Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 06:01:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)  (Đọc 110778 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:34:17 pm »

TRẬN PHÙ LY

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:35:07 pm »

*   *
*

Sang năm 1949, phương thức hoạt động đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung đã phát huy tác dụng lớn. Vừa có lực lượng chủ lực cơ động chiến đấu, vừa có lực lượng tại chỗ dìu dắt lực lượng vũ trang cơ sở trưởng thành. Các đại đội độc lập phụ trách các huyện phát huy tốt vai trò và nhiệm vụ của mình vừa bố phòng sẵn sàng đánh địch, vừa cùng huyện đội xúc tiến công tác quân sự ở địa phương, được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tin yếu.

Tháng 2 năm 1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ hai đại diện cho 4.000 đảng viên trong tỉnh họp ở Mỹ Lộc, Phù Mỹ kiểm điểm tình hình lãnh đạo trong hai năm qua, đề ra chủ trương công tác mới và bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 19 đồng chí do đồng chí Nguyễn Văn làm bí thư.

Tháng 4 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương tỉnh và huyện, rút các đại đội độc lập về tập trung xây dựng đơn vị mạnh. Từ sau sắc lệnh này, lực lượng vũ trang ta đã hình thành hai thứ quân một cách hoàn chỉnh gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Ở Bình Định, sau một thời gian chuẩn bị đã xây dựng được bảy đại đội bộ đội địa phương ở bảy huyện là Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Cát, Phù Mỹ, An Nhơn, Bình Khê, Tuy Phước, thị xã Quy Nhơn có một trung đội. Trung đoàn 120 là chủ lực của Liên khu nhưng làm nhiệm vụ địa phương, hoạt động tác chiến gắn liền với hai tỉnh Bình Định và Gia Lai - Kon Tum. Do đó, sau khi bộ đội địa phương huyện được thành lập, các đại đội độc lập vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ ở huyện, lúc nào cần trung đoàn sẽ rút về tập trung. Cũng trong tháng 4 năm 1949, tiểu đoàn 50 chủ lực cơ động của trung đoàn 120 được Bộ Tư lệnh Liên khu điều về làm nòng cốt thành lập trung đoàn 210 chủ lực cơ động của Liên khu. Cơ quan tỉnh đội được kiện toàn. Đồng chí Võ Văn Dật được ử làm tỉnh đội trưởng, đồng chí Chung Hường chính trị viên tỉnh đội. Cuối năm 1949, đồng chí Chung Hường được cử ra Bắc học kinh nghiệm xây dựng bộ đội địa phương về phổ biến cho cán bộ tỉnh, huyện, củng cố thêm một số các đơn vị bộ đội địa phương trong tỉnh.

Trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên, tháng 6 năm 1949, ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định cử hai đại đội địa phương lên phối hợp hoạt động, tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ rèn luyện, thử thách trong chiến đấu và làm công tác gây cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào các dân tộc.

Thời gian này địch tăng cường không quân và hải quân đánh phá vùng ven biển. Lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân tổ chức báo động, tuần tra, canh gác nghiêm ngặt để địch vào là biết và tăng cường công tác bố phòng đánh địch, nhất là các vùng xung yếu.

Để giảm bớt áp lực của ta trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên, đồng thời đánh phá vùng tự do, phá hoại phương tiện giao thông, kho tàng, quân Pháp chủ trương đổ bộ lên Tam Quan - một khu vực trù phú có ga và đề pô xe lửa, chỉ cách bờ biển chừng hai ki-lô-mét, rất thuận lợi cho việc đổ bộ và rút xuống tàu.

Khoảng 1 giờ sáng ngày 20 tháng 7 năm 1949, địch cho tàu chiến đổ một tiểu đoàn lên Bãi Ngang thuộc xã Hoài Thanh, cách cửa Tam Quan chừng ba ki-lô-mét. Cánh quân này tiến qua các thôn Lâm Trúc, Gò Tháp, Tăng Long, Đại hóa rồi vượt quốc lộ 1 lên Chợ Cát, xã Hoài Hảo dừng lại cấu trúc công sự dã chiến (Chợ Cát cách ga Tam Quan khoảng hai ki-lô-mét về phía tây - nam). Đây là cánh quân chủ yếu của địch trong cuộc hành quân này. Lấy ga Tam Quan làm hợp điểm, cánh quân này có nhiệm vụ cảnh giới, ngăn chặn lực lượng ta tập kích vào ga Tam Quan từ phía tây và tây nam.

Cánh thứ hai, một đại đội đổ bộ lên Vĩnh Tuy, chiếm đèo Bình Đê rồi thọc xuống ga Chương Hòa, đốt phá một số đầu máy, toa xe rồi tiến vào thôn Tân Định, Tân Thanh (nay thuộc Tam Quan Bắc).

Về phía lực lượng vũ trang và nhân dân, ngay từ lúc nửa đêm, các đài quan sát theo dõi địch đã báo động chiến đấu. Nhân dân trong vùng được lệnh tổ chức lánh cư theo kế hoạch. Lực lượng vũ trang tại chỗ có đại đội 8 độc lập thuộc trung đoàn 120, đại đội địa phương huyện Hoài Nhơn và dân quân du kích các xã Tam Quan, Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh.

Theo phương án tác chiến đã chuẩn bị, đại đội 8 độc lập do đồng chí Võ Hồng Loan chỉ huy và đại đội 8 địa phương do huyện đội trưởng Trần Bút chỉ huy cùng du kích các xã tổ chức thành từng phân đội nhỏ phân tán đánh địch khắp nơi, gây cho chúng nhiều thiệt hại, nhất là ở các thôn Tân Thành, Phước Lộc và thị trấn Tam Quan.

Lúc này, tiểu đoàn 50 thuộc trung đoàn chủ lực 210 vừa hành quân từ Bắc Tây Nguyên về đến xã Hoài Xuân được tin vội vã tổ chức cấp tốc hành quân tiến ra đánh địch. Đại đội 51B quyết tử do đại đội trưởng Lương Trung chỉ huy từ Hoài Xuân theo đường liên xã ra Hoài Tân, Hoài Hảo đụng độ quân địch tại Chợ Cát.

Tuy so sánh lực lượng chênh lệch nghiêng về phía địch (địch một tiểu đoàn, ta một đại đội), quân địch có hỏa lực mạnh lại chiếm được địa hình có lợi và bố trí sẵn, nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đại đội trưởng Lương Trung chỉ huy đại đội lợi dụng các gốc dừa, gò mối, hào giao thông vừa nổ súng vừa tiếp cận địch. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt ngay từ phút đầu.

Không chịu nổi các đợt xung phong của các chiến sĩ quyết tử, sau một giờ chiến đấu, tiểu đoàn địch phải rút về cụm lại ở ga Tam Quan. Trận này, tiểu đoàn địch bị ta đánh thiệt hại nặng nhưng đại đội quyết tử cũng bị thương vọng nặng. Đại đội trưởng Lương Trung hi sinh trong khi chỉ huy đơn vị chiến đấu.

Tối ngày 20, ta tổ chức pháo kích vào cụm trú quân của địch ở ga Tam Quan làm chúng thương vong thêm một số. Bị đánh liên tục, sáng ngày 21, pháo hạm từ tàu chiến bắn dữ dội vào các khu vực chung quanh ga Tam Quan và hai bên đường từ cổng xe lửa đi Thiện Chánh, bảo đảm hành lang cho toàn bộ quân địch rút xuống tàu kết thúc cuộc hành quân. Khi lực lượng lớn của trung đoàn chủ lực 210 đến Hoài Hảo thì quân địch đã rút hết xuống tàu, bỏ lỡ một cơ hội tiêu diệt lớn quân địch.

Trận Tam Quan - Chợ Cát kết thúc thắng lợi tiêu diệt gần 200 tên địch, bẻ gãy cuộc hành quân đánh phá vùng tự do ven biển của địch.

Cùng với chiến thắng Phù Ly, chiến thắng Tam Quan - Chợ Cát đánh dấu sự trưởng thành và tiến bộ rõ rệt của quân dân Bình Định trong sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ vùng tự do của tỉnh. Trong trận này, cả ba thứ quân đã phối hợp hiệp đồng chiến đấu tốt. Mỗi thứ quân đều sử dụng cách đánh sở trường của mình nên đạt hiệu quả chiến đấu khá. Dựa vào địa hình làng mạc được che khuất dưới vườn dừa, các chiến sĩ đại đội 8 độc lập, đại đội địa phương huyện và du kích đã phát huy lối đánh du kích nhỏ lẻ từng tổ, từng phân đội nhỏ, kết hợp với chông, mìn, thực hiện tiêu hao, tiêu diệt địch rộng rãi. Bộ đội chủ lực của Liên khu tuy tham gia trận đánh chỉ có đại đội quyết tử, nhưng ngoài tinh thần dũng cảm tuyệt vời đã sử dụng chiến thuật vận động tiến công - cách đánh sở trường của chủ lực ở dã ngoại nên đã đánh thiệt hại và đẩy lùi một tiểu đoàn địch.

Vai trò của nhân dân trong trận đánh có ý nghĩa quan trọng. Việc lánh cư được tổ chức có trật tự, không bị bất ngờ, nhờ hệ thống báo động tốt của dân quân. Trong chiến đấu, các đoàn thể cứu quốc, đặc biệt là các mẹ, các chị đã lo toan cơm nước, tiếp tế, bảo đảm cho bộ đội và du kích chiến đấu. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh đều do các mẹ, các chị ở các xã Hoài Hỏa, Hoài Châu, Tam Quan, Hoài Thanh đảm nhiệm. Nhân dân còn tự nguyên tham gia khắc phục hậu quả của trận đánh, khôi phục lại nhà ga, đường sắt ở các ga Tam Quan, Chương Hòa. Chỉ sau hai ngày, tàu lửa ta lại chạy thông suốt, trong khi quân địch cho rằng ta phải mất hàng tháng mới khôi phục được.

Tại Tam Quan - Hoài Nhơn, xứ sở của ca dao, hò vè, chỉ mấy ngày sau trận đánh đã lưu truyền:

            Hai mươi giặc đến Tam Quan,
            Phụng Du, Chợ Cát, Vệ quốc đoàn đánh ngay.
            Giặc đến ta đánh giặc đi.
            Toàn dân kháng chiến, giặc gì cũng tan.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:35:53 pm »

TRẬN TAM QUAN - CHỢ CÁT

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:37:43 pm »

*   *
*

Quân dân Bình Định bước sang năm 1950 trong tình hình cuộc kháng chiến cả nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Trong không khí phấn khởi của toàn dân, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ ba họp ở Tân Hóa, Cát Hanh. Đại hội biểu dương quân dân vùng Tam Bình, Phù Ly - Phù Mỹ, Tam Quan, Hoài Hảo, Hoài Châu… trong thành tích bẻ gãy các cuộc càn quét của địch, bảo vệ vững chắc vùng tự do của tỉnh. Đại hội đã chỉ ra những khuyết điểm trong lãnh đạo như nặng động viên nhân dân đóng góp mà nhẹ bồi dưỡng sức dân. Động viên chưa đúng với phương hướng: “Tất cả để đẩy mạnh chiến tranh nhân dân”.

Căn cứ vào nghị quyết của Trung ương và của Liên khu ủy, Đại hội đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng bộ là: Đẩy mạnh mọi mặt công tác, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, động viên nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến, đồng thời ra sức cải thiện đời sống nhân dân v.v… Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 19 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn làm bí thư.

Về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong năm 1950, khi trung đoàn 120 tập trung làm nhiệm vụ chủ lực, Ban chỉ huy tỉnh đội đã xây dựng hoàn chỉnh tiểu đoàn 50 bộ đội địa phương tỉnh gồm bốn đại đội 101, 102, 103 và 104. Lực lượng vũ trang cơ bản được kiện toàn về số lượng và chất lượng theo phương hướng mỗi xã có hai trung đội đủ điều kiện tác chiến, nhất là các vùng xung yếu như Quy Nhơn, Gò Bồi, Đề Gi, Tam Quan và các xã giáp ranh vùng Tam Bình. Các huyện còn chuẩn bị sẵn lực lượng bổ sung cho chủ lực và bộ đội tỉnh. Hoài Nhơn đã thành lập tiểu đoàn bổ sung, các huyện khác tổ chức đại đội hoặc trung đội. Đến tháng 10 năm 1950, toàn tỉnh đã bổ sung cho chủ lực 2.140 dân quân du kích.

Cuối năm 1950, toàn tỉnh có 165.037 dân quân du kích, trong đó dân quân nam 140.596, dân quân nữ là 22.221, dân quân miền núi là 2.220.



Đội nữ dân quân luyện tập sẵn sàng đánh giặc - 1949

Trường huấn luyện quân sự tỉnh được mở thường xuyên ở Cát Trinh, Phù Cát đào tạo cán bộ trung đội, tiểu đội du kích và xã đội. Hội nghị chiến tranh du kích đầu tiên trong tỉnh được triệu tập để tổng kết phong trào xây dựng và chiến đấu, rút kinh nghiệm đưa phong trào tiến lên.

Sau ngày cách mạng Tháng Tám thành công, chỉ với hai bàn tay trắng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bác Hồ, trực tiếp là Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Đảng bộ và dân quân Bình Định đã xây dựng, cũng cố chính quyền, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Quân dân trong tỉnh đã từng bước trưởng thành, vững vàng bước vào những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến trường kì với thắng lợi trên tất cả các mặt trận xây dựng hậu phương, đặc biệt là đánh bại tất cả các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc quê hương.

Qua 5 năm kháng chiến - một chặng đường không phải là ngắn, với nhiều tình huống khó khăn, phức tạp, nhưng quân dân Bình Định phát huy truyền thống quý báu của mình đã vượt qua, quyết cùng quân dân Liên khu 5 và cả nước đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:38:55 pm »

Chương III

BẢO VỆ VỮNG CHẮC HẬU PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC
CÙNG CẢ NƯỚC KẾT THÚC THẮNG LỢI
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1951-1954)

1 - KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MỌI MẶT CÔNG TÁC ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TIẾN TỚI

Sau chiến thắng chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã chuyển sang một giai đoạn mới. Bước sang năm 1951, nước ta được khai thông, nối liên với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong Liên khu, sau nhiều chiến dịch tiến công Bắc Tây Nguyên giành thắng lợi, quân dân ta đã đẩy quân địch vào thế bị động, lúng túng, từng bước giành lại thế chủ động chiến trường. Vùng tự do rộng lớn của Liên khu 5 được giữ vững và xây dựng ngày càng vững mạnh.

Tháng 2 năm 1951, một sự kiện lớn làm nức lòng quân dân cả nước: Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng được triệu tập ở chiến khu Việt Bắc - Đại hội đầu tiên của toàn Đảng trong kháng chiến chống Pháp. Trong đại hội quan trọng này, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ thứ nhất, nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó”(1).

Đại hội khẳng định “Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, để giành lấy thắng lợi hoàn toàn… Phải xây dựng một quân đội nhân dân mạnh mẽ, chân chính”(2).

Nghị quyết Đại hội lần thứ hai của Đảng như một luồng sinh khí mới mang lại cho quân dân cả nước một sức mạnh mới đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Sau thất bại ở biên giới, thực dân Pháp thấy không hể một mình theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược nên phải cầu cạnh sự chi viện của Mỹ. Cùng với thực dân Pháp, can thiệp Mỹ trở thành kẻ thù cụ thể của nhân dân ta.

Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi được cử sang Đông Dương với kế hoạch bốn điểm, trong đó điểm thứ tư là phá hoại các vùng tự do bằng biệt kích, gián điệp, dùng không quân, hải quân đánh phá, chiến tranh tâm lí, bao vây kinh tế, v.v…. Âm mưu cơ bản của Đờ Lát là thực hiện triệt để “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đẩy mạnh thực hiện “bình định cấp tốc và phản công quyết liệt”.

Ở Bình Định, thực hiện việc phá hoại hậu phương kháng chiến, suốt trong năm 1951, địch dùng máy bay tàu chiến tăng cường đánh phá các trục đường giao thông chiến lược, các thị trấn đông dân, các vùng ven biển. Các cầu xe lửa, nhà ga Chương Hòa, Bồng Sơn, Phù Ly, Nhà Đá, Phù Mỹ, Phù Cát… bị chúng đánh đi đánh lại nhiều lần. Các thị trấn, các vùng đông dân như Phù Mỹ, Đập Đá, Trung Lương, Lại Khánh, An Vinh, Mỹ Đức, Phú Lạc, Kiên Mỹ, An Thái… bị địch ném bom phá, bom na pan tàn phá nhà cửa, thiêu cháy xóm làng. Các vùng miền núi như làng Kon Trot, làng Mặc thuộc xã Vĩnh Châu (Vĩnh Thạnh) cũng bị chúng ném bom.

Ở ven biển, chúng dùng pháo hạm bắn phá nhà cửa, ghe mành, cho quân đổ bộ lên đốt phá, bắn giết nhân dân rồi rút như ở Quy Nhơn, Hương Xuân, Đề Gi, Tân Phụng, Hưng Lạc, Vĩnh Lợi, An Dũ…

Chúng tung gián điệp xuống vùng giáp ranh như Tam Bình, móc nối với số phản động đội lốt cha đạo ở nhà thờ Kim Châu. Bọn này tổ chức trốn về vùng địch nhưng bị ta bắt ở Cát Chánh (Phù Cát) tháng 7 năm 1951. Ở Vĩnh Thạnh, chúng mua chuộc một số già làng và một số thanh niên ở làng Kon Che Rẽ, lập ổ vũ trang phản động (goum). Đặc biệt ngày 15 tháng 8 năm 1951, 300 quân Pháp từ An Khê, mở cuộc càn quét xuống Bình Quang bị bộ đội địa phương và du kích chặn đánh, giết và làm bị thương hàng chục tên, phải rút về.

Trong năm 1951, địch đã gây cho nhân dân trong tỉnh nhiều thiệt hại: 314 người chết, 15 người bị thương, 1.292 ngôi nhà bị phá hủy, 450 ghe thuyền bị đốt, hàng trăm trâu bò bị giết, 5 toa xe lửa và hàng ngàn mét đường ray bị phá hỏng.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận phân công Tỉnh ủy viên và Ủy viên Thường vụ gồm các đồng chí Chung Hường, Phan Ảnh, Lê Đài, trực tiếp phụ trách công tác quân sự. Đồng chí Nguyễn Bảy Tỉnh ủy viên được cử giữ chức trưởng ban chính trị tỉnh đội. Các cơ quan quân sự tỉnh, huyện được kiện toàn theo đúng phương hướng “tăng thành phần chiến đấu cho đơn vị, giảm chính cơ quan gọn nhẹ”. Cơ quan tỉnh đội từ 300 người giảm xuống còn 180 người vẫn bảo đảm công tác đạt chất lượng. Lực lượng vũ trang ở cơ sở được tổ chức thành hai loại rõ rệt: Dân quân là lực lượng rộng rãi, du kích là lực lượng nòng cốt được tổ chức chặt chẽ, trang bị huấn luyện khá hơn. Chất lượng các đơn vị du kích tập trung được nâng lên, vừa có thể phối hợp với bộ đội địa phương, vừa có thể độc lập tổ chức đánh địch càn quét bảo vệ tài sản và tính mạng của nhân dân. Nhiều đội viên du kích chiến đấu dũng cảm được bầu là chiến sĩ thi đua của Liên khu 5. Tiêu biểu là đồng chí Lê Thừa, du kích xã Mỹ An (Phù Mỹ) dùng lựu đạn đánh vào tốp địch đang đốt phá ghe mành của ngư dân, giết và làm bị thương nhiều tên.


(1), (2) Văn kiện toàn quốc đại biểu đại hội lần thứ hai của Đảng tháng 2 năm 1951.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:42:06 pm »

Trong năm 1951, các đại đội tập trung ở Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ… được tỉnh đội cử luân phiên ra chiến trường Quảng Nam vừa giúp bạn vừa học tập kinh nghiệm chiến đấu.

Sau khi ổn định tổ chức, biên chế, ban chỉ huy tỉnh đội triển khai thực hiện kế hoạch “rèn cán chỉnh quân” đợt hai trong các lực lượng vũ trang tỉnh, nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao lập trường chính trị, lấy việc rèn luyện tư tưởng làm nhiệm vụ và là trọng tâm công tác xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang. Qua học tập, trên cơ sở thấu suốt đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, những biểu hiện bi quan, mơ hồ, hữu khuynh, tiêu cực từng bước được khắc phục.

Công tác phòng tránh máy bay, pháo hạm địch qua kinh nghiệm thực tế được chấn chỉnh. Hầm ẩn nấp chống bom pháo cho từng gia đình, hố cá nhân dọc đường đi, nơi công cộng, chợ búa, trường học, nơi hội họp đông người được đào đắp đúng quy cách, có nắp che. Những nơi dân cư đông đúc được phân tán rộng ra, người già, trẻ em có gia đình ở nông thôn tạm rời thị trấn, thị xã để giảm bớt mật độ thương vong khi bị oanh tạc. Tàu, xe chuyển sang chạy ban đêm, chợ họp về đêm. Đầu máy xe lửa ban ngày đưa vào hầm đèo Bình Đê, các trang bị của bộ đội và nhân dân được quy định không dùng màu trắng, màu sáng, không được đội nón trắng. Làm ngoài đồng phải ngụy trang, trâu bò cũng được ngụy trang để tránh máy bay phát hiện bắn phá.



Miệng địa đạo chống máy bay oanh tạc của xã Đập Đá trong kháng chiến chống Pháp

Các đài quan sát, hệ thống thông báo, báo động, chế độ tuần tra, canh gác ở vùng ven biển được củng cố nghiêm mật. ghe thuyền, chài lưới có kế hoạch bảo vệ thường xuyên. Ghe thuyền có lù dưới đáy. Khi có báo động tàu địch, tất cả các ghe thuyền lập tức được rút lù nhận chìm, chài lưới được đưa vào hầm hoặc chôn giấu. Nhờ đó đã hạn chế được thiệt hại. Trong việc bảo vệ ghe thuyền, chài lưới ở cửa biển Đề Gi xã Cát Khánh nổi lên tấm gương tiêu biểu của bà má Mỉn, một lão du kích. Khi có báo động tàu địch vào bờ má đã nhận chìm trên một trăm chiếc ghe thuyền và cất giấu chài lưới không để rơi vào tay giặc. Với thành tích xuất sắc trên, má Nguyễn Thị Mỉn được Đại hội thi đua Liên khu 5 (1950) bầu là chiến sĩ thi đua toàn Liên khu.

Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến tới, cuối năm 1951, thực hiện chính sách thuế khóa thống nhất(1) của Chính phủ, Đảng bộ và chính quyền các cấp đã lãnh đạo thực hiện đúng các quy định về thuế một cách công bằng, hợp lí. Đặc biệt trong việc thực hiện thuế nông nghiệp, nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của Liên khu ủy, Đảng bộ đã uốn nắn được những lệch lạc hữu khuynh của cán bộ cơ sở đối với giai cấp địa chủ trong thủ đoạn khai man diện tích và sử dụng sản lượng, phân tán ruộng đất để trốn thuế và dây dưa việc nộp thuế.

Nhờ thực hiện thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật, ta nắm được một khối lượng thóc cần thiết vừa đáp ứng nhu cầu kháng chiến, vừa ổn định thị trường, đồng thời phản ánh rõ nét đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn. Với cách thu thuế theo lũy tiến, thuế nông nghiệp đánh nặng vào giai cấp địa chủ mà giảm nhẹ mức đóng góp của nông dân lao động, ổn định mức thuế trong ba năm, không tính mùa phụ để khuyến khích thâm canh, tăng vụ, phát triển lúa tứ quý, tăng năng suất, quan tâm các gia đình đông người, ưu đãi đối với gia đình liệt sĩ, bộ đội…

Qua thực hiện thuế nông nghiệp, lập trường giai cấp của cán bộ, đảng viên được nâng cao, khối liên minh công nông được củng cố, tổ chức nông hội và chính quyền cơ sở được chấn chỉnh một bước.


(1) Ngày 1-5-1951, Chính phủ ra sắc lệnh cải tiến chế độ thuế khóa, xây dựng chế độ đóng góp công bằng hợp lí.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:43:56 pm »

Thực hiện việc giảm chỉnh biên chế cơ quan. Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan dân, chính, đảng các cấp thực hiện theo nguyên tắc “kiện toàn tỉnh, đơn giản huyện, tăng cường xã” với phương châm “kiện toàn chất, đơn giản lượng”. Thực hiện chủ trương này, bộ máy các ngành đều gọn nhẹ, năng suất tăng, tệ quan liêu giấy tờ giảm bớt. Diện cán bộ thoát li thu hẹp, lực lượng cán bộ ở cơ sở được tăng cường.



Huyện đội Phù Cát trước khi thực hiện tinh giảm biên chế (30-10-1952)

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt các biện pháp quản lí nguồn nước, đưa giống lúa mới vào đồng ruộng, vận động làm các loại phân, tăng diện tích lúa tứ quý, v.v… toàn tỉnh đã giải quyết được nhu cầu về lương thực cho nhân dân và cung cấp một phần cho bộ đội, cán bộ và các cơ quan của Liên khu 5 đóng trên địa bàn tỉnh(1).

Tổng diện tích lúa tứ quý toàn tỉnh năm 1949 mới có 3.400 mẫu, thu 400 tấn thóc. Năm 1951 tăng lên 21.500 mẫu thu được 15.000 tấn thóc. Bông từ 2.000 mẫu tăng lên 4.000 mẫu, nâng tổng sản lượng từ 200 tấn lên 400 tấn bông sạch. Nghề dệt vải, dệt tơ lụa, nghề làm giấy không ngừng phát triển. Trong sản xuất nông nghiệp cũng như tiểu thủ công nghiệp, vai trò của phụ nữ giữ vị trí hết sức quan trọng.

Nhờ vậy, nền kinh tế, của Bình Định ngày càng phát triển vững chắc, bảo đảm thực hiện ”tự cấp tự túc” trong toàn tỉnh. Năm 1952, hầu hết các tỉnh ở miền Nam Trung Bộ vừa bị địch phá hoại vừa bị thiên tai nặng, mùa màng nhiều nơi bị mất trắng, nhân dân lâm vào cảnh thiếu đói nhưng toàn tỉnh đã tránh được nạn đói trầm trọng và kéo dài. Số vùng thiếu đói khắc phục được nhanh.

Về trật tự an toàn xã hội, năm 1951-1952 là những năm xảy ra nhiều vụ việc. Lợi dụng tình hình khó khăn do thiên tai, địch phá hoại và sinh hoạt thời chiến, bọn tội phạm hình sự cấu kết nhau hoạt động mạnh. Chúng gây ra hàng loạt những vụ trộm cắp, cướp của, giết người làm cho tình hình trật tự xã hội không an toàn.

Trước tình hình phức tạp đó, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh chủ trương kịp thời khám phá những vụ án lớn đưa ra xét xử và trừng trị điển hình bọn lưu manh đầu sỏ, đồng thời tổ chức hội nghị trị an từ tỉnh đến cơ sở nhằm giáo dục thống nhất quan điểm về công tác trị an trong cán bộ với phương châm lấy nhân dân thực hiện công tác trị an làm căn bản.

Chấp hành chủ trương trên, lực lượng công an tỉnh triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp, mở các đợt truy quét bọn tội phạm hình sự. Được quần chúng nhân dân và công an cơ sở hỗ trợ, công an tỉnh đã bắt giữ nhiều tên cầm đầu nguy hiểm, nắm được toàn bộ tổ chức đường dây hoạt động của bọn chúng và đưa ra truy tố trước pháp luật. Những tên có nhiều hành vi táo bạo gây nhiều tội ác với nhân dân như Lý Tấn Huân, Nguyễn Kỳ Tây, Trần Điền, Trần Miên, Nguyễn Tường… đã bị tòa án nhân dân Liên khu 5 kết án tử hình.

Để đấu tranh chống bọn tội phạm hình sự một cách có hiệu quả, công an tổ chức nhiều hội nghị học tập trị an ở các cấp để cán bộ, nhân dân học tập và “bình nghị” phát hiện bọn lưu manh ở cơ sở, ngăn chặn mọi mầm mống dẫn đên tội phạm hình sự. Số được nhân dân phát hiện tùy theo nặng nhẹ mà đưa ra truy tố hoặc giáo dục cải tạo quản lí tại địa phương dưới sự giám sát của nhân dân. Kết quả là suốt một thời gian dài, tự thị trấn đến nông thôn nhân dân được sống trong trật tự, an toàn, không phải nơm nớp lo bọn lưu manh quấy phá.

Đây là một hình thức, một kinh nghiệm quý trong công tác trật tự trị an, bảo vệ an toàn xã hội. Thực hiện toàn dân làm công tác trị an lấy lực lượng công tác làm nòng cốt đã mang lại hiệu quả tốt trong đấu tranh chống bọn tội phạm hình sự, củng cố khối đoàn kết toàn dân.

Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, dựa hẳn vào nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân thì không có việc gì không vượt qua được, không có việc gì không làm được. Kinh nghiệm thành công này vừa là quan điểm vừa là phương pháp, đồng thời là quy luật giành thắng lợi của mọi công tác cách mạng và kháng chiến.

Càng gần thắng lợi, càng gay go quyết liệt, ở Bình Định, mức độ càn quét và phá hoại của địch tăng hơn nhiều so với các năm trước. Trong năm 1952, ở vùng giáp ranh Tam Bình và các vùng ven biển trong tỉnh, địch mở tổng cộng 25 cuộc càn quét gây cho ta một số thiệt hại.

Tháng 3 năm 1952, tàu chiến Pháp cho ca nô đổ quân lên khu hai thị xã Quy Nhơn cướp phá ghe thuyền, chài lưới của nhân dân bị một bộ phận của đại đội 101 tỉnh phối hợp với dân quân du kích chặn đánh diệt một số. Chúng phải rút xuống tàu.

Tháng 7 năm 1952, địch từ An Khê mở hành quân càn quét xuống Bình Giang. Tiến qua Đồng Phó đến Chợ Sạn, chúng đốt một số nhà và cướp hàng trăm trâu bò của dân. Lúc này lực lượng của trung đoàn 120 ở khu vực Phú Phong có đại đội 54 và đại đội 82. Được tin địch xuống càn quét, đồng chí Nguyễn Tuấn Tài trung đoàn phó trung đoàn 120 trực tiếp chỉ huy hai đại đội vận động lên đánh địch. Đại đội 54 được giao nhiệm vụ theo bờ sông Đá Hàng đi vòng thành một mũi vu hồi từ Đồng Le, Đồng Vu tiến ra đường 19 đánh vào sườn và sau lưng địch. Đại đội 82 do đại đội trưởng Cao Hùng chỉ huy theo hướng chính diện từ Hạnh Lâm vận động theo đường 19 lên núi Một đánh quân địch tại Chợ Sạn.


(1) Số lượng bộ đội, cán bộ, cơ quan đóng trên địa bàn tỉnh cuối năm 1951 là 42.000 người.
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Sáu, 2012, 08:39:57 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:46:03 pm »

Lúc bấy giờ là 11 giờ. Đại đội 82 ra đến đường 19, chạy hết tốc lựa giữa nắng trưa, trên trời có một chiếc L.19 lượn vòng quan sát. Bất chấp tất cả, các chiến sĩ 82 lên đến Chợ Sạn, gặp địch đã nổ súng tiến công. Kèn xung phong của chiến sĩ thông hiệu gióng giã từng hồi kết hợp với tiếng súng máy và đạn vòng cầu trông-lông(1) làm quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Đại đội 82 nhanh chóng chuyển sang truy kích địch từ Chợ Sạn lên đến Vườn Xoài. Chúng bỏ lại tài sản và hàng trăm trâu bò cướp của dân. Ta diệt một số địch, thu một máy vô tuyến điện và đồ dùng quân sự.

Đại đội 54 vì đường vòng quá xa lại đi xuyên núi nên không đến kịp trong khi địch chạy quá nhanh.

Kết quả, ta đã bẻ gãy trận càn của địch, lấy lại được tài sản, trâu bò cho nhân dân, bảo vệ vững chắc vùng tự do phía tây của tỉnh.

Trong những cuộc càn khác ở vùng giáp ranh và ven biển tuy địch có gây cho nhân dân ta một số thiệt hại về nhà cửa, tài sản nhưng đều bị bộ đội địa phương và du kích đánh trả phải rút quân. Vùng tự do của tỉnh được bảo vệ vững chắc.

Ngoài việc cho quân càn quét, địch đẩy mạnh chiến tranh gián điệp nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, phá hoại kháng chiến. Chúng lôi kéo các tôn giáo phản động xúc tiến việc lập ”Liên tôn chống cộng”, móc nối với bọn Quốc dân đảng, bọn phản động đội lốt thầy tu, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, nhất là chính sách thuế nông nghiệp. Chúng tung bạc giả gây rối thị trấn, phao tin đồn nhảm lung lạc tinh thần quần chúng.

Trước tình hình địch tăng cường hoạt động quân sự và chiến tranh gián điệp, Tỉnh ủy Bình Định chỉ đạo tập trung xây dựng làng chiến đấu và đẩy mạnh việc bố phòng đánh địch ở các vùng xung yếu giáp ranh và ven biển. Trong phòng gian bảo mật, thực hiện ba không (không nghe, không biết, không thấy). Cơ quan, bộ đội đóng ở đâu phải giữ bí mật, triệt để ngăn cách, v.v… Nhờ áp dụng những biện pháp đồng bộ trên, đời sống của nhân dân được ổn định, vùng tự do trong tỉnh được giữ vững trước những âm mưu và hành động xảo quyệt của địch.

Tháng 4 năm 1952, Đại hội Đảng bộ lần thứ tư được triệu tập ở Đức Long, Ân Đức huyện Hoài Ân đưa Đảng bộ ra hoạt động công khai mang tên Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Bình Định. Đại hội tiến hành kiểm điểm công tác, đề ra chủ trương lãnh đạo mới và bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 19 đồng chí do đồng chí Trần Quang Khanh làm bí thư.



Đồng chí Trần Quang Khanh

Sau Đại hội, toàn Đảng bộ tiến hành sinh hoạt chính trị trong Đảng (chỉnh Đảng), cả trong lực lượng vũ trang và các ngành. Mục đích của cuộc sinh hoạt chính trị là làm cho tất cả cán bộ, đảng viên thống nhất quan điểm kháng chiến lâu dài và tự lực cánh sinh, khắc phục tư tưởng hữu khuynh, thực hiện tự phê bình và phê bình.

Đây là cuộc vận động học tập và tự phê bình tập trung nhất, rộng lớn nhất từ khi Đảng ra đời.

Qua các đợt sinh hoạt chính trị, qua kiểm điểm, lí luận liên hệ với thực tế, hầu hết cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đều nhận thức được khuyết điểm của mình về tư tưởng hữu khuynh, dao động trước khó khăn, còn mang nặng tư tưởng nông dân, cục bộ chưa thấy rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, còn mơ hồ với giai cấp địa chủ, thiếu cảnh giác đối với địch, v.v… Lập trường tư tưởng, ý thức phục vụ nhân dân, tinh thần chấp hành nghị quyết, chấp hành mệnh lệnh được xác định, đề cao, khắc phục tư tưởng bi quan cho trường kì kháng chiến là vô hạn độ. Qua sinh hoạt hoạt chính trị, mọi công tác xây dựng và chiến đấu, công tác kháng chiến được đẩy mạnh một bước cơ bản.


(1) Súng phòng lựu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:47:21 pm »

2 - THAM GIA CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG ĐÔNG XUÂN 1952-1953 TRÊN CHIẾN TRƯỜNG AN KHÊ

Cuối năm 1952, từ sau Đại hội Đại biểu Đảng bộ toàn Liên khu lần thứ hai, tình hình mọi mặt các tỉnh trong Liên khu đều có chuyển biến mạnh mẽ. Vùng tự do được xây dựng và bảo vệ vững chắc.

Trước tình hình phát triển thuận lợi, Liên khu ủy họp hội nghị lần thứ ba quyết định một số chủ trương quan trọng cho thời gian tới. Về phương châm tác chiến, Liên khu khẳng định “du kích chiến là chính, học tập đánh vận động trong điều kiện thuận lợi”.

Căn cứ vào tình hình địch trên chiến trường và sự lớn mạnh của khối chủ lực liên khu, Liên khu ủy thông qua phương hướng và kế hoạch tác chiến của Đảng ủy và Bộ tư lệnh liên khu: mở một đợt hoạt động mạnh trên chiến trường toàn liên khu trong đông - xuân 1952-1953 để phối hợp với chiến trường toàn quốc, trong điểm là chiến trường An Khê.

Tháng 12 năm 1952, Bộ chỉ huy chiến dịch An Khê được thành lập do đồng chí Nguyễn Chánh, tư lệnh kiêm chính ủy liên khu trực tiếp làm tư lệnh kiêm chính ủy chiến dịch. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm trung đoàn 108, trung đoàn 803, tiểu đoàn 40 chủ lực liên khu và trung đoàn 120 địa phương.

An Khê là bình phong án ngữ đường chiến lược số 19 là đầu cầu tiến công, càn quét xuống vùng giáp ranh Tam Bình và đồng bằng tỉnh Bình Định. Các cứ điểm Thượng An, Cửu An, Tú Thủy với hai tháp canh Đầu Đèo và Eo Gió hình thành một vòng cung vừa là tuyến phòng thủ vững chắc vòng ngoài, vừa là hệ thống cứ điểm cầm đầu trong vùng du kích phía đông sông Ba, đồng thời là nơi xuất phát hành quân càn quét của địch.

Mở chiến dịch An Khê, ngoài mục đích tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, đẩy mạnh và hỗ trợ phong trào chiến tranh du kích ở Tây Nguyễn, đối với Bình Định còn có ý nghĩa quan trọng là đập nát bình phong án ngữ đường 19 - con đường chiến lược quan trọng cắt ngang tỉnh từ Quy Nhơn lên Tây Nguyên và diệt tận gốc bàn đạp xuất phát hành quân càn quét của địch xuống địa bàn tỉnh từ phía tây.

Đối với Đảng bộ và quân dân Bình Định, đặc biệt đối với các địa phương Bình Khê, Vĩnh Thạnh nơi trực tiếp chịu hậu quả những trận càn quét của địch, khi được biến Liên khu mở chiến dịch An Khê, mọi người hết sức hào hứng, phấn khởi.

Tham gia chiến dịch, tỉnh có nhiệm vụ mở đường bảo đảm hành lang cho bộ đội bí mật hành quân từ phía bắc vào; huy động lực lượng dân công vận chuyển lương thực, đạn dược phục vụ chiến dịch, tổ chức các tuyến quân dân y chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh. Lực lượng vũ trang tỉnh chuẩn bị sẵn sàng phương án đánh địch phối hợp với chiến dịch. Các vùng giáp với An Khê như Bình Khê, Vĩnh Thạnh nhân dân được hướng dẫn cất giấu tài sản, đào thêm hầm trú ẩn đề phòng địch phản ứng khi chiến dịch nổ ra.

Lực lượng công an, dân quân, công nhân đường sắt, đường bộ và thanh niên được huy động sửa chữa cầu cống, đường sắt và đường bộ từ đèo Bình Đê trở vào. Qua một thời gian ngắn hàng trăm cầu cống, hàng chục ki-lô-mét đường sắt, đường bộ bị địch oanh tạc hư hỏng được sửa chữa, tu bổ. Trước đây, ta phá đường để cản giặc, nay kháng chiến lớn mạnh, ta làm đường để đi đánh giặc, đúng với câu nói đầy ý nghĩa “Lật thuyền là dân, nâng thuyền cũng là dân”. Sức mạnh của nhân dân quyết định tất cả. Cầu hỏng, ta bắc cầu phao. Ban ngày tháo cầu cất giấu che mắt địch, ban đêm lắp lại cho xe qua, cho bộ đội hành quân. Ô tô không có xăng, ta cải tiến dùng than củi. Xe lửa thiếu, ta làm cam-nhông-ray, gòn đẩy tăng cường sức vận chuyển. Đêm đêm cả một hệ thống vận chuyển hàng vạn người hoạt động hối hả, chuẩn bị cho ngày mở màn chiến dịch.



Đại đội dân quân du kích xã Đập Đá trong kháng chiến chống Pháp
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:47:54 pm »

Bảo đảm cho hành lang vận chuyển bí mật, an toàn có công sức của ngành công an tỉnh. Các đội công an tiền phương, các đồn trạm công an bảo vệ được xây dựng, hoạt động và ngày càng tăng cường trên suốt tuyến hành lang Hoài Nhơn - Hoài Ân - An Lão - Phù Mỹ - Phù Cát - An Nhơn - Bình Khê - Vĩnh Thạnh. Việc giáo dục tuyệt đối giữ bí mật chiến dịch, giữ bí mật hành lang và hoạt động vận chuyển được tiến hành chặt chẽ. Ý thức bảo mật phòng gian được phổ biến quán triệt trong tất cả các lực lượng.

Trước ngày chiến dịch mở màn, tỉnh đã huy động 32.500 dân công vận chuyển lương thực, khí tài, súng đạn… cho chiến dịch. Hàng nghìn dân công hỏa tuyến gồm du kích và thanh niên dũng cảm, hăng hái cùng hành quân bám sát các đơn vị chủ lực.

Để đánh lạc hướng phán đoán của quân địch, Bộ tư lệnh liên khu triển khai một kế hoạch nghi binh cả về cơ động của chủ lực và vận chuyển chiến dịch. Lâu nay, quân Pháp thường căn cứ vào nhịp độ vận chuyển của ta để phán đoán hướng chiến dịch. Trong lúc hành lang vận chuyển lên An Khê hoạt động khẩn trương thì dân công các tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi, Quang Nam cũng triển khai mở đường, gồng gánh lương thực, đạn dược vào Khánh Hòa, lên Đắc Lắc, Công Tum, ra Quảng Nam… Trong lúc các trung đoàn 108, 803 bí mật xuất phát hành quân vào khu vực tập kết thì ngay tại nơi trú quân đã có lực lượng khác thay thế học tập huấn luyện như khi chủ lực còn ở đó.

Địch tuy có phán đoán ta sắp mở chiến dịch nhưng vẫn không biết ta sẽ mở ở đâu. Trong lúc chúng huy động cả bộ máy gián điệp kết hợp với máy bay trinh sát căng mắt dò tìm thì 1 giờ ngày 13 tháng 1, quân ta nổ súng mở màn chiến dịch. Ngay trong đêm, cứ điểm Cửu An, Tú Thủy và Tháp Canh, Eo Gió bị diệt. Quân địch ở đồn Kon Lía hốt hoảng tháo chạy. Ngày 17, trung đoàn 108 phục kích diệt tiểu đoàn sơn chiến số 8 có xe bọc thép chi viện định ra chiến lại Cửu An.

Giữa lúc quân địch còn đang lúng túng thì mờ sáng ngày 21 tháng 3, chủ lực ta quật tiếp một đòn diệt cứ điểm Thượng An và lô cốt Đầu Đèo án ngữ đường 19 trên đỉnh đèo An Khê. Cả một vòng cung lớn gồm bốn cứ điểm và hai tháp canh, lô cốt tiền tiêu chỉ trong chín ngày bị quân ta tiêu diệt. Quân dân Bình Định, nhất là quân dân Bình Khê đặc biệt hồ hởi phấn khởi. Khẩu pháo 155 ở lô cốt Đầu Đèo suốt mấy năm liền làm mưa làm gió trên làng mạc, ruộng đồng các xã Tam Bình nay đã về tay bộ đội ta. Hai nghìn người tự nguyện xung phong lên Đầu Đèo kéo pháo về. Sau bảy ngày đêm, khẩu pháo được đưa về Gò Găng (An Nhơn) cất giấu an toàn.

Các cứ điểm phòng thủ vòng ngoài bị diệt, đường phía đông và phía bắc An Khê bị trống huyếch. Tuyến phòng thủ trên đèo Mang Giang trực tiếp bị uy hiếp. Địch tăng viện cho An Khê ba tiểu đoàn và cho tàu sân bay A-rê-măng-sơ đến đậu ngoài khơi Quy Nhơn. Thấy thời cơ diệt địch vẫn còn, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho các đơn vị ấp sát đường 19 đánh tan rã tiểu đoàn 1 ngụy diệt hai đại đội. Ngày 5, quân ta chặn đánh 25 xe, diệt 5 chiếc và một đại đội dù ngụy.

Để vớt vát thể diện, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp phải ném thêm sáu tiểu đoàn tăng cường phòng thủ An Khê và điều gấp một hạm đội đặc nhiệm gồm sáu tàu chiến lớn đến bờ biển Quy Nhơn.

Đúng như dự kiến của ta, ngày 29 tháng 1, sáu tiểu đoàn quân Pháp có máy bay, pháo hạm chi viện đổ bộ lên Quy Nhơn nhằm kéo chủ lực ta về đồng bằng, giảm áp lực tấn công của quân ta ở An Khê. Thực ra khi cân nhắc các mặt lợi hại, Bộ chỉ huy đã ra lệnh kết thúc chiến dịch từ ngày 28 tháng 1.

Quân địch đặt chân lên Quy Nhơn liền gặp phải bộ đội tỉnh, huyện và du kích phối hợp, liên tục chiến đấu. Địch bị sập hầm chông, hố chông, bị trúng tên ná tẩm thuốc độc của du kích Vân Canh, tinh thần càng dao động, hốt hoảng. Sau bảy ngày, từ 29 tháng 1 đến 5 tháng 2 năm 1953, bị diệt hàng trăm tên, chúng vẫn không mở rộng được đầu cầu, phải lặng lẽ rút xuống tàu kết thúc cuộc hành quân bị động.

Chiến thắng An Khê trong đông - xuân 1952-1953 là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta ở miền Nam Trung Bộ. Nó đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang Liên khu, đặc biệt là sự lớn mạnh về tổ chức, chỉ huy, về trình độ kĩ thuật, chiến thuật đánh công sự vững chắc và sức mạnh chiến đấu của khối chủ lực. Đối với lực lượng vũ trang và nhân dân Bình Định, đây là lần đầu tiên, một lực lượng lớn được trực tiếp tham gia phục vụ chiến dịch tiến công ngay sát địa bàn tỉnh với quy mô tương đối lớn, đồng thời phối hợp tác chiến làm thất bại cuộc hành quân bị động của chúng lên Quy Nhơn. Cùng với thắng lợi to lớn của chiến dịch diệt tận gốc các căn cứ xuất phát hành quân càn quét của địch xuống Bình Định, qua việc tham gia phục vụ chiến dịch từ cán bộ, chiến sĩ đến nhân dân đều thấy mình được rèn luyện, thử thách trong thực tế kháng chiến lớn mạnh và tự hào đã góp phần nhỏ bé thắng lợi của chiến dịch.

Đánh giá thắng lợi chiến dịch An Khê, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong thư khen có đoạn: “Thắng lợi này chứng tỏ các đồng chí đã tiến bộ về chính trị cũng như về kĩ thuật sau thời kì chỉnh huấn, đặc biệt về kĩ thuật đánh điểm nhỏ, viện nhỏ…”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM