Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:21:25 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp  (Đọc 152372 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2012, 10:39:44 am »

Tiếp: Sơ đồ chiến dịch Bến Cát 2

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 10 Tháng Bảy, 2012, 09:02:18 pm »


CHIẾN DỊCH LONG CHÂU HÀ 2
(Tiến công, từ ngày 10 tháng 2 đến ngày 13 tháng 3 năm 1951)


Đầu năm 1951, ở miền Nam, tướng Săng-xông (Chanson), sau khi thay thế Đờ La-tua (De Latour), tiếp tục công cuộc bình định. Với chủ trương tăng cường quân ngụy, đóng thêm đồn bốt và tháp canh, chia cắt chiến trường Nam Bộ, địch đã lấn chiếm, củng cố và khống chế được những vùng đông dân, có nhiều tín đồ đạo giáo, đồng thời lập những đơn vị cơ động ứng chiến để tăng cường các cuộc càn quét. Chúng thành lập 2 tiểu đoàn cơ động: tiểu đoàn 1BMEO phụ trách các tỉnh lưu vực sông Tiền Giang và tiểu đoàn 2BMEO phụ trách các tỉnh lưu vực sông Hậu Giang.

Sau khi thực hiện bình định lấn chiếm tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, địch huy động nhiều tiểu đoàn càn quét vùng sáu xã thuộc Châu Thành, Cần Thơ và ba huyện Long Mỹ, Giồng Riềng, Châu Thành tỉnh Rạch Giá cũ. Ở Hà Tiên và Rạch Giá, địch đóng lại đồn bốt ở Giồng Riềng, Tri Tôn và Sóc Xoài (mỗi đồn một trung đội); đồng thời chúng nhảy dù xuống vùng Mo So, vào hang núi lấy máy móc, súng đạn của công binh xưởng 18 Long Châu Hà, phá của ta một kho lương thực chứa 4.250 giạ lúa.

Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Nam Bộ chủ trương: “Chủ động kiềm chế địch trên chiến trường Nam Bộ... Nắm vững phương châm chiến lược du kích chiến là chính, học tập đánh vận động chiến, đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”1. Theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Nam Bộ, đầu năm 1951, Khu 9 mở chiến dịch “phá nguy”. Trọng điểm của chiến dịch là Long Châu Hà. Các tỉnh khác phối hợp bằng cách kìm chân địch tại chỗ và tăng cường hoạt động vào vùng có dân cư đông, Bộ tư lệnh Khu 9 thành lập Ban chỉ huy chiến dịch gồm: Võ Quang Anh làm Chỉ huy trưởng; Nguyễn Văn Thuận - Chính trị viên, Hoàng Thế Thiện - Chỉ huy phó kiêm Trưởng ban chính trị.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: trung đoàn Tây Đô (ba tiểu đoàn), hai đại đội tỉnh Long Châu Hà, đội biệt động Hoà Hảo 304 của Huỳnh Văn Trí, các trung đội du kích tập trung huyện.

Mục đích chiến dịch là giải phóng nhân dân, giành lại nguồn dự trữ người và của vùng Hoà Hảo, Cao Đài, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, gây cơ sở, mở rộng vùng căn cứ của ta, tạo thế chủ động phá âm mưu chia cắt của địch, mở rộng hành lang nối liền Khu 9 và Khu 8.

Phương châm chiến dịch lấy vũ trang tuyên truyền làm chính, kết hợp tác chiến với phá hoại, tiêu hao sinh lực địch.

Chiến dịch diễn ra trong ba đợt.

Đợt 1: Chiến dịch mở màn ngày 10 tháng 2 năm 1951. Tại mặt trận chính huyện Châu Thành, tiểu đoàn 404 tiến công Phú Nhuận, Vĩnh Thạnh, đánh đại đội Hoà Hảo đến giải toả, tiểu đoàn 402, 406 đánh đồn Phú Hoà, Vĩnh Hạnh 1, Vĩnh Hạnh 2. Địch dựa vào công sự kiên cố chống trả quyết liệt. Ta chưa có kinh nghiệm đánh công kiên, lại bị máy bay địch bắn phá, thả bom liên tục, nên không chiếm được đồn. Sáng 12 tháng 2, địch tập trung 30 xe Jeep, 40 xe cam nhông chở quân vào giải toả, bọn lính trong đồn Vĩnh Hạnh 2 rút chạy. Đến 15 giờ ngày 12, ta chiếm đồn, thu nhiều vũ khí, đạn dược và chủ động kết thúc đợt 1.

Đợt 2: Diễn ra trong 2 ngày 19 và 20 tháng 2, tiểu đoàn 404 tiến công đồn Vĩnh Trạch, tiểu đoàn 402 và 406 chặn đánh 300 quân Pháp và hai đại đội Hoà Hảo đến giải toả. Địch sử dụng máy bay, tàu chiến yểm trợ cho các đại đội cơ động Hoà Hảo, Ba Cụt, Năm Lửa. Quân ta chặn đánh địch ở Ba Đầm, đánh tan một đại đội Hoà Hảo, Năm Lửa, diệt một trung đội, bắt một trung đội. Tiểu đoàn 404 tập kích đại đội 71 địch ở Cái Chiên, diệt một số tên, buộc chúng phải chạy về Long Xuyên. Mặt trận phối hợp ở Định Mỹ, Ba Thê, Núi Sập, Tri Tôn, công tác vũ trang tuyên truyền đạt kết quả tốt.

Đợt 3: Chiến dịch, diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 3, ta tiến hành vũ trang tuyên truyền trên địa bàn chiến dịch, trọng điểm là vùng Châu Phú A và đồng bào Khơ-me ở bắc Tri Tôn và huyện Châu Thành.

Kết quả toàn chiến dịch, ta diệt 300 tên địch, phá hủy bốn lô cốt và nhiều tháp canh; thu 21 súng (có hai đại liên). Trong quá trình chiến dịch, bộ đội đã giúp địa phương tổ chức huấn luyện gần 100 dân quân du kích ở Đinh Mỹ, Phú Hoà, Mỹ Thới và Vĩnh Thành Trung, thành lập chính quyền ở hai xã Đức Mỹ, Vĩnh Thành Trung.
   


Chiến dịch Long Châu Hà 2 đã giành được thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, góp phần đánh bại một bước âm mưu bình định gấp rút và phản công quyết liệt của địch ở Long Châu Hà, thúc đẩy công tác vũ trang tuyên truyền, mở ra thời kỳ mới, tiến sâu vào vùng sau lưng địch, tổ chức các đội dân quân nội ứng, vận động tuyên truyền đồng bào theo đạo Hoà Hảo ngày một hiểu rõ chính sách của kháng chiến và thấy rõ âm mưu thâm độc của giặc Pháp và tay sai.

Chiến dịch Long Châu Hà 2 tuy kết quả về quân sự không lớn, nhưng Khu 9 đã kết hợp được với vũ trang tuyên truyền, gây ảnh hưởng tốt đối với phong trào đấu tranh chính trị trong vùng sau lưng địch, tạo điều kiện cho địa phương xây dựng chính quyền cơ sở và phát triển dân quân du kích. Song chiến dịch còn những hạn chế như không tiêu diệt được cứ điểm then chốt, chưa đánh được nhiều quân viện nên không gây tác động lớn đối với địch và chưa đẩy mạnh được phong trào quần chúng trong địa bàn chiến dịch.
_____________________________________
1.Nghị quyết quân sự của Bộ tư lệnh Nam Bộ năm 1951. Trích theo “Quân khu 9 - 30 năm kháng chiến”, Nxb QĐND, H, 1996, tr. 168.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 10 Tháng Bảy, 2012, 09:18:52 pm »


CHIẾN DỊCH HOÀNG HOA THÁM1
(Tiến công, từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 1951)


Trong quá trình đối phó với cuộc tiến công của ta trên hướng Trung du (Chiến dịch Trần Hưng Đạo), lo sợ nguy cơ ta đánh lớn ở đồng bằng, địch đã ráo riết tăng cường lực lượng cho Bắc bộ. Ngày 14 tháng 2 năm 1951, Đờ Lát về Pháp xin cứu viện và chính phủ Cơi (Queuille) buộc phải quyết định rút 15.000 quân từ châu Phi sang tăng viện cho Bắc bộ. Tính đến tháng 3 năm 1951, Đờ Lát đã tăng viện cho Bắc bộ 29 tiểu đoàn bộ binh và dù, một trung đoàn cơ giới, bốn tiểu đoàn pháo binh, đưa quân số ở đây lên 80 tiểu đoàn và 60 đại đội. Về lực lượng cơ động, địch đã xây dựng được bảy binh đoàn hoàn chỉnh và 17 tiểu đoàn độc lập. Với chủ trương “cân bằng lực lượng với đối phương” hầu hết lực lượng dự bị chiến lược của Pháp, kể cả lực lượng đặt ở Trung bộ và Nam bộ đều được tập trung ra Bắc.

Việc xây dựng tuyến công sự mới, một công trình lớn trong kế hoạch Đờ Lát cũng được gấp rút triển khai. Riêng ở Trung du trong tháng 1 và 2 năm 1951, địch đã chuyển hàng nghìn tấn xi măng, sắt thép, gạch gỗ đến Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc và sử dụng nhiều tiểu đoàn lê dương để xây dựng các vị trí boong ke. Chỉ sau một thời gian ngắn, hàng loạt vị trí bằng bê tông cốt thép kiểu mới đã ra đời.

Để thực hiện chủ trương chiến lược phòng ngự, Đờ Lát chia Bắc bộ thành ba chiến trường (Đồng Bằng, Đông Bắc và Tây Bắc) và cử tướng Đờ Li-na-rét làm tư lệnh Bắc bộ.

