Một thời để nhớTỪ GIẢNG ĐƯỜNG ĐẾN CHIẾN TRƯỜNG
QĐND - Thứ Tư, 18/04/2012, 18:21 (GMT+7)QĐND - Đã tròn 40 năm kể từ ngày những người lính binh nhì chúng tôi rời các giảng đường đại học đến với chiến trường Quảng Trị máu lửa 1972.
Đó là cuộc lên đường mang quy mô và tính chất của một cuộc tổng động viên của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi những thanh niên nhập ngũ lần ấy gồm toàn sinh viên và một số cán bộ giảng dạy của các trường đại học như: Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm, Ngoại ngữ, Kinh tế quốc dân, Thương nghiệp, Mỏ-Địa chất, Y Dược, Mỹ thuật, Kỹ thuật thông tin, Thể dục thể thao v.v.. Để rồi, sau cái ngày 6-9-1971 đã trở thành cột mốc chia đôi cuộc đời của mỗi chúng tôi ấy, chỉ qua khoảng 5 tháng luyện quân ở Hà Bắc, gần như tất cả các chàng trí thức trẻ mà bộ quân phục Tô Châu còn chưa kịp phai màu, đã “được” ném thẳng vào cái lò luyện người mà có nhà văn bên phía quân đội Sài Gòn gọi là “Mùa hè đỏ lửa”, hoặc người Mỹ thì gọi là “Đồi thịt băm”.
Nếu bạn đã đọc nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, thì sẽ phần nào hình dung được gương mặt và tâm thế của những chàng tân binh sinh viên ngày ấy. Họ là những chàng trai thông minh, nhiều người còn thực sự tài hoa, còn phẩm chất và tâm hồn thì trong sáng, đẹp đẽ vô cùng. Trong số đó, có những cái tên mà sau này trở nên quen thuộc với công chúng từ những cương vị khác nhau, như liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, tác giả nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi”, nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm, họa sĩ Lê Duy Ứng, nhà báo Đinh Thế Huynh, nhà báo Phùng Huy Thịnh, bác sĩ - Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu v.v.. cùng với bạt ngàn những con người mang gương mặt và tâm hồn của cả một thế hệ những trí thức trẻ gác bút nghiên lên đường chiến đấu, vừa lẫm liệt vừa bi tráng.
Sau thời gian luyện quân, phần lớn các bạn được biên chế làm lính bộ binh, trực tiếp có mặt ngay ở Quảng Trị, và cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở Thành cổ đã nhanh chóng biến rất, rất nhiều các anh thành liệt sĩ, một con số không thể đếm xiết, như lớp lớp sóng xanh trên dòng sông Thạch Hãn, như lớp lớp cỏ xanh dưới chân Thành cổ. Anh hồn các anh giờ này đã nhập vào thần thái bất tử của những bức tượng đài sừng sững trên mảnh đất này. Hình ảnh của các anh gần đây đã được một người trong số những chàng tân binh ngày ấy - nhà thơ, nhà biên kịch điện ảnh Hoàng Nhuận Cầm - cùng đạo diễn Nguyễn Hữu Mười và các đồng nghiệp tái hiện trong bộ phim “Mùi cỏ cháy” vừa đoạt giải Cánh diều vàng năm 2011 của Hội Điện ảnh Việt Nam. Mặc dù là người rất khó tính với điện ảnh Việt Nam, nhưng thú thật, mắt tôi đã nhòa đi, miệng tôi đã nghẹn ngào không thốt nên lời trong suốt thời gian ngồi xem bộ phim này. Đạo diễn, NSND Huy Thành đã lên tiếng đề nghị những người có thẩm quyền hãy tìm cách để bộ phim có thể đến với mọi người xem trên cả nước, và tôi hết sức ủng hộ ý kiến của ông.
Với các bạn tân binh là sinh viên thì hành trình là như vậy.
Còn đối với cánh lính già chúng tôi, những cán bộ giảng dạy hay sinh viên đã tốt nghiệp của các trường đại học, thì câu chuyện cũng không khác mấy. Đó là những chàng binh nhì có lẽ là ngộ nghĩnh nhất toàn quân, bởi phần lớn đều thuộc lứa “trẻ sắp qua, già đang tới”, có anh trên đầu đã điểm xuyết mấy sợi tóc bạc phất phơ, như giảng viên Khoa Luyện kim Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Nghiêm Hùng, người gần đây mỗi lần họp đơn vị cũ vẫn nói đùa: “Hồi ấy tớ mà viết nhật ký như Nguyễn Văn Thạc thì phải đề là “Mãi mãi tuổi ba mươi”.
Nhưng già hay trẻ thì lính vẫn là lính, với cuộc sống quân ngũ thời chiến gian lao, với những đêm hành quân mang vác nặng, những ngày đội nắng đội mưa huấn luyện các động tác cơ bản lăn lê bò toài, một ngày chạy lên chạy xuống các triền đồi Nhã Nam, Yên Thế không biết bao nhiêu bận để thực hành khoa mục đánh công kiên, diệt lô cốt địch. Trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông trung du năm ấy, dưới tấm áo quân phục phong phanh của chiến sĩ, những chàng cử nhân và cao học đủ các chuyên ngành, trong đó có cả mấy ông phó tiến sĩ ở Liên Xô và Đông Âu về, lần đầu tiên tạm xa mái trường đại học, bỏ lại sau lưng những bục giảng và bảng đen phấn trắng, những đồng nghiệp và bao nhiêu ánh mắt học trò ngóng đợi, để nhận lấy khẩu AK và một chỗ đứng vô danh trong bạt ngàn những người ra trận, làm một người lính trơn trong chiến hào thứ nhất, không một chút so đo tính toán.
Với chúng tôi, tất cả những gì hôm qua còn trong sách vở thì hôm nay đã đập vào tận mắt, đã sờ được bằng tay. “Đêm nằm năm ở”, những Nhã Nam, Yên Thế, Quán Rãnh, Thượng Lan..., một mùa đông dài dằng dặc năm ấy chúng tôi đã có thêm bao nhiêu quê hương mới. Đó cũng là lúc ra đời những bức chân dung tốc họa dọc đường hành quân trong cuốn sổ tay của họa sĩ Duy Độ, những vần thơ hiện lên vội vã dưới ngòi bút của những thi sĩ tương lai Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trung Thu... Để vào những tối sinh hoạt đại đội lại vang lên tiếng đọc thơ, tiếng đàn hát cây nhà lá vườn của những Phạm Ngọc Chiển đến từ Trường Đại học Thương nghiệp, của Lê Thanh Hùng đến từ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (sau này là phát thanh viên, NSƯT của VTV), của “Tuấn kèn” Bách khoa, với tiếng kèn clarinet hào hoa, v.v.. và v.v.. Tôi sẽ không bao giờ quên tiếng hát đắm đuối của Hà Văn Hiển, giảng viên Trường Đại học Mỏ-Địa chất, với hàm râu quai nón tua tủa trông dữ dằn nhưng lại ẩn chứa một tâm hồn đằm thắm dịu dàng, người sau này sớm ra đi vì căn bệnh ung thư, sau những ngày chống trả kiên cường theo cách của một người lính. Và cứ mỗi sáng đầu tuần, khi cả đơn vị xếp hàng nghiêm ngắn để chào cờ, thì lại xuất hiện dưới Quân kỳ chàng trai vóc dáng nhỏ thó, áo quần tề chỉnh, đứng nghiêm trang đọc thuộc lòng mười lời thề danh dự bằng giọng đọc sang sảng. Đó là giảng viên Khoa Toán, Trường Đại học Tổng hợp Nguyễn Xuân My, người có trí nhớ đặc biệt, một nhà giáo sẽ có công trong việc bồi dưỡng những học sinh giỏi toán của đất nước tham gia các cuộc thi quốc tế.
Và tất cả, trong đó có người viết những dòng này, đã gấp gáp được chia về nhiều đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu, để kịp có mặt ở tuyến lửa Quảng Bình, Quảng Trị khi Chiến dịch 1972 nổ ra. Công binh, Quân khí, Thông tin, Xe-Máy, Hậu cần…, mỗi anh một nghề nhưng cùng chung một địa bàn chiến đấu. Tôi và các anh Nguyễn Trung Thu, Nguyễn Thụy Kha và họa sĩ Duy Độ thì làm lính của Trung đoàn Thông tin 132, xây dựng và bảo vệ cho tuyến đường dây phục vụ Bộ chỉ huy mặt trận. Riêng tôi thì làm lính binh nhì, rồi leo lên đến… binh nhất, thuộc Tiểu đội 1, Trung đội 2, Đại đội 4, suốt ngày lặn lội đi vác dây, rải dây, nối dây và canh giữ cho đường dây thông suốt trong mọi tình huống. Cuốn nhật ký chiến trường vừa để ghi chép vừa để sáng tác là cái kho bề bộn để tôi nhồi nhét cho đầy những thời khắc của gần trọn một năm lăn lộn với chiến trường Quảng Trị mà phút giây nào cũng trở thành tài sản vô giá của trái tim tôi. Đó là những ngày mà tôi có thể nhìn thấy nhãn tiền kết quả của mỗi việc mình làm, cảm nhận được sự có ích và cần thiết của chính mình trong đội hình đơn vị, trong cuộc chiến đấu lớn lao của cả dân tộc. Và đó là một cảm giác viên mãn đặc biệt, khác hẳn với cái việc viết lách vốn là một trò chơi “vô tăm tích”. Những bài thơ cũng hình thành từ cảm hứng như thế nên đã gặp được sự đồng cảm của bạn đọc một thời. Với các bạn tôi, sự thể cũng diễn ra như vậy. Các anh đã làm tròn nhiệm vụ của người lính và còn làm được hơn thế, để trở thành những tên tuổi quen thuộc trong nền văn học nghệ thuật nước nhà thuộc thế hệ chống Mỹ. Đó là nhà thơ Nguyễn Trung Thu với lời thơ làm nên ca khúc “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” đã đi sâu vào lòng công chúng, đến nỗi trong đám tang của anh diễn ra cách nay gần hai năm, Ban tổ chức đã liên tục cho phát bài hát này lên như để nói hộ lòng thương tiếc của những người đến đưa tiễn anh. Đó là nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha, một cây bút đa tài, một sức làm việc được nhiều người gọi là “đáng kinh ngạc”. Đó là họa sĩ Duy Độ, với nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc tâm huyết, đồng thời là một thầy giáo tận tụy của Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp…
Rời chiến trường trong ngày hòa bình đầu tiên, ngay sau khi có Hiệp định Pa-ri, ngồi trên thùng xe gát lăn đi trong màn mưa và màu cờ đỏ rợp trời, cùng với tiếng hát mênh mang của ca sĩ Doãn Tần với bài ca “Đường chúng ta đi” của nhạc sĩ Huy Du, tôi và họa sĩ Duy Độ nhiều lúc ngỡ như mình đang sống trong mơ. Chiến trường đã sau lưng. Quảng Trị đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng chúng tôi cũng biết rằng, chúng tôi có thể ra khỏi chiến tranh, nhưng chiến tranh thì sẽ mãi mãi ở lại trong lòng chúng tôi.
Những người lính ra đi từ các giảng đường đại học đã để lại một phần tuổi trẻ của mình ở chiến trường, một phần thôi, nhưng đó là cái phần tinh hoa nhất của mỗi cuộc đời. Và với những ai may mắn được trở về từ chiến tranh, vị trí trang trọng nhất trong trái tim chúng tôi vẫn luôn dành cho những người bạn đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất thiêng liêng Quảng Trị: Đó là những An Văn Nhân, Nguyễn Báu, Lê Văn Phúc, Nguyễn Trọng Vinh… mà hình ảnh như mãi vẫn còn tươi rói.
Họ đã sống một thời khắc nghiệt
Muốn sống bình thường thôi cũng phải
sống anh hùng.
Vâng, “bình thường” và “anh hùng” – đó phải chăng là hai mặt luôn tồn tại trong tâm thế của cả một thế hệ những thanh niên đã đi từ giảng đường đến chiến trường ngày ấy.
Anh Ngọc
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/89/70/265/265/265/184771/Default.aspx