Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:22:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975)  (Đọc 129652 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #180 vào lúc: 26 Tháng Tư, 2012, 06:56:32 am »

Từ tháng 10 năm 1974, Bộ Chính trị đã có dự kiến và đến tháng 1 năm 1975 chính thức hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976; nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Trên chiến trường B2, tháng 11 năm 1974 Quân ủy Miền thông qua kế hoạch mùa khô 1974 - 1975 gồm hai đợt(1); với ‎ định hoàn chỉnh vùng giải phóng, nối liền hành lang chiến lược từ biên giới đến bờ biển phía Đông, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc và liên hoàn, tạo thế bao vây Sài Gòn(2) giải phóng đường 14, dự kiến giải phóng Phước Long khi có điều kiện, mở tiếp về hướng lộ 20, Võ Đắc, Tánh Linh, một số đoạn trên quốc lộ 20, lộ 23, lộ 2 và từng lúc cắt quốc lộ 15 (Sài Gòn - Vũng Tàu); giải phóng khu vực Dầu Tiếng, Lộ 26 đến khu vực Suối Đá, Chơn Thành, giải phóng các lõm, chuyển lên thế tranh chấp, giành đại bộ phận dân chúng trong vùng tranh chấp và vùng kềm kẹp hiện tại của miền Đông, giành quyền làm chủ mọi mặt, đặc biệt xung quanh Sài Gòn.

Nhiệm vụ chính của Sài Gòn - Gia Định trong mùa khô 1974 - 1975 là đánh phá bình định của địch, tiếp tục mở nhiều lõm giải phóng, chuyển lên thế tranh chấp ở nhiều mức độ khác nhau trên nhiều hướng, phá lỏng kềm ở vùng nông thôn quanh Sài Gòn, bung dân ra, giành quyền làm chủ, xây dựng bàn đạp đứng chân vững chắc cho các lực lượng vũ trang ven đô, tạo một thế chuyển biến nhanh, chuẩn bị điều kiện cho tấn công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn khi thời cơ xuất hiện.

Bộ chỉ huy Miền chủ trương bố trí tập trung lực lượng đặc công biệt động Miền và Thành phố xung quanh Sài Gòn và vào nội đô như sau:

+ Lực lượng đặc công gồm có:

- Tiểu đoàn 196 hướng Bắc và Tây Bắc Sài Gòn: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp.

- Tiểu đoàn 197 hướng Tây Tân Bình, Bắc Bình Chánh.

- Tiểu đoàn 198 hướng Tây Nam Nam Bình Chánh, Nhà Bè.

- Tiểu đoàn 199 hướng Đông Thủ Đức.

- Trung đoàn 10 Rừng Sác: Rừng Sác, sông Lòng Tàu.

- Trung đoàn 116 hướng Long Thành, Nước Trong.

- Trung đoàn 113 sân bay Biên Hòa.

- Trung đoàn 119 khu vực Bình Dương.

- Trung đoàn 115 hướng lộ 8, Phú Hòa Đông(3).

- Trung đoàn 429 hướng Nam Nhà Bè, Nam Bình Chánh.

+ Lực lượng biệt động có 3 tiểu đoàn, 11 đại đội (gồm 60 tổ) triển khai trên hai hướng hoạt động chính ở Đông và Tây Sài Gòn, để phát triển vào nội đô.

+ Lữ đoàn 316 đặc công biệt động còn đang tiếp tục tổ chức và huấn luyện ở hậu cứ sẽ làm lực lượng tăng cường xuống thành phố một cách kịp thời theo yêu cầu từng hướng.

Phối hợp chiến trường toàn miền, ngay trước đợt 1, quân dân Sài Gòn - Gia Định và các trung đoàn đặc công 117, 119 đã tấn công địch từ trung tuyến đến ven đô và nội đô.

Ở Củ Chi, đêm 5 tháng 12 năm 1974, các lực lượng võ trang tấn công 8 đồn bót địch ở Truông Việt, Bàu Điều, Bàu Tro… tiêu diệt được 7 mục tiêu, giải phóng vùng, qua đó giải quyết luôn tư tưởng ngại đánh đồn bót có công sự cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị. Ngày 6 tháng 12 đánh địch đến giải tỏa, ta diệt gọn một trung đội và gây thiệt hại một đại đội bảo an. Tiếp theo, ta thực hiện một loạt trận tấn công các bót Mũi Lớn (ngày 9 tháng 12), Bắc Hà 2 (ngày 11 tháng 12), chi khu cảnh sát đặc biệt (ngày 16 tháng 12)…

Ngày 18 tháng 1 năm 1975 cũng trên đất Củ Chi, tiểu đoàn Quyết Thắng cùng bộ đội địa phương phục kích diệt đại đội 3 thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 50 ngụy. Vùng giải phóng Củ Chi được giữ vững và mở rộng. Ta làm chủ hầu hết các cánh đồng Trung An, Hòa Phú, Tân Thạnh Đông, Bình Mĩ đồng thời mở rộng các vùng từ Phước Thạnh, Phước Hiệp, Thái Mĩ, Tân An Hội sang đến Mĩ Hạnh ở Tây quốc lộ 1 Đức Hòa.

Ở Thủ Đức, từ thế bám trụ xen kẽ và áp sát địch, lực lượng vũ trang địa phương tấn công các bót Vườn Dừa (ngày 5 tháng 12 năm 1974), Mười Chợ (ngày 7 tháng 12 năm 1974), Hàm Rồng (ngày 22 tháng 12 năm 1974), buộc địch ở các bót Mười Chợ, Hàm Rồng cùng một loạt các bót Vàm Xuồng, Ông Tốt, Rạch Bàng, Ngọn Ngay, Ngọn Mương, Bà Liệu, Bà Đỏ phải lần lượt rút chạy. Hành lang của ta được mở rộng, thông suốt khoảng 10km ở vùng bưng phía Nam Thủ Đức. Lực lượng vũ trang Thủ Đức tập kích địch bung ra án ngữ trên sông Đồng Nai (ngày 6 tháng 12 năm 1974 tập kích địch ở ấp chiến lược Phú Hữu (ngày 12 tháng 12 năm 1974 đánh càn ở Long Phước, ở khu vực sông Kinh (ngày 31 tháng 12 năm 1974), tấn công phân chi khu Gò Công (ngày 6 tháng 1 năm 1975).

Ở Hóc Môn, Gò Vấp, quân ta tấn công trụ sở tề ấp, xã diệt Phân chi khu Tân Thới Hiệp và một số đồn bót ở Đông Thạnh, Tân Thới Hiệp, Nhị Bình, giải tán 3 đội phòng vệ dân sự, mở rộng hành lang đến Thạnh Lộc, An Phú Đông, áp sát An Nhơn, Thông Tây Hội (Gò Vấp).

Ở Bình Chánh, lực lượng vũ trang kết hợp với nội tuyến diệt Phân chi khu Tân Tạo (ngày 17 tháng 11 năm 1975) làm chủ cánh đồng từ Tân Tạo qua Tân Túc ở phía Bắc Bình Chánh, sang Hưng Long, Đa Phước, Quy Đức ở Nam Bình Chánh.

Ở Duyên Hải, Đoàn 10 đánh chiếm phân chi khu Đại Phước (ngày 7 tháng 12 năm 1974), phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương vây ép chi khu Vũng Gấm, đánh bại trận càn của địch vào khu vực này (ngày 4 tháng 1 năm 1975).

Trong thành phố, lực lượng vũ trang tấn công mạnh lực lượng kềm kẹp của ngụy quyền ở cơ sở. Tháng 12 năm 1974 và tháng 1 năm 1975 tấn công các mục tiêu: trụ sở phường Bình Trị (ngày 13 tháng 12 năm 1974), trụ sở Phường Bạch Cát và Phường Phú Thọ (ngày 18 tháng 12 năm 1974), trạm tuyển mộ tân binh sư đoàn 5 ở Bảy Hiền (ngày 9 tháng 1 năm 1975), Phân chi khu cảnh sát Phạm Văn Lợi ở quận 7 (ngày 18 tháng 1 năm 1975), bót cảnh sát Minh Phụng ở quận 11 (ngày 23 tháng 1 năm 1975)… Hàng chục tên ác ôn bị trừng trị, từng mảng bộ máy kềm kẹp cơ sở của địch bị phá vỡ. Nhiều tên ác ôn khét tiếng đã phải co vòi, một số tên xin chuyển địa bàn.


(1) Đợt 1: tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975: 2 hướng chủ yếu: Đồng bằng sông Cửu Long và đường 14 (Đồng Xoài - Phước Long). Đợt 2: Từ tháng 3 năm 1975: Sẽ giải phóng Dầu Tiếng, lộ 26, Chơn Thành.
(2) Đến đầu năm 1975 con đường chiến lược Đông Trường Sơn đã nối thông đường 9 (Quảng Trị) tới miền Đông Nam Bộ; dọc theo đường là hệ thống 5.000 km đường ống dẫn dầu từ Quảng Trị đến Bình Phước (Lộc Ninh). Đường thông tin hữu tuyến từ Hà Nội cũng đã nối tới Lộc Ninh.
(3) Sau này do yêu cầu tác chiến, 2 trung đoàn 115 và 119 nhập lại thành đoàn 115, tăng cường thêm trung đoàn 429 ở hướng Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #181 vào lúc: 26 Tháng Tư, 2012, 06:57:20 am »

Chiến trường Đông Nam Bộ đã vào đợt 1 từ đêm 12 rạng 13 tháng 12 năm 1974. Sau 3 ngày ta đã làm chủ đường 14 từ cây số 12 đến Nam Liễu Đức; đến ngày 25 tháng 12 năm 1974 ta giải phóng hoàn toàn huyện Tánh Linh và 4 xã Hoài Đức; ngày 26 tháng 12 năm 1974 ta chiếm Đồng Xoài, làm chủ lộ 14 từ ngã ba Liễu Đức đến Đồng Xoài. Thời cơ giải phóng Phước Long đã xuất hiện. Phương án giải phóng Phước Long của Bộ chỉ huy Miền được Bộ Chính trị chấp thuận… Thị xã Phước Long cách Sài Gòn 120km về phía Đông Bắc bị quân ta chiếm lúc 19 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1975. Toàn tỉnh Phước Long đã được giải phóng.

Sự kiện mất Phước Long làm cho Mĩ và tướng tá ngụy bàng hoàng. Lầu Năm góc đe dọa ném bom miền Bắc trở lại, Hạm đội 7 báo động… nhưng rồi Schlesinger, Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ lại tuyên bố “bỏ qua sự kiện Phước Long” mặc cho Thiệu cầu cứu.

Đợt 1 mùa khô đã đạt phần lớn yêu cầu; điểm gút của những ngày lịch sử này chính là sự kiện Phước Long. Trong quá trình diễn biến cuộc chiến tranh chống Mĩ, lần đầu tiên một tỉnh ở miền Nam được giải phóng mà địch không chiếm lại được. Việc đó cổ vũ lòng tin của quân dân ta rất lớn; ngược lại đối với kẻ thù, đó là dấu hiệu sụp đổ không cưỡng lại được, mặc dù Thiệu từng tuyên bố “không để lọt vào tay cộng sản tấc đất nào của Việt Nam Cộng hòa”. Mặt khác, Mĩ không dám can thiệp trở lại là dấu hiệu báo trước con đường tất yếu phải chấp nhận thua cuộc hoàn toàn như một người Mĩ thừa nhận: “Sự đổ vỡ đầu tiên đã xuất hiện với sự thất thủ Phước Long”(1).

Đó cũng chính là một trong những cơ sở Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đề ra những quyết tâm mới nhằm sớm kết thúc chiến tranh cách mạng ở miền Nam.

Ngày 20 tháng 1 năm 1975 ngụy quyền Sài Gòn ra lệnh ngừng giải ngũ sĩ quan và binh lính.

Ngày 21 tháng 1 năm 1975 Thiệu kêu gọi Washington tăng cường viện trợ.

Riêng ở nội đô Sài Gòn từ ngày 23 tháng 1 năm 1975 trở đi, địch liên tục báo động, cấm trại 100% và giới nghiêm 24/24 giờ. Chúng tăng thêm các cuộc hành quân càn quét, lập thêm các trạm kiểm soát và xây thêm các ụ chiến đấu trên các trục lộ quan trọng vào thành phố.

Đầu tháng 2 năm 1975 địch điều một số đơn vị tăng cường cho vành đai phòng thủ Sài Gòn: đưa 2 tiểu đoàn dù về đóng ở lộ 8 Củ Chi và lộ 9 Đức Hòa; đưa 2 tiểu đoàn biệt động quân về Bình Chánh và Tân Bình; đưa 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến về đứng ở Liên trường Thủ Đức và nống ra vùng Bưng Sáu xã, Bình Trung, Phú Hữu, Phước Long; đưa một tiểu đoàn biệt động quân về đứng ở Nhà Bè. Chúng liên tục mở các cuộc tập kích quy mô nhỏ vào những nơi nghi ngờ có đối phương trú ém quân: Bình Mĩ, Tân Thạnh Đông, Nhị Bình, Thạnh Lộc, Tân Nhựt, Tân Tạo, Tân Kiên… Nhưng tất cả những hành động trên không ngăn nổi sức tấn công đang có đà của quân dân Sài Gòn - Gia Định.

Trong tháng 2 năm 1975 quân ta tiếp tục tấn công các phân chi khu An Nhơn (Gò Vấp), Long Đại, Phước Bình (Thủ Đức), các bót Bà Bông, bót Cầu Hưng Nhân (Bình Chánh), các ấp chiến lược Trung Hòa, Suối Cụt (Củ Chi)…

Tuy nhiên, các lực lượng vùng ven còn gặp khó khăn nhiều trong vận dụng chiến thuật. Nhược điểm của đợt này là chưa có trận thối động ở hậu cứ địch.

Đầu tháng 2 năm 1975, ở Sài Gòn, 18 đoàn thể thuộc nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau cùng 23 tổ chức quần chúng khác kí chung một bản kiến nghị đòi Mĩ chấm dứt viện trợ cho Thiệu, đòi Thiệu từ chức, đồng thời công bố một bản cáo trạng tố cáo Thiệu là sản phẩm của chiến tranh, Thiệu bán đứng Tổ quốc cho Mĩ.

Để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, vào những ngày này, Thành ủy quyết định lấy ngày 15 tháng 2 năm 1975 tiến hành một cuộc tổng diễn tập khởi nghĩa toàn thành, đồng thời tiếp cận những nhân vật chống Thiệu để tác động họ hòa nhập với phong trào đấu tranh của quần chúng.

Sáng ngày 15 tháng 2 khi các cuộc biểu tình nổ ra, ngụy quyền hoàn toàn bị bất ngờ, không kịp bố trí cảnh sát dã chiến để đàn áp. Ở chợ Cầu Muối, một số cảnh sát chìm, cảnh sát nổi của quận 2 không kịp mang dùi cui theo, vội giựt mía của những người ngồi bán ở chợ để đánh nhau với những người biểu tình.

Một dân biểu đối lập với Thiệu khi tiếp xúc bí mật với cán bộ ta đã nhận xét: “Thiệu được trang bị tận răng mà nay phải dùng mía để đánh nhau với quần chúng, coi như nó đã bị tước hết vũ khí…”.

Qua đợt 1 mùa khô 1974 - 1975, ta đã mở thông hành lang chiến lược và một bước tạo thế trận lợi hại bao vây Sài Gòn. Trong khi đó trên chiến trường ven đô, ta đã tăng mạnh thế áp sát đô thị: giải phóng hoàn toàn thêm 3 xã 37 ấp, giải phóng về cơ bản thêm 4 xã 17.000 dân, chuyển 63 ấp yếu lên tranh chấp, xây dựng thêm được 19 lõm chính trị trong đó có một số lõm ở các xã đô thị hóa ở Gò Vấp, Hóc Môn, Tân Bình, Bắc Thủ Đức (loại khỏi vòng chiến trên 4.200 tên địch).

Đến lúc này, theo số liệu nắm được, thực lực cách mạng nội đô Sài Gòn - Gia Định đã được tăng cười gấp ba bốn lần sơ với trước, gồm các lực lượng đảng viên, đoàn viên, các chi bộ lộ và mật, các tổ hạt nhân, cơ sở cách mạng, quần chúng cảm tình cánh mạng, các tổ chức công khai, biến tướng và các tổ chức nòng cốt sẵn sàng hành động, các lõm chính trị nội thành, các lực lượng vũ trang, bán vũ trang.


(1) Dave Richard Palmer Tiếng kèn gọi quân. tr.326.
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Năm, 2012, 09:27:53 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #182 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:28:56 am »

*
*   *

Sau khi đã suy xét cụ thể tình hình chiến trường trong hai năm 1973 - 1974, đặc biệt là những diễn biến mới nhất, trong đó có sự kiện Phước Long, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng tháng 1 năm 1975 đã bổ sung quyết tâm hồi đầu tháng 10 năm 1974 (giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976) bằng việc dự kiến tình hình đó có thể phát triển nhanh, thời cơ chiến lược cụ thể có thể đến sớm và chuẩn bị thêm phương án nhanh chóng nắm thời cơ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Mặc dù đã mất Phước Long, địch vẫn giữ những nhận định của cuộc họp tư lệnh các quân đoàn tại Dinh Độc Lập hồi tháng 12 năm 1974(1). Do đó Thiệu ra lệnh “Hành động trước” đối phương, trong đó có kế hoạch “bình định cấp tốc lập tức” 3 tháng và duy trì thế bố trí chiến lược cũ; nặng hai đầu (Quân khu 1 và Quân khu 3); ở miền Đông Nam Bộ (Quân khu 3 ngụy), chúng bố trí 4 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội trung đội pháo gồm 376 khẩu, 7 thiết đoàn và 15 chi đoàn xe tăng thiết giáp (gồm 655 xe), 2 sư đoàn không quân (có 250 máy bay chiến đấu)… Lục lượng chủ lực được triển khai theo hình cánh cung hướng Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc, bảo vệ Sài Gòn từ xa trên dưới 50km.

Quân ủy và Bộ tư lệnh Miền họp quán triệt quyết tâm của Bộ Chính trị, từ đó bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cụ thể đợt 2 nhằm khẩn trương hoàn chỉnh vùng giải phóng, mở rộng hành lang chiến lược xuống phía Đông Sài Gòn, tạo bàn đạp sát lộ 26, Đồng Dù, Củ Chi… cùng lúc mở 2 chiến dịch: Dầu Tiếng và Lộ 20(2).
   
Địch huy động toàn lực ngăn chặn cuộc tấn công đông - xuân - hè của ta và dự định mở chiến dịch lấn chiếm lấy lại những vùng đã mất, nhưng chưa kịp hành động thì ngày 9 tháng 3 năm 1975 ta đã vào đợt 2 tấn công mùa khô 1974 - 1975 trên toàn Miền. Ngày 10 tháng 3 năm 1975 ở Tây Nguyên chủ lực ta nổ súng tấn công Buôn Mê Thuột thì ở miền Đông Nam Bộ đêm 10 tháng 3 ta vào chiến dịch Dầu Tiếng.
   
Quân dân Sài Gòn - Gia Định phối hợp, đồng loạt tấn công nhiều mục tiêu vùng ven trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 3 năm 1975, kết hợp tiến công và nổi dậy, nhằm chuyển thế, chuyển vùng.

Ở Củ Chi, từ ngày 9 tháng 3 năm 1975, các lực lượng vũ trang vùng ven nổ súng tấn công chi khu Trung Hòa, bót Bình Đông, bót Cây Trôm, bót Cây Bài, phân chi khu Tân Thạnh Đông và bót Tống Khôn, bao vây bót Cây Me… Đồng thời tăng cường đánh địch trên các tuyến giao thông quan trọng, đánh sập một số cầu làm hạn chế khả năng cơ động của địch. Ngày 20 tháng 3 năm 1975, tiểu đoàn Quyết Thắng cùng bộ đội địa phương và du kích Củ Chi phục kích tiêu diệt đoàn xe quân sự của Quân đoàn 3 ngụy trên quốc lộ 1 quãng Bàu Tre - Cây Trôm, hủy 53 xe, diệt gọn 1 đại đội, 2 trung đội địch, đánh thiệt hai 2 đại đội khác. Được quân sự hỗ trợ, đồng bào ở khu vực Trung Hòa và tuyến lộ 2 nổi dậy bung về vùng giải phóng. Nhân dân ở các ấp chiến lược Thái Mĩ, Tân An Hội, Phước Hiệp, Phước Thạnh, Phú Hòa Đông - bãi chợ, rải truyền đơn, treo cờ, băng, khẩu hiệu đắp mô trên tuyến lộ 1 và tuyến lộ 8, đấu tranh đòi giải tán phòng vệ dân sự.

Ở Hóc Môn, tiểu đoàn 4 Gia Định đánh diệt chi cảnh sát đặc biệt và Phân chi khu Thới Tam Thôn (ngày 17 tháng 3 năm 1975), diệt 3 ban tề ấp, bắt một số phòng vệ dân sự, kêu gọi binh lính địch ở Tân Thạnh Đông bỏ đồn bót ra hàng.

Ở Gò Vấp, lực lượng võ trang địa phương kết hợp với lực lượng chính trị quần chúng chiếm 6 trụ sở tề ấp, 3 trụ sở tề xã, 1 trụ sở phòng vệ dân sự, diệt 8 tề ấp, 55 công an, 6 cán bộ “bình định”, diệt bót Cầu Lớn và phá hủy Cầu Lớn trên trục lộ 9.

Ở Tân Bình, lực lượng ta duy trì hoạt động ở các xã Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc B, Bình Hưng Hòa, Tân Sơn Nhất, củng cố các lõm chính trị ở ấp 1 Bình Hưng Hòa.

Ở Thủ Đức, lực lượng vũ trang địa phương đánh thiệt hại Phân chi khu Long Đại và Phước Bình, diệt trụ sở phòng vệ dân sự ở Mĩ Hiếu, diệt ác ở Tây Hóa và Phong Phú; quần chúng hù dọa bức rút 2 chốt Vườn Dừa, Vàm Xuồng, bung về vườn cũ.

Ở Bình Chánh, lực lượng vũ trang địa phương tập kích gây thiệt hai sở chỉ huy tiểu đoàn 86 biệt động quân ở ấp 5 xã Tân Nhựt (ngày 6 tháng 3 năm 1975), đánh bót Chôi Kí và đẩy mạnh hoạt động ở Hưng Long, Quy Đức, Đa Phước. Đồng bào Tân Quy Tây phối hợp với du kích tước súng và giải tán phòng vệ dân sự ở ấp 3, rải truyền đơn trên trục lộ 5. Đồng bào vùng Chợ Đêm phối hợp với lực lượng vũ trang bao vây hù dọa địch trong bót Chợ Đệm. Đồng bào Tân Tạo phá rã phòng vệ dân sự, xé tờ khai gia đình, đập phá khẩu hiệu địch. Nhân dân Bình Trị phối hợp với lực lượng vũ trang tấn công trụ sở tề ấp 2, trụ sở tề xã và phân chi khu Bình Trị.

Ở Duyên Hải, Đoàn 10 đang tập trung phục kích đánh tàu trên sông Lòng Tàu trong lúc nhịp độ tàu ra vào đang tăng lên. Đặc công đánh sập các cầu Mương Chuối, Rạch Đôi, Rạch Miếu… tấn công đồn Ông Kèo và các chi khu, phân chi khu Phú Hữu, Vũng Gấm, Phước Khánh… giải phóng các vùng Nhà Làng, Phước Thái, Gò Dâu và một số ấp chiến lược sông Lòng Tàu.

Những hoạt động trên củng cố vững chắc các vùng giải phóng ven đô, làm lỏng thêm thế kềm kẹp và gây rối loạn hậu phương địch, tạo thêm những địa bàn đứng chân quan trọng áp sát địch ở Củ Chi, Gò Vấp, Tân Bình, Bình Chánh, Nhà Bè, Thủ Đức.

Tháng 3 năm 1975, cục diện chiến trường miền Nam thay đổi nhanh chưa từng thấy trong gần 21 năm đánh Mĩ. Chỉ trong một thời gian ngắn, đặc biệt chỉ không đầy một tuần sau đòn tiến công Ban Mê Thuột, ta đã tiêu diệt về cơ bản quân đoàn 2 ngụy, phá rã từng mảng chính quyền địch, giải phóng nhiều vùng đất đai quan trọng, đặc biệt là vùng chiến lược Tây Nguyên, phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch ở Tây Nguyên, phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch ở Quân khu 2, buộc chúng phải từ phòng ngự chiến lược chuyển sang rút lui co cụm chiến lược. Phía Tây Bắc và Bắc Sài Gòn ta đã giải phóng thêm Dầu Tiếng, hệ đường 26 (Dầu Tiếng, Bến Củi, suối Ông Hùng, Cầu Khởi, ngã ba Đất Sét). Phía Đông Bắc ta chiếm Định Quán, Võ Đắc, giải phóng đường 20, đường 3 và một đoạn quốc lộ 1 (Long Khánh - Rừng Lá), uy hiếp Xuân Lộc… Thời cơ chiến lược đã xuất hiện.

Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam trong năm 1975 và xác định phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu sắp tới sẽ là Sài Gòn.


(1) Ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1974, tại Dinh Độc Lập, diễn ra cuộc họp tư lệnh các quân đoàn ngụy do Thiệu triệu tập. Cuộc họp dự định trong năm 1975 ta có thể đánh lớn, nhưng không như 1968, không bằng 1972; đối phương chưa đủ sức đánh vào các thị xã và thành phố lớn, chỉ có thể đánh thị xã nhỏ và cô lập như Phước Long, Gia Nghĩa, hướng tấn công chính có thể là Quân khu 3, chủ yếu chiếm Tây Ninh làm thủ phủ, vào trước hoặc sau Tết, có đánh quy mô toàn miền thì cũng phải vào cuối năm 1975…
(2) Ý định lúc đầu là mở chiến dịch lộ 20 trước, nay Trung ương Cục chỉ thị mở 2 chiến dịch song song.
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Năm, 2012, 09:29:55 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #183 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:29:43 am »

II. VÀO TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC CUỐI CÙNG,
CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH, GIẢI PHÓNG SÀI GÒN,
KẾT THÚC TOÀN THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM.


Sau cuộc họp ngày 18 tháng 3, ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp tiếp nhận định về giai đoạn phát triển nhảy vọt hiện tại của cục diện quân sự và chính trị ở miền Nam, từ đó xác định “Thời cơ chiến lược lớn đã tới”, cần “nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam càng sớm càng tốt”.

Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975, với phương hướng chiến lược chủ yếu là tập trung lực lượng của cả nước giải phóng Sài Gòn - Gia Định để giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Tiếp sau chiến dịch Tây Nguyên, quân ta tiến như vũ bão trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Cục diện chiến trường tiếp tục thay đổi từng ngày, từng giờ, dẫn đến những ngày quyết định nhất của cuộc chiến tranh giải phóng.

Dựa trên quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, ngày 20 tháng 3 năm 1975, đúng ngày giải phóng Thành phố Đà Năng, tại căn cứ Bắc Tây Ninh, Trung ương Cục họp phiên toàn thể lần thứ 15 ra Nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa Xuân 1975.

Ngày 3 tháng 3 năm 1975, sau khi chiến dịch Huế - Đà Nẵng kết thúc, Bộ Chính trị lại họp phiên bất thường để hạ quyết tâm chiến lược cuối cùng. Văn bản xác định: “Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không thể để chậm”(1).

Ngày 7 tháng 4 năm 1975, cuộc họp Trung ương Cục và Quân ủy, Bộ tư lệnh Miền, có mặt các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị đang ở chiến trường, quyết định trong khi chuẩn bị cho chiến dịch quy mô lớn, tranh thủ lợi dụng những đột biến mới, tiếp tục tạo thời cơ mở một chiến dịch nhằm chia cắt chiến lược, triệt để bao vây, cô lập Sài Gòn. Nếu địch có hiện tượng tan rã đột biến lớn thì không đợi chủ lực của Bộ vào, mà bằng lực lượng có sẵn, nhanh chóng, táo bạo chọc thẳng vào Sài Gòn, kết hợp với đặc công, biệt động và quần chúng nổi dậy từ bên trong để đánh chiếm Sài Gòn, hoặc ít nhất cũng tạo ra được một thế có lợi cho phương án cơ bản là giải phóng Sài Gòn bằng lực lượng chủ lực với ưu thế áp đảo địch.

Chiều ngày 7 tháng 4, tại Lộc Ninh, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị công bố quyết định của Trung ương thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Bộ chỉ huy gồm:

Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh.

Đồng chí Phạm Hùng - Chính ủy.

Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh (phụ trách cánh quân phía Tây), Trung tướng Lê Trọng Tấn (phụ trách cánh quân phía Đông), trung tướng Đinh Đức Thiện (phụ trách hậu cần) - Phó tư lệnh.

Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền - Quyền tham mưu trưởng (phụ trách tác chiến). Trung tướng Lê Quang Hòa - Phó chính ủy kiêm chủ nhiệm chính trị.

Đồng chí Nguyễn Văn linh - phụ trách công tác nổi dậy của quần chúng.

Đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ đạo công tác tiếp quản sau giải phóng.

Căn cứ đầu tiên của Bộ chỉ huy chiến dịch đóng tại Sóc Tà Thiết (phía Tây Lộc Ninh 7 km).

Ngày 8 tháng 4, Nguyễn Thành Trung, một cán bộ nội tuyến binh vận của ta hoạt động trong lực lượng không quân ngụy, lái máy bay F5 xuất phát từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang) bay vào ném bom trúng Dinh Độc Lập và hạ cánh an toàn xuống sân bay Phươc Long. Sự kiện này góp phần gây hoang mang cực độ trong giới đầu sỏ ngụy quyền Sài Gòn.
   
Khi nhận được báo cáo của Trung ương Cục và Quân ủy Miền về cuộc họp ngày 7 tháng 4, ngày 9 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị và quân ủy Trung ương điện vào: “Cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đợi phần lớn lực lượng của quân đoàn 3 và quân đoàn 1 vào đến nơi hãy bắt đầu tấn công” và “cần bảo đảm một khi đã phát động tiến công thì phải công kích thật mạnh và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng, vừa tiến công ở ngoại vi, vừa nắm kịp thời cơ, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng tới những lực lượng đã chuẩn bị sẵn”.