Tại chiến trường Đông Bắc, địch tiếp tục tăng cường lực lượng, tập trung khoảng 3.000 quân chiếm giữ trên 15 vị trí quan trọng. Tuyến phòng thủ đường 18, từ Bãi Thảo đến Uông Bí dài 50 ki-lô-mét, thuộc chiến trường Đông Bắc, là tuyến bảo vệ vòng ngoài cho Hải Phòng, Hải Dương và đường chiến lược số 5. Tuyến phòng thủ này gồm ba phân khu: phân khu Núi Đèo, phân khu Quảng Yên và phân khu Phả Lại. Cho đến khi ta mở chiến dịch, tổng số lực lượng địch ở khu vực đường 18 là 11 tiểu đoàn (kể cả GM7 đứng chân ở Phả Lại) và hai đại đội pháo 105mm (tám khẩu) đặt ở Đông Triều.

Về phía ta, đầu năm 1951, chủ trương chiến lược của Đảng vẫn là liên tục tiến công tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng từng vùng đất đai, làm thay đổi cục diện chiến trường. Trong đó nhiệm vụ quân sự là đánh dần Trung du, củng cố căn cứ địa chính, chọc thủng hành lang đông - tây, phát triển du kích đến cao độ sau lưng địch, phá kế hoạch chiếm đóng đồng bằng Bắc bộ của chúng. Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch ở hướng đông bắc (đường số 13 và đường số 17) và ngày 30 tháng 1 năm 1951, chỉ định Đảng uỷ chiến dịch gồm: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái, Trần Hữu Dực. Đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch2.

Ngày 9 và 10 tháng 2, Đảng uỷ chiến dịch họp lần đầu tại Điềm Mạc, Định Hoá. Ngày 20 tháng 2, họp lần thứ hai để phân tích, quyết định phương án tác chiến. Qua xem xét tình hình chung và đánh giá cụ thể từng hướng Đảng uỷ nhận thấy: “So với các nơi khác, đường số 18 tuy có gặp khó khăn là chiến trường xa, nghèo, dân cư thưa thớt, nhưng thuận lợi là địch tương đối yếu và bị bất ngờ, địa hình dễ hơn”3. Ta quyết định lấy đường 18 làm hướng chính của chiến dịch, còn Vĩnh Yên và Liên khu 3 là hai hướng phụ. Phương án này đã được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua.

Sau khi có quyết định của trên (ngày 26 tháng 2 năm 1951), Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh mở chiến dịch đường 18 mang bí danh Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch và phát triển du kích chiến tranh, coi tiêu diệt sinh lực địch là mục đích rất cơ bản và phát triển du kích chiến tranh là nhiệm vụ rất quan trọng.

Để đạt mục đích chiến dịch, trên hướng đường số 18, quyết tâm của Bộ chỉ huy chiến dịch là sử dụng Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, trung đoàn 98, trung đoàn 174, bốn đại đội pháo binh, hai tiểu đoàn công binh, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công tiêu diệt địch trong khu vực từ Uông Bí đến Bãi Thảo. Tổng số lực lượng trên hướng chính là 25.719 người.

Trên các hướng phối hợp, Đại đoàn 304 ở Vĩnh Phúc, Đại đoàn 320 ở Hà Đông, Hà Nam phối hợp cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích tiến công thu hút kìm chân địch (tổng số lực lượng trên hướng phối hợp là 14.281 người). Ngoài ra, trung đoàn 176 hoạt động ở hướng Lục Ngạn, Bắc Giang bảo vệ hậu phương chiến dịch.

Phương châm chiến dịch là “đánh điểm diệt viện… trọng đánh viện hơn diệt điểm, nhưng trong điều kiện thuận lợi hay cần thiết, cũng có thể trọng diệt điểm”4.

Về công tác chính trị Đảng uỷ và Bộ chỉ huy chiến dịch xác định cần chú trọng: “Động viên và đặt kế hoạch cho đảng viên, cho cựu binh, cho cán bộ cũ lãnh đạo, dìu dắt anh em chiến sĩ, anh em tân binh, các cán bộ đồng cấp mới được đề bạt, làm cho ý chí của toàn quân được thống nhất, tinh thần toàn quân được phát huy.

Tăng cường công tác chính trị trong bộ đội cung cấp, đặc biệt đối với anh em dân công. Không những phải đề cao tinh thần của họ mà để gây ảnh hưởng chính trị đối với đồng bào trong các địa phương quê quán của họ.

Cần có kế hoạch bảo đảm việc tuyên truyền: nhanh chóng, sâu và rộng, sắc bén, đối phó cho kỳ được lối tuyên truyền lừa gạt của địch”5.

Về công tác bảo đảm hậu cần: Nhu cầu vật chất dự kiến, hướng chính: gạo 784 tấn, vũ khí 150 tấn, thuốc điều trị cho hai nghìn thương binh. Dân công thường trực 17.900 người và dân công từng đợt 20 nghìn người. Hướng phối hợp Vĩnh Phúc: gạo 384 tấn, vũ khí 63 tấn. Toàn chiến dịch phải huy động 50.000 dân công 1.263 tấn lương thực, 156 tấn đạn dược6.
__________________________________
1.Còn gọi là Chiến dịch Đường 18.
2.Theo Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp. Nxb QĐND, H.1991. tr.449.
3.Báo cáo kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn. Bộ Tổng tham mưu xb.1963. t.1. tr.188
4.Sđd - tr.176.
5.Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu xb, 1963, t. 2, tr.15-16.
6.Kết quả trong chiến dịch, cả ở vùng tự do và vùng địch còn tạm chiếm ta đã huy động hơn 2.200 tấn lương thực, 1.000 con trâu, bò, lợn. Hơn 110.000 lượt người đi dân công quy thành 1.288.000 ngày công phục vụ chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 10 Tháng Bảy, 2012, 09:22:42 pm »


Bộ máy hậu cần chiến dịch Trung Du được duy trì để bảo đảm cho chiến dịch đường số 18. Ban đại diện cung cấp tỉnh Vĩnh Phúc được giao nhiệm vụ trực tiếp bảo đảm cho Đại đoàn 304 chiến đấu trên hướng này.

Địa bàn tác chiến ở xa hậu phương, lại bị dãy núi Yên Tử chia cắt. Lực lượng hậu cần trên hướng chính phải triển khai thành ba tuyến. Tuyến sau gồm các tổng kho và bệnh viện hậu phương ở khu vực bắc Bắc Giang (Cầu Gồ, Phổng, Mẹt...). Trung tuyến gồm các kho và bệnh viện mặt trận triển khai ở bắc dãy núi Yên Tử (Mai Siu, Hố Lao). Hoả tuyến là các kho nhẹ (đạn, gạo) và các đội điều trị chiến dịch ở nam dãy núi Yên Tử, trực tiếp bảo đảm cho các đại đoàn chiến đấu.

Ngày 18 và 19 tháng 3, Đảng uỷ chiến dịch họp tại sở chỉ huy mới ở Bãi Đán, Mai Siu. Trong hội nghị này, hai phương án tác chiến đã được cân nhắc. Phương án một là đánh điểm nhỏ (Lán Tháp, Lọc Nước, Máng Nước, Sống Trâu), đồng thời sẵn sàng đánh viện từ Quảng Yên, Uông Bí lên. Phương án này có lợi là bảo đảm chắc thắng, nhưng địch chỉ ứng cứu nhỏ. Phương án hai là đánh các vị trí lớn hơn (Uông Bí, Bí Chợ, Tràng Bạch, Mạo Khê), đồng thời sẵn sàng đánh viện từ Phả Lại, Quảng Yên lên. Theo phương án này, địch có thể tiếp viện nhanh hơn, lớn hơn, nhưng trận đầu của ta không bảo đảm chắc thắng. Sau khi cân nhắc, do chưa nắm chắc tình hình địch ở Uông Bí, Bí Chợ, Bộ Tổng tư lệnh quyết định đánh theo phương án một. Đồng thời tiếp tục theo dõi sát tình hình địch, nếu điều kiện có lợi thì chuyển sang phương án hai. Do đó, dự kiến chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1, tập trung lực lượng tiêu diệt bốn cứ điểm nhỏ bắc Uông Bí và triển khai lực lượng sẵn sàng đánh viện từ Quảng Yên, Uông Bí lên. Đợt 2, căn cứ diễn biến và kết quả đợt 1 để quyết định mục tiêu và cách đánh.

Ngày 21 tháng 3, Chỉ huy sở chiến dịch dời vào chân núi Yên Tử để tiện chỉ huy tác chiến. Ngày 23 tháng 3, khi bộ đội đã chuẩn bị sẵn sàng để nổ súng, đồng chí Chỉ huy trưởng chiến dịch đã điện báo cáo tình hình về Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó hạ lệnh cho toàn mặt trận bước vào công kích.

Đêm 23 tháng 3, mở màn chiến dịch, các tiểu đoàn 23, 322 của trung đoàn 88, Đại đoàn 308 tiến công tiêu diệt ba vị trí Lọc Nước, Đập Nước, Sống Trâu. Tiểu đoàn 23 tiến công bốt Lọc Nước do một trung đội địch chiếm đóng, gặp nhiều khó khăn, bộ đội bị thương vong lớn (45 đồng chí hy sinh, 125 đồng chí bị thương). Tiểu đoàn 322 diệt hai vị trí Đập Nước và Sống Trâu, không có chiến sĩ nào bị thương vong. Cũng trong đêm 23, trung đoàn 174 của Đại đoàn 316, cùng một liên đội pháo đánh vị trí Lán Tháp diệt 14 tên, bắt 11 tên, thu 22 súng các loại.

Toàn bộ những bốt bảo vệ hệ thống dẫn nước ngọt từ Vàng Danh về Hải Phòng đều bị tiêu diệt. Ta hy vọng nguồn nước ngọt duy nhất bị đe đoạ sẽ buộc quân ứng chiến của địch phải kéo tới. Hai trung đoàn 36, trung đoàn 102, bố trí đánh viện từ Uông Bí lên Lán Tháp, Đại đoàn 312 ở Trại Cao, Trung Lương, Linh Trung, đón đánh địch từ Đông Triều lên, nhưng địch chỉ hoạt động thăm dò và tăng cường lực lượng cho các vị trí có thể bị uy hiếp.

Đêm 25 tháng 3, trung đoàn 98 diệt vị trí Chấp Khê. Chờ ba ngày, địch không ra, Bộ chỉ huy chiến dịch đánh tiếp những cứ điểm lớn trên đường 18 xung quanh Uông Bí. Đêm 27 tháng 3, trung đoàn 102 Đại đoàn 308, được tăng cường hai liên đội pháo tổ chức bốn mũi tiến công Bí Chợ, một vị trí mạnh nằm cạnh đường 18, có khoảng 150 tên, chủ yếu là lính Âu - Phi. Ngay từ loạt pháo đầu, ta đã bắn trúng nhà chỉ huy, phá hủy đài thông tin. Xung kích nhanh chóng dùng bộc phá đánh vỡ bức tường trình 60cm và xung phong. Đồn Bí Chợ hoàn toàn bị diệt sau 45 phút, pháo địch không kịp chi viện. Trong trận này địch chết 120 tên, bị bắt 50 lính Âu - Phi; ta thu ba súng 12,7mm. một súng 81mm, ba súng cối 61mm, 10 tiểu liên, 25 súng trường, một vô tuyến điện. Ta hy sinh 30 chiến sĩ, bị thương 185 người. Cũng trong thời gian này, trung đoàn 36 diệt vị trí Phán Huệ. Bên phía Đại đoàn 312, trung đoàn 141 được một liên đội pháo chi viện, đánh vị trí Tràng Bạch, diệt 73 tên địch, bắt năm tên, thu một súng cối 81mm, một súng 12,7 mm. chín tiểu liên và một số súng trường.

Mất Bí Chợ, địch ở Uông Bí lâm vào thế cô lập và bị uy hiếp. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định đánh thẳng vào thị trấn Uông Bí, nằm trên đường 18 giữa khu mỏ Tràng Bạch, Bí Chợ, Vàng Danh. Ta đang chuẩn bị tiến công Uông Bí, thì chiều ngày 28 tháng 3, địch ở vị trí này rút chạy về Quảng Yên. Đây là điều bất ngờ đối với ta.

Do chưa thấy quân viện của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tiêu diệt Mạo Khê, vị trí then chốt trên con đường tiến về Đông Triều và ra đường số 5, nhằm buộc địch phải sử dụng quân ứng viện. Khu vực Mạo Khê, địch có hai cứ điểm đại đội: Mạo Khê Mỏ và Mạo Khê Phố, nằm cách nhau 2 ki-lô-mét, trên địa hình có đồi thấp xen kẽ với ruộng nước. Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ đánh Mạo Khê Mỏ, trung đoàn 36 đánh Mạo Khê Phố dưới sự chỉ huy chung của Đại đoàn 312.

Tối 29 tháng 3, địch tăng cường cho Mạo Khê Phố tiểu đoàn 6 dù thuộc địa (6eBPC), đưa số quân ở đây từ 150 lên trên 700 tên. Bộ chỉ huy quyết định ngừng đánh Mạo Khê Phố, nhưng mệnh lệnh không tới kịp trung đoàn 36 trước giờ nổ súng. Trung đoàn 209 đánh Mạo Khê Mỏ, đã tiêu diệt già nửa quân đồn trú, còn khoảng 30 tên rút vào lô cốt cố thủ. Trời gần sáng, pháo địch từ tàu chiến và Đông Triều bắn về gây nhiều thiệt hại, quân ta phải rút ra 500 mét làm công sự và bao vây địch.


Đêm 30 tháng 3, trung đoàn 36 sau khi đột nhập vào Mạo Khê Phố thấy quân địch rất đông, có cả xe tăng và xe bọc thép, đã chiến đấu với chúng trong từng căn nhà từ 1 giờ 30 đến 4 giờ, diệt hơn 200 tên địch, phá bảy xe. Ta bị thương vong nhiều (hy sinh 46 đồng chí, bị thương 209 và mất tích 14 đồng chí). Do lực lượng địch ở Mạo Khê Phố đã thay đổi, nên đến sáng 31 tháng 3, trung đoàn 36 phải lui quân mà không dứt điểm được vị trí này.

Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy các vị trí còn lại trên đường 18 đã được địch tăng cường, quyết định kết thúc đợt 1 chiến dịch.

Trong đợt 1, ta đã giải phóng được 30 ki-lô-mét trên tuyến Mạo Khê Phố - Biều Nghi. Nhưng do viện binh địch không ra, nên ta không có cơ hội diệt viện binh địch. Hoạt động phổ biến trong giai đoạn này là đánh điểm, nên chủ lực ta cũng bị tiêu hao nhiều.

Cũng trong thời gian đó, ở hướng phối hợp, Đại đoàn 320 tiến công Cồn Trọ, Ngô Khê, Thanh Than (Hà Đông - Hà Nam); Đại đoàn 304 tiến công một số mục tiêu ở Vĩnh Phúc, đã ghìm chân, thu hút địch, không cho chúng ứng cứu cho nhau.

Ngày 1 tháng 4, địch tăng cường cho Đông Triều hai tiểu đoàn và điều một phần GM4 từ Lục Nam xuống Phả Lại. Qua xem xét tình hình, Bộ chỉ huy quyết định mở đợt 2 chiến dịch. Ta tiếp tục đánh một loạt vị trí do các đại đội địch chiếm đóng. Nhưng mục tiêu được chọn lần này đều nằm trên đường 17. Đêm 4 tháng 4, bộ đội ta đồng loạt nổ súng. Trung đoàn 88 đánh Bãi Thảo, ta chiếm được hai đồi, địch cố thủ ở hai đồi còn lại. Quân ta tiến công quyết liệt, diệt gần 100 tên, địch quyết giữ. Đến 4 giờ 30 phút ngày 5 tháng 4, ta rút quân vì trời sắp sáng, lại thương vong nhiều (hy sinh 50 đồng chí, bị thương hàng trăm chiến sĩ). Trung đoàn 209 đánh Hoàng Gián, chiếm được hai phần ba đồn, diệt gần 50 tên địch. Ta hy sinh năm chiến sĩ, bị thương 34 người. Trung đoàn 98 đánh Hà Chiêu, diệt 13 tên địch. Ta hy sinh 13 đồng chí, bị thương 69 đồng chí. Trung đoàn 102 đánh Bến Tắm cũng không thành công, do tổ chức thiếu chu đáo, nên nổ súng chậm, trời sáng, buộc phải rút.

“Thất bại của các trận đánh không phải do quân đồn trú của địch có công sự phòng ngự vững chắc hoặc kiên quyết đối phó, mà chỉ vì chúng đã dựng lên một hàng rào lửa bằng đại bác quanh cứ điểm, ngăn những đợt xung phong của ta”1.
____________________________________
1.Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biện Phủ, Nxb QĐND, H- 1999.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 10 Tháng Bảy, 2012, 09:24:36 pm »


Trên các hướng phối hợp, nhân lúc quân Pháp phải đối phó với chủ lực ta ở khu vục đường 18, trung đoàn 42 và bộ đội địa phương, dân quân du kích các tỉnh Tả ngạn đã khôi phục được nhiều cơ sở, mở lại được nhiều khu du kích ở Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình. Nổi bật là huyện Vĩnh Bảo đã phá được 70 phần trăm số ban tề. Trong đợt hoạt động phối hợp với Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, trung đoàn 42 và bộ đội địa phương, dân quân du kích Tả ngạn đã diệt sáu vị trí do quân chính quy địch đóng giữ, 22 đồn hương dõng và bao vây, bức rút bốn vị trí khác.

Tại Liên khu 3, ở hướng Sơn Tây, Đại đoàn 320 đã diệt một loạt vị trí Phú Ô, Cầu Trò, Ngô Tế, Đan Thê... và đánh địch trên đường Bương Cấn đi Liệp Tuyết, diệt nhiều địch, thu vũ khí.

Tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, các trung đoàn 9 và 66 thuộc Đại đoàn 304 phân tán đánh nhỏ và áp dụng chiến thuật công kiên tiến công một số vị trí lẻ. Trong các trận đánh, bộ đội ta chưa thực hiện được đánh tiêu diệt gọn và nhìn chung các trung đoàn hoạt động chưa đủ mạnh nên ít có tác dụng nghi binh, kiềm chế lực lượng cơ động của địch theo kế hoạch của Bộ Tổng tư lệnh. Lực lượng vũ trang Vĩnh Phúc, nhân cơ hội chủ lực về hoạt động đã đánh 60 trận, thu nhiều kết quả.

Sau bốn trận đánh điểm không đạt kết quả trên hướng chính, ta thương vong nhiều, bộ đội mệt mỏi, nên ngày 7 tháng 4, Bộ chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch.

Kết quả toàn chiến dịch ta diệt 2.521 tên địch, bắt 580 tên, 39 tên ra hàng, thu 413 súng các loại, phá huỷ 49 xe quân sự. Riêng hướng chính, địch bị diệt 840 tên, bị thương 350 tên, bị bắt 119 tên, bị phá huỷ 10 xe quân sự, ta thu gần 300 súng các loại, hạ bốn tháp canh và 14 vị trí từ trung đội trở lên, tiêu hao tám vị trí với lực lượng trên một đại đội, bức rút ba vị trí khác.

Thiệt hại của ta trên hướng chính là 2.262 người (hy sinh 495 người, bị thương 1.673 người, mất tích 94 người). Tỷ lệ thiệt hại ở hướng chính: địch 1 ta 21; toàn chiến dịch là: địch 1 ta 1.



Về ý nghĩa chiến dịch. Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Trong chiến dịch này, ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, gây được ảnh hưởng chính trị và học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu về tác chiến với binh lực lớn ở một chiến trường xa và đánh vào một vùng trung tâm của địch. Tuy nhiên “ta đã không hoàn thành nhiệm vụ thật đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta bị tiêu hao”2.

Về chiến thuật, ta đã vận dụng hai hình thức đánh công kiên và đánh vận động. Đánh công kiên đã chú trọng cả hai mặt điểm và diện. Điểm là hướng chính đột phá, đã tập trung ưu thế binh hoả lực. Diện là hướng phụ, có hai đến ba hướng đột phá. Lực lượng đánh ở hướng chính và hướng phụ đều tổ chức thành hai đến ba đội. Mỗi đội gồm bốn tổ (tổ bộc phá, thang ván; tổ hoả lực; tổ xung kích 1 và 2). Trong đánh vận động ta đã giấu quân bí mật, xuất kích bí mật và nhanh chóng. Nhưng ta đã không hoàn thành được nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch đề ra3.

Thiếu sót nổi bật trong chỉ đạo, chỉ huy tác chiến chiến dịch là không nắm vững tình hình địch cả trong quá trình chuẩn bị cũng như thực hành chiến đấu từng đợt, cho nên cấp chiến dịch xử trí nhiều tình huống không chính xác. Cấp chiến đấu, ngoài khuyết điểm không chủ động trong công tác nắm địch cụ thể ở mỗi mục tiêu tiến công, còn không nắm vững tình hình phát triển của bộ đội trong quá trình diễn biến chiến đấu, nên mệnh lệnh không chính xác, không dứt điểm nhiều mục tiêu, hạn chế khả năng kéo viện binh địch ra và làm tăng thêm thương vong của ta. Việc quán triệt phương châm đánh điểm diệt viện cũng không đầy đủ nên bộ đội không có nhiều cơ hội diệt viện binh địch. Mặt khác, địch nhất định không tung những binh đoàn cơ động vào khu vực này để tránh một cuộc đụng độ ở vùng rừng núi, kiên nhẫn chờ quân ta cạn lương thực rút lui. Song, “nguyên nhân chính là ở trong sự chuẩn bị chiến trường thiếu sót, là ở trong sự chấp hành mệnh lệnh của cán bộ có khuyết điểm”4.

Giữa tháng 4 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về kết quả, những khó khăn, những hạn chế của Chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chuẩn bị tự phê bình. Người căn dặn: “Tự phê bình là cần, nhưng tự phê bình phải tăng cường đoàn kết, rút ra được bài học kinh nghiệm, xây dựng được lòng tin vào chiến dịch sau”5.
_________________________________
1.Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Nxb QĐND H. 1991, tr.463.)
2.Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu Xb. 1963, t.1, tr.192.
3.Chỉ diệt được hai tiểu đoàn địch, so với năm tiểu đoàn nêu lên trong kế hoạch.
4.Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu Xb 1963, t. 1, tr.205.
5.Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr.44.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2012, 08:53:13 am »


CHIẾN DỊCH SÓC TRĂNG 2
(Tiến công, từ ngày 12 tháng 5 đến ngày 25 tháng 6 năm 1951)


Từ quý 2 nărn 1951, địch ở địa bàn miền Tây Nam Bộ, tổ chức thêm những lực lượng đặc biệt chuyên đánh phá và kiểm soát các trục giao thông thuỷ bộ. Chúng trang bị các phương tiện cơ động nhanh, hoả lực mạnh, thông tin liên lạc tốt hơn như các xe nồi đồng, tàu nhỏ nhạy trên sông.... Ý định của địch là quyết tâm chia cắt cho được các địa bàn hoạt động của ta, kiểm soát dân chúng ở vùng du kích, vùng tạm chiếm. Năm 1951, là một trong những năm khó khăn nhất của Nam Bộ. Các vùng căn cứ của ta thường xuyên bị bao vây, chia cắt, phải đối phó với các cuộc càn quét liên tiếp của địch.

Ở tỉnh Sóc Trăng địch lập các khu tự trị vũ trang trong các sóc đồng bào Khơ-me và tổ chức lực lượng chiếm đóng trong 10 đồn bốt lớn (mỗi đồn một trung đội). Lực lượng ứng chiến của địch ở đây có hai tiểu đoàn: tiểu đoàn 2 BMO và tiểu đoàn thân binh ngụy (BVN). Chúng thường xuyên cho tàu chiến thọc sâu vào các sông và kinh sáng, bắn phá bừa bãi vào làng xóm ven sông, gây cho nhân dân ta nhiều tổn thất về người và của. Chúng ráo riết sử dụng lực lượng Cao Đài, Hoà Hảo phản động, đội quân của Lơ Roa tiến hành càn quét, cướp phá tài sản, thóc gạo của nhân dân. Lợi dụng ta sơ hở, địch tập kích một số căn cứ, phá công binh xưởng, cướp máy móc, vũ khí.

Để kịp thời đối phó với tình hình địch, tháng 5 năm 1951. Bộ tư lệnh Khu 9 quyết định mở chiến dịch Sóc Trăng 2. Địa bàn hoạt động ở các huyện Thạnh Trị, Vĩnh Châu, Long Phú, Châu Thành tỉnh Sóc Trăng. Trọng điểm là huyện Thạnh Trị.

Mục đích của chiến dịch là giành và nắm dân, giải phóng đồng bào Khơ-me đang bị kìm kẹp ở Sóc Trăng, mở rộng vùng giải phóng, củng cố và phát triển cơ sở của ta trong vùng địch kiểm soát, tước vũ khí các sóc Khơ-me vũ trang, phá hệ thống chiếm đóng của địch. Giành các cơ sở kinh tế về ta, phá kinh tế địch, nối liền giao thông liên lạc giữa Khu 9 và Khu 8.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có trung đoàn Tây Đô và bộ đội địa phương, dân quân du kích ba tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ.

Ngày 3 tháng 5 năm 1951, Ban chỉ huy chiến dịch được thành lập do đồng chí Nguyễn Chánh, Quyền tư lệnh Khu, Chỉ huy trưởng chiến dịch, đồng chí Huỳnh Thu, trung đoàn trưởng trung đoàn Tây Đô, Chỉ huy phó; đồng chí Phan Văn Chiêu, Phó bí thư tỉnh uỷ Sóc Trăng, Chủ tịch tỉnh phụ trách chính trị; đồng chí Hoàng Thế Thiện, Chính trị viên trung đoàn Tây Đô, Chỉ huy phó chiến dịch.

Phương châm chiến dịch là kịp thời tận dụng thắng lợi quân sự, đẩy mạnh công tác dân vận, dân vận đi đôi với địch vận, tác chiến đi đôi với dân vận. Theo kế hoạch chiến dịch diễn ra trong hai đợt.

Đợt 1: Ngày 13 tháng 5 năm 1951, chiến dịch mở màn, tiểu đoàn 408 (tức tiểu đoàn 402 đổi tên) tiến công đồn xã Sang. Qua một ngày chiến đấu giằng co quyết liệt với địch, nhưng ta chỉ đánh thiệt hại nặng bốt chính: diệt bốn lô cốt nhỏ và tiêu hao một bộ phận quân địch từ Sóc Trăng đến tiếp viện. Trận này ta tổn thất nặng.

Ngày 14 tháng 5, tiểu đoàn 410 (tức tiểu đoàn 404 đổi tên) đánh đồn Xẻo Me. Sau ba giờ chiến đấu, ta tiêu diệt một đồn chính và bốn lô cốt. Tiếp đó, tiểu đoàn triển khai đánh quân viện của địch từ thị xã Bạc Liêu đến. Địch bắn pháo và thả bom napan vào trận địa quân ta. Bộ đội kiên trì bám trụ, chờ bộ binh địch đến gần mới nổ súng, diệt hai trung đội, phá huỷ bảy xe, số quân địch còn lại bỏ chạy. Đến 15 giờ, địch cho tiểu đoàn 2 BMEO từ Cần Thơ đến cứu viện, và cho máy bay ném bom bắn phá yểm trợ cuộc hành quân. Tiểu đoàn 410 chiến đấu dũng cảm, diệt 50 tên, buộc chúng phải rút lui trước lúc trời tối. Vừa đánh đồn và đánh viện, tiểu đoàn bị thương vong nặng, 30 người hy sinh và bị thương.

Trong các đêm từ 17 tháng 5 đến 9 tháng 6, du kích, bộ đội địa phương đánh nhỏ, quấy rối tiêu hao địch và tổ chức đánh địch càn quét vào xã Long Đức (26 tháng 5), gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Đợt 2: Ngày 10 tháng 6 chiến dịch dược bắt đầu bằng chín trận đánh của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Ngày 11 tháng 6, tiểu đoàn 406 phục kích địch trên đoạn đường từ Cái Tắc đến Phụng Hiệp, diệt 70 tên, thuộc tiểu đoàn thân binh ngụy (BVN) bắn rơi một máy bay khu trục. Ngày 18 tháng 6, các đơn vị tập trung đánh đồn Xảo Cau, xã Phú Hữu, bao vây đồn Thông Thuyền và chặn đánh địch tiếp viện. Cuối đợt 2 trung đoàn Tây Đô, sử dụng tiểu đoàn 406 qua Kế Sách (Sóc Trăng), hỗ trợ địa phương phát triển chiến tranh du kích. Tiểu đoàn 410 tiến công căn cứ Vĩnh Hưng, diệt hàng trăm địch, đồng thời công kích vị trí Cầu Sập. Trong trận đánh Cầu Sập có trung đội “chiến sĩ hoà bình” tham gia (gồm binh lính Âu Phi phản chiến, bỏ hàng ngũ Pháp đứng về phía Quân đội Việt Nam kháng chiến). Tuy nhiên, trận đánh không thành công. Ngày 25 tháng 6, chiến dịch kết thúc.

Kết quả toàn chiến dịch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 204 tên địch (có năm tên bị bắt). Thắng lợi về quân sự của chiến dịch này không cao, nhưng về chính trị đã tạo nên một khí thế mới trong quần chúng. Ta đã xây dựng được cơ sở cách mạng trong vùng sóc người Khơ-me có vũ trang ở hai huyện Thạnh Trị và Vĩnh Châu.

Những hoạt động quân sự trong Chiến dịch Sóc Trăng 2 đã góp phần rất có ý nghĩa đánh bại một bước âm mưu bình định gấp rút và phân công quyết liệt của địch. Tuy nhiên, chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân địa phương ở miền Tây Nam Bộ chưa phát triển rộng rãi và vững chắc. Thế kìm kẹp của địch trên chiến trường Nam Bộ đang đặt ra cho quân và dân ta nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết.

Điểm thành công trong nghệ thuật quân sự của Chiến dịch Sóc Trăng 2 là ta đã đạt được mục tiêu kết hợp hoạt động quân sự với tuyên truyền, vận động quần chúng và địch vận, củng cố một bước khối đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân tham gia và ủng hộ kháng chiến, khắc phục khó khăn, chấp hành tốt chính sách đối với đồng bào dân tộc, tạo điều kiện cho địa phương phát triển cơ sở, phát động phong trào đấu tranh du kích, củng cố chính quyền, đoàn thể kháng chiến. Chiến dịch cũng để lại những khuyết điểm cần khắc phục, đó là việc chuẩn bị chiến dịch bị lộ, nên địch có kế hoạch đối phó, gây cho ta nhiều khó khăn. Ở hướng chính không thực hiện được nhiệm vụ hạ đồn bốt, kết quả vũ trang tuyên truyền bị hạn chế và tiêu diệt sinh lực địch chưa nhiều.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2012, 09:00:32 am »


CHIẾN DỊCH HÀ NAM NINH1
(Tiến công, từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 20 tháng 6 năm 1951)


Trong quá trình đối phó với Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, thực dân Pháp vẫn tiếp tục đẩy mạnh chủ trương chiến lược của Đờ Lát, lấy đồng bằng Bắc Bộ làm trọng điểm phòng ngự, chuẩn bị điều kiện để phản công giành lại thế chủ động, nhanh chóng đè bẹp lực lượng kháng chiến, kết thúc chiến tranh. Đến tháng 3 năm 1951, địch tập trung tại chiến trường chính Bắc Bộ 89 tiểu đoàn bộ binh và quân dù, trong đó có 55 tiểu đoàn Âu - Phi và 34 tiểu đoàn ngụy, tổ chức thành hai lực lượng: 42 tiểu đoàn làm nhiệm vụ chiếm đóng và 47 tiểu đoàn làm nhiệm vụ cơ động. Đi đôi với phát triển lực lượng, Pháp vẫn tiếp tục xây dựng tuyến công sự mới, đẩy mạnh càn quét bình định trên khắp các chiến trường.

Địch chia Liên khu Nam đồng bằng Bắc Bộ gồm Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình thành bốn khu: Phủ Lý, Nam Định, Phát Diệm, Thái Bình. Tại Phủ Lý, Nam Định, Phát Diệm, địch chia mỗi khu thành các phân khu hoặc tiểu khu.

Khu Phủ Lý gồm hai phân khu: Phân khu Đồng Văn, sở chỉ huy ở Nhật Tựu; phân khu Thanh Liêm, sở chỉ huy ở thị xã Phủ Lý.

Khu Nam Định gồm ba tiểu khu: Tiểu khu Tây, sở chỉ huy ở núi Gôi; tiểu khu Nam, sở chỉ huy ở Đò Quan; tiểu khu Trung tâm, sở chỉ huy ở thị xã Nam Định.

Khu Phát Diệm gồm hai phân khu: Phân khu Phát Diệm, sở chỉ huy ở thị trấn Phát Diệm; phân khu Bùi Chu, sở chỉ huy ở Bùi Chu.

Toàn bộ lực lượng chiếm đóng ở khu vực Hà Nam Ninh có bốn tiểu đoàn và 27 đại đội ngụy. Lực lượng cơ động có bốn tiểu đoàn (hai tiểu đoàn ngụy) và một đại đội bộ binh, ba đại đội biệt kích, một đại đội thuỷ quân lục chiến và một thuỷ đội. Pháo binh ở Nam Định có 10 khẩu, Phủ Lý có bốn khẩu. Chúng đóng trên 100 vị trí, trong đó có 20 vị trí có lực lượng từ một đại đội trở lên, số còn lại có một đến hai trung đội; riêng khu Phát Diệm có 50 vị trí (chín vị trí có từ một đại đội trở lên). Tại khu vực này địch chưa làm công sự mới, các cứ điểm vẫn chỉ có hàng rào tre, lô cốt xây, tường gạch, một số nơi có lô cốt xi măng, hàng rào dây thép gai.

Địch phòng ngự cố thủ ở từng vị trí kết hợp với sự chi viện hoả lực từ các vị trí lân cận và quân cơ động đến ứng cứu. Lực lượng cơ động chiến lược đóng tại các vùng lân cận có tiểu đoàn Âu - Phi thuộc GM6 cũ ở Sơn Tây, hai tiểu đoàn dù, một tiểu đoàn Mường ở Hà Đông, một tiểu đoàn thuộc GM4 ở Ninh Giang.

Trong khu vực Hà Nam Ninh thì quân địch ở Ninh Bình yếu hơn cả, trong đó phân khu Phát Diệm là chỗ yếu nhất, và tương đối cô lập, các vị trí bố trí phân tán, lực lượng từ một đến hai trung đội, công sự yếu, lực lượng cơ động chỉ có một đại đội tự lực và một đại đội thuỷ quân lục chiến, không có pháo binh.

Về phía ta, sau Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, chủ trương chiến lược của Đảng ta là “nhân lúc địch chưa kịp củng cố thế phòng ngự chiến lược ở đồng bằng, nhanh chóng chấn chỉnh bộ đội, tranh thủ thời gian tiến công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, phá kế hoạch củng cố lực lượng và bình định đồng bằng của địch, giữ vững quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ”2.

Để tiếp tục kế hoạch tiến công địch ở Trung Du và đồng bằng, ngày 20 tháng 4 năm 1951, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Hà Nam Ninh, nhằm tranh thủ thời gian trước mùa mưa, tập trung một bộ phận chủ lực tiến công quân địch trên chiến trường Hữu ngạn Liên khu 3, để phá kế hoạch củng cố thế phòng ngự chiến lược của địch trên chiến trường Bắc Bộ3. Thay mặt Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ mục đích của chiến dịch là: Diệt sinh lực địch, phá khối ngụy quân; đẩy mạnh chiến tranh du kích; tranh thủ nhân dân.

Địa bàn được lựa chọn cho chiến dịch là ba tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình thuộc Khu Nam đồng bằng của địch. Ngày 4 tháng 5 năm 1951, Đảng uỷ Chiến dịch Hà Nam Ninh được thành lập gồm: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Đặng Kim Giang, Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng uỷ đồng thời là Tư lệnh chiến dịch.

Đảng uỷ và Bộ chỉ huy chiến dịch đề ra nguyên tắc chỉ đạo chiến dịch này là “Đánh ăn chắc; chắc thắng mới đánh; dù đánh lớn, đánh nhỏ đều phải đánh với điều kiện chắc phần thắng lợi”. Đây là chiến dịch lớn đầu tiên của Bộ mở ở đồng bằng, nên về mức tiêu diệt địch, vì sắp mùa mưa nên Đảng uỷ xác định là ba tiểu đoàn.
_______________________________________
1.Còn gọi là Chiến dịch Quang Trung.
2.Hồ sơ 412, phần A- Những chiến dịch lớn của ta ở Bắc Bộ, trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.
3.Báo cáo kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu Xb 1963 t.1, tr.241.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2012, 09:14:13 am »


Lực lượng tham gia chiến dịch có các Đại đoàn 304, 308, 320 và năm liên đội pháo (15 khẩu 75mm), một trung đoàn công binh và lực lượng vũ trang địa phương gồm bốn tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, một số đại đội bộ đội địa phương huyện và toàn bộ dân quân du kích trong địa bàn chiến dịch. Sở chỉ huy chiến dịch đặt ở Hương Thi, sơ chỉ huy Đại đoàn 308 đặt ở Trường Yên, Đại đoàn 304 ở Thượng Khê, Đại đoàn 320 ở Nam Công.

Trước đó, công tác chuẩn bị chiến dịch đã được triển khai sớm, Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo cho Liên khu 3 tiến hành chuẩn bị chiến trường. Sau khi có quyết định mở chiến dịch, Bộ Tổng tham mưu đã có những chỉ thị về chuẩn bị bộ đội như chấn chỉnh biên chế, trang bị, bổ sung lực lượng, rút kinh nghiệm chiến đấu, huấn luyện bộ đội. Tổng cục Chính trị ra chỉ thị về công tác chính trị chiến dịch, đặc biệt công tác dân vận được coi trọng, nhất là vận động đồng bào theo đạo Thiên Chúa. Đảng uỷ chiến dịch nhấn mạnh: “Phải tăng cường sự lãnh đạo chính trị trong bộ đội, phải làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ đều hiểu rõ chính sách của Đảng trong vùng mới giải phóng, chính sách của Đảng đối với đồng bào Công giáo. Phải bí mật... kỷ luật bí mật phải nghiêm. Đảng uỷ chỉ ra “mấy vấn đề cần chú ý”, trong đó “về sự lãnh đạo tư tưởng, chú ý khác phục những tư tưởng sai lầm sau đây:

Không nhận định rõ sự quan trọng của nhiệm vụ, chủ quan khinh địch, coi thường đánh điểm diệt viện nhỏ, chấp hành mệnh lệnh không nghiêm, không thông suốt vì phải chuyển hướng tác chiến sinh ra thắc mắc, tiếc rẻ, kém tích cực, không nhìn toàn cục, chỉ thấy một việc, chỉ nhìn vào lợi ích cục bộ, kém ý thức đoàn kết hiệp đồng học hỏi lẫn nhau... dẫn tới dễ đi đến thất bại.

Phải làm cho “Toàn thể cán bộ và chiến sĩ cần đề phòng và khắc phục những tư tưởng sai lầm trên, cần tập trung ý chí, thống nhất tư tưởng và hành động từ trên xuống dưới để hoàn thành nhiệm vụ”1.

Công tác hậu cần chuẩn bị khẩn trương, yêu cầu của chiến dịch lại lớn, phải đảm bảo vật chất cho gần 50.000 bộ đội và 45.000 dân công. Tháng 5 năm 1951, phải hoàn thành khối lượng vật chất gồm 2.870 tấn gạo, 1.450 tấn thực phẩm (trong đó có 80 tấn thịt), 190 tấn đạn, chuẩn bị cơ sở và phương tiện cứu chữa cho 2.000 - 2.500 thương binh với 5.100 giường bệnh. Đến ngày nổ súng, mọi công tác chuẩn bị đã đảm bảo để chiến dịch nổ súng đúng thời gian.

Ngày 21 tháng 5, trong hội nghị, Đảng uỷ và Bộ chỉ huy chiến dịch đã cân nhắc các phương án tác chiến và đánh giá lại tình hình trên ba khu vực tác chiến chủ yếu là Phủ Lý, Vân Đình và Ninh Bình. Đảng uỷ nhận định: ta đã trinh sát nắm vững tình hình địch và chuẩn bị chiến trường khá chu đáo, nhưng dự kiến cuộc chiến đấu sẽ kéo dài, địch có khả năng tăng viện thêm một đến hai trung đoàn cơ động; ta phải vượt sông tiếp cận địch, nên việc giữ bí mật gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, ngày 23 tháng 5, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh chiến dịch đã ra mệnh lệnh tác chiến số 1 nêu rõ: Trong ngày thứ nhất tiêu diệt địch ở thị xã Ninh Bình, cùng các vị trí Hoàng Đan thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Yên Vệ, Chùa Dầu, Yên Mô Thượng, Cổ Đồi thuộc các huyện Yên Mô, Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; Bình Lục, tỉnh Hà Nam và một số vị trí giữa Phủ Lý - Nam Định, giữa Phủ Lý - Đoan Vĩ nếu có điều kiện.

Đêm 28 tháng 5, mở đầu chiến dịch, tiểu đoàn 79 trung đoàn 102 Đại đoàn 308, được quân báo tỉnh dẫn đường, hành quân tới nhà thờ Đại Phong ở thị xã Ninh Bình đánh đại đội Com-măng-đô Phrăng-xoa (Francois) đang hành quân qua đây đã chọn nhà thờ làm nơi nghỉ qua đêm. Trước sự xuất hiện bất ngờ của ta, những tên lính thuỷ quân lục chiến không trở tay kịp, bị tiêu diệt trong vòng 30 phút.

Trước tình hình đó, chỉ huy khu nam đồng bằng, đại tá Găm-bi-ê (Gambiez) lập tức điều động lực lượng dự bị của khu về phía sông Đáy. Tiểu đoàn bộ binh 1 và 2, đại đội biệt kích của hải quân được hải đoàn 3 chở gấp về Ninh Bình. Con trai của Đờ Lát là Béc-na (Benrnard), chỉ huy một đại đội trong tiểu đoàn này đến chiếm lĩnh những mỏm núi đá ở phía đông nam sông Đáy.

Đêm 29 tháng 5, tiểu đoàn 54 và 29, trung đoàn 102 Đại đoàn 308 tiến công diệt hai vị trí Non Nước và Gối Hạc. Lợi dụng thế núi hiểm trở bốn bề vách đứng, quân Pháp đã biến Non Nước thành một vị trí bảo vệ thị xã với hai tầng phòng ngự. Chân núi có tường khoét lỗ châu mai xung quanh kết hợp với hàng rào thép gai; lối lên duy nhất là con đường bậc thang uốn lượn bên vách đá. Lực lượng bảo vệ đồn khoảng hai đại đội. Cách Non Nước 100 mét là núi Gối Hạc, đứng án ngữ con đường vào thị xã. Trước khi ta nổ súng đánh Non Nước, viện bình địch mới từ Nam Định đến Gối Hạc, đã chia nhau đóng trên hai mỏm núi đá vôi tại đây.

2 giờ 15 phút ngày 30 tháng 5, được pháo binh chi viện, tiểu đoàn 54 sử dụng hai đại đội tiến công từ hai hướng vào cứ điểm Non Nước. Bằng chiến thuật tổ ba người dùng thang vượt vách đá, khắc phục vật cản, bộ đội ta nhanh chóng thọc sâu chia cắt đánh chiếm từng hầm ngầm, lô cốt, ngách hang. Đến rạng sáng ta làm chủ trận địa, diệt gần 200 địch, bắt sống chỉ huy. Cùng lúc, tiểu đoàn 29 tiêu diệt quân địch trên một mỏm núi ở Gối Hạc, địch ở mỏm bên bỏ chạy. Chỉ trong một đêm bộ đội ta đã tiêu diệt bốn đại đội địch, trong đó có tên quan hai Béc-na.

Ở Yên Mô, Yên Khánh, đêm 28 tháng 5, Đại đoàn 304 cùng bộ đội địa phương tiêu diệt sáu vị trí Chùa Dầu, Yên Vệ, Cổ Đôi, Yên Mô Thượng, Tuy Lộc và Bến Xanh, mỗi vị trí có một trung đội địch. Tiếp đó, đêm 29 tháng 5, ta đánh hai vị trí Lan Khuê (Bụt Nổi) và Chùa Cao nhưng không thành công. Sau khi hàng loạt vị trí bị diệt, địch ở các vị trí Chùa Hữu, Yên Ninh, Lan Khê, Yên Thịnh rút chạy, song chúng đều bị ta vây, diệt và bắt gần hết.

Trên hướng thứ yếu, đêm 28 và 29 tháng 5, Đại đoàn 320 tiêu diệt hai vị trí Cảnh Linh, Võ Giàng, diệt gần 100 tên địch; sau đó diệt tiếp vị trí Hưng Công, loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên. Ba ngày sau, địch điều GM1 và đơn vị thuỷ quân lục chiến từ Nam Định sang chiếm lại thị xã Ninh Bình. Vì tương quan lực lượng đã chuyển biến bất lợi cho ta, nên ngày 30 tháng 5, Bộ chỉ huy chiến dịch không cho đánh Hoàng Đan, mặc dù trung đoàn 36 đã chiếm lĩnh xong trận địa. Ngày 31 tháng 5, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc đợt 1 chiến dịch để xác định lại kế hoạch tác chiến trước tình hình địch đã thay đổi.

Sau bốn ngày tác chiến, ta đã tiêu diệt 10 vị trí địch trong đó có vị trí địch ở thị xã Ninh Bình, tiêu diệt một bộ phận viện binh (chín đại đội), bức rút 16 vị trí khác, phá tan một mảng lớn ngụy quyền, làm rạn nứt phòng tuyến sông Đáy, giành thắng lợi giòn giã về quân sự và chính trị trong đợt đầu chiến dịch. Qua chiến đấu, bộ đội cũng bộc lộ những khuyết điểm như một số đơn vị thiếu tích cực nên bỏ lỡ cơ hội diệt địch, công tác chuẩn bị chiến đấu thiếu cụ thể nên phải hoãn tiến công, ảnh hưởng đến kế hoạch chung.

Từ đầu tháng 6 địch tăng cường lực lượng và bố trí lại như sau: Hướng Phủ Lý, ở thị xã có sở chỉ huy trung đoàn 4, cùng với tiểu đoàn 3 trung đoàn 4 Ma-rốc (3/4 RTM), một đại đội bộ binh cơ giới, một trung đội thiết giáp thuộc chi đoàn cơ giới số 2 (SGB2), một đại đội pháo binh. Tiểu đoàn 1, trung đoàn 4 Ma-rốc (1/4RTM) và một đại đội pháo binh ở Ngô Khê, Vĩnh Trụ; một đại đội bộ binh cơ giới ở Cầu Sắt; một bộ phận xe tăng ở Cầu Họ, một đại đội biệt kích ở Kẻ Sở, Kỳ Cầu. Hướng Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình, sở chỉ huy cánh quân phía nam đóng tại Tân Cầu. Tiểu đoàn 1, trung đoàn 6 thuộc địa (l/6 RIC) và một bộ phận cơ giới ở Núi Già, Mai Sơn, Phương Nhi, Ý Yên. Sở chỉ huy trung đoàn 1 ở Núi Gôi; tiểu đoàn 2 trung đoàn 6 Ma-rốc (2/6 RTM) ở Vân Côi (Vụ Bản). Tiểu đoàn 4 trung đoàn 7 An-giê-ri (4/7 RTA); một tiểu đoàn pháo binh (tám khẩu) và một bộ phận cơ giới ở Tu Cổ, Ninh Xá, Tân Cầu. Tiểu đoàn 7 dù thuộc địa (7e BPC) ở Thu Mễ, Đông Biểu huyện Ý Yên. Tiểu đoàn 2 trung đoàn 1 An-giê-ri (2/1 RTA), một bộ phận cơ giới và một đại đội pháo binh ở Cầu Cổ, Non Nước. Đại đội biệt kích (Rô-ma-ri) ở Chùa Cao, Ninh Bình. Đại đội biệt kích (Văng-đen-be) đóng ở thị xã Nam Định. Tiểu đoàn 2 dù thuộc địa (2e BPC) ở thị xã Thái Bình.

So sánh lực lượng lúc này, về bộ binh ta và địch là: ta 66 đại đội, địch 60 đại đội; về pháo binh địch gấp 2,5 lần ta (ta chỉ có sơn pháo 75mm, địch có pháo 105mm).
_____________________________________
1.Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu Xb.1963, t 1 tr.247, 249.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2012, 09:15:58 am »


Căn cứ vào tình hình địch - ta, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chia đợt 2 làm hai bước.

Bước 1: (Từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 6 năm 1951): Ta tiếp tục đánh điểm diệt viện.

Trên hướng chủ yếu, đêm 1 tháng 6, trung đoàn 57 Đại đoàn 304 đánh Cầu Bút, Ngọc Lâm, đều không thắng, ta thương vong 250 đồng chí. Trung đoàn 9, Đại đoàn 304 đêm 2 tháng 6, đánh Núi Sậu, cũng không dứt điểm. Nhưng quân ta tiếp tục tổ chức vây ép, buộc địch ở đây phải ra hàng và buộc chúng phải rút thêm các vị trí Bình Hà, đình Phương Nại, chùa Phương Nại.

Ngày 3 tháng 6, trung đoàn 36 Đại đoàn 308 hai lần đánh viện, bắn chìm một ca-nô, diệt gần 100 địch trên sông Đáy và diệt hơn 100 tên hành quân trên đường Ninh Bình đi Yên Phúc Thượng. Ngày 4 tháng 6, trung đoàn 88 Đại đoàn 308 tiến công Chùa Cao. Đây là cứ điểm có công sự bằng gạch và xi măng khá kiên cố và do một đại đội com-măng-đô chiếm giữ. Được pháo binh chi viện từ xa, địch ngoan cố dựa vào công sự để chống cự. Bộ đội ta chiếm được phần lớn cứ điểm thì trời sáng. Địch đưa hải đoàn 3 và tiểu đoàn dù 7 theo đường sông tới giải vây. Trận này ta chỉ diệt được một trung đội địch, nhưng ta hy sinh 29 người, bị thương 174 người và mất tích 85 người. Đêm 6 tháng 6, ta tập trung 5 tiểu đoàn tiến công lần thứ hai, cũng không chiếm được cứ điểm và bị thương vong nặng (69 người hy sinh, 258 người bị thương). Đây là tổn thất lớn nhất của trung đoàn trong một trận đánh. Vì thủ đoạn đối phó của địch đã thay đổi, với khả năng bắn chính xác của pháo binh, địch đã tập trung pháo ngăn chặn những đợt tiến công ban đêm của ta, chờ tới lúc viện binh và không quân kịp can thiệp. Pháp đã phát huy tối đa sức mạnh không quân và pháo binh ở đồng bằng.

Trên hướng thứ yếu, ngày 3 tháng 6, trung đoàn 66, chống càn thắng lợi ở Đông Lương, diệt 200 địch, ta thương vong 12 người.

Như vậy, từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 6, ta tiến công một số cứ điểm, diệt trên hai đại đội địch, nhưng ta thương vong gần 1.000 người. Trong khi đó địch lại tăng cường đánh phá bằng không quân và pháo binh; tổ chức các cuộc càn với lực lượng từ một đến ba tiểu đoàn, nhằm đánh phá hậu phương ta.

Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến địch quyết định chuyển sang bước 2 (từ ngày 8 đến ngày 20 tháng 6), với chủ trương mới là đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ mùa màng, củng cố và khuếch trương thắng lợi chính trị của chiến dịch, phát triển binh vận, tranh thủ tiêu diệt thêm lực lượng địch. Từ đó, Bộ chỉ huy chiến dịch đề ra chủ trương, mỗi đại đoàn để lại một trung đoàn hoạt động, khi phân tán, lúc tập trung và có thể luân phiên nhau; lực lượng còn lại về vùng tự do chấn chỉnh và chuẩn bị chiến đấu sẵn sàng trở lại chiến trường đánh địch.

Chấp hành chủ trương trên, ở Ninh Bình, trung đoàn 36 Đại đoàn 308 hai lần tập kích vị trí Cầu Cổ, Non Nước, chặn đánh địch lùng sục ra Chùa Cao, Phúc Am, Phú Khánh đồng thời đánh địch ở nhà thờ Đại Phong, phá cầu Yên, bắn bị thương một tàu LCT trên sông Đáy, chống càn quét ở Cẩm Giá diệt 60 tên, phá hủy 10 xe lội nước. Ở Yên Mô, Kim Sơn, trung đoàn 9 Đại đoàn 304 đánh địch ở Cối Tri, Quang Phục, diệt 62 lính Âu - Phi, bức địch rút Cổ Đôi và giúp dân gặt 80 mẫu lúa. Ở Hà Đông, trung đoàn 48 Đại đoàn 320 hoạt động ở vùng Chợ Cháy, ngày 17 tháng 6, tiêu diệt vị trí Phúc Lâm. Trung đoàn 64 tập kích địch ở Phố Cà (Mai Cầu), trên đường 1A, diệt 30 tên làm bị thương 20 tên khác.

Ngày 18 tháng 6, trong lúc hoạt động tác chiến lớn của ta đã giảm, thì địch mở cuộc càn quét lớn vào khu Chợ Cháy. Chúng tập trung tám tiểu đoàn bộ binh và dù, hai đại đội pháo 105mm phối hợp với lực lượng chiếm đóng quanh vùng cùng hành động. Cuộc càn này do Đờ-cát-tơ-ri (De castrie) chỉ huy. Tại đây, một tiểu đoàn của trung đoàn 48, cùng với lực lượng du kích địa phương đã kiên cường bám trụ, chặn đánh địch quyết liệt, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Trong trận chống càn này ta đã diệt 220 địch, làm bị thương 140 tên và bắt 68 tên. Đêm 19 tháng 6, tiểu đoàn được lệnh rút ra khỏi vòng vây của địch và đưa nhân dân tạm lánh sang vùng Nho Quan.

Ở hướng phối hợp Tả ngạn sông Hồng, trung đoàn 42 cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tiêu diệt 18 hương đồn, bức rút 12 hương đồn khác ở các huyện Phủ Cừ, Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên, Gia Lộc, Bình Giang, tỉnh Hải Dương và Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình.

Trong đợt 2 chiến dịch, các lực lượng vũ trang địa phương, thực hiện chủ trương: đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ mùa màng, củng cố và khuếch trương thắng lợi chính trị, phát triển ngụy vận, tranh thủ tiêu diệt thêm sinh lực địch. Đại đội 29 và du kích Yên Khánh dùng nội ứng diệt gọn vị trí Cầu Xanh, bắt 27 vệ sĩ. Đại đội 195 Kim Sơn đánh vị trí Tuy Lộc Hạ diệt gọn địch, thu vũ khí. Bộ đội địa phương, du kích Hà Nam tập kích phố Cà diệt một trung đội...

Căn cứ vào tình hình địch, ta và thời gian dự kiến, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch vào ngày 20 tháng 6 năm 1951.

Kết quả: Toàn chiến dịch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 4.050 tên địch (có 40 phần trăm Âu - Phi của GM1, GM4). Riêng ở Hà Nam Ninh, địch chết 2.154 tên, bị thương 635, bị bắt 796 tên. Ta hy sinh 546 người, bị thương 1.700 người, mất tích 280 người1. Ta thu 832 súng trường, 123 tiểu liên, 62 trung liên, 10 đại liên, một trọng liên, 15 súng cối, 25 súng ngắn, 18 máy vô tuyến điện và số quân trang, quân dụng đủ trang bị cho một trung đoàn. Ngoài ra ta còn phá huỷ 14 xe lội nước, bắn hỏng một tàu chiến, đánh đắm năm ca nô, phá huỷ hai xe Jeép. Ta diệt 12 vị trí, bức rút chín vị trí, bức hàng hai vị trí và tiêu hao lực lượng địch ở tám vị trí khác. Về chính trị, bộ đội đã chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách dân vận, tôn giáo, địch vận, ngụy vận, tù hàng binh, nên đã tranh thủ được lòng dân, làm cho đồng bào vùng đạo Thiên Chúa hiểu thêm về kháng chiến, binh lính ngụy lầm đường theo giặc hiểu rõ chính sách và lượng khoan hồng của Đảng và Chính phủ ta. Nhiều cơ sở quần chúng trong địch hậu được khôi phục, nhiều cơ sở đang được xây dựng lại. Các lực lượng tham gia chiến dịch đã chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải coi trọng thắng lợi chính trị cũng như thắng lợi quân sự”.



Thắng lợi trên chiến trường Hà Nam Ninh đã thúc đẩy chiến tranh du kích ở dọc sông Đáy và ở Hữu ngạn sông Hồng, với hệ thống đồn bốt dày đặc của Pháp, có điều kiện phát triển mạnh hơn, làm cho vùng tạm chiếm ở cửa ngõ phía nam - tây nam Hà Nội bị uy hiếp mạnh, chiến tranh du kích ở Tả ngạn sông Hồng và đường số 5 càng sôi nổi, mạnh mẽ hơn. Thắng lợi về quân sự tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị. Sau một số năm sống dưới ách kìm kẹp và lừa gạt của địch, qua hoạt động của bộ đội và kết quả tiêu diệt địch trong chiến dịch, nhân dân ta càng phấn khởi, tin tưởng ở thắng lợi của cuộc kháng chiến. Hơn nữa, các chính sách của Đảng và Chính phủ về dân vận, về công giáo, về đối xử khoan hồng với ngụy quân, ngụy quyền khi bị bắt hoặc đầu hàng... được bộ đội ta thực hiện đúng đắn trong chiến dịch đã gây được ảnh hưởng lớn trong nhân dân đối với kháng chiến. Nhiều cơ quan quân, dân, chính, đảng ở địa phương, trong địa bàn chiến dịch, đã trở về bám dân, bám đất đẩy mạnh các hoạt động vũ trang tuyên truyền trong vùng địch. Thắng lợi chính trị của chiến dịch Hà Nam Ninh đã gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của những chiến dịch sau này2.

Trong chiến dịch Hà Nam Ninh, lần đầu tiên bộ đội ta tiêu diệt được quân chiếm đóng của địch trong một thị xã ở đồng bằng (thị xã Ninh Bình) bằng cách đánh bôn tập cường kích (từ xa tới tập kích bằng sức mạnh). Cũng là lần đầu tiên tiêu diệt bốn đại đội địch trong công sự vững chắc, sau hai đêm một ngày chiến đấu, mở ra một kỷ lục mới về đánh công kiên3. Đây là chiến dịch đầu tiên chủ lực ta tiến công vào hệ thống phòng ngự của quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ, nơi đối phương có nhiều thuận lợi về cơ động và hoả lực. Tuy tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, nhưng chiến dịch không đạt được yêu cầu đã đề ra. Những khuyết điểm trong chiến dịch này có phần thuộc về sự chỉ đạo chiến lược (chọn hướng mở chiến dịch, chuẩn bị bộ đội); có phần thuộc về chỉ huy chiến dịch (tạo lực, tạo thế, kế hoạch tác chiến, sử dụng lực lượng, cách đánh); và một phần do năng lực tổ chức chỉ huy, tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ. Song yếu tố tác động lớn nhất đến kết quả của chiến dịch vẫn là sự chỉ đạo chiến lược và chỉ huy chiến dịch. Do đó “hiệu suất chiến đấu thấp, chiến dịch kết thúc trong điều kiện so sánh lực lượng đã thay đổi bất lợi cho ta, quyền chủ động chiến dịch không còn”4. Đó là những hạn chế của ta trên bước đường trưởng thành từ đánh du kích tiến lên tác chiến tập trung, với quy mô nhiều đại đoàn.

Mặc đù, Chiến dịch Hà Nam Ninh không đạt được yêu cầu đã đề ra. Chúng ta đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, tạo nên một thắng lợi về chính trị trong chiến dịch. Do đó, ngày 27 tháng 6 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen các chiến sĩ tham gia Chiến dịch Hà Nam Ninh đã tiêu diệt hơn 20 đại đội địch, “đã làm lay động tinh thần ngụy quân, đã phát triển chiến tranh du kích, bảo vệ nhân dân, bảo vệ mùa màng”5.
______________________________________
1.Hồ sơ 412, trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng (tỷ lệ tổn thất là địch: 1,2 - ta 1.)
2.Hồ Sơ 412, trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.
3.Đánh công kiên theo cách đánh mới: một điểm hai mặt, một đội bốn tổ.
4.Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, Nxb QĐND, H. 1995, tr. 122.
5.Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995, tr.68.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2012, 09:22:16 am »


CHIẾN DỊCH LÝ THƯỜNG KIỆT
(Tiến công, từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 31 tháng 10 năm 1951)


Sau Chiến dịch Hà Nam Ninh, tại đồng bằng Bắc Bộ, địch ra sức củng cố công sự, tăng cường càn quét vùng hậu địch, phá cơ sở nhân dân và kinh tế ta; đồng thời chúng đẩy mạnh kế hoạch củng cố vùng Tây Bắc. Địch tăng cường lực lượng củng cố Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái để giữ vựa thóc lớn của Tây Bắc và uy hiếp phía tây căn cứ Việt Bắc. Tại phân khu Nghĩa Lộ, lực lượng địch có một tiểu đoàn ngụy binh Thái (1e RTA) và bốn đại đội bổ sung chiếm đóng (LCSM), phân ra làm bốn điểm: Nghĩa Lộ, Gia Hội, Ba Khe, Thượng Bằng La, mỗi nơi có một đại đội, do một quan tư chỉ huy chung1.

Trước tình hình khó khăn ở hậu địch, Tổng Quân uỷ đề nghị với Trung ương cho mở một chiến dịch nhỏ ở hướng tây bắc và phát động một tháng chiến tranh du kích, buộc địch phải đối phó.

Ngày 11 tháng 9 năm 1951, Bộ Chính trị ra chỉ thị mở Chiến dịch Lý Thường Kiệt ở hướng tây bắc nhằm tiêu diệt một phần sinh lực địch, xây dựng cơ sở, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá khối ngụy quân Thái. Hướng chính là phân khu Nghĩa Lộ. Lực lượng sử dụng là Đại đoàn 312, một liên đội sơn pháo 75mm, hai đại đội công binh, cùng với bộ đội địa phương các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang. Quân số tham gia gồm 8.479 người. Bộ Tư lệnh Đại đoàn 312 được Tổng Quân uỷ giao trách nhiệm điều hành chiến dịch. Hướng phụ do tiểu đoàn địa phương tỉnh Phú Thọ phụ trách, có nhiệm vụ uy hiếp Thượng Bằng La. Trung đoàn 148 tiến công Phòng Tô, Bình Lư, Tú Lệ. Quân số tham gia gồm 1.631 người.

Phương châm chiến dịch đặt ra là tranh thủ bất ngờ, bao vây tiêu diệt những cứ điểm, đánh chắc thắng, giải quyết nhanh, đánh liên tục cả đêm và ngày. Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, phục kích, tập kích, công kiên. Kết hợp tác chiến của chủ lực với các lực lượng vũ trang địa phương, phát triển chiến tranh du kích. Phối hợp chặt chẽ giữa tác chiến với vận động nhân dân và nguỵ binh.

Quán triệt phương châm trên, ngày 13 tháng 9, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị cho các đơn vị khẩn trương bước vào chuẩn bị chiến dịch.

Ngày 25 tháng 9, Đại đoàn 312 vượt sông Hồng tiến vào Tây Bắc theo hai cánh. Cánh chính gồm hai trung đoàn 141, 209, cùng liên đội pháo 75mm vượt rừng núi hiểm trở, thâm nhập vào cánh đồng Nghĩa Lộ theo hướng bắc. Cánh phụ do trung đoàn 165 tiến theo đường 13, tiếp cận Nghĩa Lộ ở hướng đông nam.

Căn cứ vào nhiệm vụ chiến dịch và sau khi đi nghiên cứu thực địa, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Đại đoàn 312 quyết định kế hoạch tác chiến như sau: Trung đoàn 165 được phối thuộc một đại đội địa phương Yên Bái, một khẩu pháo 75mm, có nhiệm vụ tiến công Ca Vịnh, Ba Khe, Cốc Báng, Cửa Nhì, hai trung đoàn 141 và 209 cùng với liên đội pháo tiến công Bản Tú, Nghĩa Lộ, Gia Hội. Chỉ huy sở đại đoàn đặt ở giữa Khe Phong và Ngã Hai.

Về đảm bảo hậu cần, ngoài việc bố trí các kho gạo dọc đường đủ cung cấp cho bộ đội hành quân từ Phú Thọ lên Yên Bái, còn bố trí bên tả ngạn sông Hồng một số lượng gạo bổ sung cho toàn đại đoàn mỗi người 10 ngày ăn và mỗi dân công 21 kg trước khi sang sông. Kho dự trữ của đại đoàn khi tác chiến, một đặt ở Nậm Mười để cung cấp cho hai trung đoàn 141 và 209, một đặt ở gần Ca Vịnh để cung cấp cho trung đoàn 165.

Để phục vụ chiến dịch, vận chuyển hàng hoá, làm lán trại, bè mảng cho bộ đội qua sông, quân dân Tây Bắc đã huy động trên 29.000 dân công, cung cấp 522 ngựa thồ, vận chuyển 96.411 kg lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị cho bộ đội2.

Thời gian chuẩn bị chiến dịch tương đối đài, nhưng kế hoạch tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch thay đổi đến ba lần, nên công tác bảo đảm vật chất vẫn cập rập. Trong quá trình chuẩn bị, hướng tác chiến bị lộ, địch cho máy bay oanh tạc hậu phương và ngăn cản cuộc hành quân của ta. Các kho gạo Hào Gia, Cổ Phúc, Đại An bị máy bay đánh phá, thiệt hại 17 tấn gạo.

Trong khi ta tiến hành công tác chuẩn bị, do bị lộ, địch đã có những hành động đối phó. Ngày 16 tháng 9, địch ở Nghĩa Lộ thiết quân luật, tăng cường trinh sát bằng máy bay dọc sông Thao, ném bom bắn phá các cầu và những vùng nghi ta tập kết lực lượng. Tiếp đó, địch rút các đơn vị lẻ về tập trung ở các đồn chính. Ngày 27 tháng 9, địch rút Sai Trương về Nghĩa Lộ; ngày 28 tháng 9, địch rút Cốc Báng về Cửa Nhì; ngày 29 tháng 9, chúng rút Thượng Bằng La, Dông Bô và Khe Phìa. Mặc dù vậy, Bộ chỉ huy Chiến dịch vẫn quyết định mở màn đúng kế hoạch.

Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 9, phía cánh phụ trên đường 13, tiểu đoàn 115 trung đoàn 165 tiến công đồn Ca Vịnh. Lực lượng địch ở Ca Vịnh có 135 tên, do quan hai Rốc (Roch) chỉ huy, vũ khí có 12 trung liên, hai cối 61mm, một đại liên và nhiều súng trường, lựu đạn. 3 giờ 10 phút, ta nổ súng, đến 7 giờ 30 phút, ta mới phá huỷ được một phần công sự, địch chết nhiều ở giao thông hào, nhưng ta không giải quyết được hoàn toàn cứ điểm và phải rút ra ngoài, vì thương vong cao (hy sinh 36 người, bị thương 118 người)3. Ngày 1 tháng 10, địch bỏ Ca Vịnh rút về Ba Khe.

Đêm 1 tháng 10, ở cánh chính, tiểu đoàn 166 trung đoàn 209 tiến công Bản Tú (tiền đồn của Nghĩa Lộ). Địch ở đây có 120 tên, do quan một Rê-nar (Renoult) chỉ huy, vũ khí có sáu trung liên, hai cối 61mm và tiểu liên, súng trường. 23 giờ 30 phút, ta nổ súng, sau 5 phút đã mở được cửa mở và phát triển vào tung thâm. 24 giờ, ta hạ lệnh xung phong, địch rút về phía Nghĩa Lộ khoảng hai trung đội. Đến 24 giờ 40 phút, ta chiếm xong đồn, diệt 12 tên địch, bắt 16 tên (có tên quan một đồn trưởng). Trận này, ta hy sinh chín người, bị thương 71 người.

Lúc này, tiểu đoàn 1 Thái chia nhau cố thủ các vị trí Nghĩa Lộ, Gia Hội, Sơn Bục và gọi quân cứu viện. 17 giờ ngày 2 tháng 10, địch cho tiểu đoàn 8e BPC nhảy dù xuống Gia Hội, tây bắc Nghĩa Lộ 20 ki-lô-mét, đe dọa phía sau lưng quân ta. Đêm 2 tháng 10, trung đoàn 141 cùng một liên đội pháo tăng cường (năm khẩu), hai đại đội công binh, tiến công đồn Nghĩa Lộ. Quân ta công đồn quyết liệt, diệt một trung đội địch, tên quan tư chỉ huy Nghĩa Lộ bị chết tại trận, nhưng ta vẫn không chiếm được đồn này.
________________________________________
1.Hồ sơ 466, báo cáo Chiến dịch Lý Thường Kiệt, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.
2.Số dân công trực tiếp phục vụ chiến dịch là 5000 người và trên 300 dân công làm nhiệm vụ cấp dưỡng, hộ lý tại bệnh viện hậu phương tuyến một đặt ở thôn Lưỡng (Hào Gia) cách thị xã Yên Bái bốn ki-lô-mét.
3.Hồ sơ 466, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM