Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:31:16 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bình Định - Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975)  (Đọc 110147 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:37:10 am »

*   *
*

Trong lúc quân dân cả nước đang tập trung xây dựng cuộc sống mới thì ngày 23 thang 9 năm 1945 quân Pháp được quân Anh giúp sức trắng trợn nổ súng tiến công đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Chiến sự lan nhanh ra cả Nam Bộ.

Cuộc kháng chiến anh dũng của đồng bào Nam Bộ diễn ra ngày càng quyết liệt. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp chủ trương phải đánh mạnh quân Pháp và quyết định động viên cả nước chi viện sức người, sức của cho đồng bào Nam Bộ, lập ngay các độ quân Nam tiến và tăng cường cán bộ cho Nam Bộ.

Các đoàn quân Nam tiến trong cả nước lần lượt tiến vào Nam chiến đấu. Ở Bình Định, trung đội Đỗ Trữ thành lập từ tháng 8 năm 1945 tại Quy Nhơn được lệnh sát nhập với hai trung đội của Quảng Ngãi thành đại đội B lên đường vào chiến đấu trên mặt trận cầu Bến Phân - Lái Thiêu, Thủ Dầu Một ở miền Đông Nam Bộ. Không khí sẵn sàng chiến đấu, tồng quân giết giặc diễn ra sôi động.

Công tác chuẩn bị kháng chiến xúc tiến với nhịp độ ngày càng khẩn trương. Chi đội 2 Vệ quốc đoàn Quảng Ngãi (sau này đổi thành trung đoàn 94) được điều vào Bình Định, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Đầu tháng 11 năm 1945, tiểu đoàn Tăng Bạt Hổ tuyển quân bổ sung thành ba đại đội hoàn chỉnh: Huỳnh Lịch, Huỳnh Mậu và Cao Thắng. Sau đó, đại đội Cao Thắng bổ sung quân số thành tiểu đoàn và được lệnh vào tăng cường cho Phú Yên, sẵn sàng đánh địch từ đèo Cả ra và Đắc Lắc xuống.

Ở thành phố Quy Nhơn, từ sau ngày tổng khởi nghĩa vẫn còn một trung đội quân Nhật gồm 50 tên đóng ở nhà băng Đông Dương. Dưới sự chỉ huy của phái bộ quân Anh ở Nha Trang, ngày 10 tháng 12 năm 1945(1), một tàu chiến chở 150 lính Nhật tiến vào đảo Cù Lao Xanh với âm mưu phối hợp cùng trung đội lính Nhật đóng ở nhà băng Đông Dương tiến công đánh chiếm thành phố, lập đầu cầu cho quân Pháp đổ bộ lên Quy Nhơn.

Bọn Nhật trên tàu chiến xin chính quyền tỉnh cho chúng lên Quy Nhơn để liên hệ với số quân đóng ở nhà băng. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đề cao cảnh giác nên chỉ cho một sĩ quan và ba tên lính được lên bờ nhưng không mang theo vũ khí. Chúng buộc phải chấp hành mệnh lệnh của ta.

Về phía lãnh đạo tỉnh, căn cứ vào diễn biến chiến sự do quân Pháp mở cuộc tiến công ra các tỉnh bạn, tình hình khẩn trương đặt ra là phải giải quyết dứt điểm số quân Nhật ở nhà băng được khẩn trương triển khai chuẩn bị. Đại đội Phan Đình Phùng được tăng cường một khẩu pháo 75mm, mất kim hỏa nhận nhiệm vụ tiến công nhà băng. Đại đội Ngô Quyền cùng lực lượng tự vệ bố trí sẵn sàng đánh địch đổ bộ. Trận đánh do hai đồng chí Lê Hương và Nguyễn Chính Cầu chỉ huy.

Trước tình hình quân Nhật có lợi thế dựa vào tường nhà kiên cố bằng bê tông lại có hỏa lực mạnh, trong lúc quân ta chỉ có một số súng trường, lựu đạn và vũ khí bạch binh, khẩu pháo 75 được tăng cường có đạn nhưng không có kim hỏa. Tình thế thật khó khăn trước nhiệm vụ nặng nề.

Ngay trong đêm 12 tháng 12 năm 1945, đại đội Phan Đình Phùng triển khai đội hình bao vây quân Nhật. Với khẩu pháo 75 - hỏa lực quan trọng nhưng không có kim hỏa. Đồng chí Nguyễn Bá Phát có sáng kiến dùng đinh chữ T và búa để thay kim hỏa.

Chuẩn bị chiến đấu xong, lệnh nổ súng được phát ra. Các chiến sĩ đồng loạt bắn vào các cửa nhà băng. Quân Nhật có công sự kiên cố đánh trả quyết liệt. Thấy đã đến lúc cần phải sử dụng hỏa lực, chiến sĩ Từ Công Kế cầm đinh chữ T đặt đúng hạt nổ rồi dùng búa đập mạnh vào đinh. Pháo nổ, quả đạn lao vào bức tường, phá một mảng lớn. Thấy đã thành công, anh bắn tiếp quả thứ hai rồi thứ ba. Khi bức tường kiên cố bị pháo ta bắn sập, quân Nhật bắt đầu dao động. Chỉ huy trận đánh ra lệnh xung phong. Các chiến sĩ Phan Đình Phùng tràn vào, vừa bắn vừa gọi hàng. Quân nhật kéo cờ trắng xin hàng. Kết quả, ta diệt và bắt toàn bộ 50 tên Nhật, cả tên quan từ vừa ở tàu lên cũng bị thương nặng, thu toàn bộ vũ khí, đạn dược và bảy triệu đồng Đông Dương.

Phát huy thắng lợi, các chiến sĩ quay nòng pháo bắn vào chiếc tàu chiến đang đậu ngoài khơi mấy phát liền. Tuy không trúng tàu, nhưng bọn chỉ huy hoảng sợ, cho tày chạy về phía Nam.

Trận đánh nhà băng Đông Dương Quy Nhơn thắng lợi đã đập tan âm mưu xảo quyệt của thực dân Pháp trong việc dùng quân Nhật lập đầu cầu tiến công để đánh chiếm Bình Định. Trận đánh mở đầu thắng lợi đã biểu hiện tinh thần dũng cảm, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ ta. Chiến thắng nhà băng Đông Dương do nhiều nhân tố hợp thành, nhưng vai trò chủ yếu là ý chí quyết tâm giành chiến thắng và lòng quả cảm của cán bộ chiến sĩ ta là có ý nghĩa quyết định.

Tin Vệ quốc đoàn Quy Nhơn đánh thắng Nhật ở nhà băng bay đi khắp nơi càng cổ vũ quần chúng Bình Định phấn khởi đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến.

Trong lúc quân dân trong tỉnh khẩn trương chuẩn bị chiến đấu, thì đồng chí Võ Nguyên Giáp, đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ vào các tỉnh Nam Trung Bộ truyền đạt chủ trương: Tích cực chuẩn bị kháng chiến, triển khai mọi mặt sẵn sàng ứng phó khi địch đánh rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ.

Đến Bình Định, nghe báo cáo về tình hình chuẩn bị kháng chiến của tỉnh và kết quả trận đánh thắng quân Nhật, đồng chí thay mặt Đảng và Chính phủ biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của các chiến sĩ tham gia trận đánh. Đồng chí truyền đạt chủ trương trường kì kháng chiến của Đảng, hướng dẫn một số ý kiến về cách bố trí phòng thủ và vận dụng cách đánh, đặc biệt nhấn mạnh cách đánh du kích và công tác phá hủy để kháng chiến.

Phong trào tòng quân giết giặc vốn đã sôi nổi càng thêm náo nức, nhiều nam nữ thanh niên xung phong vào bộ đội. Nhiều đơn vị mới được thành lập. Tại Quy Nhơn đã thành lập đơn vị thủy quân Bạch Đằng với hơn 100 chiến sĩ sẵn sàng tham gia chiến đấu. Tỉnh tổ chức một số đơn vị mạnh tham gia các đoàn quân Nam tiến vào chiến đấu ở mặt trận Khánh Hòa và Tây Nguyên.

Tháng 1 năm1946, Ủy ban kháng chiến miền nam Việt Nam được thành lập. Một loạt công tác quân sự được chấn chỉnh. Ở Bình Định, các lớp bồi dưỡng cán bộ trung đội được mở ở Phú Phong, Tam Quan. Cán bộ huyện, xã được tỉnh tổ chức bồi dưỡng về quân sự, chính trị. Hệ thống chỉ huy quân sự ở địa phương được kiện toàn. Ủy ban các cấp đều cử ra một ủy viên quân sự chuyên trách công tác dân quân tự vệ và lo việc bố phòng trong địa phương. Đồng chí Trịnh Văn Duy được cử làm trưởng ban dân quân tỉnh. Lực lượng dân quân tự vệ được xác định làm một lực lượng chiến lược.

Các lớp y tá, cứu thương đầu tiên được tổ chức ở Phú Phong, thành Bình Định. Khi chiến sự xảy ra ở Buôn Ma Thuột, một hệ thống bệnh xá từ Pleiku, An Khê đến Phú Phong, Bồng Sơn được thành lập. Hệ thống dân y viện và quân y viện được tổ chức song song, kết hợp chặt chẽ với nhau. Công binh xưởng Quang Trung và Cao Thắng, tổ chức ca kíp làm việc ngày đêm, mở rộng việc sản xuất, sửa chữa vũ khí.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công việc chuẩn bị kháng chiến, hệ thống tổ chức Đảng từ cơ sở đến huyện được khôi phục(2). Các ban cán sự huyện được thành lập.

Về tổ chức chính quyền, tháng 3 năm 1946, theo chủ trương của Đảng và Chính phủ, các xã sáp nhập thành xã lớn, bỏ cấp tổng, đổi phủ thành huyện và lấy tên Ủy ban hành chính thay cho Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Các đoàn thể cứu quốc được kiện toàn thành hệ thống từ cơ sở đến tỉnh, tiểu biểu là thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc.

Trước âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của quân viễn chinh Pháp ra các tỉnh Nam Trung Bộ, quân dân Bình Định không một chút lơi lỏng cảnh giác, ra sức tiếp tục kiên toàn mọi công tác chuẩn bị kháng chiến.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH, phần chú thích, ta nổ súng 21 giờ 30’ ngày 8/12/1945.
(2) Từ khi giành được chính quyền đến tháng 3 năm 1946, mọi công việc đều do các Ủy ban Việt Minh lãnh đạo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:39:09 am »

2 - KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI CHIẾN ĐẤU ĐÁNH BẠI KẾ HOẠCH LẤN CHIẾM CỦA ĐỊCH Ở VÙNG PHÍA TÂY TỈNH

Cuối tháng 2 năm 1946, kế hoạch thôn tính miền Nam trong mấy tuần lễ của thực dân Pháp bị thất bại. Hiệp ước Pháp - Hoa được bí mật kí kết, thỏa thuận cho quân Pháp vào miền Bắc nước ta, không kể gì đến chủ quyền dân tộc của Việt Nam.

Tình thế cực kì phức tạp, chúng buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Trước tình hình đó, Bác Hồ và Trung ương Đảng chủ trương “hòa để tiến” và Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 được kí kết giữa ta và Pháp. Chủ trương “hòa để tiến” là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta nhằm gạt quân Tưởng, tập trung vào kẻ thù chủ yếu của thực dân Pháp, đồng thời tạo điều kiện tranh thủ thời gian tiếp tục chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Ở Bình Định, lợi dụng thời gian hòa hoãn, quân dân toàn tỉnh ra sức tranh thủ củng cố, xây dựng lực lượng làm cơ sở phát triển chiến tranh du kích. Lúc này, lực lượng chủ lực được xây dựng trên quy mô lớn. Các đại đội chủ lực ra đời(1). Đại đoàn 23 gồm các trung đoàn 94, 95 và 97 đứng chân trên địa bàn Bình Định phụ trách mặt trận Tây Nguyên.

Ngày 22 tháng 5 năm 1946 theo sắc lệnh số 71/SL của Chính phủ, Vệ quốc đoàn chính thức đổi thành quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa(2) thống nhất biên chế trong các đơn vị trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội (thay cho chi đội, phân đội). Toàn quốc được chia thành 12 chiến khu. Miền Nam Trung Bộ có hai chiến khu 5 và 6. Tỉnh Bình Định thuộc chiến khu 5.

Tăng cường Đảng lãnh đạo quân đội, hệ thống tổ chức Đảng và công tác chính trị được tổ chức thống nhất từ trên xuống dưới, thành lập chi bộ Đảng trong các đơn vị quân đội. Từ cấp trung đội đến trung đoàn đều có chính trị viên đảm nhiệm công tác Đảng và công tác chính trị trong đơn vị. Công tác huấn luyện quân sự được đẩy mạnh. Về đảm bảo hậu cần, lúc bấy giờ việc nuôi dưỡng bộ đội hoàn toàn dựa vào dân. Bộ đội đóng nơi nào, chính quyền đoàn thể và nhân dân ở đó lo việc cung cấp lương thực, thực phẩm. Hội phụ nữ thay phiên nhau lo việc ăn uống cho bộ đội. Nhân dân dành dụm, quyên góp tiền gạo để nuôi quân. Tình cảm quân dân thật đậm đà, thắm thiết. Có gia đình chỉ ăn khoai để dành cơm cho bộ đội.

Công ơn của nhân dân đối với bộ đội thật vô cùng to lớn và sâu nặng. Bộ đội cũng hết lòng vì nhân dân. Không có việc gì của dân mà không có bộ đội tham gia. Anh bộ đội ở đâu cũng thực hiện kính già, yêu trẻ, nhà sạch, nước đầy. Chăm sóc các cháu là công việc bình thường của bộ đội khi đóng quân trong nhà dân. Anh bộ đội Cụ Hồ - cái tên gọi cao quý và trìu mến của các chiến sĩ là do nhân dân ưu ái đặt cho. Suốt các thế hệ người lính không ngừng phấn đấu để giữ trọn niềm tin của Bác, của Đảng, của dân. Nhân dân ta mãi mãi tự hào về quân đội của mình, về anh bộ đội Cụ Hồ, những người mà họ đặt trọn niềm tin và lòng yêu thương!

Tháng 5 năm 1946, Chính phủ ban hành chế độ “đảm phụ quốc phòng” để toàn dân thực hiện. Hệ thống tài chính, quân nhu chuyên lo nuôi dưỡng, cung cấp cho bộ đội được tổ chức từ trên xuống dưới. Công tác hậu cần tuy vẫn phải dựa vào nhân dân, nhưng từ đó được xây dựng từng bước đi vào nền nếp.

*   *
*

Trong lúc cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô sắp sửa khai mạc thì ngày 21 tháng 6 năm 1946, quân Pháp mở cuộc hành quân lớn tiến công ra các tỉnh Tây Nguyên. Các trung đoàn chủ lực ta kết hợp với dân quân du kích và đồng bào các dân tộc thiểu số ngăn chặn địch quyết liệt.

Tháng 5 năm 1946, trung đoàn 95 (tức chi đội Phan Đình Phùng) đã có mặt ở An Khê. Khi quân địch mở cuộc tiến công từ Buôn Ma Thuột, phá vỡ phòng tuyến Buôn Hồ, đánh rộng ra Pleiku và An Khê, trung đoàn 95 hành quân lên Buôn Huỳnh bắt liên lạc và phối hợp với chi đội 5 Gia Lai và chi đội 2 Nam tiến đánh vào Buôn Tung Thang (25.6.1946). Trận đánh không dứt điểm vì bị lộ, nhưng cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 95 đã thể hiện tinh thần chiến đấu quả cảm và bước đầu rút ra được một số kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy chiến đấu.

Do so sánh lực lượng địch ta quá chênh lệch, cuộc chiến đấu ở Tây Nguyên chưa được chuẩn bị, hơn nữa về tác dụng chiến thuật, về tổ chức chỉ huy chiến đấu, cán bộ ta còn non yếu chưa có kinh nghiệm nên phải rút lực lượng khỏi An Khê ngày 8 tháng 4 năm 1946.

Địch chiếm An Khê. Miền Tây của tỉnh bị uy hiếp. Các đơn vị thuộc trung đoàn 95 kết hợp với đại đội du kích tập trung huyện Bình Khê cùng nhân dân các xã Bình Giang, Bình Quang, Bình Tường khẩn trương xây dựng phương án tác chiến, lập trận địa phòng thủ chặn địch ở nam - bắc đèo An Khê.


(1) Sau một thời gian, tổ chức đại đoàn không phù hợp với tình hình và điều kiện mọi mặt lúc đó nên được giải thể.
(2) Theo LỊCH SỬ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - Nhà xuất bản Quân đội tr. 234.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:40:32 am »

Nhận thức được tầm quan trọng của con đường 19 - trục cơ động tác chiến bằng cơ giới và bộ binh địch từ An Khê xuống Bình Định, phối hợp với lực lượng trung đoàn 95, dân quân du kích và nhân dân trong toàn huyện Bình Khê không kể ngày đêm, khẩn trương phá bỏ các cầu cống lớn nhỏ và đào hố, đắp ụ trên suốt con đường. Đặc biệt là đoạn từ Vườn Xoài đến Phú Phong. Các tuyến chiến đấu được thiết lập(1). Tuyến 1 từ Vườn Xoài sang Truông Ổi, Tiên Thuận, Định Quang đến đèo Bồ Bồ, có các vọng tiêu Hang Dơi, Định Nhì. Tuyến 2 từ đèo Đất Đỏ (cuối xã Bình Giang) đến Núi Ngang, Núi Một, Bình Tường và đầu xã Bình Thành. Tích cực chuẩn bị chiến đấu trên vùng đất nóng bỏng này, các thị trấn đông dân như Phú Phong, Đồng Phó, cả xưởng dệt Phú Phong được tổ chức tản cư và di chuyển sang phía bắc Sông Côn.



Xưởng dệt của công ti dệt Thắng Lợi ở Đập Đá trong kháng chiến chống Pháp

Tháng 11 năm 1946, đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội vụ vào miền Nam Trung Bộ kiểm tra tình hình, chuẩn bị kháng chiến. Đồng chí Phạm Văn Đồng được Đảng và Chính phủ cử làm đại diện phụ trách miền Nam Trung Bộ. Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam được giải thể. Ban quân sự các tỉnh được thành lập. Đồng chí Vi Dân, trung đoàn trưởng trung đoàn 95 được chỉ định làm trưởng ban quân sự tỉnh Bình Định.

Trung đoàn 95 nguyên là chi đội Phan Đình Phùng, cũng là chi đội 3 - con em ruột thịt của nhân dân Bình Định qua thử thách trong chiến đấu những ngày đầu đã có bước tiến bộ. Qua củng cố, bổ sung, đơn vị từng bước trưởng thành, đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ quê hương trên vùng đất nóng bỏng ở phía tây của tỉnh.

Công việc tổ chức chuẩn bị chiến đấu vừa xong thì ngày 21 tháng 12 năm 1946, quân Pháp từ An Khê lần đâu tiên chia làm nhiều cánh vượt núi kéo xuống Vườn Xoài, Đồng Phó (Bình Giang) và Vĩnh Thạnh (Bình Quang) nhằm đánh phá hậu phương kháng chiến của ta, tạo thế an toàn cho chúng ở An Khê, đồng thời thăm dò lực lượng ta để nếu có điều kiện thì lập đầu cầu tiến công đánh xuống vùng trung châu của tỉnh.

Các đơn vị thuộc trung đoàn 95 cùng du kích địa phương dựa vào các tuyến chiến đấu chặn đánh địch quyết liệt ở Vườn Xoài, Đồng Phó, Vĩnh Thạnh. Trung đoàn còn sử dụng một tiểu đoàn thọc sâu hoạt động du kích chung quanh căn cứ An Khê và đoạn đường 19 từ Thượng An đến ngã ba An Khê đi Cửu An, Tú Thủy, đánh vào phía sau của địch.

Bị đánh mạnh ở cả phía trước và căn cứ hậu phương, quân địch vội vã đốt một số nhà dân rồi tổ chức rút lui. Trong trận này, địch bắn phá làm chết một số dân, 63 ngôi nhà bị đốt.

Ngay trên đầu đèo An Khê, chúng đặt một khẩu pháo 155 thường xuyên bắn phá vào các xã Bình Giang, Bình Tường, Bình Quang, nặng nhất là các vùng Đồng Tre, Đồng Tràm, Đồng Vắt, Đồng Hào, Định Quang, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Phúc. Nhiều đồng bào bị chết, nhiều trâu bò bị giết vì khẩu pháo này. Có trường hợp cả gia đình đang ăn cơm bị pháo bắn không còn một ai sống sót.

Sau trận chống càn đầu tiên thắng lợi, các đơn vị rút kinh nghiệm trận đánh, nghiên cứu các đường mòn địch hành quân, bố trí chông, mìn trên tất cả các dốc Định Nhì, Suối Sem, Tà Mun, Dốc Vắn, Kon Roi, v.v…

Một năm đã trôi qua tính từ ngày khởi nghĩa thắng lợi, tuy quân Pháp lần đầu đặt chân lên đất Bình Định đã bị quân dân trong tỉnh đánh bại và cuộc kháng chiến thực sự đã bắt đầu.


(1) Thời gian này, ta chưa có kinh nghiệm chiến đấu nên bố trí phòng thủ dưới hình thức phòng tuyến.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:41:18 am »

*   *
*

Tháng 11 năm 1946, tình hình trên cả nước càng khẩn trương hơn khi quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà. Đặc biệt nghiêm trọng là việc chúng đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn (20.11.1946).

Ngày 18 và 19 tháng 12, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng bất thường dưới sự chủ tọa của Bác Hồ, quyết định phát động cả nước đứng lên kháng chiến, đồng thời đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Đêm 19 tháng 12, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Sáng ngày 20 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hai ngày sau (22.12.1946), Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “toàn dân kháng chiến” - cương lĩnh cách mạng của Đảng và dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng 1 năm 1947, Bác Hồ gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi “phá hoại để kháng chiến” và “kiên quyết tản cư”.

Theo lời kêu gọi của Bác, Tỉnh ủy và Ủy ban kháng chiến tỉnh họp quyết định: trước mắt phải tập trung phá hủy thành Bình Định, thị xã Quy Nhơn, xưởng dệt Phú Phong, đề pô xe lửa Diêu Trì, v.v… là những nơi có thành lũy, nhà cửa kiên cố, địch có thể dựa vào đó xây dựng các căn cứ quân sự khi tiến công chiếm đóng. Các đường chiến lược như đường 1, đường 19 phải phá bỏ các cầu cống, đào hào, đắp ụ… Đối với cầu Bồng Sơn, trường hợp khẩn cấp có lệnh mới phá.

Thành Bình Định đồ sộ, rộng lớn là vậy nhưng chỉ một thời gian ngắn đã bị san bằng. Xưởng dệt Phú Phong, đề pô xe lửa Diêu Trì theo kế hoạch đều được phá hủy triệt để.

Ở Quy Nhơn, trừ phố Gia Long hầu hết là nhà của Hoa kiều và tòa giám mục được để lại, còn tất cả các công sở, cơ quan và những ngôi nhà lớn kiên cố đều được phá vỡ hoặc đánh sập. Ai có mặt ở thị xã thời kì này mới thấy hết được sự hi sinh của nhân dân. Quy Nhơn to lớn biết chừng nào! Không có lòng yêu nước nồng nàn, không có ý chí, quyết tâm cao khó có thể làm được.

Quyết tâm kháng chiến của người dân Bình Định là như vậy! Đó còn là biểu hiện lòng tin tuyệt đối của nhân dân vào Đảng, vào Bác Hồ, tin tưởng tuyệt đối và thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Chuẩn bị đánh địch không chỉ có phá hủy, thực hiện “vườn không nhà trống” mà còn phải tổ chức sẵn các tuyến chiến đấu, với trận địa, công sự, hầm hào, vật chướng ngại ỏ những vùng xung yếu. Dựa vào địa thế thuận lợi, lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh tổ chức nhiều trận địa hiểm hóc ở các vùng chợ Gồm, đèo Phủ Cũ, đèo Nhông, đèo Bình Đê, Núi Ngang - Núi Một, Hòn Sưng… Các trận địa ở Tam Bình được bổ sung củng cố.

Ở Quy Nhơn, phương án tác chiến được tiến hành song song với việc cấu trúc công sự ven biển, ven đầm Thị Nại đánh quân đổ bộ. Các tường nhà phố Gia Long được đục thông, tạo thành hành lang cơ động chiến đấu khi có chiến sự.

Các vùng ven biển trong tỉnh đều được chuẩn bị sẵn sàng đánh quân đổ bộ đường biển. các bãi trống, gò nổng địch có thể nhảy dù đều được cắm cọc nhọn và xây dựng các ổ chiến đấu đánh quân dù.

Việc xây dựng làng chiến đấu bước đầu được triển khai, đặc biệt là ở các vùng miền núi. Đồng bào Ba Na ở các làng Sò Đo, Kon Hai, Kon Dơn, Kon Lò, Cha O, Tà Điệt, v.v… ở Vĩnh Thạnh và các làng ở An Lão, Vân Canh với sở trưởng sử dụng vũ khí thô sơ thực hiện rào làng bằng hệ thống chông thò, cạm bẫy đã phát huy tác dụng lớn trong đánh địch càn quét sau này. Một số vùng xung yếu như Quy Nhơn, Phú Phong Đồng Phó… được tổ chức tản cư triệt để hoặc có mức độ theo diễn biến của tình hình.

Thế trận chiến đấu tại chỗ từng bước được hình thành.

Guồng máy kháng chiến sôi động, hối hả.

Tháng 2 năm 1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi đều được tổ chức và dân quân tự vệ, đồng thời quy định nhiệm vụ của dân quân, tự vệ và du kích. Cùng lúc, Bộ Tư lệnh Khu 5 ra chỉ thị về củng cố hệ thống tổ chức, chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương thống nhất từ tỉnh đến huyện, xã. Các cơ quan quân sự tỉnh đội, huyện đội, xã đội được thành lập. Ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định do các đồng chí Lê Văn Đức làm tỉnh đội trưởng, Lê Bôi chính trị viên, Chung Hưởng tỉnh đội phó.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:42:25 am »

Lúc này ở mỗi xã, ngoài lực lượng dân quân đều tổ chức từ một đến hai trung đội du kích. Mỗi huyện có từ một đến hai đại đội du kích tập trung. Ở Hoài Nhơn có đại đội vũ trang tập trung Võ Liệt, hình thức tổ chức bộ đội địa phương đầu tiên trong tỉnh. Trung đoàn dự bị bổ sung và đại đội Tây Sơn trực thuộc tỉnh được thành lập, đội bạch đầu quân, thiếu niên quân, hội mẹ chiến sĩ ra đời hoạt động khắp thôn xóm.



Đội bạch đầu quân luyện tập tham gia đánh giặc bảo vệ vùng tự do – 1950

Lúc bấy giờ bộ đội chủ lực ở Bình Định có trung đoàn 94 (chi đội 2) và trung đoàn 95 (chi đội 3). Trung đoàn 95 do các đồng chí Vi Dân làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Minh chính trị viên phụ trách mặt trận Tam Bình và phía nam tỉnh. Trung đoàn 94 do các đồng chí Trương Cao Dũng làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Lịnh chính trị viên phụ trách phía bắc và các vùng ven biển.

Thực hiện đánh quân địch ngay từ trong hậu phương chúng, ban chỉ huy trung đoàn 94 và 95 đưa một số đơn vị luân phiên hoạt động sâu trong vùng địch. Đây còn là nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Khu 5 giao cho hai trung đoàn trong mối quan hệ giữa hai tỉnh Gia Lai và Bình Định.

Dựa vào núi rừng hiểm trở, các đơn vị được lệnh tổ chức căn cứ ngay trên địa bàn An Khê để đánh địch. An Khê được coi là chiến trường hoạt động, tác chiến thường xuyên của lực lượng vũ trang Bình Định. Căn cứ Xóm Ké trong núi Ông Bình cách đồn Thượng An, Cửu An chỉ mấy ki-lô-mét, được xây dựng và duy trì suốt cuộc kháng chiến chống Pháp mà quân địch không làm gì được.

Bộ đội chủ lực ở Bình Định lên An Khê hoạt động còn có ý nghĩa đánh phá bàn đạp, nơi xuất phát các cuộc hành quân càn quét của địch xuống vùng giáp ranh, thường xuyên uy hiếp, gây mất ổn định trong hậu phương địch, đồng thời tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở địa phương.

Phương châm hoạt động tác chiến của các đơn vị là dựa vào dân, vận dụng cách đánh du kích trên địa bàn rừng núi, thực hiện tiêu hao địch rộng rãi. Khi có điều kiện thì tập trung lực lượng tổ chức các trận đánh quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn.

Trên phương hướng đó, đêm 29 tháng 12 năm 1946, quân ta bao vây quấy rối các cứ điểm Thượng An, Cửu An, An Thạch… Ngày hôm sau (30/12), một đơn vị thuộc trung đoàn 95 phục kích chặn đánh một đoàn xe cơ giới và 70 tên địch. Cứ thế những trận đánh nhỏ lẻ liên tiếp diễn ra. Phong trào chiến tranh du kích ở An Khê ngày càng phát triển.

Để gây chấn động lớn trong vùng, sau khi nghiên cứu, ban chỉ huy tiêu diệt 95 hạ quyết tâm tiến công tiêu diệt cứ điểm Tú Thủy.

Tú Thủy là một cứ điểm kiên cố đại đội tăng cường nằm trong hệ thống cứ điểm vòng ngoài của căn cứ An Khê - Một căn cứ xuất phát hành quân của địch mỗi khi chúng càn xuống Đinh Quang, Vĩnh Thạnh. Thực hiện quyết tâm, trung đoàn tổ chức một đại đội quyết tử do trung đoàn trưởng Vi Dân trực tiếp tổ chức chiến đấu và chỉ huy trận đánh.

Đêm 14 tháng 3 năm 1947, khi bộ đội triển khai đội hình tiếp cận, do không giữ được bí mật, quân địch phát hiện và cho quân ra vị trí. Khi ta nổ súng, chúng dùng các loại hỏa lực ngăn chặn quyết liệt. Mặc dù mất yếu tố bí mật, bất ngờ, cán bộ, chiến sĩ quyết tử vẫn lao lên xung phong với tinh thần dũng mãnh vô song. Đơn vị bị thương vong nặng. Trung đoàn trưởng Vi Dân hi sinh. Trận đánh không đạt, nhưng đã để lại một ấn tượng sâu sắc về tinh thần anh dũng tuyệt vời của người chiến sĩ Việt Nam trong nhân dân toàn tỉnh. Ngay quân địch cũng hết sức khâm phục hành động chiến đấu hi sinh của các chiến sĩ quyết tử. Số tử sĩ trong đó có trung đoàn trưởng Vi Dân không đưa ra được, quân địch tổ chức chôn cất theo nghi lễ quân sự. Đối với đồng chí Vi Dân, chúng xây mộ và dựng bia trân trọng tỏ lòng khâm phục người chỉ huy anh dũng của Việt Minh.

Trận thất bại ở Tú Thủy đem lại nhiều kinh nghiệm quý cho trung đoàn về vận dụng chiến thuật và tổ chức trận đánh. Thực ra cho đến lúc đó, bộ đội ta còn ấu trí về nhiều mặt, thiếu vũ khí, hỏa lực, non yếu cả về tổ chức, chỉ huy. Bộ đội ta chỉ có một thứ, đó là ưu thế tuyệt đối về tinh thần chiến đấu so với quân địch. Đánh địch trong công sự vững chắc, ta đang trong thời kì ấu trĩ cả về vũ khí - kĩ thuật và phương pháp tác chiến.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:42:59 am »

Sau trận Tú Thúy, trung đoàn 95 được bổ sung quân số kiện toàn thành 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 1 do đồng chí Đức Thanh làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 2 do đồng chí Mộng Dựt tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 3 đồng chí Nhiều tiểu đoàn trưởng. Đồng chí Võ Văn Dật được quyết định bổ nhiệm trung đoàn trưởng thay đồng chí Vi Dân cùng các đồng chí Trần Lương chính ủy, Võ Thứ trung đoàn phó chỉ huy trung đoàn.

Lợi dụng lúc ta đang củng cố, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét xuống vùng giáp ranh Bình Định.

Từ cuối tháng 6 năm 1947, chúng tập trung từ Tây Nguyên về An Khê hơn 1.500 quân. Ngày 27 tháng 6, chúng đưa ra Cửu An, Eo Gió, An Thạch gần 1.000 quân, ra Thượng An hơn 500 quân với hai xe tăng chuẩn bị tiến công xuống Bình Định.

Mờ sáng ngày 2 tháng 7 năm 1947, với sự chi viện tối đa của máy bay và pháo binh bắn dọn đường, quân địch chia làm ba cánh vượt đèo tiến xuống Bình Định.

Cánh thứ nhất từ Cửu An đánh xuống Định Nhì, Định Quang.

Cánh thứ hai cũng từ Cửu An, Eo Gió tiến xuống Đồng Hào, Tiên Thuận và đèo Bồ Bồ.

Cánh thứ ba - cánh chủ yếu - theo đường 18 từ Thượng An, đầu đèo xuống Vườn Xoài, Đồng Phó, Phú Phong, Kiên Mỹ.

Trước tình hình địch mở tiến công lớn, các ban chỉ huy trung đoàn 94, 95 và ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định được tình báo và trinh sát qua tin tức của cơ sở báo cáo về, đã thống nhất kế hoạch đối phó:

- Sử dụng lực lượng bộ đội và du kích tại chỗ đánh mạnh từng phân đội nhỏ tích cực ngăn chặn địch ngay từ đầu, thực hiện tiêu hao, tiêu diệt từng tốp nhỏ quân địch.

- Tổ chức cho nhân dân lánh cư, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho đồng bào ở mức cao nhất, đồng thời thực hiện “vườn không nhà trống”, không địch địch cướp bóc.

Trung đoàn 95, lực lượng chủ yếu ở Tam Bình triển khai ngay phương án chiến đấu.

Tiểu đoàn 3 cơ động do tiểu đoàn trưởng Nhiều và trung đoàn phó Võ Thứ chỉ huy nhanh chóng vận động lên Kiên Mỹ chiếm lĩnh trận địa chuẩn bị đánh địch.

Tiểu đoàn 2 do trung đoàn trưởng Võ Văn Dật trực tiếp chỉ huy đánh địch tại khu vực đèo Bồ Bồ.

Tiểu đoàn 1 cùng đại đội Tây Sơn (tỉnh đội Bình Định) nhanh chóng theo đường núi qua đèo An Khê đánh địch chốt giữ hành lang đường 19.

Mệnh lệnh chiến đấu được nhanh chóng truyền đạt khắp các đơn vị, địa phương.

Cánh quân đi giữa của địch vừa đến Tiên Thuận đã gặp ngay các chiến sĩ đại đội 7 tiểu đoàn 53 trung đoàn 94 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 95 bố trí chặn đánh diệt nhiều tên. Chúng dừng lại củng cố. Sáng ngày 3, chúng vượt sông Hà Riêu (sông Côn) tiến lên đèo Bồ Bồ định càn xuống Thuận Ninh. Chúng không ngờ đại đội 10 thuộc trung đoàn 95 đã bố trí trận địa phục kích gần đỉnh đèo. 8 giờ sáng, khi chúng vừa lọt vào trận địa, các chiến sĩ giật mìn và nổ súng, đồng loạt xung phong. Bị đánh bất ngờ, cánh quân này tan rã phải tháo chạy trở lại, 150 tên bỏ xác tại đỉnh đèo.

Cánh chủ yếu của địch theo đường 19 từ Vườn Xoài qua Đồng Phó xuống Phú Phong, đi đến đâu cũng bị bộ đội và dân quân du kích bám đánh, phần bị vấp mìn làm nhiều tên chết và bị thương. Chúng vào Phú Phong với cảnh đổ nát “nhà không vườn trống” không một bóng người, sục vào xóm thì bị vướng mìn, sa hố chông càng thêm khiếp đảm. Cánh quân sang Kiên Mỹ gặp tiểu đoàn 3 cơ động của trung đoàn vừa hành quân lên đánh cho tan tác phải rút về Phú Phong, cùng bọn này rút qua Hoành Sơn về Đồng Tràm.

Cánh quân xuống Định Nhì, Định Quang bị các đơn vị thuộc trung đoàn 94 chặn đánh ở Vĩnh Phúc, Vĩnh Cử, Định Nhì gây cho chúng nhiều thiệt hại cũng phải rút luôn.

Trong khi các cánh quân càn quét phía trước bị đánh tan thì hành lang đường 19 từ đầu đèo lên ngã ba Thượng An bị tiểu đoàn 1 và đại đội Tây Sơn gài mìn đánh xe tiếp tế, đánh quân chốt đồng và các toán tuần tiễu làm chúng nơm nớp lo sợ.

Qua bốn ngày, quân Pháp với máy bay, pháo binh và 1.500 quân tiến công định chiếm đóng vùng phía tây làm bàn đạp đánh ra toàn tỉnh, đã không thực hiện được ý định, phải rút về với thiệt hại tương đối lớn. Về phía tay, tuy chưa thực hiện được những trận đánh tiêu diệt, nhưng các đơn vị và dân quân du kích đã vận dụng cách đánh du kích đều khắp, rộng rãi, diệt được địch, bảo vệ được tính mạng, tài sản của nhân dân.

Sau ngày 6 tháng 7, vùng giáp ranh Tam Bình không còn bóng một tên xâm lược. Đồng bào phấn khởi trở về tiếp tục xây dựng cuộc sống mới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:44:12 am »

*   *
*

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị cán bộ của Trung ương Đảng tháng 4 năm 1947, nhằm thực hiện “Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài… vừa kháng chiến vừa kiến quốc và lập nền kinh tế tự túc… vừa kháng chiến, vừa dựng lên một nền văn hóa mới… nắm vững và rèn luyện bộ đội. Cương quyết chuyển sang du kích vận động chiến”(1), cùng với sự chỉ đạo của đồng chí Phạm Văn Đồng và Khu ủy, Tỉnh ủy Bình Định, song song với lãnh đạo chiến đấu không lúc nào xem nhẹ việc xây dựng vùng tự do.

Quân Pháp sau những tháng tiến công ồ ạt phải dừng lại củng cố. Tham vọng thì lớn nhưng khả năng của chúng có hạn. Chúng muốn đánh chiếm cả các tỉnh miền Nam Trung Bộ, nhưng nhiều lần tiến công thất bại phải dừng lại đèo Cả ở phía nam, An Khê ở phía tây và Hương An ở phía bắc. Vùng tự do rộng lớn - hậu phương chiến lược trực tiếp của miền Nam Trung Bộ gồm phần phía nam tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

Bình Định - một địa bàn chiến lược cả về kinh tế và quân sự, là một tỉnh tự do trọn vẹn của Khu 5, là một vùng hậu phương quan trọng chẳng những đối với cuộc kháng chiến trong tỉnh mà còn đối với cả miền Nam Trung Bộ, trực tiếp là Gia Lai - Kon Tum.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy, đầu năm 1947, Đảng bộ Bình Định mở đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất tại thành Bình Định. Đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tham gia lãnh đạo Đại hội. Đại hội thảo luận quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Trung ương và đề ra những chủ trương trước mắt và lâu dài, tập trung vào hai nhiệm vụ chủ yếu là chiến đấu bảo vệ và xây dựng vùng tự do. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí thay cho Tỉnh ủy lâm thời trong cách mạng Tháng Tám do đồng chí Trần Lê làm bí thư.

Về chính quyền, theo chủ trương của Trung ương, bên cạnh Ủy ban hành chính các cấp, lập thêm hệ thống Ủy ban kháng chiến. Sau đó hợp nhất hai hệ thống thành Ủy ban hành chính kháng chiến các cấp từ tỉnh đến cơ sở.

Hưởng ứng phong trào “Thi đua ái quốc”, “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xưởng, Tỉnh ủy phát động phong trào tăng gia sản xuất để phục vụ kháng chiến.

Phong trào “tự cấp tự túc” diễn ra sôi nổi trên mọi hoạt động kinh tế trong toàn tỉnh. Trong hoàn cảnh chiến trường bị chia cắt, muốn kháng chiến thắng lợi phải “tự cấp tự túc”. Với truyền thống lao động cần cù, với thế mạnh của thiên nhiên, người dân Bình Định tin tưởng sẽ tự cấp tự túc được để kháng chiến thắng lợi.

Từ quảng canh, nhân dân chuyển sang thâm canh, phong trào mạnh mẽ tiểu thủ nông. Mọi gia đình đều phát triển trồng bông chung quanh vườn. Có bông, ngành diệt vải thủ công truyền thống trong tỉnh phát triển. Toàn tỉnh có hơn 5.000 khung dệt thủ công sản xuất hơn một triệu mét vải mỗi năm. Vải xi ta sợi chiếc, sợi đôi, chỉ đánh vừa đẹp vừa bền, được bộ đội và nhân dân ưa chuộng.

Nghề làm giấy phát triển. Hàng chục xưởng giấy thủ công được xây dựng ở Hoài Nhơn, An Nhơn, Hoài Ân… Toàn tỉnh có 43 xưởng, mỗi tháng sản xuất được năm đến bảy tấn bông đủ dùng trong tỉnh. Các cơ sở ép dầu, nhất là dầu dừa cung cấp đủ dầu ăn cho nhân dân và sản xuất xà phòng.

Phong trào thi đua học văn hóa, xóa nạn mùa chữ dấy lên sôi nổi. Các lớp bình dân học vụ được tổ chức khắp các thị trấn, thôn xóm. Chưa có thời kì nào mà phong trào học chữ trở thành phong trào quần chúng sâu rộng như thời kì này. Đầu năm 1949, toàn tinh đã thanh toán xong nạn vụ chữ. Hệ thống trường phổ thông được xây dựng khắp các vùng trong tỉnh. Xã có trường cấp 1, một số huyện có trường cấp 2, tỉnh có trường cấp 3. Các huyện miền núi có các lớp cấp 1.

Phong trào văn hóa, văn nghệ cũng rất sôi nổi. Trong kháng chiến ác liệt và kham khổ nhưng ai cũng thấy tâm hồn mình trong sáng cao đẹp trong một không khí vui tươi, lành mạnh với những lời ca tiếng hát hào hứng, ân tình. Tính thập thể, tình đồng chí, nghĩa đồng bào chiếm địa vị chủ đạo trong cuộc sống và trong mọi mối quan hệ xã hội. tính ích kỉ, bon chen, tự tư tự lợi, biết mình không biết người bị đẩy lùi. Con người thời kháng chiến sao mà đẹp. Tất cả cho kháng chiến, cho bộ đội, mình vì mọi người và mọi người vì mình. Văn nghệ kháng chiến, hình thức tuy thô sơ nhưng nội dung phong phú, sống động. Chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được biểu dương, ca ngợi, chủ nghĩa cá nhân, kích kỉ được phân tích, phê phán. Văn nghệ kháng chiến đã góp một phần không nhỏ trong xây dựng nếp sống mới, con người mới, nền văn hóa mới.

Để tăng cường chất lượng chiến đấu, hai trung đoàn 95 và 94 được sáp nhập thành trung đoàn 120 do các đồng chí Võ Văn Dật làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Lịnh chính ủy, Nguyễn Văn Thuận trung đoàn phó. Trung đoàn có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ tỉnh tự do Bình Định và hoạt động tác chiến, gây cơ sở phát triển chiến tranh du kích trên chiến trường Gia Lai. Sau khi hai tỉnh Gia Lai, Kon Tum sáp nhập, trung đoàn phụ trách luôn cả Gia Lai - Kon Tum. Trung đoàn sắp xếp lại biên chế gồm bốn tiểu đoàn 50, 51, 52, 53 và các đại đội trực thuộc 10, 13, 18 và hai đại đội cảm tử là đại đội 51A và 51B. Đại đội 51A do Quách Tử Hấp làm đại đội trưởng. Đại đội 51B do Lương Trung làm đại đội trưởng.

Vào cuối năm 1947, quân Pháp ở An Khê quay về càn quét để ổn định vùng chúng chiếm đóng. Dựa vào dân, các đại đội chủ lực liên tiếp tổ chức phản kích bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích phát triển.

Thời gian này, đại đội 51A cảm tử được lệnh lên An Khê chiến đấu. Sau khi nắm được kế hoạch hành quân của địch, đại đội 51A hạ quyết tâm tổ chức một trận vận động phục kích ở khu vực cầu Suối Vối - Rộc Dừa. Trước khi xuất quân, đại đội trưởng trình bày phương án tác chiến trước đại đội và đề xuất cần có một chiến sĩ cảm tử ôm bom lao vào đội hình địch. Cả đại đội đều giơ tay xung phong. Đại đội trưởng phân vân chưa biết chọn ai và ra lệnh bỏ tay xuống, chiến sĩ Ngô Mây vẫn đưa cánh tay thẳng với thái độ kiên quyết và tha thiết xin được nhận nhiệm vụ.

Cuối cùng, Ngô Mây được vinh dự nhận nhiệm vụ quyết tử trước sự tin yêu của toàn đại đội. Đêm hôm đó, anh viết thư cho mẹ ở xã Cát Chánh, huyện Phù Cát. Trong thư có đoạn “Thưa mẹ, không có gì đáng buồn cả, con của mẹ đã chọn một cái chất xứng đáng, một cái chết vinh quang nhất của người chiến sĩ quân đội cách mạng…”. Trước ngày ra trận, anh đem đồ dùng cá nhân của mình chia cho đồng đội, còn lại đôi dép cao su cũng trao lại cho bạn trước giờ xuất quân.

Trong trận đánh quân Pháp ở cầu Suối Vối - Rộc Dừa ngày 12/11/1947, khi trận đánh gặp khó khăn, Ngô Mây ôm bom ở lại yểm hộ cho đơn vị thu quân. Quân Pháp ào tới, tưởng đã nắm chắc phân thắng, vừa tiến vừa hô: “Việt Minh đâu! Việt Minh đâu!”. Từ vị trí ẩn nấp, Ngô Mây cổ quàng khăn đỏ bật dậy lao thẳng vào giữa đội hình dày đặc của địch hô lớn “Việt Minh đây!”. Cùng với tiếng nổ vang trời dậy đất, hơn một trung đội lính Âu Phi tan xác.

Năm ấy, Ngô Mây vừa tròn 23 tuổi đời và bảy tháng tuổi quân. Trước sự nghiệp chiến đấu giải phóng quê hương đất nước, anh đã không ngần ngại dâng hiến tuổi xuân của mình cho Tổ quốc. Ngô Mây trở thành bất tử. Tiếng bom Ngô Mây và chiếc khăn quàng đỏ của anh mãi mãi đi vào lịch sử kháng chiến của Bình Định và của cả dân tộc Việt Nam như một biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngô Mây đã làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, truyền thống bất khuất của vùng đất thượng võ và quật khởi. Nhân dân Bình Định mãi mãi tự hào về anh. Anh xứng đáng với danh hiệu Anh hùng quân đội - người chiến sĩ đầu tiên của Liên khu 5 được Quốc hội và Chính phủ truy tặng.


(1) Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương làn thứ hai, tháng 4.1947.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 12 Tháng Năm, 2012, 10:45:21 am »

TRẬN ĐÈO BỒ BỒ

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:28:34 pm »

3 - ĐÁNH THIỆT HẠI NẶNG QUÂN ĐỊCH NHẢY DÙ XUỐNG PHÙ LY - PHÙ MỸ VÀ ĐỔ BỘ LÊN TAM QUAN - CHỢ CÁT

Bước sang năm 1948, tình hình trong cả nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Sau thất bại lớn trong thu đông Việt Bắc, quân viễn chinh Pháp từ chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” chuyển sang đánh kéo dài, quay về “bình định” vùng chúng chiếm đóng và tiếp tục lấn chiếm vùng tự do, thực hiện chủ trương “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Về phía ta, sau chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn giằng co quyết liệt giữa ta và địch.

Để tăng cường chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Quyết định sáp nhập các chiến khu thành liên khu. Ở miền Nam Trung Bộ, khu 5, khu 6, khu 15(1) được sáp nhập thành Liên khu 5, do đồng chí Nguyễn Thế Lâm quyền tư lệnh, Nguyễn Chánh làm chính ủy.

Đầu tháng 4 năm 1948, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ tư họp đề ra công tác vùng địch tạm chiếm, phát triển vũ trang tuyên truyền, thực hiện đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, luyện quân lập công v.v… Bộ Tư lệnh Liên khu 5 phát động một phong trào luyện quân lập công rầm rộ sôi nổi trong toàn liên khu. Trung đoàn 120 cùng với ban chỉ huy tỉnh đội Bình Định thống nhất kế hoạch triển khai ngay chương trình huấn luyện quân sự.

Từ sau cách mạng Tháng Tám, việc huấn luyện quân sự được dặt ra tích cực và thường xuyên nhưng chưa được huấn luyện cơ bản, đặc biệt về chiến thuật thì huấn luyện chắp vá cả Tây lẫn Nhật, v.v… Lần này lực lượng vũ trang được huấn luyện cơ bản, vó hệ thống theo chương trình, giáo án thống nhắt. Cán bộ, chiến sĩ từ chủ lực đến địa phương hào hứng, say sưa trong học tập.

Các lớp bồi dưỡng cán bộ xã đội, trung đội dân quân, du kích được mở ra ở chùa Thập Tháp (Nhơn Hưng, An Nhơn).

Qua học tập, huấn luyện trình độ cán bộ, chiến sĩ được nâng lên một bước cơ bản.

Lực lượng vũ trang phát triển đòi hỏi trang bị, vũ khí ngày càng nhiều, càng có chất lượng. Công binh xưởng Cao Thắng, Quang Trung và một số cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí tuy đã cố gắng rất cao nhưng vẫn không đáp ứng được do thiếu nguyên vật liệu và hóa chất. Tỉnh ủy và ban chỉ huy tỉnh đội phát động phong trào sưu tầm nguyên vật liệu cung cấp cho các công binh xưởng. Sắt thép, ống nước, phân dơi… được đồng bào trong tỉnh tìm kiếm, thu nhặt đưa về tỉnh. Các đội thợ lặn được thành lập để mò tìm sắt, thép ở các tàu của Pháp, Nhật chìm dưới biển trước đây. Đội lặn do đồng chí Đinh Trung chỉ huy lập được nhiều thành tích với những gương lao động tiêu biểu, trong đó nổi lên tấm gương của đồng chí Lê Phược.



Xưởng quân khí Cao Thắng (Hoài Ân)

Về trang phục, anh bộ đội Cụ Hồ ở Bình Định (cũng như ở Liên khu 5) đã bắt đầu có sự thống nhất tương đối trong đơn vị. Hình ảnh anh bộ đội với bộ quần áo xi ta chỉ đánh màu xám tro, nút áo bằng xương bò hoặc sọ dừa, thắt lưng bằng mây bện, với biđông ống tre, chén gáo dừa, đầu đội mũ tre đan bọc vải xi ta, chân mang dép cao su vừa dung dị, vừa đẹp - cái đẹp của người chiến sĩ Liên khu 5 thời chống Pháp - cái đẹp của toàn dân lo cho anh, biểu hiện sự thành công của phong trào “tự cấp tự túc” của tỉnh và Liên khu.

Thực hiện chủ trương đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, Đảng ủy, ban chỉ huy trung đoàn 120 cùng Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định thống nhất lên phương án kế hoạch phân bố. Các đại đội của trung đoàn làm nhiệm vụ đại đội độc lập ở các huyện trong tỉnh.


(1) Khu 15 được thành lập tháng 8 năm 1947.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2012, 02:32:32 pm »

*   *
*

Trước những hoạt động, tác chiến ngày càng mạnh mẽ của ta, quân Pháp một mặt càn quét vùng bị chiếm và vùng giáp ranh, đồng thời tăng cường không quân, hải quân đánh phá các đường giao thông chiến lược, các tụ điểm dân cư, bắn pháo, cho quân đổ bộ vùng ven biển, đốt phá ghe mành nhằm phá hoại hậu phương, làm giảm sút tiềm lực kháng chiến của ta.

Đặc biệt, ngày 10 tháng 5 năm 1948, quân Pháp từ An Khê chia làm hai cánh đánh xuống Định Quang và Phú Phong. Dựa vào thế trận đã lập sẵn, du kích các xã Bình Quang, Bình Giang, Bình Tường phối hợp cùng với bộ đội địa phương, chặn đánh liên tục cả ngày lẫn đêm, gay cho địch nhiều thiệt hại. Tiêu biểu là trận đánh ở Định Nhì (Bình Quang) trận đánh diễn ra ác liệt, súng hết đạn, chiến sĩ chiến sĩ du kích xung phong ôm vật với lính Âu Phi. Điển hình là chiến sĩ Bùi Thanh Độ, bộ đội địa phương huyện Bình Khê. Trước sự chiến đấu dũng cảm của du kích và bộ đội ta, sáng ngày 11.5.1948, địch vội vã tháo chạy về An Khê, bỏ lại 20 xác chết đồng bọn(1).

Nghiêm trọng hơn, lần đầu tiên chúng kết hợp cả đường bộ, đường biển và đường không nhảy dù vào giữa hậu phương ta ở Phù Ly - Phù Mỹ, nhằm gây chấn động về chính trị và quân sự, lên dây cót tinh thần cho sĩ quan, binh lính chúng, đồng thời uy hiếp tinh thần, phá thế ổn định trong hậu phương kháng chiến của ta.

Khu vực được chúng chọn để nhảy dù và hợp điểm các cánh quân là khu vực Phù Ly - Phù Mỹ.

Thôn Phù Ly thuộc xã Cát Hanh và thị trấn Phù Mỹ là hai khu vực của hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ nằm trên đường số 1 cách nhau khoảng 10 ki-lô-mét, cách cửa biển Đề Gi chừng 20 ki-lô-mét, nơi tiếp giáp của hai đường quốc lộ 1 và tỉnh lộ, hình thành trục tam giác Phù Mỹ - Chợ Gồm - Đề Gi - một khu vực có mật độ dân cư tập trung và giao lưu kinh tế thuận lợi.

Để đánh lạc hướng phán đoán của bộ đội ta vào khu vực trọng điểm, ngày 20 tháng 7 năm 1948, từ tàu chiến chúng đổ quân nghi binh lên Vĩnh Tuy, một thôn ven biển thuộc xã Phổ Thanh huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi sát chân đèo Bình Đê - bị bộ đội địa phương và du kích chặn đánh phải rút xuống tàu.

Ngày 30 tháng 7 năm 1948, Bộ chỉ huy Pháp cho tàu chiến đổ bộ một đại đội lên khu 2 thị xã Quy Nhơn. Cùng ngày, một cánh quân khác từ An Khê thọc xuống Định Nhì, vùng giáp ranh phía Tây Bình Định, nghi binh tạo thế bất ngờ để ngày sau chúng tiến công lên khu vực trọng điểm.

8 giờ sáng ngày 31 tháng 7, nhiều tàu chiến địch từ ngoài khơi cửa biển Đề Gi bắn pháo lớn vào khu vực tam giác Phù Mỹ - Chợ Gồm - Đề Gi. Sau đó, với 10 chiếc máy bay đa-cô-ta, chúng cho 120 tên nhảy dù xuống cánh đồng thôn Khánh Lộc, xã Cát Hanh tiến về chợ Phù Ly. Cùng lúc, 100 tên nhảy dù xuống cánh đồng An Lạc, xã Mỹ Hòa và sân vận động thị trấn Phù Mỹ. 10 giờ cùng ngày, từ tàu chiến, chúng cho 2 đại đội đổ bộ lên Đề Gi theo đường tỉnh lộ lên Chợ Gồm (thôn Vĩnh Tường, xã Cát Hanh). Một cánh khác khoảng một đại đội từ Đề Gi lên chợ An Lương (xã Mỹ Chánh) với ý định hợp điểm tại Phù Ly.



Thôn đội dân quân du kích thôn Mỹ Hóa (xã Cát Hanh)

Trong khi địch triển khai các mũi trên các hướng, tiểu đoàn 50 chủ lực cơ động thuộc trung đoàn 120 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Lập chỉ huy đang luyện quân ở xã Mỹ Hiệp. Nhận được lệnh chiến đấu của trung đoàn trưởng Võ Văn Dật, 12 giờ trưa, đại đội 51A của tiểu đoàn 50 do đại đội trưởng Quách Tử Hấp chỉ huy được lệnh cấp tốc hành quân từ Vạn Thiên qua sông Phù Ly đến thôn Xuân Hội chia thành nhiều mũi nổ súng tiến công quân địch tại chợ Phù Ly. Đại đội 51B do đồng chí Lương Trung chỉ huy đánh thẳng vào miếu đầu cầu Phù Ly. Cùng lúc, đại đội Tây Sơn trực thuộc tỉnh đội Bình Định do đồng chí Nguyễn Đạt chỉ huy được lệnh vận động từ An Trinh lên Bình Long vượt qua cầu Phù Ly phối hợp với đại đội quyết tử tiêu diệt quân địch ở An Tân, Khánh Lộc, Phù Ly (Cát Hanh).

Dân quân, du kích các xã trên phối hợp với bộ đội cùng sát cánh chiến đấu. Trong lúc cơ động chỉ huy du kích chiến đấu, Bùi Thanh Độ, xã đội trưởng xã Mỹ Hiệp bị địch bắt đi khiêng dù còn rải rác trên cánh đồng. Lợi dụng thời cơ khi quân ta nổ súng, địch hoang mang, hỗn loạn, Bùi Thanh Độ dùng đòn khiêng đánh chết tên quan hai chỉ huy toán quân dù rồi chạy thoát vào xóm. Lúc này tiếng súng tiến công của đại đội quyết tử và đại đội Tây Sơn nổ ran khắp các hướng. Một cánh của đại đội quyết tử xung phong mãnh liệt đùng vào sở chỉ huy hành quân của địch ở chợ Phù Ly. Thực hiện đánh gần, tiểu đội trưởng Thanh dùng lê đâm chết tên quan tư, chỉ huy trưởng cuộc hành quân.

Bị đánh bất ngờ đúng vào sở chỉ huy, sĩ quân đầu não bị diệt, bọn địch như rắt mất đầu, tinh thần hoang mang, đội hình rối loạn. Bị ta đánh mạnh, hai cánh quân dù không liên lạc được với nhau. 14 giờ, máy bay địch chở tên quan năm nhảy dù xuống thay tên quan tư, tiếp tục chỉ huy cuộc hành quân, nhưng bị quân ta ráo riết tiến công nên chỉ quanh quẩn tại bãi đổ quân. Cánh quân từ biển lên bị du kích tiêu hao phải dừng lại. trong đêm ở Gò Me, Vĩnh Thành, An Lương. Kế hoạch hợp điểm tại Phù Ly của các cánh quân địch không thực hiện được.

Thế thất bại đã hiện rõ, sáng ngày 1 tháng 8 năm 1948, tất cả các cánh quân địch được lệnh rút xuống Đề Gi lên tàu cút thẳng. Mưu đồ càng lớn thì thất bại càng đau, tổ chức đánh sâu vào vùng tự do của ta, địch mong muốn giành thắng lợi lớn, nhưng mục tiêu về chính trị cũng như quân sự đều không đạt, lại bị quân dân Bình Định đánh đau phải rút chạy.

Với tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, bộ đội cũng như du kích với phương án tác chiến tại chỗ, dựa vào nhân dân, đã kịp thời nổ súng tiến công địch khi chúng vừa đặt chân lên quê hương. Kết quả trận đánh 30 tên địch bị diệt trong đó có tên quan tư chỉ huy cuộc hành quân và tên quan hai. Ta thu 15 súng, 88 chiếc dù, nhiều đạn dược và đồ dùng quân sự. Địch định đánh ta bất ngờ nhưng chính chúng đã bị bất ngờ. Trận Phù Ly tuy diệt địch không nhiều nhưng ý nghĩa thắng lợi lớn vì đây là lần đầu tiên ta bẻ gãy cuộc hành quân quy mô kết hợp cả hải, lục, không quân của địch ngay trong lòng hậu phương kháng chiến.


(1) Theo CHIẾN TRANH DU KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH, tr. 52-53.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM