THÊM MỘT CÂU CHUYỆN NÓ & TÔI
Những ngày đầu tiên của cuộc sống
mất trí, theo lệnh vợ tôi phải dọn dẹp đống giấy tờ mang ở cơ quan về và tôi phát hiện ra 1 cái phong bì đề tên Nó gửi cho tôi trong đó có 2 bài thơ của Nó. Nó đưa cho tôi từ lâu lắm nhưng tôi vẫn còn giận Nó nên phong bì này bị lãng quên.
Nó & Tôi cùng là SV ĐHXD, cùng nhập ngũ một ngày (27/5/1972) cùng về trung đoàn 101 (Nó ở c17 công binh, còn tôi về c3 bb/d1/e101) điều đặc biệt Nó & tôi cùng bị cận như nhau và cùng mang kính 3 đi-ốp. Nó là 1 thằng nhỏ thó, tư chất thông minh, tính tình hoạt ngôn, ranh mãnh, giao thiệp rộng…hầu như cả khu C của ĐHXD đều biết đến Nó. Gia đình Nó ở phố H.G trên gác 2 của 1 tòa nhà cổ, anh em nhà Nó sàn sàn trứng gà, trứng vịt. Các cụ thân sinh rất quý bạn của các con nên nhà Nó là nơi bạn hữu thường hay tụ tập.
Chúng tôi nhập ngũ và đóng quân trên vùng đồi Tân Đức, Phú Bình, Thái Nguyên. Tôi ở b1, Nó ở b2 cùng c1/d60/f304B/QKVB. Những buổi trưa không ngủ hoặc những buổi chiều rảnh rỗi chúng tôi lại tụ tập nhau và chuyện lại nổ như pháo rang quên hết cả những mệt nhọc của những ngày huấn luyện, những lúc như thế Nó là cái thằng nói nhiều nhất.
Chúng tôi lên đường đi B. Nhiều gian nan vất vả trên đường nhưng với những thằng cận thị như chúng tôi cái đáng sợ nhất là đêm tối và trời mưa nhòe nhoẹt mắt kính…Bên trung đội 2, Nó bao giờ cũng đi sau Hiền
phệ và rất chịu khó lau chùi miếng gỗ phủ lân tinh buộc trên nắp ba lô của Hiền
phệ. Khi đi trong rừng cấy cối ngang mặt nên dễ văng mất kính, tôi bàn với Nó xé 1 quần đùi cũ (mang từ nhà) để lấy chun ngoắc vào 2 càng kính lồng qua đầu để khỏi văng mất kính.
Sau khi vượt sông Thạch Hãn về trung đoàn, Nó & tôi không gặp nhau nữa. Mãi tới khi tôi đi viện trở về và gặp Nó tại sân bay Ái Tử khi cả 2 cùng đi lấy vật liệu về làm công sự tại Cửa Viêt. Nó gầy đi nhiều và đôi kính của Nó một bên mắt bị rạn. Tôi đưa cho Nó cái kính sơ-cua mang từ ngoài Bắc vào. Anh em tôi về c17 có 10 người, giờ chỉ còn lại Nó và Đức (k13); Tuấn, Thé, Ngự… hy sinh, một số bị thương ra bắc còn Long, Vượng, Đức (k15) ra Bắc học ĐHKTQS.
Thời gian ấy chúng tôi thỉnh thoảng gặp nhau. C17 của Nó đóng ven con lạch chảy ra cầu Bồ Bản. Nhà cửa của lính công binh đàng hoàng hơn lính bb chúng tôi rất nhiều. Trung đoàn tôi được tăng cường 1 đợt quân HP, nhiều người trong số họ rất ngang tàng, bặm trợn. Nhưng khi thấy bạn mình sống rất hòa đồng với anh em HP, được họ quý mến và chăm sóc, tôi cũng yên tâm(số anh em HP ở c17 hầu như ai cũng to con trong khi bạn mình lại nhỏ thó). Thời gian này Nó khoe với tôi là đang làm thơ và sáng tác chèo cho đại đội tập văn nghệ.
Cuối năm 1973 Nó được ra Bắc tiếp tục đi học, mấy tháng sau tôi lại thấy Nó xuất hiện ở đơn vị tại Nam Cửa Việt đưa quà của gia đình và cho biết Nó vào để chuyển sinh hoạt Đảng. Lần gặp này, Nó rất vội vì phải đưa quà cho nhiều anh em bạn bè thậm chí có những người ở bên e95 tận tít mạn Tích Tường, Như Lệ.
Sau chiến tranh, anh em chúng tôi lục tục trở về trường tiếp tục đi học. Riêng tôi do điều kiện sức khỏe tôi chuyển sang học khoa Pháp ĐHSPNN.
Nó cùng 1 số anh em tốt nghiệp những năm ấy được tập trung đi học tại trường NAQ và các trường tuyên huấn để đào tạo những người lính đã qua thử thách của chiến tranh trở thành những cán bộ chính trị có chuyên môn làm rường cột của đất nước sau này.
Và nó trở thành cán bộ tổ chức của Cục phục vụ ngoại giao đoàn phụ trách khối nhân viên phục vụ của các ĐSQ các nước Tây Âu.
Thời kỳ ấy đất nước đang trải qua những tháng ngày vô cùng khó khăn của chế độ bao cấp. Gia đình nào có người làm ở các ngành thương nghiệp như lương thực, bách hóa, thực phẩm, chất đốt… quả thực đó là niềm mơ ước của hàng triệu con người. Những người phục vụ của NGĐ trong các ĐSQ cũng không ngoại lệ.
Năm 1980 tôi ra trường và lên đường sang Kampuchia công tác tại Đoàn chuyên gia giáo dục VN với nhiệm vụ giảng dạy tiếng Việt cho học sinh, sinh viên và cán bộ các ngành của bạn.
Trước đó tôi và Nó có va vấp 1 chuyện mà thời gian đó do sự cố chấp của tôi trong hoàn cảnh đó khiến tôi rất giận Nó.
Tới năm 1995, sau khi Nó cùng 1 số bạn bè vào QT đi tìm Tuấn, chúng tôi tập hợp nhau lại để trở thành 1 nhóm CCB-SV ĐHXD, tôi lại gặp Nó.
Bao nhiêu năm mới gặp lại, thấy Nó tiều tụy đi nhiều. Nghe một số người quen biết nói lại trong công việc của nó sau 1 thời kỳ tốt đẹp đã gặp phải một số chuyện không hay thành ra Nó phải lấy rượu giải khuây. Từ chuyện này đến chuyện khác chỉ trong gang tấc.
Mỗi lần chúng tôi gặp nhau đều phải cho người đưa Nó về, uống thì không nhiều nhưng lại hay say…
Ngày 22/12 và 27/5 vừa qua Nó có đến cùng chúng tôi, tuy có khá hơn nhưng sức khỏe yếu đi trông thấy.
Nó đây, trong ngày KN 40 năm ngày nhập ngũ
Tôi giới thiệu với các bạn 2 bài thơ của Nó. Đây cũng là lời xin lỗi với Nó vì những sự cố chấp của tôi.
HÈ ĐỎ LỬA
Không quan tài chỉ quấn vội võng tăng,
Chả toàn thây, chon vội vàng cho bạn.
Dày đặc mưa bom, bão đạn pháo bầy
Vâng Cổ Thành - Thạch Hãn nơi đây
Nhan Biều - An Tiêm
Thành địa danh bất tử
Hôm nay trở lại viếng thăm Cổ Thành cũ
Mà vẫn bàng hoàng, bức xúc dội lòng tôi
Chúng tôi về thăm các anh: Ca, Ngừng, Hiếu, Tươi
Thông, Hà, Hải muôn vàn tên, tên họ nữa
Đã qua rồi 81 ngày hoa lửa
Về với các anh chia sẻ nỗi buồn vui
“Tổ quốc ghi công” - Biểu tượng sáng ngời
Các anh sống mãi đời bất tử
Không thể nào quên - “Một thời hoa lửa”
Đất Quảng Trị này - Dấu ấn in sâu
Cổ Thành Quảng Trị
Hè 2005
L.Đ
CCB sư 325 e 101 MỘT NÉN HƯƠNG
Mỗi mỗi người nén hương ngát hôm nay.
Ơi các anh Hà, Hường, Thủy .v.v…
Rất nhiều tên ngàn vạn tuổi tên
Một nén hương thơm dâng kính tặng các anh
Yên nghỉ nhé, đồng đội tôi tri kỷ
Vẫn sống bên tôi, người đồng chí của tôi.
Thạch Hãn sông uốn khúc êm trôi
Nhẹ nhẹ chèo vì các anh dưới đó
Im lặng nhé! Mắt hoe hoe đỏ
Những cánh hoa theo dòng nước bập bềnh
Hãy đón nhận chúng tôi về Đầu Kênh
Về Nại Cửu trầm tư trong hoài niệm
Và Bích La cả một kỳ chinh chiến
Đạn réo, bom rơi, khói lửa mịt mù.
…Nhớ! Nhớ quá tháng 9 mùa thu.
Tập kết lại chưa đầy hai chục
Lẳng lặng im nỗi lòng bức xúc
Đồng đội tôi! Đồng đội của tôi ơi.
Các Anh vẫn sống như chúng tôi đang sống.
Văng vẳng tiếng cười, tiếng thơ đầy thơ mộng
…Sẽ trở về sống với làng quê.
Với con sông làng xóm ven đê,
Với đồ án - chương trình dang dở.
Với mẹ già nỗi niềm thân thương nhớ
Với đàn em hớn hở đến trường.
Với người yêu, với vợ đỗi yêu thương
Với phố phường ăm ắp đầy hoài niệm
Đấy là ao ước nhỏ nhoi người lính chiến
Giáp mặt thù vẫn ước ước ao ao
Dù trên chốt, hay dọc tuyến chiến hào
Ai ai cũng có quyền mơ ước.
Nay - hòa bình rồi, rợp cờ sao Tổ quốc
Cả Đất nước - Mẹ hiền tạc dạ ghi công.
Các anh sống mãi với non sông
Xứng danh con cháu Lạc Hồng
Việt Nam
Cổ Thành - Thành cổ 2005
L.Đ
Nguyên CCB 325