CHIẾN DỊCH GIẢI PHÓNG QUẢNG TRỊ VÀ THÀNH CỔ QUA ĐÁNH GIÁ TỪ PHIA BÊN KIA
Trung tá, TS Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)
(tiếp theo)
QĐND - Thứ Ba, 20/03/2012, 22:2 (GMT+7)QĐND - Nhiều nhà nghiên cứu quân sự của Mỹ và Sài Gòn cho rằng, hướng xuất quân đột ngột bất ngờ của ta trong cuộc tiến quân đầu tiên đã tạo ra một lợi thế rất to lớn lúc đầu. Xét về thế bất ngờ, Mỹ -ngụy đã không đoán trước được quy mô và phương pháp áp dụng trong các cuộc tấn công của ta. Sự thiếu sót này rất thuận lợi cho quân ta và gây tác động tâm lý đối với đối phương vốn vẫn nghĩ rằng mọi việc khác hẳn, chứ không phải như đã diễn ra và cuối cùng họ phải thừa nhận “Mỹ và Sài Gòn không tiên đoán được Hà Nội lại mạo hiểm như vậy. Tính quy mô của cuộc tấn công cũng là một đòn bất ngờ sấm sét đối với Bộ chỉ huy ngụy. Trước đây, Cộng sản luôn né tránh không áp dụng các chiến thuật quy ước. Rất có thể là cần phải như vậy vì ưu thế hỏa lực và kỹ thuật vẫn thuộc về đối phương. Họ luôn áp dụng chiến thuật phân tán, đánh chớp nhoáng, nghi binh, cơ động nhanh và tấn công bất ngờ, rất ít khi họ ra mặt”. Còn Đại tá lục quân Mỹ William S. Reeder nhận xét rằng: “Mùa xuân 1972, Cộng sản bất thần mở những cuộc tấn công như vũ bão. Đây không phải là một cuộc nổi dậy của Việt Nam năm 1968 mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công của Cộng sản băng qua vùng phi quân sự”. Một đơn vị tình báo Mỹ có trụ sở tại Đà Nẵng, trong báo cáo ngày 2-5-1972 đã khẳng định: “Về cơ bản, các lực lượng quân đội Bắc Việt đã chiến thắng nhanh như chớp. Mỹ và quân đội Việt Nam cộng hòa hoàn toàn ngạc nhiên khi quân đội Bắc Việt sử dụng lực lượng trong các cuộc tấn công” [1].
Chiều ngày 4-5-1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam cộng hòa bay ra thị sát mặt trận giới tuyến, họp kín với các tư lệnh chiến trường. Tướng Thomas Bowen, Cố vấn quân sự Mỹ tại Quân khu 1 cho biết, Mỹ đã thay thế các xe tăng và pháo binh mà Việt Nam cộng hòa bị mất và hư hại tại Quảng Trị. Đại bác từ Mỹ được chở thẳng sang và xe tăng chở từ Nhật tới để chuẩn bị cho một chiến dịch tiếp theo.
Mặc dù từ đầu đến cuối chiến dịch, ta luôn giữ quyền chủ động chiến lược, chiến dịch, buộc địch bị động điều quân, làm cho thế bố trí chiến lược của chúng trên toàn miền Nam bị đổ vỡ, rối loạn, nhưng khả năng của ta có hạn, không thể đánh dứt điểm các mục tiêu như ý định ban đầu. Tuy Mỹ-ngụy có trang bị kỹ thuật hiện đại đến đâu thì cuộc đương đầu lịch sử đã phân rõ thắng, bại. Đại hội Đảng dân chủ Mỹ diễn ra vào tháng 7-1972 đã ghi vào cương lĩnh: “Sự trống rỗng của “Việt Nam hóa chiến tranh”, một khẩu hiệu lừa bịp có vẻ như hứa hẹn một thắng lợi ít tốn kém đã bị phơi trần qua cuộc tiến công gần đây. Chính phủ Sài Gòn, mặc dù đã được Mỹ ủng hộ ồ ạt vẫn không có sức sống. Nó không có hiệu lực về quân sự, thối nát về chính trị và gần suy sụp về kinh tế”. Sự thực này, các quan chức ở cả Oa-sinh-tơn lẫn Sài Gòn cũng phải thừa nhận rằng: “Các điểm này thực ra đã đủ để thỏa mãn các tiêu chí cho chiến thắng mà Hà Nội đã đề ra trước khi cuộc tổng tấn công bắt đầu” [2]. Và, “Trong giai đoạn đầu, cuộc tổng tấn công đã là một thành công hoàn hảo. Tình báo Mỹ đã đánh giá sai về thời gian, quy mô, địa điểm của các cuộc tấn công. Có được tính bất ngờ, quân đội nhân dân Việt Nam chọc thủng các tuyến phòng thủ mỏng của Việt Nam cộng hòa, nhanh chóng tiến về thị xã Quảng Trị” [3].
Ngay sau khi bị mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị (ngày 2-5-1972), Thời báo New York của Mỹ đưa tin rằng tỉnh Quảng Trị “bị rơi vào tay Cộng sản” và “từ Oa-sinh-tơn đến Sài Gòn luôn bao trùm một không khí lo âu căng thẳng. Tâm lý thất bại trong quân ngụy lan tràn” [4]. Không cam chịu thất bại, địch bắt đầu thực hiện các bước điều chỉnh lực lượng và lập kế hoạch tái chiếm tỉnh này. Ngày 13-6-1972, Bộ chỉ huy của quân viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn hứa tăng viện và hỗ trợ tối đa về hỏa lực (không quân, hải quân, pháo binh). Đồng thời, Nguyễn Văn Thiệu đưa 4 sư đoàn mạnh nhất trong ngụy quân, trong đó có 2 sư đoàn được mệnh danh là “thiên thần mũ đỏ” (sư dù) và “cọp biển” (sư lính thủy đánh bộ) thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia với lực lượng tương đương 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn… và nhiều đơn vị không quân, pháo hạm Mỹ hỗ trợ cho cuộc hành quân “tái chiếm” này.
Đồng thời với việc chuẩn bị lực lượng, Nguyễn Văn Thiệu điều tướng Ngô Quang Trưởng (nguyên Tư lệnh Quân khu 4 - Vùng 4 chiến thuật) - ra làm Tư lệnh Quân khu 1, Vùng 1 chiến thuật thay tướng Hoàng Xuân Lãm - viên tướng làm mất cả tỉnh Quảng Trị. Việc thay đổi nhân sự phản ánh quyết tâm của Thiệu tìm kiếm những thắng lợi quân sự nhằm ngăn chặn sự suy sụp tinh thần binh sĩ, đồng thời giữ chặt vùng đất từ nam sông Mỹ Chánh trở vào.
Ngày 19-6-1972, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho quân đội mở một chiến dịch tiến công trong 3 tháng, mệnh danh “Thừa thắng xông lên, tái chiếm lãnh thổ” [5]. Theo đó, địch dự định chiếm lại thị xã Quảng Trị trong tháng 7 và toàn tỉnh Thừa Thiên trong tháng 8 và 9. Động thái này của người đứng đầu chính quyền Sài Gòn được đánh giá là “giai đoạn giành lại quyền làm chủ đất đai bị Cộng sản tạm chiếm trong toàn lãnh thổ. Không những thế, cuộc tiến công này chắc chắn có một ý nghĩa chính trị, trực tiếp ảnh hưởng tới mọi quyết định đang được hình thành về vấn đề Việt Nam và Đông Dương” [6].
Song song với quá trình nghiên cứu, soạn thảo kế hoạch phản công, địch đẩy mạnh tác chiến ngăn chặn và trì hoãn các cuộc tiến công của ta, nhằm tạo một cục diện chiến trường không xấu hơn đối với chúng. Sau “nhiều lần chỉnh sửa”, kế hoạch phản công của địch được hoàn tất vào ngày 16-6-1972, mang tên Kế hoạch hành quân Lam Sơn 1972. Kế hoạch được thực hiện bằng những trận oanh kích lớn. Ngày 26 và 27-6, trên toàn bộ chiến tuyến phía Bắc sông Mỹ Chánh, từ Núi Cái Mương, Hồ Lầy, Đá Bạc (hướng tây) đến Văn Quỹ, Hội Phường Kỳ (hướng đông) và các trận địa hỏa lực của ta nằm dọc đường số 1 ở huyện Hải Lăng đều bị đánh phá dữ dội. Sáng ngày 28-6, với sự chi viện của không quân và hải quân Mỹ, các sư đoàn chủ lực ngụy bắt đầu ồ ạt tiến công sang bờ bắc sông Mỹ Chánh thực hiện cuộc hành quân “tái chiếm lãnh thổ”.
Cuộc chiến đấu chốt giữ thị xã và Thành cổ Quảng Trị diễn ra quyết liệt từ trung tuần tháng 7 trở đi. Trên khu vực ngã ba Thạch Hãn đến ngã ba Long Hương, 3 tiểu đoàn dù (1, 9, 11), lữ dù 2 và 3 liên tục tấn công vào xung quanh Thành cổ, có ngày quân dù chiếm được gần hết làng Tri Bưu và làng Cổ Thành. Nhưng mọi cuộc tấn công ồ ạt của quân dù đều bị chặn lại trước những chốt thép kiên cường của quân ta. Với chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, nhảy cóc không thành, quân dù buộc phải chuyển sang “đánh chắc tiến chắc” nhằm giảm bớt thương vong. Và với chiến thuật “chậm chắc” mỗi khi phát triển gặp ta là chúng dừng lại, gọi bom, pháo đánh rồi mới tổ chức tiến công tiếp. Bởi vậy, trên dải đất dài, hẹp chỉ vài cây số vuông của thị xã và Thành cổ, suốt ngày bom đạn nổ rền rĩ, mặt đất như chảo lửa lớn. Trong cuốn “Cuộc thử thách”, Đê-vơ Ri-sớt Pan-mơ đã miêu tả: “Các cuộc tấn công của Bắc Việt thật là dồn dập, ở một quy mô chưa từng thấy”, và: “Tổng thống Thiệu tuyên bố tình trạng khẩn cấp đã nói với công chúng là trận chiến quyết liệt đang ở trong tầm tay. Ông ta đã tung mọi lực lượng dự bị vào các khu vực bị đe dọa”.
(Còn nữa)_______________
[1] Tài liệu của Việt Nam cộng hòa năm 1970 - 1972, Phông số 4, Hồ sơ số 16, Lưu TTXVN
[2] Fulgham & Maitland, tr.183.
[3] Andrade, Dale, Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, Americas Last Việt Nam Battle, New York: Hippocrene Books, 1995, tr.590.
[4] Thời báo New York tại Mỹ, số ra ngày 3-5-1972
[5] Mặt trận vùng giới tuyến 72, Phòng 5- khối Quân sự Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, Sài Gòn, 1974, tr.140.
[6] Mặt trận vùng giới tuyến 72, Phòng 5- Khối Quân sự Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, Sài Gòn, 1974, tr.140.http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/3/32/32/181015/Default.aspx