Cục hậu cần Miền huy động lực lượng vận chuyển lượng hàng hóa, vũ khí vào các kho, trạm của chiến dịch và tập trung sửa chữa đường, bắc cầu. Trục đường 14 từ Đồng Xoài đi Cây Gáo, Bến Dầu được gấp rút thi công… Các đoàn hậu cần 814 ở hướng Đông và Đông Nam, đoàn 210 ở hướng Bắc và Đông Bắc, đoàn 325 ở hướng Tây Bắc, đoàn 240 ở hướng Tây, đoàn hậu cần tiền phương Quân khu 8 ở hướng Nam, Tây Nam; trong vài tuần lễ củng cố và mở rộng tuyến đường chiến dịch trên các hướng với tổng chiều dài 1790km. Đặc biệt trong những ngày cuối cùng chuẩn bị chiến dịch, hậu cần Miền đã đưa 10.000 người từ tuyến sau lên thành lập 8 tiểu đoàn cơ động, và huy động gần 4.000 xe vận tải các loại, 656 thuyền máy, ca nô, 1736 xe đạp thồ, 63.342 dân công hỏa tuyến, thành lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị (tổng số 10.000 giường) để phục vụ bộ đội chiến đấu.


(1) Trích văn bản về quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị ngày 31 tháng 1 năm 1975. Tài liệu số 21 lưu trữ tại Phòng KH - LSQS - QK 7.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #184 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:31:04 am »

Cùng với việc đưa khối lượng vật chất, kĩ thuật, lực lượng bổ sung cho mặt trận, những binh đoàn chiến lược có trang bị mạnh của quân đội ta đang hành quân thần tốc vào hướng Sài Gòn.

Tại Sài Gòn - Gia Định, sau khi nhận Nghị quyết 15 của Trung ương Cục, Thành ủy khẩn trương triển khai mọi công tác chuẩn bị. Ngày 12 tháng 4 năm 1975, Thường vụ Thành ủy ra tài liệu hướng dẫn: “Những việc cần làm ngay trong các giai đoạn trước, trong và sau khi Thành phố được giải phóng”. Tài liệu xác định: “Hiện nay chúng ta đang ở vào thời kì trực tiếp cách mạng ở thành thị, là giai đoạn tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành chính quyền về tay nhân dân…”.

Tại một địa điểm thuộc huyện Củ Chi, Thành ủy mở một cuộc hội nghị lớn do đồng chí Mai Chí Thọ chủ trì, có mặt các đồng chí Thường vụ, Thành ủy viên và ngót 300 cán bộ dân, chính, đảng, quân từ cấp quận, huyện đến ban ngành, đoàn thể để học tập và xây dựng phương án thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị về giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Hội nghị tập trung trí tuệ và ‎ chí, xây dựng phương án quân - dân Sài Gòn - Gia Định vào cuộc tổng tiến công chiến lược giải phóng Sài Gòn. Để thực hiện phương án này, Thành ủy điều chỉnh lực lượng tổng hợp và địa bàn 2 cánh A B(1). Cánh A do đồng chí Mai Chí Thọ, Bí thư Thành ủy trực tiếp phụ trách, có nhiệm vụ phát động quần chúng nổi dậy ở nội thành và ở Bình Chánh, Nhà Bè. Cánh này được gọi là bộ phận tiền phương của Thành ủy, bàn đạp là Vườn Thơm, Bình Chánh.

Cánh B do đồng chí Nguyễn Thành Thơ, Phó Bí thư Thành ủy phụ trách, có 500 cán bộ thuộc cơ quan xung quanh Thành ủy, lực lượng an ninh và các ban ngành còn lại, lực lượng các huyện nông thôn ngoại thành và lực lượng của trung đoàn Gia Định 2 khoảng 1500 người, có nhiệm vụ tham gia giải phóng các huyện ngoại thành và sẵn sàng vào chiếm thị xã Gia Định. Cánh này xuất phát từ vùng Nam Củ Chi.

Ngày 14 tháng 4 năm 1975 Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, đồng thời chuẩn y đề nghị từ chiến trường, chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.

Trung ương Cục khẩn trương điều động cán bộ tăng cường cho thành phố. Đến lúc này ở nội thành đã có hơn 700 cán bộ ở ngoại ô có trên 1.000 cán bộ đứng chân trên các lõm chính trị và lõm căn cứ sẵn sàng cùng với các tổ chức đảng hướng dẫn và chỉ đạo các đoàn thể chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy khi chủ lực tiến công. Ngoài ra có 1.300 cán bộ đã tiếp cận Sài Gòn trên dưới 15km cũng đang tư thế sẵn sàng tiến vào thành phố. Ở ngoại thành và vùng ven đến lúc này có 40 lõm chính trị với 7.000 quần chúng cơ sở đã giành được quyền làm chủ với các mức độ khác nhau, 400 tổ chức công khai và biến tướng với gần 25.000 người do ta nắm, 12 cán bộ cấp Thành ủy và tương đương, 60 cán bộ cấp Quận ủy và tương đương, đã và đang nằm sẵn trong nội thành.

Riêng biệt động Thành nắm được một lực lượng quan trọng: 60 tổ biệt động, 301 quần chúng có vũ trang, 340.000 quần chúng sẵn sàng nổi dậy.

Ta còn chuẩn bị 7 nhà in để in tài liệu và hàng chục xe có loa phóng thanh. Các đội tuyên truyền xung phong được thành lập, có trong tay hàng chục ngàn truyền đơn, áp phích.

Các cơ sở quần chúng cách mạng cũng ráo riết chuẩn bị băng, cờ, khẩu hiệu, thuốc men, gạo thóc(2)

Cùng với công tác tuyên truyền, giải thích chính sách, mặt trận, kêu gọi binh lính địch đào ngũ… nhiều cuộc vận động chính trị, tác động ngay đến các chính giới Sài Gòn đang gấp rút thực hiện.

Lực lượng vũ trang trực thuộc thành phố được tổ chức, biên chế lại theo yêu cầu tham gia chiến dịch. Ngoài 3.345 dân quân du kích và trên 30 tự vệ mật - một lực lượng tuy chưa phải lớn nhưng rất quan trọng để thực hiện kết hợp tấn công với nổi dậy cơ sở - lực lượng tập trung của Thành Đội có 2 trung đoàn và 4 tiểu đoàn: trung đoàn 1 Gia Định, trung đoàn 2 Gia Định (mới thành lập) và các tiểu đoàn 195 biệt động thành, tiểu đoàn 4 Thủ Đức, tiểu đoàn 197 và tiểu đoàn 198 đặc công biệt động. Ngoài ra mỗi huyện có từ 1-2 đại đội bộ đội địa phương.

Hậu cần thành đội gấp rút vận chuyển và khi áp sát Thành phố, Sở chỉ huy phía trước của Thành triển khai sát phía Nam Thành phố.

Các trung đoàn đặc công tăng cường đã hoạt động ở vùng ven đang tiếp tục áp sát Sài Gòn (gồm các trung đoàn 10, 113, 115, 116, 117, 429); lữ đoàn đặc công biệt động 316 được bố trí vào các mục tiêu được phân công ở ngoại ô và nội thành. Đến thời điểm cuối cùng của giai đoạn chuẩn bị, nhiệm vụ của các đơn vị đặc công, biệt động và lực lượng vũ trang tại chỗ được xác định dứt khoát như sau:

1/ Đánh chiếm và làm chủ các cầu trên các trục vào thành phố (các cầu quan trọng nhất: cầu Mới, cầu Ghềnh, cầu Xa lộ sông Đồng Nai, cầu Bình Lợi, cầu Bình Triệu, cầu Bông, cầu Xáng…) để tạo điều kiện và hướng dẫn chủ lực ta trên các hướng thọc nhanh vào Thành phố.

2/ Góp phần khống chế các sân bay, các trận địa pháo của địch.

3/ Cùng quần chúng nổi dậy đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu đã phân công. giữ vững các lõm làm chủ.

4/ Phối hợp với các binh đoàn chủ lực đánh và chiếm giữ tất cả các mục tiêu các cấp, quân sự, chính trị, kinh tế trong thành phố.

Ngoài các lực lượng chiến đấu, các cụm tình báo cài cắm nhiều nơi nội ngoại thành, kể cả trong một số bộ phận quan trọng của ngụy quyền, ngụy quân như tổng nha cảnh sát, các bộ tư lệnh hải quân, không quân, bộ tổng tham mưu, dinh tổng thống, đều được giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch.


(1) Hai cánh này đã được tổ chức từ tháng 9 năm 1974.
(2) Riêng lực lượng nữ học sinh sinh viên đã may 12.000 lá cờ, phụ nữ Hóc Môn may 477 cờ, 48 băng, 59 khẩu hiệu… Đồng bào ấp Phú Trung, 3 xã Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình quyên góp 3 bao gạo, 735 ngàn đồng (tiền Sài Gòn), đào 4 hầm bí mật để trú ém cán bộ và cất giấu tài liệu, may 200 cờ và 4 băng vải lớn…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #185 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:32:50 am »

Cùng lúc quân dân thành phố khẩn trương chuẩn bị hành động, các binh đoàn chủ lực của ta vừa đánh vừa tiến về Sài Gòn theo các ngả. Các đoàn quân trên 200.000 người cùng 1.000 pháo cối, 500 xe tăng và cơ giới đủ loại… một lực lượng áp đảo địch đang vào vị trí sẵn sàng đồng loạt thần tốc tiến vào Sài Gòn(1).

Theo phương án chiến dịch Hồ Chí Minh, các quân đoàn chủ lực vừa tập trung tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch ở vùng ven, không cho chúng co cụm về Thành phố, vừa hình thành các binh đoàn mạnh thọc sâu tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm nhanh chóng 5 mục tiêu quan trọng nhất là Dinh tổng thống, Bộ Tổng tham mưu, Biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất. Sau đó, tỏa ra phối hợp với các đơn vị đặc công, biệt động và tự vệ, lực lượng an ninh hỗ trợ lực lượng chính trị phát động quần chúng nổi dậy, giải phóng và làm chủ các mục tiêu khác. Cách bày binh bố trận và sử dụng lực lượng đó thể hiện rõ phương án tác chiến của ta là kết hợp tiến công bằng các binh đoàn chủ lực cơ động - lực lượng quyết định tiêu diệt địch, với hoạt động chiến tranh nhân dân địa phương rộng khắp. Trước khi vào chiến dịch, ta đã huy động lực lượng áp đảo địch, hình thành thế bao vây, chia cắt địch, cô lập Sài Gòn, cài răng lược cả bên ngoài với bên trong không cho địch ở vòng ngoài rút về cùng lực lượng bên trong co cụm kéo dài “tử thủ”; phối hợp trong ngoài cùng đánh, cả bằng tiến công và nổi dậy, không cho địch ngăn chặn và làm chậm được tốc độ tiến quân của các mũi đột kích của bộ đội chủ lực ta.

Địch cho rằng sau khi giải phóng Huế và Đà Nẵng, quân ta phải mất ít nhất 3 tháng mới có thể chuẩn bị xong để đánh Sài Gòn. Tuy nhiên, tốc độ tiến quân của ta và sự hỗn loạn của chúng ở miền Trung làm cho cả Mĩ lẫn ngụy hết sức bối rối, hoảng loạn; hết Trần Thiện Khiêm từ chức thủ tướng để cho Nguyễn Bá Cần lên thay (ngày 8 tháng 4 năm 1975), đến Dinh tổng thống bị ném bom (ngày 8 tháng 4) và sự cãi vã gay cấn giữa các quan chức Mĩ, giữa Washington và Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn.

Ngày 18 tháng 4 năm 1975 đồng chí Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị điện cho Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh: “Thời cơ quân sự, chính trị để mở cuộc tấn công vào Sài Gòn đã chín muồi, cần phát triển trên các hướng, không để chậm”.

Lần lượt các bộ tư lệnh quân chủng, binh chủng quân đoàn đến sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh tại Tà Thiết (Lộc Ninh) để nhận nhiệm vụ.

Ngày 18 tháng 4 năm 1975, trong lúc cuộc “đánh đố” giữa Đại sứ Mĩ Martin, Nhà trắng và các Bộ Ngoại giao, Quốc phòng và nhất là giữa các vị đại biểu Quốc hội về số phận của Nam Việt Nam, đang diễn ra gay gắt, chính quyền Ford đã ra quyết định di tản người Mĩ ở Nam Việt Nam, một quyết định mà theo Đại sứ Martin, nó sẽ dẫn đến “lâu đài bằng giấy bìa Sài Gòn sẽ sụp đổ”. Bên cạnh những chuyến “bay đen” được tổ chức giữa Thái Lan, Philippin và Hoa Kì để một số tên cao chạy xa bay trước, ngày 2 tháng 4 năm 1975 tàu chiến Mĩ (có 4 tàu sân bay) cùng hàng trăm máy bay các loại được huy động cho cuộc tháo chạy bắt đầu đúng 24 giờ sau khi Thiệu từ chức (ngày 21 tháng 4 năm 1975).

Bên cạnh kế hoạch di tản ngót 6000 người Mĩ và kế hoạch cho “bám theo” của những người từng cộng tác với Hoa Kì(2) đang hoảng loạn vì một ám ảnh “cuộc tắm máu khi cộng sản chiếm Sài Gòn” do tự họ tưởng tượng, còn một “kế hoạch đen” được Nhà trắng “bật đèn xanh” (theo “sáng kiến” của Martin) núp dưới danh nghĩa “cứu giúp từ thiện” mà Đại sứ Mĩ Martin cho là một “đòn tuyên truyền tuyệt diệu” trong kế hoạch lâu dài sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc(3). Âm mưu này đã dẫn đến một sự kiện thảm khốc tầm lịch sử: trên “cầu hàng không trẻ em”, trong chuyến bay đầu tiên ngày 4 tháng 4 năm 1975, chiếc máy bay vận tải lớn nhất thế giới Galaxy C-5A của không quân Hoa Kì, chở 243 em bé Việt Nam vừa cất cánh khỏi sân bay Tân Sơn Nhất đã phải quay trở lại, đáp xuống (vì một cánh cửa bị hở) và nổ tung trên một thửa ruộng cách sân bay Tân Sơn Nhất 800m về phía Nam. “Hơn 200 trẻ em của phái bộ quân sự đều bỏ mạng”, “tai nạn này trở thành tai nạn máy bay lớn thứ hai, trong lịch sử ngành hàng không”(4).

Cùng này, Lầu Năm góc “bật đèn xanh” cuộc di tản người Mĩ, Trần Văn Đôn, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngụy sau khi kiểm tra một số khu vực phòng thủ đã thừa nhận; “Tình hình nguy ngập thực sự. Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày, từng tuần, không thể tính từng tháng”.


(1) Quân chủ lực được phân công các hướng:
- Hướng Bắc: Quân đoàn 1;
- Hướng Tây Bắc: Quân đoàn 3 và 2 trung đoàn Gia Định;
- Hướng Đông và Đông Nam: Quân đoàn 3 và quân đoàn 4 (sư đoàn 7, sư đoàn 6, sư đoàn 341);
- Hướng Tây Nam: binh đoàn 232 gồm sư đoàn 3, sư đoàn 5, sư đoàn 9, trung đoàn 16, trung đoàn 88, trung đoàn 24 và 2 tiểu đoàn địa phương Long An.
(2) Vấn đề di tản 6000 người Mĩ (kể cả quân nhân và dân thường) khỏi Việt Nam đã được đặt ra từ khi Thiệu có lệnh rút bỏ Tây Nguyên. Bên cạnh đó Mĩ cũng dã định đưa đi số người Việt Nam làm việc trong các cơ quan khác nhau, do sứ quán Mĩ chịu trách nhiệm là 170.000 người, còn phải cộng thêm 93.000 người Việt Nam cộng tác lúc trước với người Mĩ và gia đình họ là 930.000 người, tổng cộng hơn 1 triệu người cần “tị nạn”… Nhưng dựa vào khả năng của Hoa Kì, các viên chức Bộ Ngoại giao Hoa Kì chỉ đòi tổ chức di tản ít nhất khoảng 200.000 người. (Frank Snepp - Cuộc tháo chạy tán loạn).
(3) Sau khi Nhà trắng “bật đèn xanh”, ngày 2 tháng 4 chi nhánh CIA tại Sài Gòn mở “cầu hàng không” trẻ em.
(4) Frank Snepp (một nhân viên cấp cao Cục tình báo CIA) Cuộc tháo chạy tán loạn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #186 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:35:06 am »

 ,Thực vậy, tình hình Xuân Lộc đang dẫn địch vào một tình thế nguy ngập. Ở đấy từ ngày 7 tháng 4 năm 1975, khi phát hiện ta sẽ mở chiến dịch Xuân Lộc và Tân An - Thủ Thừa nhằm chia cắt chiến lược, triệt để bao vây, cô lập Sài Gòn, địch đã hình thành một tuyến phòng ngự, được gọi là “phòng tuyến Weyand”(1), đến ngày 16 tháng 4 chúng đã đưa lực lượng toàn tuyến lên đến 9 chiến đoàn bộ binh và xe tăng, thiết giáp cộng với 8 tiểu đoàn bảo an tại chỗ.

Lực lượng chiến dịch tiến công phòng tuyến Xuân Lộc của ta gồm 2 sư đoàn của quân đoàn 4 (sư đoàn 7, sư đoàn 341) và tăng cường sư đoàn 6 Quân khu 7. Từ ngày 9 tháng 4 sư đoàn 7 và một bộ phận sư đoàn 341 tiến công Xuân Lộc chưa dứt điểm, chuyển sang bao vây và đánh thiệt hại nặng sư đoàn 18 ngụy và lữ đoàn 1 dù đến chi viện, chia cắt phía Tây Nam Xuân Lộc (ngã ba Dầu Giây), tiêu diệt chiến đoàn 52 sư đoàn 18, giải phóng Túc Trưng, Kiệm Tân, Dầu Giây, chia cắt giữa Xuân Lộc và Biên Hòa. Xuân Lộc bị cô lập hoàn toàn. Địch coi phòng tuyến này như một tuyến phòng thủ then chốt nhất, có vai trò quyết định trong toàn bộ hệ thống phòng thủ xung quanh Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, sư đoàn trưởng sư đoàn 18 tuyên bố tử thủ. Tuy nhiên, sau khi quân đoàn 2 và Khu 6 giải phóng Phan Rang - Thành Sơn (ngày 15 và 16 tháng 4), Phan Thiết (ngày 19 tháng 4), đập tan tuyến phòng thủ từ xa thì Thiệu buộc phải cho rút bỏ Xuân Lộc. Địch rút chạy trong đêm 20 tháng 4, tiến về hướng Rừng Lá. Weyand than thở sau khi mất Xuân Lộc: “Thế là hết! Tình hình quân sự là tuyệt vọng”.

Trong khi đó, trên hướng Tây Nam, đoàn 232 đã sử dụng sư đoàn 5 và 1 trung đoàn thuộc sư đoàn 3 thọc sâu đánh vào Tân An, Thủ Thừa, tạo thế cắt lộ 4. Cuộc tấn công này không thành, ta chuyển sang củng cố vị trí đứng chân ở phía Tây Tân An, diệt đồn bót, mở hành lang, đưa binh khí kí thuật, đạn dược xuống Bắc lộ 4, làm gián đoạn giao thông từng lúc.

Cùng trong thời gian này, sư đoàn 9 và sư đoàn 3 đoàn 232 khắc phục khó khăn, đưa binh khí xuống vị trí tập kết (Tây Vàm Cỏ Đông) và mở khu An Ninh - Lộc Giang chuẩn bị đầu cầu vượt sông xuống Hậu Nghĩa.

Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975, sau bài diễn văn đọc trước 200 “nhân vật” Nam Việt Nam “vừa nghe vừa ngáp”(2) Thiệu vừa khóc vừa tuyên bố từ chức và giao quyền cho phó tổng thống Trần Văn Hương, một ông già 71 tuổi, liệt, nửa mù. “Tân tổng thống” thề “chiến đấu cho đến lúc quân đội bị tiêu diệt, nước mất”. Lời thề này không “quan trọng” bằng việc “đó là một cái xương cho Nguyễn Cao Kì và phái hữu gặm để ngăn họ xen vào công việc” và cái gốc của sự việc lại là ý của Đại sứ Hoa Kì muốn tìm một con rối “thương lượng” để gỡ gạc phần nào trước giờ phút lâm chung.

Tuy nhiên, ngụy quyền vẫn có chỗ để bấu vào hi vọng cuối cùng, còn nhiều đất đai, lực lượng và vẫn còn Đại sứ Mĩ hà hơi tiếp sức. Để cố thủ sào huyệt cuối cùng của chúng, sau khi phòng tuyến Xuân Lộc bị phá vỡ, địch ra sức củng cố lực lượng, hình thành 3 tuyến phòng thủ Sài Gòn:

Tuyến vòng ngoài có 5 sư đoàn bộ binh (5, 7, 18, 22, 25). Tuyến ngoại vi có 4 lữ đoàn dù và 3 liên đoàn biệt động quân, bố trí trên 4 khu vực: khu Bắc từ Hóc Môn vào đến Tân Sơn Nhát, khu Đông từ Gò Vấp đến quận 9, khu Tây từ Bà Hom đến Bình Chánh, khu Nam là quận Nhà Bè.

Ở nội đô, lực lượng chủ yếu là cảnh sát và phòng vệ dân sự cùng các đơn vị bảo vệ hậu cứ được tổ chức thành 5 liên khu, mỗi liên khu gồm 2 quận nội thành.

Nhìn chung, thế trận phòng thủ Sài Gòn của địch là ngoài mạnh trong yếu, hòng đẩy lùi các mũi tấn công của ta từ xa, nhất là hướng Bắc và Tây Bắc.

Cách bố trí này mang nhược điểm phân tán lực lượng trên nhiều hướng, nhiều cụm nên dễ bị chia cắt, bao vây. Chính Ngô Quang Trưởng, nguyên Trung tướng Tư lệnh Quân khu 1 và quân đoàn 1, cũng thừa nhận; xung quanh Sài Gòn “không có tuyến phòng thủ có phối hợp chặt chẽ”. Nhưng một nhược điểm quyết định khác không thể sửa chữa nổi là “không khí của một vài tuần cuối, không khí mà không còn ai chỉ huy, không còn ai chịu trách nhiệm công việc” (thừa nhận của Nguyễn Cao Kì). Bên cạnh đó là những người hùng từng ầm ĩ “tử thủ” từ Tổng thống trở xuống, lần lượt cao chạy xa bay, trong đó có “cố tổng thống” Thiệu, thủ tướng Khiêm đã hối hả ra sân bay Tân Sơn Nhất trước chiến dịch Hồ Chí Minh 1 ngày, trong cái cảnh cố vấn tình báo Hoa Kì phải luôn nhắc nhở: “Tổng thống ngồi thấp xuống!”. Còn ở tòa Đại sứ Hoa Kì thì mỗi lúc một chật ních người Việt Nam “vì ai cũng biết chúng tôi sắp ra đi” (tường trình của Martin sau này trước quốc hội Mĩ). Đúng là những ngày một chính phủ đang hoang mang, tan rã và một tình thế không thể nào chấn chỉnh lại được nữa”(3).

Ngày 22 tháng 4 năm 1975, thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn điện cho Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh xác định thời cơ đã chín muồi để bắt đầu cuộc tổng tiến công: “Kịp hành động lúc này là bảo đảm chắc thắng nhất giành thắng lợi hoàn toàn”. Đồng chí nhắc nhở: “Chú trọng kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy đồng loạt giữa các hướng cũng như tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động”.

Sáng ngày 26 tháng 4 năm 1975, bộ phận tiền phương Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã xuống Căm Xe (Bắc Dầu Tiếng). Có mặt ở đây các đồng chí Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà.

Chiều ngày 26 tháng 4, đội hình lực lượng chiến dịch ở các hướng, các cánh đã triển khai, công tác chuẩn bị cơ bản đã hoàn thành.


(1) Theo cung khai của các tướng ngụy, tác giải của nó là Weyand, tham mưu trưởng Lục quân Mĩ, nguyên Tổng tư lệnh quân Mĩ ở Việt Nam, từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 4 do sư đoàn bộ binh 18 và thiết đoàn 5 phòng giữ. Từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 4 tăng thêm lữ đoàn dù 1, liên đoàn BDQ33, trung đoàn 8 sư đoàn 5, thiết đoàn 15 và thiết đoàn 22 đưa tổng số lực lượng ở Xuân Lộc lên 9 chiến đoàn kể cả bộ binh, thiết giáp, xe tăng, chưa kể 8 tiểu đoàn bảo an tại chỗ.
(2) Frank Snepp ”Cuộc tháo chạy tán loạn”
(3) Dve Richard Palmer trong “Tiếng kèn gọi quân”, tr. 328
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #187 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:36:47 am »

*
*   *

Từ 17 giờ ngày 26 tháng 4, chiến dịch đã vào giai đoạn (đến 24 giờ ngày 28 tháng 4): tiến công ở hướng Đông và hướng Tây Nam Sài Gòn, cắt đường 4, đường 15, sông Lòng Tàu, khống chế các sân bay (Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ), chiếm khu rút lui cuối cùng của địch ra biển, thực hiện bao vây, cô lập triệt để Sài Gòn, đánh phá các trận địa pháo, tạo thế có lợi cho tiến công toàn mặt trận.

Trên hướng Đông: Quân đoàn 2 được tăng cường sư đoàn 3 Quân khu 5: sư đoàn 3 đánh chiếm Đức Thạnh, Bà Rịa, Phước Tĩnh; đoàn 325 chiếm Long Thành, phát triển theo lộ 25, về hướng Nhơn Trạch, nhưng chưa đặt được trận địa pháo lớn để bắn váo sân bay Tân Sơn Nhất; sư đoàn 304 chiếm được một phần căn cứ Nước Trong, tiếp tục đánh địch ở ngã ba rừng cao su - đường 15; trung đoàn đặc công 116 chiếm được cầu Xa Lộ sông Đồng Nai, nhưng chưa giữ được; các Z23, Z22 lữ 316 và tiểu đoàn 81 (trung đoàn đặc công cơ giới) chiếm được cầu Rạch Chiếc, nhưng địch phản kích, tạm thời lấy lại được. Phối hợp với chủ lực, các lực lượng vũ trang địa phương giải phóng các huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc và các mảng nông thôn hai bên quốc lộ 15, lộ 25, lộ 19, 1, 2.

Hướng Đông Bắc, quân đoàn 4: sư đoàn 341 và các sư đoàn 6 chiếm được Trảng Bom, Suối Đỉa, Long Lạc, nhưng chưa chiếm được Hố Nai để đánh Biên Hòa theo kế hoạch. Trung đoàn 113 đặc công đánh chiếm được cầu Ghềnh, cầu Rạch Cát, nhưng không giữ được, chưa chiếm được cầu Mới.

Trận địa Hiếu Liêm của đoàn 75 pháo binh từ ngày 14 tháng 4 đã bắn khống chế liên tục sân bay Biên Hòa. Từ 20 giờ ngày 28 tháng 4 sân bay hoàn toàn bị tê liệt.

Trên hướng Tây và Tây Nam, binh đoàn 232: Sư đoàn 5 và Sư đoàn 8, có lực lượng địa phương phối hợp từ sáng ngày 27 tháng 4 cắt đứt hoàn toàn lộ 4 từ Bến Lức đến Cai Lậy (chủ yếu đoạn phía Nam Bến Lức - phía Bắc Tân An), làm cho Sài Gòn không quan hệ được với đồng bằng sông Cửu Long bằng đường bộ. Sư đoàn 3 chiếm được An Ninh - Lộc Giang, tạo điều kiện cho sư đoàn 9 vào khu tập kết Vĩnh Lộc - Mĩ Hạnh - Cầu Xáng trên lộ 10 và đưa được một phần lớn binh khí kí thuật qua sông Vàm Cỏ Đông.

Trung đoàn 24 và trung đoàn 88 ở hướng Nam đã vào đến Tây Bắc Cần Giuộc.

Hướng Bắc, quân đoàn 1: Sư đoàn 312 bao vây căn cứ Phú Lợi và chốt đường 13 để chặn sư đoàn 5 ngụy từ Lai Khê - Bến Cát co về Bình Dương, nhưng sư đoàn 320B làm nhiệm vụ thọc sâu chưa đưa được đội hình vào tuyến trung gian như đã định. Lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một phối hợp hoạt động, giải phóng được một số vùng nông thôn ở phía Tây và Nam Bến Cát, Tây Nam Tân Uyên.

Ở Gò Vấp, ngày 27 tháng 4 chi bộ xã Hạnh Thông Tây phát động quần chúng nỏi dậy giành chính quyền.

Trên hướng Tây Bắc, quân đoàn 3: Sư đoàn 316 cùng với lực lượng vũ trang Tây Ninh bao vây, chia cắt từng cụm quân địch trên lộ 22 và lộ 1, kìm chân sư đoàn 25 ngụy không cho rút về tăng cường cho căn cứ Đồng Dù, Hóc Môn; lực lượng địa phương bao vây chặt thị xã Tây Ninh, giải phóng từng mảng nông thôn.

Một số đơn vị lực lượng tại chỗ của Sài Gòn - Gia Định đã vào được nội đô trước ngày 26 tháng 4; đêm 19 tháng 4 tiểu đoàn 197 cùng tiểu đoàn 23 trung đoàn đặc công 429 tấn công trung tâm vô tuyến viễn thông Phú Lâm, gây hư hại và làm mất tác dụng trạm này. Đêm 27 tháng 4, đại đội 2 của tiểu đoàn 4 trung đoàn Gia Định đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, định phá các kho bom, nhưng địch đã chuyển bom đi nơi khác. Tiếp đêm 28, đại đội 2 bí mật luồn bộc phá liên kết ở hai điểm phía Bắc sân bay, sẵn sàng điểm hỏa để mở đường cho xung kích. Đêm 27 tháng 4 tiểu đoàn 4 Thủ Đức và một đại đội bộ đội địa phương đánh chiếm cầu Xa Lộ Sài Gòn. Qua một ngày chiến đấu, ta làm chủ được phía Đông cầu. Song địch phản kích mạnh, tối 28 tháng 4 quân ta tạm rút về vị trí ém quân để củng cố và tổ chức đánh lại đêm 29 tháng 4, chiếm được nửa cầu phía Bắc.

Trên sông Lòng Tàu, từ ngày 27 tháng 4 các đội 11, 14 của Đoàn 10 đã khống chế được đoạn sông từ Phước Khánh đến ngã ba Đồng Tranh.

Đến 18 giờ ngày 28 tháng 4, toàn bộ các lực lượng võ trang Sài Gòn - Gia Định đã áp sát các mục tiêu quy định.

Lực lượng quần chúng tấn công binh vận từ ngày 26 tháng 4. Trên nhiều đường phố và trong các xóm lao động xuất hiện nhiều cờ, truyền đơn, áp phích cổ vũ khí thế nổi dậy. Đồng bào hù dọa địch: “Quân giải phóng sắp tới, con đường sống là bỏ ngũ, nộp ngay vũ khí…”.

Trên toàn cục, đến cuối ngày 28 tháng 4, ở hầu hết các hướng, các lực lượng chủ lực và tại chỗ đều gặp thuận lợi; chủ lực đã đến trước cửa ngõ Sài Gòn. Chỉ riêng ở hướng Đông, địch ở Nước Trong và Hố Nai còn chống cự và phản kích quyết liệt hòng ngăn cản ta triển khai lực lượng tiến về đô thị.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975, Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn đã tẩu thoát sau khi kí lệnh “tử thủ bảo vệ đến cùng phần đất còn lại”. “Tân thủ tướng” Trương Bá Cần cũng chuồn thẳng không cần từ chức. Và rồi, 17 giờ ngày 28 tháng 4 năm 1975 sau một bài diễn văn “không đầu không đuôi, chắp vá, đầy những lời tự khai, tự bào chữa”(1), “tổng thống 8 ngày” Trần Văn Hương thoái vị, trao quyền cho Dương Văn Minh, một vị tướng mà theo Mĩ có màu sắc “trung lập”, có khả năng nói chuyện với đối phương trong cơn bối rối này.

Không đầy 10 phút sau khi Minh chấm dứt diễn văn nhậm chức, 4 chiếc A37 của Mĩ chế tạo, do các chiến sĩ không quân Việt Nam lái, được Nguyễn Thành Trung dẫn đường, đã rời sân bay Thành Sơn (Phan Rang), lượn vòng trên bầu trời Sài Gòn… và đúng 17 giờ 40 phút (ngày 28 tháng 4) sân bay Tân Sơn Nhất bị trúng bom và đạn DK82, 3 máy bay AC-119 và nhiều C47 bị phá hủy. Hai trái bom nổ giữa trung tâm điều khiển và vọng kiểm soát. Máy bay phản kích của địch phải bay mò vì trạm hướng dẫn đã bị hỏng. Cuộc oanh tạc bất ngờ, táo bạo làm “tiêu tan hi vọng thương lượng” của “tân tổng thống”(2) lẫn Hoa Kì, làm tăng thêm sự hoang mang và hỗn loạn của địch.

Từ cuối ngày 28 tháng 4, chỉ huy của Bộ tổng tham mưu ngụy không còn. Các tướng tá ngụy tranh nhau lên các máy bay di tản của Mĩ. Tối 28 thang 4, sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy từ Biên Hòa bỏ chạy về Gò Vấp.

Như vậy đến ngày 28 tháng 4 về cơ bản ta đã thực hiện được ý định bao vây, cô lập Sài Gòn, tạo điều kiện thực hiện bước tiếp.

Đồng chí Lê Duẩn có điện vào, nói ý kiến của Bộ Chính trị là: “Phải công kích thật mạnh và liên tục, dồn dập cho tới toàn thắng, vừa tiến công ở ngoại vi, vừa nắm kịp thời cơ thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng… Thực hiện từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy”(3).

Nhận thấy thời cơ hành động quyết định đã đến, tối ngày 28 tháng 4, sau khi phân tích tình hình, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận theo tình huống 2: ngăn chặn và tiêu diệt các đơn vị chủ lực của địch ở bên ngoài, đồng thời thọc sâu vào bên trong, cùng lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn quan trọng, sẵn sàng đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu then chốt ở nội đô.


(1) Nhận xét của Frank Sneep
(2) Qua dây nói, người phát ngôn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thông báo cho đại diện Hoa Kì: “Chính phủ CMLT không chấp nhận Minh lớn. Hoa Kì phải chấp hành những điều khoản I, IV, IX của Hiệp định Paris, phải tôn trọng ý chí và quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam… Người Mĩ phải rút hoàn toàn rồi mới ngừng bắn… Hoa Kì phải từ bỏ chính quyền Sài Gòn, đó chỉ là một bộ máy chiến tranh và đàn áp. Những lời tuyên bố của Minh lớn không đáp ứng đòi hỏi ấy!”.
(3) Lê Duẩn: Thư vào Nam: NXB Sự Thật, Hà Nội, 1985, trang 389-390.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #188 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:37:58 am »

*
*   *

Khi vào giai đoạn 2 chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận được Lời kêu gọi và Chỉ thị của Bộ Chính trị: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, với quyết tâm lớn nhất, hãy nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch với khí thế hùng mạnh nhất của một quân đội trăm trận trăm thắng, đập tan mọi sự đề kháng của địch, kết hợp tiến công và nổi dậy, giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định… Nêu cao truyền thống quyết chiến quyết thắng và bản chất quân đội ta, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại”.

Để tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cuộc tiến quân lịch sử, để bớt đổ máu cho những giờ phút chót, để cho một thành phố nguyên vẹn sau cuộc  toàn thắng, ngoài đòn quyết định là tiến công táo bạo, thần tốc của các binh đoàn chủ lực, kết hợp tiến công - nổi dậy của các lực lượng tại chỗ, Đảng ta đã huy động mọi lực lượng, mọi khả năng, kể cả việc huy động một bộ phận lực lượng trong phong trào chính trị đô thị là “lực lượng thứ 3”, tận dụng khả năng vận động, tổ chức người vào cơ quan đầu não địch, trong giờ phút quyết định, để hạn chế hiệu lực bộ máy chính quyền và lực lượng quân sự, đàn áp của địch, tác động đầu hàng từ tổng thống ngụy trở xuống các cấp. Khi Dương Văn Minh, một người mà Mĩ cho là có xu hướng trung lập lên làm tổng thống, các đảng viên ta đang hoạt động trong “lực lượng thứ 3” nhạy bén thấy ngay đây là thời cơ tốt để thực hiện những ý định trên. Qua tác động của ông Trần Ngọc Liễng, nguyên chủ tịch “Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris”, người gần gũi Dương Văn Minh, được Dương Văn Minh chấp nhận, một đảng viên của ta là luật sư Triệu Quốc Mạnh đã được Dương Văn Minh giao chức Giám đốc cảnh sát đô thành vào chiều tối ngày 28 tháng 4 năm 1975. Lập tức, với cương vị vừa được tổng thống bổ nhiệm, Triệu Quốc Mạnh ra lệnh giải tán các phòng cát sát đặc biệt đô thành và ra lệnh thả hết tù chính trị với lí do “để tạo điều kiện thương thuyết theo ý định của tổng thống”. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 “Giám đốc cảnh sát đô thành” Triệu Quốc Mạnh nhân danh “theo lệnh tổng thống”, gọi dây nói cho Tổng nha cảnh sát bảo thả hết tù chính trị, lệnh các đồn cảnh sát không được nổ súng và “để đảm bảo tính mạng, gia đình anh em cảnh sát, cho phép ai muốn về nhà để lo việc nhà thì cứ về…”. Lực lượng cảnh sát ở Sài Gòn thực tế đã bị vô hiệu hóa từ ngày 29 tháng 4.

Ông Nguyễn Hữu Hạnh, 29 tuổi quân trong quân đoàn Sài Gòn, nguyên chuẩn tướng mới về hưu năm 1974, đã được tiếp xúc, liên lạc với cán bộ Ban binh vận Trung ương Cục từ năm 1963, lúc này chính là thời cơ để ta đưa ông trở lại chức vị cao để hạn chế hiệu lực chống cự của quân ngụy tại Sài Gòn và tác động Dương Văn Minh sớm đầu hàng quân Giải phóng. Nguyễn Hữu Hạnh đến gặp Dương Văn Minh khi Minh đang trao chức Tổng tham mưu trưởng cho trung tướng Vĩnh Lộc, nhưng tướng này chần chừ. Ông Hạnh khéo léo khuyên Vĩnh Lộc nhận, để mình làm phụ tá tổng tham mưu phó. Với tư cách người thay Tổng tham mưu trưởng khi Vĩnh Lộc đã bỏ chạy và bạn thân của tướng Lâm Văn Phát, Tư lệnh biệt khu thủ đô, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã ngăn cản Phát điều động hỏa lực, binh lực bằng một lệnh trước khi Phát đầu hàng: “Để khỏi ảnh hưởng đến chủ trương thương thuyết với phía bên kia của Tổng thống, yêu cầu các đơn vị án binh bất động, ở nguyên vị trí của mình”.

Ở Bộ Tồng tham mưu ngụy, ta còn có một số cơ sở lâu dài khác, trong đó có một cơ sở đảng viên ở văn phòng Bộ Tổng tham ngụy.

Việc vận động, tranh thủ lôi kéo, hù dọa không chỉ diễn ra ở phủ tồng thống, ở Bộ Tổng tham mưu, mà còn ở từng sở, trường, phường, khóm, từng gia đình sĩ quan binh lính ngụy.

Trước ngày cáo chung chế độ tay sai ở Sài Gòn, tại Hoa Kì, tổng thống Ford đã quyết định “thỏa hiệp” trao quyền cho Kissinger “nói chuyện” với Hà Nội, còn Đại sứ quán Hoa Kì ở Sài Gòn chỉ còn việc lo sao cho người Mĩ thoát hết khỏi Việt Nam. “Nhà trắng phương Đông” có biết tin Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đã được chỉ thị “đừng đụng đến cầu hàng không di tản”, nhưng tình thế hoảng loạn không kềm lại được. Chiến dịch “người liều mạng” biến thành cuộc tháo chạy tán loạn.

Trên hướng Đông, các đơn vị quân đoàn 2 thực hiện tiến công trước 5 giờ sáng ngày 29 tháng 4. Sư đoàn 3 đóng ở ngoại vi Vũng Tàu. Sư đoàn 325 chiếm xong Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, phát triển đến bến phà Cát Lái, đặt trận địa pháo ở Nhơn Trạch. Từ trận địa này, lúc 5 giờ sáng, pháo 130mm đã nổ “pháo lệnh”, trong ngày 29 tháng 4 bắn hơn 300 trái đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất(1). Các máy bay địch liều mạng cất cánh di tản. Hai trái đạn nổ gầm trạm gác Moorefield mà Mĩ mới dựng lên, giết chết 2 lính Mĩ - 2 lính Mĩ cuối cùng chết trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam(2). Khu nhà hàng không Mĩ biến thành đống gạch vụn. Một nửa số máy bay trong sân bị phá hủy. Không thể tiếp tục cuộc di tản bằng máy bay có cánh cố định, trong ngày hôm ấy, Mĩ phải tổ chức di tản hoàn toàn bằng máy bay lên thẳng của hạm đội 7, dựa vào các sân thượng các toàn nhà cao ốc trong thành phố, nóc tòa Đại sứ Mĩ, gọi là “chiến dịch móng quặp chặt”.

Sư đoàn 304 vừa tập trung tiêu diệt căn cứ trường thiết giáp Nước Trong, vừa nhanh chóng đưa bộ phận thọc sâu vào đến gần cầu xa lộ Đồng Nai. 24 giờ ngày 29 tháng 4, đơn vị đã bắt được liên lạc với trung đoàn 116, đã chiếm giữ được một đầu cầu xa lộ (từ 16 giờ) và đang đánh địch phản kích quyết liệt, đánh lui nhiều đợt xe tăng địch xung phong, diệt nhiều chiếc, đến 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 mới chiếm được cả hai đầu cầu xa lộ. Một bộ phận khác của trung đoàn 116 đã đánh chiếm một số mục tiêu trong khu Long Bình.

Tại cầu Rạch Chiếc đêm 29 tháng 4, các chiến sĩ lữ đoàn 316 đánh lại để chiếm cầu, chiếm được hai đầu cầu, 30 cán bộ chiến sĩ đã hi sinh tại trận địa.


(1) Theo Hiệp đồng tác chiến, 5 giờ sáng 29 tháng 4 năm 1975, pháo 130 li của quân đoàn 2 bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất mở màn giai đoạn 2.
(2) Theo Frank Sneep trong cuốn “Cuộc tháo chạy tán loạn”, đó là trung sĩ Mac Mahon và binh nhất Judge, lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng bảo vệ Sứ quán Hoa Kì đang làm nhiệm vụ bảo vệ cuộc di tản.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #189 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2012, 09:38:23 am »

Trên hướng Đông Bắc (hướng quân đoàn 4): sư đoàn 341 phát triển về phía Đông Bắc sân bay Biên Hòa, hậu cứ quân đoàn 3 ngụy, căn cứ Hóc Bà Thức nhưng chưa đột phá vào trong được. Sư đoàn 6 trong ngày giải quyết cụm địch ngăn chặn ở ngã ba Yên Thế (Hố Nai) và tiếp tục phát triển về phía Biên Hòa, nhưng đến đêm thì bị chặn lại ở ngã ba Tam Hiệp, phía Bắc khu Long Bình. Sư đoàn 7, đơn vị thọc sâu, theo quốc lộ 1 qua Hố Nai tiến về Biên Hòa nhưng đến 24 giờ gặp địch chặn trước Suối Máu, Tây Hố Nai 1,5km, phải dừng lại tổ chức đánh phản kích. Trung đoàn đặc công 113 trong đêm 29 tháng 4 đánh chiếm lại và giữ cầu Ghềnh, 50 cán bộ chiến sĩ hi sinh trong quá trình chiếm và giữ cầu Ghềnh.

Hướng Đông Bắc và hướng Đông là 2 trong những cửa ngõ quan trọng nhất vào Sài Gòn. Lực lượng tại chỗ ở Thủ Đức nổi dậy sớm. Từ ngày 23 tháng 4 ở khu vực Giồng Ông Tố, và từ ngày 25 tháng 4 ở khu vực Lò Lu quần chúng kết hợp lực lượng vũ trang nổi dậy giành chính quyền. Đến ngày 29 tháng 4, tất cả các xã ở Thủ Đức, chính quyền đã về tay nhân dân.

Trên hướng Bắc (có quân đoàn 1): sư đoàn 312 tiếp tục vây ép căn cứ Phú Lợi, bộ phận chốt chặn diệt được một bộ phận sư đoàn 5 ngụy từ Phước Vĩnh rút chạy về Bình Dương (trên đường số 2), một bộ phận khác của sư đoàn 5 từ Lai Khê thoát được theo quốc lộ 13. Sư đoàn 320 trên đường thọc sâu giải quyết chi khu Tân Uyên ngoài dự kiến, đến 17 giờ 30 phút mới có trung đoàn 27 (sư 320) đến Búng; trung đoàn 48, đêm 29 tháng 4 còn ở Khánh Vân.

Trong ngày 29, trung đoàn 115 và tiểu đoàn 4 Gia Định chiếm cầu Bình Phước, nhưng không giữ được trước sức phản kích quyết liệt của địch. Hai đơn vị đánh chiếm được một số mục tiêu trên xa lộ Đại Hàn (đoạn cầu Bình Phước đến Quán Tre), một mũi khác tiến đến phía Bắc sân bay Tân Sơn Nhất và giữ luôn, bắn 100 trái ĐKB vào sân bay.

Các lực lượng địa phương Thủ Dầu Một cùng với quần chúng nổi dậy, phối hợp với chủ lực tiến công địch, giải phóng phần lớn nông thôn.

Ở Gò Vấp, phía trước quân đoàn 1, đêm 28 rạng 29 tháng 4 tiểu đoàn 80 đặc công cơ giới và một số đại đội thuộc lữ đoàn 316 đặc công biệt động đánh chiếm căn cứ pháo binh Cổ Loa và căn cứ thiết giáp Phù Đổng.

Ngày 28 tháng 4, đồng bào xã Tân Thới Hiệp cùng lực lượng vũ trang và cơ sở binh vận nổi dậy tước vũ khí phòng vệ dân sự, giải phóng ấp 2, ấp 3, đến sáng 30 tháng 4 giải phóng toàn xã.

Ở xã Phú Nhuận, từ chiều 28 tháng 4 chị Trần Thị Thương (Ba Hà), cán bộ phụ nữ bám trụ ấp Tây Ba, tới nhà một đại tá ngụy đã được chị vận động từ trước, thu xe và súng. Từ chiều 29 tháng 4, đồng chí Thuấn, cán bộ quận lãnh đạo quần chúng nổi dậy chiếm giữ và treo cờ trụ sở phường 12.

Trên hướng Tây Bắc (có quân đoàn 3), sư đoàn 320 tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy trong ngày 29 tháng 4. Sư đoàn 316 cùng với lực lượng địa phương chặn đánh diệt các lực lượng còn lại của sư đoàn 25 ngụy và lực lượng biệt động quân trên đường số 1, đường 22 và từ Tây Ninh rút về, chiếm chi khu Trảng Bàng, giải phóng gần hết tỉnh Tây Ninh.

Sư đoàn 10 thọc sâu, sáng sớm ngày 29 đã tiến theo 2 mũi. Phía trước sư đoàn đã có trung đoàn 198 đặc công ém sẵn vào lực lượng trung đoàn 24 của quân đoàn ém trước chiếm và giữ được cầu Bông, cầu Xáng, Hóc Môn nên các mũi thọc sâu trên tiến nhanh. 18 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4 trung đoàn 24 đi đầu đã đến Bà Quẹo, sát sân bay Tân Sơn Nhất, sau đó trung đoàn 28 (mũi 2) đã đến cầu Tham Lương.

Bên sườn phải quân đoàn 3, từ 4 giờ sáng ngày 29 tháng 4 trung đoàn 1 Gia Định được tăng cường tiểu đoàn 195 tập kích gây thiệt hại nặng một đại đội biệt động quân đóng dã ngoại ở Xuân Thới Thượng, đồng thời tiến công các quận, chi khu Xuân Thới Thượng, Tân Thới Nhất (Hóc Môn). Đến 11 giờ ngày 29, ta làm chủ cả hai phân chi khu, giải tán toàn bộ phòng vệ dân sự ở hai xã Xuân Thới Thượng và Tân Thới Nhất, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy làm chủ. Sau đó các tiểu đoàn 1 và 195 phát triển ra quốc lộ 1, làm chủ khu vực Tham Lương, giữ đường và bắt liên lạc với sư đoàn 10 đang thọc vào. Lúc 13 giờ 30 phút, tiểu đoàn 195 tiếp tục tấn công đồn Nhà Tô ở Xuân Thới Thượng, đại đội bảo an ngụy ở đây tháo chạy.

Phối hợp với bộ đội, nhân dân Hóc Môn làm chủ thị trấn, san bằng đồn bót, truy lùng ác ôn, thu dọn chiến trường.

Trung đoàn 2 Gia Định, ngày 29 tháng 4 vây diệt đồn Tống Khôn Tân Thạnh Đông do một đại đội ngụy chiếm giữ bắt 55 tên, đồng thời đánh tan một đại đội chi khu án ngữ bên ngoài, thu 75 súng, bức hàng bót chợ Tân Thạnh Đông, bức rút bót Thằng Mòi, cùng lực lượng địa phương giải phóng hoàn toàn xã Tân Thạnh Đông; chặn đánh một bộ phận của chiến đoàn 50 sư đoàn 25 ngụy từ Đồng Dù chạy về Sài Gòn, theo hướng lộ 8 và lộ 15, diệt trên 170 tên, bắt sống 166 tên, thu 150 súng.

Tiểu đoàn 4 Gia Định hiệp đồng với trung đoàn 115 đặc công mở 2 cửa phía Bắc sân bay Tân Sơn Nhất để quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM