tuyến cấm” chạy dài từ Thà Khẹt đến Đồng Hới, ngăn không cho bộ đội chủ lực Việt Nam chuyển từ Bắc vào Nam. Đồng thời mở những cuộc hành quân chà xát các trận địa miền Nam để làm tê liệt khả năng kháng chiến ở khu vực này. Trên cơ sở đó, rảnh tay giải quyết chiến trường miền Bắc. Sau đó sẽ giành thế chủ động. Bất cứ đối phương tấn công ở tây bắc hay đồng bằng Bắc Bộ, quân đội Pháp đều có thể ứng phó và giành chiến thắng.

Thực hiện kế hoạch này, Navarre đã được Chính phủ Pháp cho tăng quân đội lên tới 45 vạn, tức là gấp 1,5 lần quân số năm 1951.

Đến giai đoạn này, quân số cả hai phía đã tăng lên gấp hàng chục lần khi bắt đầu cuộc chiến(2):

     Pháp    Việt Minh
Cuối 1951    245.000    225.000
1952    310.000    275.000
1953    375.000    280.000
1954    460.000    350-400.000

Về chi phí chiến tranh, kinh tế Pháp đang trong tình trạng kiệt quệ nên Navarre quyết định dựa tối đa vào viện trợ Mĩ: năm 1953 là 650 triệu đôla, 1954 là 1.264 triệu đôla, chiếm 73% chi phí chiến tranh Đông Dương. Trung bình mỗi ngày hàng viện trợ của Mĩ được chở tới Đông Dương từ 20.000 tấn đến 40.000 tấn các loại.

Để tiếp tục thực hiện quyền chủ động trên chiến trường, từ ngày 20 tháng 11 năm 1953 Navarre cho mở đầu chiến dịch Castor. 60 chiếc Dakota do Mĩ viện trợ thay phiên nhau liên tiếp thả quân dù cùng vũ khí, quân trang quân dụng xuống chiếm đóng thung lũng Điện Biên và xây dựng ở đây một cứ điểm quân sự lớn nhất ở Đông Dương, với ý định thu hút quân đội chủ lực của ta lên đây trong Thu - Đông, giảm sức ép của ta ở phía Nam Việt Nam, rồi sang xuân sẽ thực hiện một cuộc quyết đấu tại đây, mới có thể xoay chuyển toàn bộ cục diện chiến trường.


(1) Henri Navarre: Đông Dương hấp hối, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 250.
(1) Jacques de Folin, sđd, tr.321.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM