hoangvanloi: nào, tiếp tục hành quân,
3.
....Tháng 1/1967, D1-E9/ Tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 9 mang mật danh Đoàn chi viện 415 bắt đầu đi vào miền Nam (không biết bác nào có tài liệu chính thức về cái này không nhỉ). Tiểu đoàn 1 đến miền Nam (Quảng Trị) ngày 15/3/1967 với quân số 450 người....
Tôi có thông tin này:
...Cuối năm 1966 do yêu cầu của chiến trường, trung đoàn được lệnh bổ sung tiểu đoàn 1 và 3 cho mặt trận Bình - Trị - Thiên. Cả trung đoàn làm tốt công tác chuẩn bị cho bộ đội lên đường. Nhiều cán bộ, chiến sĩ viết đơn tình nguyện đi chiến đấu, hòa cùng khí thế ra quân lập công của toàn sư đoàn. Những kinh nghiệm về công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng trong huấn luyện bộ đội đã được tổng kết thành bài học cho toàn trung đoàn. Tháng 7 năm 1967, trung đoàn trưởng Trần Văn Khám và chính ủy trung đoàn Lê Khả Phiêu theo mệnh lệnh của Bộ và Bộ tư lệnh Quân khu 3 cùng trung đoàn vào tham gia chiến đấu ở vùng giáp ranh Quảng Trị, từ khu vực Ba Lòng đến triền sông Mỹ Chánh. Thời gian này trung đoàn liên tục đánh địch đổ bộ lên động Ông Do, nổi bật nhất là trận đánh của tiểu đoàn 2 ở điểm cao 235 ngày 14 tháng 9 năm 1967 tiêu diệt gọn một đại đội Mỹ.
Như vậy là sau khi ở Lào về, E9 củng cố và đi B:
- lần 1: 2 tiểu đoàn (D1, D3) vào đến nơi
khoảng tháng 3,4/1967 - lần 2: cả trung đoàn vào (D1, D2, D3) tháng 7/1967 và khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10/1967 có mặt.
Còn thông tin này của bác:
...Sau đó, D1/ Tiểu đoàn 1 di chuyển về huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên và trực thuộc Trung đoàn 6 bộ binh của Quân khu Trị Thiên. Lúc này Tiểu đoàn 1 mang phiên hiệu 802 (Tiểu đoàn 802 cũ sau đó di chuyển về phía Nam Thừa Thiên và đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 4 và trực thuộc Trung đoàn 4).
tôi có một tài liệu sau :
...Cuối năm 1966, theo yêu cầu của nhiệm vụ Tiểu đoàn 802 được Quân khu điều động vào hoạt động ở địa bàn huyện Phú Lộc, cùng đi nhận nhiệm vụ mới còn có các đồng chí: Phó Chính ủy Trung đoàn Trần Văn Vững; Phó Tham mưu trưởng - Trưởng tiểu ban Tác chiến Trung đoàn Trần Lưu Chữ. Lúc này trung đoàn chỉ còn hai tiểu đoàn bộ binh và các phân đội trực thuộc; nhằm duy trì và hát huy sức mạnh chiến đấu của trung đoàn, Quân khu tăng cường Tiểu đoàn 810 của tỉnh đội Thừa thiên cùng phối hợp chiến đấu.
tôi có một tài liệu sau ở thời điểm giữa năm 1967:
...Tiểu đoàn 2 được huấn luyện cơ bản, từ Nghệ An vào thay vị trí Tiểu đoàn 802, do đồng chí Diệp Minh Phúng làm tiểu đoàn trưởng; đồng chí Lê Tiến Đạt làm Chính trị viên; đơn vị vừa đặt chân đến chiến trường đã lập chiến công đầu ngày 27-10-1967, Tiểu đoàn 2 đánh tan một đại đội lính dù Mỹ thuộc Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 101) từ căn cứ Đồng Lâm đi càn quét ở dốc Ồ Ồ (phía tây Phong Điền), diệt 20 tên, bắn bị thương một số tên; cùng thời gian đó, một đại đội của Tiểu đoàn 2 phục kích đánh tan một đại đội thuộc Tiểu đoàn 3 ngụy tổ chức càn quét ở dốc Hố Rựa diệt nhiều tên, bắn rơi một máy bay lên thẳng....
Nhìn những chỗ bôi đậm, Bác thấy khác nhau về thời điểm có mặt ở chiến trường chưa ạ?
Dốc Ồ Ồ là đoạn đồn Ồ Ồ ở Phong Sơn, Phong Điền, Thừa Thiên Huế nhé. Còn Động Ông Do thì ở Hải Lăng Quảng Trị, xem mấy bài trả lời của tôi cho người khác trước đó ấy nhé.
Còn đối chiếu với thông tin D802/ tiểu đoàn 802 tức D2 E6/ tiểu đoàn 2 trung đoàn 6, cuối năm 1966 hoạt động ở Phú Lộc rồi đứng chân trong đội hình E4/ trung đoàn 4/ Đoàn 4 thì
nó không đổi phiên hiệu thành D4/ tiểu đoàn 4.Nó đổi phiên hiệu như sau:
...Tiểu đoàn 802 (Trung đoàn 4) sau khi sáp nhập vào Trung đoàn lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 2.
4.
Ái chà, phức tạp cái đống này đây,
. Từng đơn vị một nhé:
4.1 Trung đoàn 6/ E6/ Đoàn 6/ Đoàn Phú Xuân này:
Tại
#569 trang 57 tôi có trích nguyên thông tin: Quân khu/ Mặt trận Trị Thiên có bổ sung nguyên cho Thành đội Huế đoàn 6/ trung đoàn 6 gồm 4 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công và 1 đại đội trợ chiến (trang sách 146).
Vậy tiểu đoàn nào bổ sung cho Trung đoàn 6 đây? Chỗ này phải dài dòng một tẹo mới được:
- Ngày đầu thành lập (1965), E6/ trung đoàn 6 Phú Xuân gồm Tiểu đoàn 1/ D1 (nguyên gốc là D803/ tiểu đoàn 803); Tiểu đoàn 6 / D6 (nguyên gốc là D806/ tiểu đoàn 806), các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và các đơn vị trực thuộc: Đại đội 15 súng máy 12,7 li; Đại đội 16 súng cối 82 li, trung đoàn 17 súng ĐKZ 75 li, Đại đội 18 vận tải, Đại đội 19 thông tin, Đại đội 20 trinh sát, Đại đội 21 công binh, Đại đội quân y.
Sau đó không lâu, được bổ sung Tiểu đoàn 802/ D802 tức D2/ tiểu đoàn 2 vào biên chế Trung đoàn, đồng chí Nguyễn Khánh làm Tiểu đoàn trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Sang làm Chính trị viên và Đại đội 12 đặc công do đồng chí Trần Văn Hòa làm Đại đội trưởng; đồng chí Trần Tiến Lực làm Chính trị viên;
Đến thời điểm chuẩn bị cho Mậu Thận 1968, thì E6 tiếp tục được bổ sung một tiểu đoàn nữa để đủ 4D bộ binh như trên đã nêu:
...Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 816 (Trung đoàn 9) được tăng cường cho Trung đoàn, ngay từ ngày đầu của chiến dịch (31-1), đơn vị đã đánh chiếm vùng La Chử, Quê Chử, An Lưu, Bốn Trì, Bổn Phổ, diệt một đại đội ngụy và một số tên ác ôn, dân vệ, đuổi chúng chạy về Triều Sơn Tây. Quân ta chuyển sang bao vây căn cứ Rú Lầu, chiếm lĩnh khu vực La Chử, Quê Chử, phát động quần chúng cùng lực lượng vũ trang địa phương phá “ấp chiến lược”, thành lập chính quyền cách mạng, xây dựng làng xã chiến đấu, đóng góp của cải vật chất ủng hộ bộ đội, triển khai bố trí lực lượng chuẩn bị đánh địch phản kích tăng viện cho Huế....
Rồi, tức là D816 E9/tiểu đoàn 816 trung đoàn 9 (
tạm gọi vậy theo sử E6) đánh xuống núi Nhàn Nhạn, kiểm soát một vùng phía tây Huế + bờ bắc sông Hương; đoạn Hương Long, Hương Chữ và đuổi địch đến tận thôn Triều Sơn Tây (nằm trên bắc đường QL 1A). Chú ý:
trang sách 148 viết nhầm D816 thành D116.
4.2 Trung đoàn 9 (lần 2) gồm D1, D2, D3 khi vào Huế thì có đổi phiên hiệu không?
- một số tài liệu của E6 có ghi E9 gồm D815/ tiểu đoàn 815, D816/ tiểu đoàn 816 và một đơn vị nữa không rõ
- một số tài liệu của E9 có nói:
...Ngày 31 tháng 1 năm 1968, cùng với cả miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy, Trung đoàn 9 đã mở đầu chiến dịch khá thuận lợi, tiểu đoàn 1 do đồng chí Ty và Ngọc chỉ huy, từ phía nam thành phố đánh vào, tiểu đoàn 3 do đồng chí Á và đồng chí Dục từ vị trí tập kết trong “lòng dân” bất thần tiến công quân địch từ hướng bắc, trong khi đó lực lượng luồn sâu của tiểu đoàn 2 do đồng chí Vũ và đồng chí Đạt chỉ huy phối hợp cùng lực lượng biệt động và tự vệ thành đã đánh chiếm được dinh tỉnh trưởng trong thời gian ngắn. Đại đội trưởng Nguyễn Phúc Thanh chỉ huy đại đội 6 cùng lực lượng địa phương đã đánh chiếm và làm chủ nhà lao Thửa Phủ, sau khi quét sạch quân địch, anh em đã phá cửa nhà lao, cứu được hơn 200 người bị địch giam giữ ở đây, nhiều người ốm yếu không đi được đã được các đồng chí đại đội 6 dìu ra phía sau an toàn, nhiều người vừa ra khỏi nhà lao đã xin nhận súng tham gia chiến đấu.
- Phân biệt đơn giản ở mặt trận Huế 1968 thế này nhé: bờ bắc sông Hương gọi là cánh Bắc, bờ Nam sông Hương gọi là cánh Nam.
- theo tài liệu trên của E9:
* D2/ tiểu đoàn 2 đánh dinh tỉnh trưởng; so sánh với trang sách 149 thì đấy là tiểu đoàn 815/ D815,
=> thuộc Cánh Nam;
* D3/tiểu đoàn 3 đánh vào từ hướng bắc; so sánh với trên và trang sách 148 thì đấy chính là tiểu đoàn 816/ D816 thuộc Cánh Bắc;
* vậy còn D1 E9/ tiểu đoàn 1 trung đoàn 9: từ phía nam thành phố đánh vào. Phải chăng nó chính là D4/ K4/ tiểu đoàn 4 thuộc Đoàn 5/ trung đoàn 5/ E5???
D1 thay thế hoàn toàn D4/K4 cũ của Thành Huế, để K4 cũ chia người ra làm nòng cốt của các đội công tác, ở địa phương; đồng thời đại đội đặc công của E9 bổ sung vào 2 đội biệt động và phát triển thành K1, K2 như trang sách 146 đã dẫn
Thành đội Huế có D10/ tiểu đoàn 10, D4/ tiểu đoàn 4, hai đội biệt động sau phát triển thành 2 tiểu đoàn đặc công K1, K2. Quân khu cũng tăng cường cho Huế 2 tiểu đoàn bộ binh.
p/s: bác nào văn hay chữ tốt,
mở giùm em cái Phần 8 nhá,