Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến - Tập 1 (1945-1954)
macbupda:
Năm 1947
Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam Nam Bộ ra đời (gọi tắt là Liên Việt Nam Bộ).
Ngày 5 tháng 3
Emile Bollaert thay đô đốc D’Argenlieu làm Cao ủy Đông Dương.
Ngày 12 tháng 3
Ở Hà Tiên, Phân đội Trần Thắng, diệt đồn Pháp ở Ton Hon (Campuchia).
Ngày 27 tháng 3
Phân đội Trần Thắng phục kích địch ở Mũi Ông Cọp (gần thị xã Hà Tiên), diệt gọn một đoàn xe địch 7 chiếc, giết 20 tên, thu toàn bộ vũ khí.
Tháng 4
Tại Rạch Giá, chi đội 24 dùng mìn đánh sập cầu Hoằng.
Ngày 1 tháng 4
Bollaert đến Sài Gòn.
Ngày 25 tháng 4
Ở Trà Vinh, trận phục kích Hiếu Tứ (Tiểu Cần) diệt gọn hầu hết các quan chức đi trên xe Tỉnh trưởng Trà Vinh, Chánh mật thám tỉnh Cần Thơ, Đốc phủ sứ Nguyễn Phước, v.v… Phó tỉnh trưởng Trà Vinh Rémy bị thương, cùng một số lính chạy trốn về Ô Chát (Châu Thành).
Tháng 5
Tại Bạc Liêu, Trần On chỉ huy, tấn công bọn lính Tây Ninh, diệt gần 100 tên (chỉ có 2 tên chạy thoát), thu 100 súng.
Ngày 3 tháng 5
Ở Cần Thơ, lần thứ 3 tại Tầm Vu đã diễn ra trận đánh do Khu bộ trưởng Huỳnh Phan Hộ chỉ huy: Diệt 6 xe địch, thu 100 súng (trong đó có 2 súng cối, 4 trung liên và 47 súng trường).
Ngày 18 tháng 5
Trên kinh xáng Mương Điều (xã Tân Duyệt - Đầm Dơi - Bạc Liêu) tàu La Tonnante bị trúng thủy lôi, quân ta phục kích diệt gọn cả 4 đại đội trên tàu.
Tháng 5 và tháng 6
Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ có 2 Chỉ thị số 4/NV và 404/TV vận động trí thức và công chức trong bộ máy cai trị của Pháp tham gia kháng chiến, không hợp tác với địch
Tháng 6
Ban Hòa Hảo vận được thành lập ở Chợ Mới - Nhà Bàn.
Tháng 7
Pháp chiếm chùa Phật Phổ Đà (dưới chân Núi Dài) xây đồn, chốt giữ tại đây.
Ngày 19 tháng 7
Bộ đội ta bẻ gãy cuộc càn quét Mương Chùa (Hội An, Chợ Mới).
Ngày 26 tháng 7
Nam Bộ phát hành công trái lần thứ hai.
Tháng 9
Bộ chỉ huy Quân khu 9 đưa một lực lượng mạnh lên hoạt động ở Long Xuyên, Châu Đốc.
Ngày 17 tháng 9
Sắc lệnh 88/SL thành lập Việt Nam Quốc gia Ngân hàng.
Tháng 10
Lực lượng 2 tỉnh Bạc Liêu và Rạch Giá phối hợp với nhau dùng thủy lôi đánh chìm 2 tàu LCS kéo theo 2 tàu cây, diệt 60 tên địch.
Ngày 1 tháng 10
Hợp nhất Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến thành Ủy ban hành chánh kháng chiến.
Ngày 17 tháng 10
Phạm Văn Đồng làm đặc phái viên Chính phủ tại Nam Việt Nam.
Ngày 1 tháng 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 102/SL cho phép Nam Bộ phát hành tín phiếu riêng.
Từ ngày 16 đến 20 tháng 12[/i][/b]
Đại hội Đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất.
Ngày 19 tháng `12
Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân bay từ Sài Gòn sang Hương Cảng gặp Bảo Đại và được chấp thuận cho đứng ra lập Chính phủ.
Ngày 30 tháng 12
Bao vây đồn Chợ Ngã Ba, giải phóng quận lị Trà Cú. Đó là quận đầu tiên được giải phóng ở Tây Nam Bộ kể từ ngày đầu kháng chiến.
Năm 1948
Nam Bộ đã thành lập “Ban ấn loát đặc biệt” đóng tại Đồng Tháp.
Tháng 1
Trần On chỉ huy trận phục kích ở đồn điền Evrad.
Ngày 25 tháng 1
Hội đồng Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức lại các khu trong cả nước thành các Liên khu.
Ngày 11 tháng 2
Tướng Valluy bị thải hồi, tướng Salan - tạm thay thế cương vị Tổng chỉ huy.
Ngày 15 tháng 2
Phạm Văn Bạch được cử làm Chủ tịch Nam Bộ.
Ngày 2 tháng 3
Sắc lệnh số 147 cho phép phát hành tại Nam Bộ giấy bạc Việt Nam, gọi là giấy bạc Trung ương.
Ngày 14 tháng 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh tuyên dương Cuộc khởi nghĩa Nam Kì và tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất (Huân chương cao quý nhất lúc bấy giờ).
Ngày 17 tháng 4
Phát hành Công phiếu kháng chiến.
Ngày 19 tháng 4
Phục kích tại Tầm Vu trên trục đường Cần Thơ - Rạch Gòi diệt 100 địch, bắt sống 80 tên, thu gần 200 súng, có 1 đại bác 105 li.
Ngày 21 tháng 4
Tướng Blaizot chính thức được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương.
Ngày 30 tháng 4
Lệnh cấm lưu hành giấy bạc Đông Dương trong cả nước.
Ngày 2 tháng 5
Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng và thành lập nội các, lấy cờ vàng ba sọc đỏ làm “quốc kì”, còn “quốc ca” là bản nhạc Thanh niên Hành khúc của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.
Ngày 7 tháng 7
Ban hành Sắc lệnh về bao vây kinh tế địch.
Tháng 8
Tiểu đoàn 363 của Hà Tiên phối hợp với 1 đơn vị Isarắc phục kích 1 đoàn xe tiếp tế trên đoạn đường Kampong Trạc tiêu hủy 2 xe, diệt 30 tên, bị thương 11, thu 23 súng.
Trong 3 tháng 8, 9 và tháng 10
Diệt đồn Cầu Quay, phá lộ Cái Sắn, địch phải rút bỏ đồn Tân Hiệp và Dục Tượng.
Tháng 10
Chỉ thị của Trung ương Đảng về “bao vây kinh tế địch”.
Tháng 11
Rạch Giá chặn đánh cuộc hành quân tại rạch Chung Sư, diệt và bắt sống 40 tên, trong đó có Sanier, chánh mật thám tỉnh Rạch Giá.
Từ ngày 15 đến 18 tháng 12
Đánh đồn La Bang, phục kích quân ứng cứu, bắt được trung úy Mathieu.
macbupda:
Năm 1949
Tháng 4
Pháp mở 2 cuộc càn quét
- Trận thứ nhất ở xã Lương Phi (Tri Tôn), bị Đại đội 2006 thuộc liên trung đoàn 126 - 128 chặn đánh, diệt một trung đội, bắt sống 8 tên, thu 12 súng.
- Trận thứ 2, Trung đoàn 115 (Khu 8) phối hợp với bộ đội địa phương Tân Châu (Châu Đốc) đánh chìm tàu Drageur chở lính Marốc trên sông Thương Địch (Hồng Ngự), một trong hai tàu chở quân đi ứng cứu bị thủy lôi đánh hư, 1 chiếc còn lại tháo chạy. Ta bắt sống 19 lính Marốc (có 1 đại úy), thu 2 đại bác 75 li, 1 cối 81 li và thu 100 súng các loại.
Giữa năm 1949
Xứ ủy và các cơ quan cấp Nam Bộ di chuyển từ căn cứ Đồng Tháp Mười xuống căn cứ U Minh.
Từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 17 tháng 6
Tướng Revers, Tổng chỉ huy quân đội Pháp, sang Đông Dương nghiên cứu và sau đó xây dựng một kế hoạch mới nổi tiếng, gọi là kế hoạch Revers.
Ngày 13 tháng 6
Bảo Đại về Sài Gòn nhậm chức Quốc trưởng.
Tháng 7 và tháng 10
Chính phủ Trung ương ban hành Sắc lệnh 78/SL, về giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian, tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân.
Ngày 1 tháng 7
Bảo Đại tuyên bố thành lập Nhà nước Việt Nam quốc gia.
Đêm 2 tháng 7
Ta tập kích 1 tiểu đoàn lê dương đóng dã ngoại ở cầu sắt Vĩnh Thông. Pháp phải rút bỏ đồn Vĩnh Thông.
Ngày 25 tháng 8
Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ ra Nghị định số 267/NĐ cho lưu hành “Tín phiếu Nam Bộ” và “Phiếu tiếp tế” của từng tỉnh, liên tỉnh.
Ngày 3 tháng 9
Sắc lệnh 139/SL về mua Công trái quốc gia.
Tháng 12
Khu ủy Khu 9 triệu tập Hội nghị đại biểu toàn Khu.
Từ ngày 7 tháng 12
Bộ Tư lệnh Nam Bộ quyết định mở chiến dịch Cầu Kè (Vĩnh Long) do Bộ chỉ huy Khu 8 trực tiếp chỉ đạo.
Năm 1950
Ngày 18 tháng 1
Trung Quốc trở thành nước đầu tiên trên thế giới công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ ngày 9 đến 16 tháng 1
Diễn ra chiến dịch Cầu Kè, quân ta tấn công Cầu Ngang (Trà Vinh).
Ngày 4 tháng 2
Mĩ công nhận Chính phủ Bảo Đại.
Ngày 17 tháng 3
2 tàu chiến của Hạm đội VII cập bến Sài Gòn.
Ngày 19 tháng 3
“Ngày toàn quốc chống Mĩ”.
Từ ngày 4 đến ngày 28 tháng 8
Mở màn và kết thúc “Chiến dịch Tophaco” (viết tắt chữ Tổng phản công), sau này gọi là Chiến dịch Sóc Trăng 1.
Ngày 28 tháng 4
Ban công tác thành của Sài Gòn đã trừng trị tên cò Bazin, chánh mật thám Nam Việt.
Ngày 1 tháng 5
Tổng thống Truman chuẩn bị chi 10 triệu đô la viện trợ các đồ quân dụng cấp tốc cho Đông Dương.
Ngày 18 tháng 5
Thành lập Trung đoàn Tây Đô, trung đoàn chủ lực đầu tiên ở miền Tây.
Ngày 15 tháng 5
Bộ Tư lệnh Nam Bộ ra Quyết định số 71/QĐNS giải thể Bộ Tư lệnh Quân khu 9. Bộ Tư lệnh Nam bộ trực tiếp chỉ huy các lực lượng vũ trang của Khu 9.
Ngày 4 tháng 6
Ở thị xã Sóc Trăng, một tổ công an xung phong bắn chết tên Philipe Boneau (Tây lai Khơme), Phó chỉ huy Sở mật thám Sóc Trăng.
Ngày 27 tháng 6
Truman ra lệnh tăng cường viện trợ quân sự cho Pháp và các nước Liên hiệp ở Đông Dương, gửi một đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) sang Đông Dương.
Tháng 7
Tại Cần Thơ, tỉnh trưởng Trịnh Tấn Truyện bị diệt ngay tại dinh Tỉnh trưởng. Trong thời gian này, đặc công đánh chìm 3 tàu địch ngay tại Cần Thơ.
Ngày 2 tháng 8
Đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mĩ (US MAAG) gồm 35 người đến Sài Gòn.
Ngày 16 tháng 9 đến ngày 1 tháng 11
Chiến dịch Biên giới.
Ngày 20 tháng 10
Thành lập lại Bộ Tư lệnh Quân khu 9 với thành phần chỉ huy là: Nguyễn Chánh - quyền Tư lệnh, Hoàng Dư Khương - Chính ủy, Võ Quang Anh - Phó Tư lệnh. Chế độ Chính ủy được thực hiện từ đó, không còn Quân khu ủy.
Ngày 22 tháng 10
Chính phủ Bảo Đại thành lập quân đội của ở Đà Lạt.
Ngày 7 tháng 12
Tướng De Lattre de Tassigny thay tướng M.Carpentier (làm Tổng Tư lệnh Quân đội viễn chinh) và thay Léon Pignon (làm Cao ủy).
Ngày 23 tháng 12
Kí hiệp định tại Sài Gòn về việc Mĩ viện trợ cho Pháp, Việt Nam, Lào và Campuchia.
Từ 26 tháng 12 năm 1950 đến 17 tháng 1 năm 1951
Chiến dịch Trần Hưng Đạo đánh vào khu vực Vĩnh Yên.
macbupda:
Năm 1951
Tháng 1
Pháp xây dựng lực lượng UMDC do Léon Le Roy (đơn vị lưu động bảo vệ Thiên Chúa gióa) ở Bến Tre.
Từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 2
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang (căn cứ Việt Bắc).
Từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 2
Thường vụ Xứ ủy đã họp Hội nghị mở rộng nhằm triển khai những chủ trương đường lối của Đại hội Đảng lần thứ II đối với Nam Bộ.
Từ ngày 10 tháng 2 đến ngày 13 tháng 3[/i][/b]
Chiến dịch Long Châu Hà 2.
Ngày 16 tháng 3
Mở tiếp chiến dịch “phá ngụy” ở huyện Phú Châu (Long Châu Sa).
Từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 5 tháng 4
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám đánh vào khu vực Đông Triều.
Tháng 4
Bộ Chính trị ra quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy, để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Tháng 5
Chiến dịch Quang Trung được mở ở phía nam sông Hồng.
Ngày 13 tháng 5
Mở màn chiến dịch Sóc Trăng 2.
Ngày 15 tháng 7
Chính phủ ta ban hành điều lệ tạm thời về thuế nông nghiệp. Nông dân Tây Nam Bộ hưởng ứng rất tích cực.
Ngày 31 tháng 7
Cảm tử quân Phan Văn Út ném lựu đạn khiến Thái Lập Thành chết tại chỗ, Chanson bị trọng thương và tắt thở sau vài giờ, 4 sĩ quan Pháp bị thương. Phan Văn Út hi sinh.
Ngày 7 tháng 9
Mĩ kí Hiệp định hợp tác kinh tế song phương với Việt Nam, Lào, Campuchia ở Sài Gòn.
Ngày 7 tháng 12
Ban Chấp hành Trung ương đã có Nghị quyết về vấn đề tiếp tế cho miền Nam.
Ngày 24 tháng 11
Ban Chấp hành Trung ương có chỉ thị về nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch.
Năm 1952
Đầu năm 1952
Tiểu đoàn 308 diệt hàng trăm tên địch ở Ô Môn và Châu Thành, thu 60 súng các loại.
Ngày 19 tháng 2
Địch mở trận càn “Gió lốc 2” vào chiến khu Đồng Tháp Mười. Quân và dân Đồng Tháp Mười đã đánh địch suốt 17 ngày đêm.
Tháng 3-1952
Địch dùng 3 tiểu đoàn Âu - Phi đánh vào Ba Chúc. Lực lượng vũ trang của ta phục kích diệt gần hết 1 đại đội lê dương tại Cầu Sắt Vĩnh Thông, bẻ gãy cuộc càn quét của địch.
Ngày 6 tháng 6
Nguyễn Văn Tâm làm Thủ tướng thay Trần Văn Hữu.
Giữa tháng 6
Pháp mở cuộc càn quét lớn, lấy tên là Zéphyr (Gió hiu hiu) đánh vào vùng Giồng Riềng, Vị Thanh, qua Thới Lai, Ô Môn.
Tháng 7
Đại sứ Donal Heath trình ủy nhiệm thư với Bảo Đại.
Chính phủ Bảo Đại cũng đặt Đại sứ quán ở Washington.
Ngày 6 tháng 7
Hai tiểu đoàn địch càn quét vào vùng Long Mĩ, bị lực lượng của 2 Tiểu đoàn 307 và 410 chặn đánh ở Giồng Sao.
Đêm ngày 16 tháng 8
Tiểu đoàn 307 tiến công diệt đồn Bảy Ngàn, trên kinh xáng Xà No. Đây là trận đầu tiên chủ lực ta đánh công kiên.
Tháng 8 và 9
Bộ đội đặc công đã phá 12 tàu địch chở quân tại bến Phú Vĩ (thị xã Vĩnh Long), diệt 1 đại đội lính thủy (có 6 sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp), đánh cứ điểm Long Hồ, diệt 1 đại đội Commandos.
macbupda:
Năm 1953
Tháng 4
Ở Long Châu Hà, Tiểu đoàn 406 phối hợp với du kích đánh địch ở Núi Nước, diệt 25 tên.
Tháng 5
Tướng Navarre nhận nhiệm vụ ở chiến trường Đông Dương.
Tiểu đoàn 307 phối hợp với địa phương quân và du kích tiến công tiêu diệt cứ điểm Hộ Phòng (Giá Rai - Bạc Liêu).
Ngày 7 tháng 5
Tướng Henri Navarre sang Đông Dương thay cho tướng Salan.
Từ ngày 19 đến 25 tháng 5
Bộ chỉ huy Pháp mở trận càn thọc sâu vào khu căn cứ Thới Bình và Cái Rắn tỉnh Cà Mau.
Ngày 20 tháng 5
Pháp tổ chức một trận càn quét lớn gồm 10 tàu chiến, có máy bay yểm trợ từ kinh xáng Hộ Phòng vào ngã tư Phó Sinh, Huyện Sử, Thới Bình, phối hợp với bọn địch ở Cà Mau ra Tắc Thủ, hành quân dọc hai bờ sông Ông Đốc, qua sông Bảy Háp và kinh xáng Đội Cường.
Ngày 8 tháng 6
Trung ương Cục miền Nam đề ra 5 nhiệm vụ cho chiến trường Nam Bộ.
Từ ngày 9 đến ngày 13 tháng 6
Ở Cần Thơ, một trận càn quét lớn của địch gồm 15 tiểu đoàn bộ binh, có tàu chiến và máy bay yểm trợ đánh vào vùng căn cứ của ta ở Vị Thanh, Hỏa Lựu và Giồng Riềng, Cầu Đúc.
Cuối tháng 8
Trung ương Cục mở hội nghị bàn về công tác địch ngụy vận.
Tháng 10
Trước thế tiến công của ta, ở Bến Tre 700 linh ngụy đã rã ngũ.
Từ giữa tháng 11
Các lực lượng vũ trang tỉnh Cần Thơ bao vây uy hiếp 40 đồn bót địch nằm trên trục lộ giao thông Rạch Sỏi - Minh Lương, Bến Nhất, Tắc Cậu, đánh bại nhiều cuộc hành quân của 2 tiểu đoàn 14 và 15 của địch.
Ngày 20 - 23 tháng 11
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam họp Hội nghị về kế hoạch quân sự Đông Xuân 1953 - 1954.
Ngày 28 tháng 11
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời những câu hỏi của Chủ bút tờ báo Expressen Thụy Điển, về chiến tranh Việt Nam.
Từ tháng 12 năm 1953 đến giữa tháng 5 năm 1954
Bộ đội đặc công 3 lần đột nhập thị xã Cần Thơ, tiến công căn cứ chỉ huy tiểu khu hành chính, phân khu Long Xuyên - Rạch Giá… diệt nhiều tên chỉ huy ác ôn, phá kho tàng và doanh trại địch.
Ngày 6 tháng 12
Bộ Chính trị họp và quyết định chấp nhận thực hiện kế hoạch quân sự Đông Xuân 1953 - 1953.
Ngày 17 tháng 12
Bảo Đại thay Thủ tướng Tâm bằng Hoàng thân Hữu Lộc.
Ngày 6 tháng 12
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ngày 23 tháng 12
Tiểu đoàn 308 phối hợp với địa phương quân Sóc Trăng bố trí đánh địch trên đường Bố Thảo - Tam Sóc.
Năm 1954
Navarre lại hai lần rút bớt quân khỏi Nam Bộ để đối phó với chiến dịch Điện Biên Phủ: Lần đầu rút 3 tiểu đoàn chủ lực, lần sau rút 10 tiểu đoàn bộ binh.
Ngày 8 tháng 1
Ban Bí thư có điện gửi Trung ương Cục miền Nam về nhiệm vụ của chiến trường Nam Bộ năm 1954.
Ngày 24 tháng 1
Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị: “Kịp thời khuyếch trương những chiến thắng quan trọng về quân sự và chính trị để hoàn thành nhiệm vụ trung tâm”.
Đầu tháng 2
Ngay đêm mở đầu đợt 1, lực lượng vũ trang tỉnh Vĩnh Trà đã diệt 4 đồn địch ở huyện Cầu Ngang.
Ngày 7 tháng 2
Bạc Liêu tiến công huyện lị An Biên, bắt sống quận trưởng Sang, thu nhiều vũ khí.
Ngày 12 tháng 3
Navarre mở chiến dịch Camaruge.
Ngày 13 tháng 3
Tại Điện Biên Phủ, trận đánh lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
Trong 3 tháng đầu năm
Sóc Trăng diệt đồn Pécton (xã Phú Mĩ), bức hàng và rút 21 đồn lô cốt.
Tháng 4
Bạc Liêu đánh liên tiếp nhiều trận ở Giá Rai, Vĩnh Lợi, thị trấn Cà Mau và ven thị xã Bạc Liêu, gỡ nhiều đồn, tháp canh trên lộ Đông Dương 16.
15 ngày đầu tháng 5
Quân dân Vĩnh Trà đánh giòn giã 417 trận, lợi khỏi vòng chiến đấu 3.700 địch, gỡ 62 đồn bót, có 2.102 ngụy quân rã ngũ.
Ngày 8 tháng 5
Hội nghị Genève khai mạc.
Ngày 1 tháng 6
Đại tá Mĩ Edward Lansdale đến Sài Gòn nhận chức Trưởng phái bộ quân sự Mĩ (S.M.M).
Ngày 4 tháng 6
Pháp kí với Bảo Đại hiệp ước trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.
Ngày 12 tháng 6
Pierre Mandès France lập Chính phủ mới ở Pháp.
Ngày 16 tháng 6
Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng.
Ngày 6 tháng 7
Diệm lập Chính phủ tại Sài Gòn.
Ngày 10 tháng 7
Đánh thiệt hại nặng trường sĩ quan Bình Thủy (Cần Thơ) và các trường Tân binh ở Rạch Sỏi (Rạch Giá), ở thị xã Sóc Trăng. Trong 7 ngày kế tiếp, Cần Thơ và Sóc Trăng đánh bức hàng 48 đồn bót, tháp canh, diệt 200 tên địch, bắt 80 tên.
3 giờ 30 phút sáng ngày 21 tháng 7
Hiệp đình đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được kí kết.
Ngày 22 tháng 7
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam (Nam Bộ ngừng bắn từ 6 giờ sáng ngày 11 tháng 8).
Tháng 9
Đảng ủy nhà tù Cây Dừa tổ chức cho 300 tù chính trị vượt ngục thành công.
Ngày 6 tháng 9
Bộ chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền¬ Nam, lập lại Xứ ủy Nam Bộ và các Liên Tỉnh ủy, Tỉnh ủy.
Tháng 10
Tại Chắc Băng (Vĩnh Thuận - tỉnh Bạc Liêu), Trưởng phái đoàn Trung ương Lê Duẩn triệu tập hội nghị để nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần 6, Chỉ thị ngày 6-9-1954 của Bộ Chính trị, thảo luận những nhiệm vụ của Nam Bộ trong giai đoạn mới và thành lập Xứ ủy Nam Bộ.
Ngày 24 tháng 10
Tổng thống Eisenhower quyết định viện trợ kinh tế trực tiếp cho Nam Việt Nam.
macbupda:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Cứu quốc (Hà Nội), 20-10-1946.
2. Báo Cứu quốc (Hà Nội), 18-10-1946.
3. Báo cáo kết luận của đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị Chiến dịch Đông Xuân ngày 23-11-1953 (trích trong Báo cáo các kế hoạch và tổng kết kinh nghiệm các chiến dịch lớn, tập III: Điện Biên Phủ, Bộ Tổng tham mưu xuất bản, Hà Nội, 1963).
4. Báo Sự thật (Hà Nội), ngày 20-1-1946.
5. Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 ba mươi năm kháng chiến, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.
6. Boyer de La tour: De l’Indochine à l’Algérie. Le marlyre de l’armée francaise, Paris, Presses du Mail, 1962.
7. Công báo số 1 năm 1945.
8. Công báo số 10 năm 1945.
9. Công báo, 1949.
10. Công báo, 1954.
11. Charles de Gaulle: Mémoires de guerre, Nxb Plon, Paris, 1953, t.III.
12. De Lattre de Tassingny: “Ne pas subir. Ecrrits.1914-1952” . Ed. Plon, Paris, 1984.
13. De Lattre de Tassingny: Diễn đàn văn học tại Hà Nội, Bull.A.F.P., spécial Outre-mer, No 1317.
14. Deviller: Paris - Saigon - Hanoi, Nxb Gallimard Julliard, Paris, 1988.
15. Dương Cựu Tẩm: Nhớ Vĩnh - Sa - Trà (Mùa thu rồi ngày hăm ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1999).
16. Đại Nam Nhất Thống Chí.
17. Đặng Phong: Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, Nxb. Khoa học xã hội, 2002, tập 1.
18. Điện Biên Phủ: Tuyển tập những công trình khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005.
19. Joseph Buttinger: Việt Nam: A Dragon Embattled, Nxb. Praeger, New York, 1967.
20. Gary Hess: The United States’ Emergence as a Southeast Asian Power 1940 - 1950, Columbia University Press, New York, 1987.
21. Henry Navarre: Đông Dương hấp hối (Hồi kí) , Nxb. Công an nhân dân.
22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.4, 6, 7.
23. Hồi kí Bùi Công Trừng: Đi lâu mới biết đường dài.
24. Hồi kí Huỳnh Minh Hiển: Những kỉ niệm sống và làm việc ở Văn phòng Trung ương Cục miền Nam và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ (Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 199.
25. Hungry Navarre: Hồi kí Navarre - Đông Dương hấp hối, Nxb. Công an nhân dân.
26. Hồi kí Lê Trọng tấn: Từ Đồng Quan đến Điện Biên.
27. Jacques de Folin.
28. Le Monde, 29 Novembre 1953.
29. Lê Duẩn, một nhà lãnh đạo lỗi lạc, Nxb Chính trị quốc gia, 2002.
30. Lê Minh: Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1984.
31. Lê Văn Ngọ: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến thắng lợi 1945-1954, Nxb Khoa học xã hội, 1967.
32. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1986, tập II.
33. Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
34. Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1968, t.II, IV, V.
35. Mai Hương: Chuyện học ở làng Chăm, báo Sài Gòn Giải Phóng, số 967, ngày 5-6-2004.
36. Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
37. Những sự kiện Lịch sử Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, t.2.
38. Ngô Hồng Khanh: Văn hóa nghệ thuật tỉnh Cần Thơ.
39. Huỳnh Minh: Cần Thơ xưa và nay.
40. Nguyễn Công Bình - Lê Xuân Diêm - Mạc Đường: Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Thành: Cuộc vận động Đại hội Đông Dương năm 1936, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1985.
42. Phan Khắc Thuyết: Nhớ những năm công tác tại Văn phòng Xứ ủy tại Sài Gòn (Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau).
43. Philippe Devillers: Histore du Vietnam de 1940 à 1952, Nxb Seuil, Paris, 195.
44. Philippe Héduy, tập 1.
45. Pléven René: Intervention, Assemblée Nationale, 19 octobre, 1950, J.O.R.F., Débats parlemntaires.
46. Pléven René: Explosé devant le Conseil des Ministres, Paris, Palais de l’Élysée, 8 Novembre 1950, “Journal du Septennat” , Paris, Vol, IV.
47. Tập san Tiền Việt Nam 1955.
48. Tập san Đông Dương: Đấu tranh mậu dịch với địch, số 3, tháng 12-1951.
49. Thái Duy: Tất cả đều là ta, Đại đoàn kết, 20-5-2007.
50. Trần Bạch Đằng: Tính năng động, sáng tạo của người Việt sống trên đất Phương Nam, kỉ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ, những ván đề lịch sử, thế kỉ XVII - XIX, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 2002.
51. Trần Văn Giàu (chủ biên): Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
52. Trần Quốc Tuấn: Sài Gòn September 1945, báo Việt Thành, Sài Gòn, 1947.
53. Trích Tuyên cáo quốc dân của Ủy ban nhân dân Nam Bộ, Báo Cứu quốc, ngày 29-9-1945.
54. Tuần báo Time (Mĩ), số ra ngày 12-9-1969.
55. Trương Đình Tòng: Đôi nét về lịch sử văn học nghệ thuật Tây Nam Bộ năm 1913.
56. Trần Văn Trà: Chiến tranh nhân dân khởi đầu từ Nam Bộ như thế (Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005).
57. République Autonome de Cochinchinne, còn gọi là “Nam Kì quốc” .
58. Rouble Iocale no 16.
59. Stanley Karnow: Việt Nam a History, Nxb Penguin Books, New York, 1987.
60. Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, t.2.
61. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000-2001, t.3-15.
62. Viện Lịch sử Quân sự: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I.
63. Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.
64. Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1994.
Navigation
[0] Message Index
[*] Previous page