Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:36:21 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975)  (Đọc 130079 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #80 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 10:54:30 am »

Phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ ở nội thành Sài Gòn vẫn không giảm vào năm 1958.

Mở đầu là cuộc đấu tranh của công nhân 144 xí nghiệp ở Sài Gòn ngày 28 tháng 1 năm 1958 đòi tiền lương các ngày nghỉ.

Một tháng sau, ngày 28 tháng 2 năm 1958, công nhân hãng dầu Caltex bãi công 10 ngày chống lại việc chủ đánh đập thợ thuyền. Cuộc bãi công này có tiếng vang mạnh mẽ trong các xí nghiệp quan trọng của Mĩ Diệm.

Tháng 3 năm 158 nổ ra phong trào hưởng ứng công hàm ngày 7 tháng 3 của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi chính quyền miền Nam Việt Nam đề nghị trao đổi buôn bán, tạo điều kiện thuận lợi đi đến hòa bình thống nhất đất nước. Chỉ trong một tháng ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã có trên 100 cuộc tọa đàm, mít tinh bàn về quan hệ bình thường Bắc Nam, thống nhất Tổ quốc.

Ngày 20 tháng 4 năm 1958, khi địch bắt đầu chiến dịch tố cộng “Nguyễn Trãi” (từ ngày 20 tháng 4 năm 1958 đến ngày 20 tháng 11 năm 1958) ở 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ song song với chiến dịch “Hồng Châu” càn quét ngoại ô Sài Gòn, thì ở nội thành ngày Quốc tế lao động ngày 1 tháng 5 năm 1958, gần 500.000 công nhân các tầng lớp nhân dân khác rầm rộ xuống đường biểu tình đòi ngụy quyền giải quyết nạn thất nghiệp, đòi “bảo vệ hàng hóa”, sản xuất nội địa…

Trong cơn sóng đàn áp, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn càng gắn bó với người bạn đồng minh của mình là nông dân. Giữa nhưng ngày chiến dịch “Nguyễn Trãi” và “Hồng Châu” đang diễn ra ác liệt khắp ngoại thành và 8 tỉnh miền Đông, tại diễn đàn đại hội Tổng liên đoàn lao động, có đại diện các nghiệp đoàn về dự để thông qua tuyên bố và nội dung tố cáo chế độ Diệm, đồng chí Đoàn Văn Thới (tức Lê Văn Năm, cán bộ công vận công khai ở Tổng liên đoàn lao động) đã đọc bức thư của nông dân Cà Mau nói lên tình cảnh nông dân Cà Mau bị cướp bóc, bị ức hiếp tồi tệ… Người đọc rơi nước mắt, cả hội trường cũng rơi nước mắt theo(1). Trong cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5, những khẩu hiệu đòi giải quyết nạn thất nghiệp, thi hành luật lao động đã xuất hiện bên cạnh khẩu hiệu đòi “Cải cách điền địa như thế nào có lợi cho nông dân”, đòi “giảm tô giảm tức đúng mức”.

Đầu năm 1959, Sài Gòn - Gia Định lại sôi sục biểu tình, mít tinh lên án chế độ Mĩ Diệm gây ra vụ thảm sát thù nhân ở Phú Lợi. Những đợt tố cáo địch liên tiếp diễn ra đến tháng 3 năm 1959, kế tiếp 4 tháng liền (tháng 4 đến tháng 8 năm 1958) nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định chống Diệm chuẩn bị bầu cử “quốc hội” khóa 2.

Phong trào đấu tranh chống văn hóa nô dịch, đòi dùng tiếng Việt ở bậc đại học, đòi sửa đổi chương trình giáo dục, cải cách dân chủ trong nhà trường đã thu hút trên 300.000 học sinh sinh viên của 45 trường học ở Sài Gòn và miền Nam. Nhiều giáo sư, cha mẹ học sinh đã nhập cuộc trong cuộc đấu tranh này.

Với hai chiến dịch khủng bố “Nguyễn Trãi” và “Hồng Châu” nhằm mục tiêu vét đến người cộng sản nằm vùng cuối cùng, quét sạch cơ sở cách mạng tại chỗ ở Gia Định, kẻ thù đã gây tổn thất nặng cho ta, đẩy cách mạng đến thoái trào, tăng thêm thế chủ động của chúng trên trận địa “chiến tranh một phía”. Đến năm 1959, chúng tuyên bố hoàn thành mục tiêu “quốc sách diệt cộng” ở miền Nam Việt Nam. Thế nhưng kẻ thù đã tạo một kết quả trái ngược với ý muốn: nhân dân miền Nam đã nhận rõ rằng, không thể nói chuyện với chúng bằng tay không, mà phải bằng gươm súng, phải dứt khoát dùng bạo lực chống lại chúng. Sự đòi hỏi của quần chúng đã đi trước chủ trương chiến lược của Đảng ta.

Trong tình thế như vậy, giữa những ngày chiến dịch “Nguyễn Trãi”, chiến dịch “Hồng Châu” đang quyết liệt, ngày 11 tháng 8 năm 1958 một bộ phận lực lượng võ trang miền Đông, với những phân đội đầu tiên đã ra đời từ cuối năm 1956, nổ súng tấn công chi khu Dầu Tiếng, cách Sài Gòn chỉ 70km đường chi mbay về phía Tây Bắc. Trong “phiếu trình đặc biệt” gửi Tổng Thống Việt Nam Cộng hòa đề ngày 12 tháng 8 năm 1958, tên đại tá Lê Khương, Tổng giám đốc bảo an nằm trong phái đoàn quân sự đến khảo sát hiện trường Dầu Tiếng đã thừa nhận “việt cộng” tiến công 8 mục tiêu, làm chủ đồn Cộng Hòa suốt 2 giờ 40 phút.

Sự kiện này góp lời giải đáp của chính Xứ ủy Nam Bộ cho những cuộc bàn cãi nội bộ, bàn cãi giữa cán bộ và nhân dân về võ trang hay không võ trang, đánh hay không đánh.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy cơ sở, trên nhiều vùng nông thôn, các đội võ trang du kích tiếp tục ra đời, bao gồm những cán bộ đảng viên, chiến sĩ cũ, những đoàn viên thanh niên lao động và những nòng cốt trong phong trào đấu tranh chính trị: ngoài dao, gậy, lác đác có súng “ngựa trời” tự tạo hoặc ít “súng thiệt” từ thời chống Pháp để lại. Ở nội thành, các quận 1, 4 và vùng chợ Thiếc, trường đua Phú Thọ thuộc quận 5 (nay thuộc quận 11)… tiếp tục xuất hiện những đội tự vệ núp dưới những tên công khai “đội phòng cháy chữa cháy”, “đội chống trộm cướp”. Ở Thủ Đức, đến đầu năm 1959 tự vệ các xã đã phát triển khá. Linh Xuân, 2 tiểu đội, Tam Bình, 1 tổ 4 người với 2 lựu đạn, 1 “rulô”, Long Thành Mĩ: 1 tiểu đội, Phước Long, Long Trường, An Khánh: cơ sở vũ trang bắt đầu được xây dựng. Huyện ủy lãnh đạo trừ gian diệt ác. Ở xã Tam Bình có tên Lang ác ôn khét tiếng, từng bắt giết khoảng 150 cán bộ và quần chúng cơ sở cách mạng. Chỉ với dao “con chó”, đồng chí Hai Tây đã trừng trị tên này. Để trả thù, giặc hèn hạ bắt cha và anh của đồng chí Hai Tây, kéo lết hai người trên mặt đất, rồi dùng lưỡi lê đâm trước sân nhà, người cha 15 nhát, người anh 22 nhát. Vụ trả thù không làm cho bọn ác ôn Thủ Đức yên tâm. Có những tên cứ chiều tối là trốn vô Sài Gòn. Ở Bình An, Bình Chiêu có 5 tên ác, cầm đầu là Phu, Rút thường xuyên xách dao đi bắt “Việt cộng”. Huyện ủy chủ trương loại trừ cả 5 tên. Các đồng chí tập hợp một số thanh niên trốn lính, cải trang làm lính ngụy, tối đến cùng cán bộ ta đến từng nhà, lần lượt tóm cả 5. Cả bọn bị giải xuống trường học Đông An, một phiên tòa được mở ngay tại chỗ, có dân tham gia. Nghe xong bản an, mọi người có mặt nhất trí xử tử cả 5. Ở Dĩ An, có một tên ác ôn nhà ở trong khu nọ, một ổ vũ trang do đồng chí Tư Hồng chỉ huy khéo léo đột nhập bắt sống tên này, đem ra đường xe lửa, thi hành “án chém”. Tên ác bị xử, phong trào Dĩ An có đà lên; huyện ủy chủ trương xây dựng căn cứ du kích trong rừng. Căn cứ thu hút nhiều thanh niên. Huyện ủy khuyến khích “ai muốn ra căn cứ, cướp súng địch mang ra!”. Con bà Tư Hòa đâm chết tên tổng Mát, lấy một súng ngắn ra căn cứ.


(1) Sau vụ này, địch giải tán Nghiệp đoàn dân cày ở Cà Mau với lí do “Không xin phép”, riêng đồng chí Thới bị 3 năm tù.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #81 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 10:55:09 am »

Ở Rừng Sác, ngay trong những ngày đen tối nhất, các cấp ủy tại chỗ đều coi việc bám dân là vấn đề sống còn. Các nghị quyết lãnh đạo đều nhấn mạnh: tất cả các đảng viên không được xa rời quần chúng và sẽ thi hành kỉ luật bất kì đảng viên nào tự ý bỏ cơ sở, bỏ dân, thoái thác nhiệm vụ. Huyện ủy Nhà Bè (quản lí phía trên Rừng Sác) cử các đồng chí Trương Lương Bửu, Đặng Văn Trúc về các xã để xây dựng chi bộ. Có những chi bộ (như Lí Nhơn) rách ra làm hai: chi bộ A vào rừng xây dựng căn cứ bí mật, chi bộ B bám lại trong dân; ở Cần Thạnh, có 2 đảng viên không chịu nổi ác liệt, rủ nhau ra đầu thú, nhưng họ chưa kịp đến trụ sở địch ở quận Cần Giờ thì đã bị quần chúng cơ sở phát hiện và chặn lại. Vừa đấu lí vừa chân tình khuyên nhủ, bà con chí cốt cách mạng đã làm cho 2 người này nhận ra lầm lỗi nghiêm trọng của mình. Do tình hình ngày càng phức tạp, trên đã quyết định cho thành lập Ban cán sự Cần Giờ (vào giữa năm 1957), đồng chí Võ Văn Thiết được chỉ định làm bí thư Ban cán sự. Các nhóm võ trang tự vệ mang những tên biến tướng công khai ở Rừng Sác tiếp tục phát triển. Tổ tự vệ Bình Khánh với 1 cây súng duy nhất của cả xã, đã bắn chết tên Tư cảnh sát ác ôn. Việc này làm rúng động hàng ngũ cảnh sát trong vùng.

Ở Củ Chi, sau những thắng lợi về việc đòi lại đất, đòi trả lại số tiền thuế gian lận mà địch đã thu, đồng bào đấu tranh đòi chúng xử tử một tên ác ôn có nhiều nợ máu. Địch buộc phải chấp nhận để xoa dịu lòng phẫn uất của dân chúng.

Năm 1958, cách mạng miền Nam đang lúc thoái trào, chế độ Diệm tự coi là đã hoàn chỉnh. Tuy nhiên, chế độ khát máu đang tích tụ nguy hiểm cho chính bản thân nó. Trước hết đó là việc lòng người đã không chịu đựng được nữa. Trên chiến trường, kẻ thù đang áp đảo, nhưng các nhóm võ trang cách mạng bây giờ không chỉ giành để tự vệ hay diệt ác ôn ở ấp xã, mà nhiều nhóm đã có căn cứ đứng chân ở cấp tỉnh và miền đã có tiểu đội, trung đội, đại đội bộ đội tập trung thực hiện được những rận tấn công theo kiểu Dầu Tiếng, Minh Thạnh, Bến Củi… Tuy lực lượng chưa lớn, chưa nhiều, những đã là những “Bó đuốc cháy loang” báo trước con đường phát triển tất yếu: chiến tranh cách mạng. Những điều này giải thích tại sao vào đầu năm 1959 trong khi lớn tiếng hô hào “Bắc tiến” để vừa “lấy gân” vừa dòi viện trợ Mĩ, Diệm lại tuyên bố đặt “miền Nam trong tình trạng chiến tranh” (tháng 3 năm 1959). Điều này có lí do giả tạo mà Diệm cố trương ra để đàn áp, nhưng có cái thực của nó. Khi kẻ thù “cực thịnh”, cũng là buộc lộ chỗ yếu của nó.

Tháng 4 năm 1959, “Quốc hộ” của Diệm thông qua luật số 91. Luật được ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 mang tên “luật 10-59” về thành lập các tòa án quân sự đặc biệt”. Theo luật 10-59, tội xử chỉ có hai mức: tử hình và khổ sai chung thân. Xét xử chỉ được phép kéo dài tối đa 3 ngày, không có giảm khinh, không có kháng cáo, bản án thi hành ngay… Không kể đối với “cộng sản đã ngoài vòng phát luật”, tức không cần xét xử, luật này giành cho tất cả mọi người được quy là “phá rối trị an”. Không lúc nào máy chém thịnh hành hơn lúc này. Máy chém của Diệm lê về tận xã ấp. Máy chém đặt giữa các chợ Trung Hòa, Tân An Hội (Củ Chi), kém theo lời đe dọa của chính quyền Diệm: “Ai liên quan đến cộng sản sẽ mất đầu”. Cái máy chém trở thành biểu tượng của chế độ Diệm. Những tên ác ôn mặc quần áo rằn ri được tổ chức thành từng đội đưa về hoành hành khắp các thôn ấp Củ Chi. Tên quận trưởng Bình khét tiếng tàn bạo, đã chỉ huy mổ bụng, moi gan trên 280 người. Đồng Găng, Mít Nài, Cây Sộp (xã Tân An Hội), Gót Chàng, Cổ Cò, Gò Nổi (An Nhơn Tây)… đã chứng kiến không biết bao vụ chặt đầu, mổ bụng chiến sĩ và đồng bào. Cho đến năm 1959, ở Củ Chi đã có 500 người bị moi gan, mổ bụng, 600 người bị dồn vào bao bố cột đá dìm xuống sông, 150 người bị buộc vào xe ôtô kéo trên đường đá… Toàn bộ số cán bộ ở Củ Chi bị bắt, bị giết lên đến 75%. Có những vụ hành hình gây nên làn sóng đấu tranh mãnh liệt, như vụ mổ bụng anh Từ Văn Sến đã gây nên một cuộc biểu tình, đơn tố cáo lên quận rồi lên tỉnh trưởng Bình Dương. Tiếp đó địch mổ bụng anh Trương Văn Ba ở Phú Hòa Đông. Đồng bào mang xác anh Ba lên thẳng tỉnh Bình Dương để tố cáo. Tỉnh trưởng lánh mặt, binh sĩ ra mở cửa, đồng bào khiêng xác anh Ba vào. Tên tỉnh trưởng buộc phải ra nhận bồi thường và đổi bọn ác ôn đi nơi khác. Những cuộc đấu tranh trực diện của nhân dân Củ Chi lúc này được tổ chức chặt chẽ: phụ nữ tổ chức thành đội ra giáp mặt với địch; thiếu nhi, phụ lão ở nhà lo việc hậu cần và lo tang lễ cho gia đình người bị hại. Thanh niên không ra mặt, tránh địch bắt lính, lo đảm đương các công việc nặng khác. Ngoài đội đấu tranh trực diện, còn có đội dự bị sẵn sàng thay thế hoặc tiếp viện.

Chưa lúc nào đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định bị tổn thất và khó khăn hơn lúc này. Nhiều đồng chí lãnh đạo từ Khu ủy, Tỉnh ủy đến Huyện ủy, Quận ủy bị bắt, hi sinh; các Ban chấp hành đảng bộ Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn… coi như đã lột xác, phải lập đi lập lại nhiều lần. Khu ủy đến năm 1959 còn các đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Võ Văn Trúc, Hai Khánh… thực lực đảng hầu hết còn đơn tuyến. Trên điều động đồng chí Võ Văn Kiệt từ miền Tây lên Sài Gòn làm bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn để khôi phục tổ chức. Đồng chí kiểm tra lại, còn rải rác, lẻ tẻ khoảng 200 đảng viên và quần chúng nòng cốt, không nắm được cấp quận một cách chính xác. Tiếp đến đồng chí Hai Trúc và Hai Khánh lại lần lượt bị bắt, cơ sở tiếp tục bị vỡ. Khu ủy còn các đồng chí Võ Văn Kiệt và Huỳnh Tấn Phát buộc phải đứng chân căn cứ ngoài. Đến lúc này thì toàn bộ số gần 100 đảng viên còn lại sau 1954 tại Hóc Môn, chỉ còn 1. Huyện ủy Gò Vấp bị bắt gần hết chỉ còn lại 2 người. 9 xã của Gò Vấp chỉ còn lại 1 đảng viên bám trụ rồi cũng bị lộ buộc phải giạt qua quận Tân Bình (xã Phú Nhuận). Hàng lạt cơ sở Đảng ở Tân Bình cũng bị vỡ. Hai huyện Gò Vấp, Tân Bình từ 1.000 đảng viên sau hiệp định, sau khi “điều lắng”, chọn lại còn 385, đến lúc này chỉ còn 8. Tỉnh Gia Định chỉ còn 1 chi bộ Tân Phú Trung, những xã khác có thể có đảng viên nhưng không có chi bộ. Ở nội thành, 200 đảng viên và nòng cốt quần chúng như đã nói trên, buộc phải hoạt động đơn tuyến.

Kiểm lại sự giảm sút về thực lực những năm qua, có thể nói rằng: Tổn thất một phần do khuyết điểm bộc lộ lực lượng trong cao trào đấu tranh chính trị, khi địch đã lộ mặt phát xít, ta không kịp chuyển hướng tổ chức và lâm vào thế bị động. Mặt khác, về công tác tổ chức ở nông thôn ta đã thiên về “kiểm điểm”, “phân loại”, “chấn chỉnh”, đã thiếu linh hoạt về chủ trương “điều lắng”. Do thực hiện “điều lắng”, toàn Nam Bộ từ 15.000 đảng viên còn 5.000 theo báo cáo của Trung ương Cục tháng 11 năm 1961 mà thực tế là một kiểu thụ động đối phó. Mặt khác, trong khi địch đã thẳng tay tố cộng lùng diệt, chủ trương vũ trang tự vệ chưa được rõ ràng, thông suốt, thậm chí nội bộ ta vẫn đang bàn cãi, vẫn còn ý kiến “vũ trang là manh động”, nên không ít cán bộ đảng viên đã bị lọt vào nanh vuốt quân thù.

Trước thực trạng tổ chức lực lượng đã sa sút nặng, để tránh những cuộc khủng bố của địch, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương tách ra 2 cánh chỉ đạo bí số D1, D2 thay cho một tổ chức tập trung (D1) như từ 1950 về trước. D1 trước đây có lúc do đồng chí Bửu Nguyên (Mười Phải) làm Bí thư. D1 bây giờ phụ trách địa bàn các quận, huyện ven đô thuộc tỉnh Gia Định, do đồng chí Bửu Nguyên tiếp tục làm Bí thư; D2 phụ trách địa bàn các quận nội thành do Đặng Gia Lợi (Ba Bá, Phó Bí thư D1 trước kia) làm Bí thư.

Ngoài D1, D2 chỉ đạo theo địa bàn dân cư, Khu ủy còn hình thành các tổ chức chỉ đạo theo ngành: Liên chi văn nghệ do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu (báo Tiếng Chuông) phụ trách cùng với các đồng chí khác như Trường Xuân Trúc, Mai Thế Đồng, Liên chi văn nghệ chi phối được một số lớn báo chí, các đoàn hát, các đoàn cải lương công khai, thực hiện nội dung của ta: dân tộc, lành mạnh và tiến bộ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #82 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 10:56:39 am »

Nhiệm vụ chủ yếu của 2 cánh D1 và D2 vào lúc này là xây dựng cơ sở trong quần chúng công nhân, lao động trên địa bàn dân cư và xí nghiệp.

Về công đoàn, bọn CIA Trần Quốc Bửu lộ mặt chống cộng đã tuyên bố “cộng sản dùng nghiệp đoàn để gây bất ổn xã hội, lật đổ chính quyền”, chiểu luật 10-59, giải tán tất cả các tổ chức công khai, bán công khai “đã bị cộng sản lợi dụng”. Cái gọi là “tòa án miền Đông” ra đời đưa hàng loạt chiến sĩ cách mạng và công nhân yêu nước lên máy chém.

Nhưng điều mà kẻ thù không làm được là những người cộng sản nằm vùng còn sót lại vẫn cứ “nằm vùng” tại chỗ. Quần chúng cách mạng nhiều mưu trí, sáng tạo nhiều cách bảo vệ cán bộ. Tự thân thực tế trả lời cho mọi đảng bộ: không còn con đường nào khác là phải có võ trang; đến lúc này một nhận thức mới cũng đã rõ dần: không thể chỉ có võ trang tự vệ, chỉ diệt từng tên ác ôn mà có thể giải quyết tình hình. Vấn đề là phải giải quyết toàn bộ chế độ phát xít tay sai.

Tháng 5 năm 1959, theo chủ trương của Tỉnh ủy Gia Định, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh được thành lập trên đất Củ Chi, lấy phiên hiệu là C13 - Phiên của bộ đội địa phương Gò Vấp - Hóc Môn thời chống Pháp, tất cả có 20 người, hầu hết là những cán bộ, đảng viên còn sót lại qua những cuộc truy lùng của giặc. Ban chỉ huy gồm: Mười Phúc, Sáu Lí, Chín Thùng và Sáu Đệ. Vũ khí gồm một số súng trường Pháp, một tiểu liên “xitten”, 1 tiểu liên “tômxông” do một đội viên giật được của địch ở thị trấn Củ Chi và 1 khẩu carbine gãy báng. Theo hướng phát triển, C13 biên chế thành 3 trung đội gọi là các B. “B1: Chín Thùng chỉ huy, hoạt động ở 3 xã căn cứ cũ, Phú Mĩ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức (phía Bắc Củ Chi). “B4”: Sáu Đệ chỉ huy, hoạt động ở các xã ven lộ 1 thuộc địa phận Củ Chi. “B5”: Mười Phước chỉ huy, hoạt động ở khu vực Trung An (phía Nam Củ Chi).

Để xúc tiến nhanh việc khôi phục lực lượng, tháng 7 năm 1959, Tỉnh ủy Gia Định thành lập 2 đoàn cán bộ công tác, phụ trách 2 huyện Gò Vấp và Tân Bình đưa về bám dân xây dựng và củng cố cơ sở Đảng với 3 yêu cầu: bám trụ chặt xã ấp, xây dựng cơ sở Đảng trong quần chúng; lãnh đạo quần chúng đấu tranh với địch. Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn cũng bắt đầu mở các lớp “Rừng Xanh” ở bên ngoài, học viên là các thanh niên được chọn từ trong thành đưa ra huấn luyện.

Nông dân Gia Định đào nhiều hầm bí mật ngay trong nhà, trong vườn, ngoài ruộng để giấu cán bộ. Nhờ vậy, nhiều đồng chí Tỉnh ủy, Huyện ủy vừa được bổ sung và nhiều cán bộ đảng viên đã về bám được xã ấp, móc nối được người đưa ra căn cứ, xây dựng được lực lượng cơ sở trong dân. Cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ địch, đào hầm cất giấu vũ khí và vận động thanh niên ra khu học tập, tòng quân xây dựng lực lượng vũ trang.

Hình thức đấu tranh chính trị kết hợp võ trang đã bắt đầu có hiệu quả cụ thể:

Tháng 12 năm 1959, một tổ của C13 do đồng chí Sáu Đệ chỉ huy phục kích trên quốc lộ, chặn đánh một xe Jeep của địch, chém chết tên đại úy và tên lái xe, thu 1 tiểu liên Tomxông và 1 “côn” 12 li, đốt cháy xe. Ít ngày sau, C13 lại phục kích ở sở cao su Bến Đu (An Nhơn Tây) diệt gần 1 trung đội địch từ bót An Nhơn ra lùng sục, thu 14 súng, một số lượng vô cùng quý lúc bấy giờ.

Cũng vào tháng 12 năm 1959, tại Củ Chi, trung đội vũ trang đầu tiên của khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập mang tên ngụy trang Cao - Hòa Bình (Cao Đài - Hòa Hảo - Bình Xuyên) thực tế có 2 tiểu đội. Một hầm bí mật 70 súng do đồng chí Nguyễn Hồng Đào, bí thư huyện ủy Hóc Môn, chỉ đạo chôn giấu trước đây tại góc rừng Bà Sòng xã An Nhơn Tây, lúc này được moi lên để trang bị cho lực lượng vũ trang khu. Các xã trong huyện Củ Chi lúc này cũng gấp rút tổ chức tự vệ mật, sắm sửa vũ khí.

Tại Rừng Sác, đại đội mang phiên hiệu 12 cũng được thành lập do đồng chí Trương Huỳnh Hòa phụ trách, quân số 32 người, vũ khí khá mạnh: 3 tômxông, 6 tiểu liên, 6 mat 49, 3 garăng, 4 mát 36, 4 khẩu carbine, 8 súng lục. Lấy Rừng Sác làm căn cứ đứng chân, nhưng hướng hoạt động của đơn vị là Nhà Bè và 5 xã của Nam Bình Chánh, hoạt động bước đầu chủ yếu là võ trang tuyên truyền, uy hiếp địch, phát động quần chúng.

Để thuận tiện trong lãnh đạo, cuối năm 1959, huyện Hóc Môn được tách thành 2 huyện Hóc Môn và huyện Củ Chi. Huyện ủy Hóc Môn do đồng chí Út Hội làm bí thư, huyện ủy Củ Chi do đồng chí Lê Văn Tất (Bảy Hiền) làm bí thư. Cả hai huyện đều gấp rút thành lập các ban, ngành, củng cố các cơ sở quần chúng, phái cán bộ huyện xuống xã để xây dựng cơ sở.

Thực tế cho đến lúc này, hoạt động vũ trang vẫn còn lẻ tẻ, có tính chất tự vệ trừ gian, diệt ác tự phát, có cản trở cho địch phần nào trong việc củng cố bộ máy kềm kẹp ở cơ sở, có bảo vệ được phần nào cơ sở cách mạng, chưa thể nói là đã chuyển thế chiến trường. Điều quan trọng hơn hết là việc võ trang rất hợp lòng người, cái đà đã có đủ còn phôi thai vẫn làm mầm mống để phát triển. Tuy vậy, vẫn không tránh khỏi một số đảng viên và cấp ủy địa phương còn do dự vì chưa tin quần chúng, coi địch quá cao, sợ tổn thất.

Đến đây có thể nhìn lại, từ sau Hiệp định Genève đến giữa năm 1959, miền Nam và Sài Gòn - Gia Định đã trải qua một thời kì sóng gió do đường lối đấu tranh chưa thật cụ thể rõ ràng. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ đảng viên của thành phố tuy lúc đầu có được chú ý tăng cường, nhưng chưa được chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, nhận thức, cũng như về kinh nghiệm công tác và phương pháp hoạt động ở thành phố; bên cạnh đó còn thiếu ý thức cảnh giác, ảo tưởng pháp lí Hiệp định, hai năm tổng tuyển cử… thiếu ý thức chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, ác liệt, với nhiều khả năng khác nhau. “Đảng bộ đã lấy nhiệm vụ và mục tiêu đấu tranh 2 năm trước mắt thay vào nhiệm vụ chiến lược lâu dài của cách mạng”(1).

Từ cuối năm 1956 khi khủng bố lớn của địch diễn ra, trong chỉ đạo của Đảng bộ vẫn thiếu nhạy bén, kịp thời chuyển hướng tổ chức và phương pháp đấu tranh cho phù hợp với tình hình đã thay đổi. Do đó, việc đối phó với những cuộc tiến công, đánh phá của địch và bảo vệ lực lượng cách mạng rơi vào tình thế bị động, lúng túng.

Tuy vậy, việc ra đời hình thức võ trang tự vệ và các lực lượng võ trang, từ tự vệ đến diệt ác ôn, võ trang tuyên truyền và tấn công địch, chuyển hướng tiến công và phương pháp đấu tranh từ giữa năm 1959 là thể hiện sự sớm tiếp cận tư tưởng tiến công và phương pháp bạo lực cách mạng của đảng, đồng thời là kết quả nhận thức về địch của đảng bộ Sài Gòn - Gia Định.


(1) Trích Bản dự thảo kiểm điểm về sự chỉ đạo của Thành ủy qua các giai đoạn chống Mĩ từ tháng 7 năm 1954 đế ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Lưu trữ tại BLS Thành Ủy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #83 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 10:57:57 am »

III. NÔNG DÂN KHỞI NGHĨA GIÀNH QUYỀN LÀM CHỦ TỪNG PHẦN,
NỘI ĐÔ KHÔI PHỤC THỰC LỰC CÁCH MẠNG,
TẠO THẾ TẠO LỰC CHUYỂN GIAI ĐOẠN


Tháng 1 năm 1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 15 về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Căn cứ tình hình thực tiễn ở miền Nam, căn cứ tình hình cả nước và quan hệ quốc tế, hội nghị xác định: “Con đường phát triển cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với thực lực võ trang, hoặc nhiều hoặc ít, tùy tình hình, để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.

Ba tháng sau, nội dung Nghị quyết 15 mới đến miền Nam dưới dạng điện văn “tinh thần cơ bản” gửi đồng chí Mười Cúc (tức Nguyễn Văn Linh, đang là bí thư Xứ ủy Nam Bộ). Tháng 9 năm 1959, đoàn đại biểu Xứ ủy Nam Bộ do đồng chí Hai Văn (Phan Văn Đáng) dẫn đầu ra dự Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 mới về tới miền Đông. Xứ ủy từ Phnompenh đã về lập căn cứ ở Tây Ninh.

Tháng 11 năm 1959, tại Trảng Chiên (phía Bắc Tây Ninh), hội nghị Xứ ủy lần thứ 4 (mở rộng đến Bí thư Tỉnh ủy) quán triệt Nghị quyết 15. Hội nghị bàn cãi gay gắt về hình thức, quy mô sử dụng mũi võ trang để đánh đổ ngụy quyền, giành quyền làm chủ sắp tới, từ còn dùng phổ biến là “diệt ác, phá kềm”. Việc đưa nghị quyết xuống cơ sở phải còn một thời gian nữa.

Tuy vẫn xác định “dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu”, nhưng hai chữ “vũ trang” trong nghị quyết: “Kết hợp lực lượng võ trang, hoặc nhiều hoặc ít…” đến với lòng người lúc này như tất cả những gì đã bao năm trông chờ. Có người mừng quá, nói: “Như vừa từ dưới đất độn lên mà nhìn trời cao biển rộng!”

Đầu năm 1960, theo đề nghị của đồng chí Võ Văn Kiệt, để tạo ra một thế trận mới và điều kiện tốt thực hiện nhiệm vụ mới trên cơ sở thống nhất địa bàn trong và ven đô xứ ủy chấp nhận giải thể Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định, hợp nhất thành lập khu Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, các đồng chí trong Tỉnh ủy Gia Định là Phó Bí thư và thường vụ Khu ủy. Lực lượng võ trang cũng được thống nhất. Đại đội bộ đội tập trung đầu tiên của Khu vẫn mang phiên hiệu C13, gồm 3 tiểu đội, có 3 trung liên, còn lại là tiểu liên, súng trường. Địa bàn hoạt động trước mắt là Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp. Nhân dân ngoại thành phấn khởi tiễn con em đi xây dựng lực lượng vũ trang, lập ấp chiến đấu, làm chông mìn, khôi phục các cơ sở tự chế vũ khí thời chống Pháp… làm các lò rèn dao găm, mã tấu, đinh chông… Các huyện nông thôn khẩn trương khôi phục các chi bộ xã. Trong nội thành, một mặt mạnh dạn đưa cán bộ từ các nơi “cấy” vào, mặt khác chọn người tại chỗ đưa ra ngoài, mở lớp đào tạo cấp tốc.

Tại Củ Chi đến Thủ Đức, Gò Vấp qua Hóc Môn, Bình Tân, Nhà Bè xuống Duyên Hải… cấp huyện, xã lần lượt thành lập ban quân sự để phát triển và củng cố các đội tự vệ ấp, xã.

Cuộc nổi dậy ở Bến Tre (từ ngày 17 tháng 1 năm 1960) tạo ra một khí thế mới trên toàn chiến trường, đặc biệt làm nảy ra hình thức 3 mũi giáp công sử dụng thế hợp pháp rất sinh động. Từ “Đồng Khởi” ra đời và kích thích phong trào các nơi.

Ngày 26 tháng 1 năm 1960, chín ngày sau cuộc đồng khởi Bến Tre, nổ ra trận tấn công bất ngờ ở Tua Hai (Tây Ninh), của lực lượng võ trang bộ phận miền Đông đánh chiếm căn cứ trung đoàn 32 sư đoàn 13 ngụy. Ta loại và bắt sống nhiều tên địch, thu trên 1.200 súng các loại. Trận Tua Hai làm cho địch choáng váng và trở thành tiếng pháo nổi dậy ở miền Đông Nam Bộ.

Gia Định phát động quần chúng nổi dậy trong điều kiện địa bàn cận đô thị. Trước ngày nổi dậy đã xảy ra hàng loạt vụ trừng trị ác ôn ở Tân Tạo, Tân Nhựt (Bình Chánh), Tân An Hội (Củ Chi)…

Hạ tuần tháng 2 năm 1960, một số vùng nông thôn Gia Định nổi dậy, nhưng chưa có tính chất đồng khởi. Huyện ủy Củ Chi phát lệnh: “Nhất tề đứng dậy, phá rã nông thôn”. Tiếng tù và, tiếng trống, tiếng mỏ, tiếng khua mâm thau, thùng thiếc, tiếng ống nói lan truyền khắp nông thôn. Đồng bào xông vào các nhà thông tin đập phá, xé ảnh Diệm, xé cờ ba que, xé khẩu hiệu địch. Hàng ngàn đồng bào biểu tình trên lộ 7, lộ 15. Bọn tề ấp Bàu Tròn bỏ chạy. Truyền đơn, biểu ngữ cách mạng xuất hiện khắp nơi. Ở các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Gò Vấp, Duyên Hải, Thủ Đức, Dĩ An… đều có nổi dậy. Các đội vũ trang đã tiến lên vai trò hỗ trợ đắc lực cho nổi dậy. Một cuộc phục kích ở Củ Chi diệt một tiểu đội dân vệ tại Bến Đu (An Nhơn Tây) thu 10 súng. Tiểu đội võ trang tuyên truyền 12 người của huyện ủy Thủ Đức lưu động hoạt động ở Tân Đông Hiệp, Tăng Nhơn Phú… đang mở rộng ra 5 xã. Tiểu đội vũ trang của huyện Hóc Môn 12 người hoạt động ở Tân Thạnh Đông, Bình Mĩ, Trung An. Ở Duyên Hải có đội C12 do Lê Hoàng chỉ huy phân làm 4 bộ phận chia nhau hoạt động ở Nhà Bè, Duyên Hải: võ trang tuyên truyền, cảnh cáo các tề xã, phá khu trù mật, vận động lương thực…

Du kích đã sáng tạo nhiều mưu mẹo tấn công địch. Tự vệ xóm Cây Bài, ấp Vĩnh Cư, xã Phước Vĩnh An (Củ Chi) cải trang đám rước dâu vào chiếm bót địch. Tự vệ Trung An (Củ Chi), tự vệ thị trấn Cần Giờ chiếm bót bằng tấn công ngoài vào kết hợp nội ứng bên trong. Ở Nhuận Đức và Phú Hòa Tây (Củ Chi), tự vệ hai xã phối hợp uy hiếp bót cầu Bến Mương, tiểu đội dân vệ đóng ở đây hoảng sợ bỏ chạy. Tự vệ Xuân Thới Thượng (Hóc Môn) được dân hướng dẫn chia từng nhóm truy lùng giặc tại nhà. Tự vệ Cần Thành (Duyên Hải) trà trộn với dân, phục kích chặn xe, bắt gọn bọn ác ôn.

Bộ đội tập trung C13 ở Củ Chi đã đánh được trụ sở, bót lẻ: tháng 12 năm 1960 tập kích diệt đồn An Hòa và đồn Tân Thạnh Tây thu 20 súng. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1960 diệt liên tiếp các đồn dân vệ Trung Hòa, An Nhơn Tây, nhà làng Bến Mương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #84 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 10:58:25 am »

Qua đợt đầu nổi dậy bằng lực lượng chính trị là chủ yếu, có lực lượng võ trang quần chúng hỗ trợ, cuối tháng 3 năm 1960 ở nông thôn Gia Định, quần chúng đã giải phóng về cơ bản hai xã Phú Mĩ Hưng, Nhuận Đức và một số ấp của các xã An Nhơn Tây, Trung Lập ở phía Bắc Củ Chi. Ở các huyện khác, ta đã làm chủ từng phần ở nhiều ấp và một số xã hẻo lánh.

Ngày 22 tháng 4 năm 1960, A9 Thường vụ Xứ ủy ra chỉ thị 18-TVA về công tác tuyên truyền động viên quần chúng trong tình hình hiện tại. Chỉ thị đánh giá từ chỗ hoang mang, thấy tương lai mờ mịt, giảm sút lòng tin đường lối đảng trong những ngày địch khủng bố quyết liệt trước đây, cho đến nay, trong quần chúng đang có một chuyển biến nhảy vọt về tư tưởng: mọi người đều thấy rõ chế độ Mĩ - Diệm không thể tồn tại lâu dài được. Tuy nhiên trong nhiều tầng lớp hiện nay đang nảy sinh những nhận thức lệch lạc mới như chưa rõ rồi phải làm gì, hoặc coi là đã đến thời kì trực tiếp cách mạng (tức là khởi nghĩa giành toàn bộ chính quyền), coi địch đang rệu rã, ỷ lại lực lượng võ trang và hoạt động võ trang, coi nhẹ việc tập hợp lực lượng, đấu tranh chính trị…; trái lại cũng có những nơi coi địch quá cao, e ngại bị trả thù nên rụt rè, chờ miền Bắc…

Trong các tầng lớp trung gian khác như một bộ phận đồng bào tôn giáo, đồng bào di cư, các tầng lớp tư sản… đang ghét Diệm, có phấn khởi, tán thành cuộc nổi dậy lật Diệm, nhưng một số ít người cho rằng không nên dùng bạo lực, số khác cho “bất chiến tự nhiên thành”.

Nói chung đây là tầng lớp có khả năng tán thành và hành động cách mạng nhưng chưa được ta tuyên truyền vận động nhiều.

Để uốn nắn những lệch lạc trên, khuếch trương thắng lợi, chỉ thị công tác trước mắt của A9 Xứ ủy tiếp tục phê phán mạnh những biểu hiện chưa nắm vững đường lỗi hiện nay như chưa thấy hết tính chất giằng co quyết liệt của giai đoạn, coi như khởi nghĩa đến nơi nên ra lệnh giải tán toàn bộ và nhất loạt bộ máy chính quyền xã của địch trong vùng kháng chiến cũ, trừ gian bừa bãi, nặng trừng trị, hăm dọa, thiếu thuyết phục, phân hóa địch… ỷ lại vũ trang nên làm mất luôn thế hợp pháp của quần chúng như chủ trương xé thẻ kiểm tra, phô trương, bộc lộ cơ sở…

Chỉ thị chỉ rõ phát triển cơ sở nhận thức đúng tương quan lực lượng, tính chất giai đoạn, khó khăn thuận lợi mà thực hiện đường lối đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến tới đánh bại hoàn toàn kẻ địch khi có điều kiện và thời cơ thuận lợi, từ đó có chương trình hành động kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo, thận trọng, kết hợp nhuần nhuyễn 3 thế, hình thức (hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp; ba thế công khai, nửa công khai, bí mật). Những nhiệm vụ trước mắt được xác định là: tiếp tục ra sức đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị một cách toàn diện, quy mô rộng lớn làm cho địch bị dồn vào thất bại chính trị nặng nề hơn nữa; kết hợp hoạt động võ trang tuyên truyền đúng mức để thiết thực hỗ trợ thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng; ra sức đẩy mạnh công tác dân vận và không ngừng củng cố, mở rộng Mặt trận để xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng, đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng; ra sức củng cố, phát triển chi bộ để đảm bảo sự lãnh đạo của đảng, gắn chặt đảng với quần chúng.

Trong giai đoạn giằng co hiện nay, cần phải đảm bảo cho phong trào quần chúng ở thế hợp pháp thì mới giữ được thế chủ động tấn công địch. Nếu không nắm vững phương châm đó thì sẽ làm cho phong trào lâm vào thế bị động. Đảm bảo hợp pháp ở đây không có nghĩa là êm dịu, hòa hoãn theo kiểu co thủ hợp pháp chủ nghĩa… mà là sự kết hợp nhuần nhuyễn 3 thế, trên cơ sở uy thế của quần chúng được nâng lên.

Giữa năm 1960, Khu ủy mở nhiều lớp đào tạo cán bộ cốt cán trong phong trào đô thị và nông thôn. Tháng 6 năm 1960, khu ủy triệu tập 15 cán bộ thanh niên về học tại vùng căn cứ Rừng Già. Ban vận động thanh niên được chính thức thành lập do đồng chí Trần Quang Cơ (Tám Lượng), khu ủy viên làm bí thư, đồng chí Hồ Hảo Hớn (Hai Nghị) phó bí thư. Hai đồng chí này chịu trách nhiệm trước đảng bộ về phong trào cách mạng của thanh niên Sài Gòn - Gia Định. Sau đó, một lớp huấn luyện mới lại được tổ chức tại căn cứ Rừng Xanh cho hầu hết đảng viên, đoàn viên và cốt cán thanh niên gồm 60 đồng chí. Chính những lớp học này đã đào tạo cho phong trào những cán bộ ưu tú đầu tiên trong thời kì chống Mĩ.

Nội thành Sài Gòn không thể cùng một lúc với nông thôn nổi dậy, do những điều kiện lúc bầy giờ: cơ sở đảng còn quá yếu, lực lượng võ trong mới là những nhóm tự vệ lẻ tẻ, chưa thể có hoạt động võ trang hỗ trợ quần chúng nổi dậy. Tuy nhiên cuộc nổi dậy nông thôn đã có tác động mãnh mẽ đến nội đô Sài Gòn, trước hết là niềm phấn khởi lớn trong mọi tầng lớp nhân dân đang muốn thay đổi chế độ tập đoàn phát xít gia đình trị Ngô Đình Diệm. Tận dụng thuận lợi đó, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương đẩy mạnh phong trào chính trị nội thành, trung tâm hành động là một chiến dịch tấn công dư luận rộng rãi, chĩa mũi nhọn vào chính quyền độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, trong khi đó vẫn phải nêu cao những khẩu hiệu dân sinh dân chủ, sát đòi hỏi thiết thân của quần chúng lao động.

Tháng 1 năm 1960, thanh niên Sài Gòn treo lá cờ đỏ búa liềm ở chợ Bến Thành để cổ vũ khí thế đồng bào bước vào một năm mới. Ngay từ đầu năm, công nhân các hãng dầu Shell, Standard, Socony, công ty điện nước, Nha công quản chuyên chở công cộng, lái xe Tắcxi, hãng giày Bata, đấu tranh buộc bọn chủ phải trả cho công nhân hàn triệu đồng. Tại hãng giày Bata, công nhân đình công căng bạt tại cổng ra vào hãng; thường xuyên bố trí ở đó một lực lượng để ngăn chặn bọn tay sai cho chủ tìm cách phá hoại cuộc đình công.

Các cuộc đấu tranh của các tầng lớp dân nghèo thành thị, trí thức, học sinh, tiểu chủ, tư sản dân tộc, văn nghệ sĩ, kí giả… không thành từng đợt lớn, nhưng đi sâu vào từng khía cạnh của đời sống hằng ngày, có tác dụng vạch trần chế độ Mĩ Diệm, góp phần đẩy chúng vào thế cô lập. Điển hình như việc chống lệnh cấm đốt pháo vào Tết năm 1960. Diệm cấm, đồng bào cứ đốt, để tỏ ra bất tuân quy định của chính quyền. Diệm tức tối cho bắt trong mấy ngày tết 2.000 người đốt pháo ở nội thành, trong đó có cả công nhân, tri thức, tư sản và giám hộ trong trại tế bần Chánh Hưng. Việc làm này chỉ gây thêm lòng tức giận của nhân dân.

Học sinh, sinh viên chống chế độ thi cử khắc nghiệt, đòi dạy tiếng Việt ở bậc đại học, đòi mở thêm trường lớp cả nội, ngoại thành. 119 trong tổng số 121 luật sư ở Sài Gòn và Huế kí kiến nghị lên án luật 102 của Diệm - dự luật khống chế giới luật sự, hạn chế tự do của họ. 118 giáo sư các trường công tư Sài Gòn phản đối Mĩ - Diệm bắt bỏ giáo sự và đóng cửa nhiều trường tư với lí do “không thi hành đúng luật pháp!”. Hai cuộc đấu tranh này gây xôn xao kéo dài dư luận Sài Gòn và miền Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #85 vào lúc: 31 Tháng Ba, 2012, 10:58:59 am »

Cuộc “tấn công dư luận” không chỉ giới hạn ở nội thành Sài Gòn mà còn lan xa ra các vùng Củ Chi, Dầu Tiếng, Lai Khê, Bến Củi, Phú Hòa, Trảng Bom, Xuân Lộc. Ở những nơi này, công nhân cao su và nhiều tầng lớp tổ chức hội thảo, và kiến nghị, phát đơn kiện thanh tra lao động, tố cáo ngụy quyền địa phương và cảnh sát, nhờ đăng báo gửi Ngô Đình Diệm đòi phải trả lời.

Sau “đồng khởi” đợt 1, chỉ thị của Xứ ủy về những việc cấp bách trước mắt xác định: để đẩy mạnh và mở rộng mặt trận đấu tranh đô thị, cần tận dụng mọi khả năng công khai hợp pháp, dựa chặt vào phong trào công nhân và quần chúng lao động nghèo, đồng thời chú ý đúng mức, đẩy mạnh đấu tranh của các tầng lớp tiểu tư sản nhất là phong trào học sinh, sinh viên, trí thức, tư sản.

Một số cán bộ ở miền Đông được cử đi học rút kinh nghiệm đồng khởi ở miền Trung Nam Bộ, ở Bến Tre.

Tháng 7 năm 1960, Xứ ủy mở hội nghị lần thứ 5 đánh giá tình hình, đề ra nhiệm vụ trước mắt là: “Tiếp tục tấn công chính trị làm cho địch thất bại hơn nữa trên mọi mặt nhằm đánh bại từng bước âm mưu, chính sách của địch, tạo điều kiện và thời cơ cho cuộc khởi nghĩa, đánh đổ toàn bộ chính quyền Diệm”. Hội nghị quyết định các khu “đồng khởi” phối hợp với khu 8 trong đợt mở ra từ ngày 24 tháng 9 năm 1960.

Để giữ vững và mở rộng thành quả đợt đầu nổi dậy, các cấp ủy chủ trương đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang và hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho quần chúng tiếp tục vùng lên giành quyền làm chủ.

Ở Bình Tân, nhóm vũ trang tập trung đầu tiên 3 người do Út Đào chỉ huy chỉ có 1 cây carbine hỏng báng (do đồng chí Út Đào nhặt được của bọn lính tập để quên, từ lâu chôn giấu kĩ, nay mới lôi lên). Ba người 1 súng, tổ tự đặt phiên hiệu “Tiểu đoàn 301” để vừa đánh vừa hù dọa địch.

Ở Thủ Đức, Dĩ An, tháng 7 năm 1960, Huyện ủy chọn một số thanh niên ưu tú trong phong trào, thành lập đơn vị tập trung của huyện, đồng thời xây dựng căn cứ ở rừng Bảy Mẫu và ở Bình Hòa. Đơn vị tập trung đầu tiên có 5 người cũng lấy phiên hiệu là “Tiểu đoàn 500”. Theo phương châm đánh nhỏ mà chắc ăn, “Tiểu đoàn 500” đã đánh thắng liên tiếp hai trận thu 5 súng, phát triển lực lượng lẻ.

12 người có súng đầy đủ. Đến lúc này, Huyện ủy giao “Tiểu đoàn 500” diệt đồn Bình Phước. Có 3 đồng chí huyện ủy viên dự trận, bí mật áp sát đồn địch, kiên trì chờ thời cơ hành động. Sau một ngày đêm căng thẳng, thời cơ xuất hiện: một số lính bỏ đồn đi chơi. Lập tức ta tấn công, diệt 3 tên, thu 14 súng. Sau trận này, “Tiểu đoàn 500” phát triển lên trung đội.

Ở Duyên Hải, ban cán sự huyện quyết định chọn một số thanh niên nòng cốt thành lập đơn vị võ trang tập trung của huyện. Đơn vị ra quân trận đầu ở Giồng Ao, sau đó đánh ở Giồng Cháy, thu 6 súng.

Các nơi khác: Gò Vấp, Hóc Môn, Nhà Bè… đều thành lập lực lượng võ trang địa phương, trước mắt làm nhiệm vụ võ trang tuyên truyền, diệt ác.

Xứ ủy quy định đợt 2 bắt đầu vào tháng 9, nhưng nông dân Gia Định (Củ Chi) nổ ra từ tháng 8 năm 1960, kéo dài đến cuối năm. Đợt này rầm rộ, sôi nổi có tính chất “đồng khởi”, và thắng lợi lớn hơn đợt 1.

Đêm mở màn, trên hầu khắp nông thôn Gia Định, nông dân đốt đuốc kéo đi trên đường làng hô khẩu hiệu “đả đảo đế quốc Mĩ”, “Đả đảo Ngô Đình Diệm”. Có nhiều nơi như ở Gò Vấp, Hóc Môn quy định: giờ hành động là 7 giờ tối, nhưng 4 giờ chiều dân chúng đã đánh trống gõ mỏ, khua thùng, nổ khí đá rền thôn xóm. Lực lượng võ trang cùng nhiều nông dân tự võ trang “súng bập dừa”, gậy tầm vông vạt nhọn, đầu quấn dây trói, kéo đi rải truyền đơn, treo cờ, dán khẩu hiệu, đưa thư cách mạng gởi gia đình binh sĩ ngụy, phát loa kêu gọi nhân dân nổi dậy…

Trước khí thế quần chúng, tề xã, tề ấp và cả lính ngụy co rúc trong đồn bót. Nhiều ác ôn bị trừng trị. Nhiều tên van lạy xin tha chết.

Ở Bình Tân, ở nhiều ấp bỏ chạy hoặc xuống nước đi tìm ta xin lỗi, phân trần. Dân vệ ở bót 13 và bót Cầu Chùa bỏ trốn. Nhân dân Tân Nhựt nổi dậy bắt xử tử tên Ranh, một tên ác ôn có nhiều nợ máu, gài mìn giết tên Bảy và bắt sống tên Căng ác ôn. Ta gài được người vào lực lượng thanh niên chiến đấu làm nội ứng, phối hợp trong ngoài bất ngờ tấn công, lực lượng địch tán loạn.

Ở Duyên Hải, nhân dân cùng lực lượng võ trang nổi dậy đốt cháy trụ sở thành chính ngụy ở xã Lí Nhơn, diệt những tên ác ôn có nợ máu: Tựu, Hùng, Việt…

Tuy nhiên, sau những ngày cuối tháng 9, đồng chí Võ Văn Kiệt nhận thấy cách làm ở khu 8 chỉ hợp với Củ Chi, còn ở Hóc Môn, Gò Vấp, Bình Chánh, Thủ Đức… phải làm khác, phải tổ chức du kích mật (bí mật cả với dân), hoạt động theo phương châm đánh đau, đánh hiểm nhưng không có tiếng vang. Do đó, từ sau tháng 9, trừ Củ Chi làm như Khu 8, các huyện ven đô khác hoạt động theo phương châm trên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #86 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2012, 04:27:09 pm »

Tháng 10 năm 1960, Ban quân sự Khu ủy Sài Gòn - Gia Định được thành lập do đồng chí Nguyễn Hồng Đào phụ trách.

Ở Thủ Đức, tính đến cuối năm 1960 ta đã đánh 11 trận diệt 153 tên địch, nổi bật nhất là trận chống càn Bưng Sáu xã. Hai tiểu đội ta chống chọi hai tiểu đoàn địch, nhưng nhờ biết triệt để lợi dụng tình hình, linh hoạt, thay đổi vị trí, biết tập trung hỏa lực diệt từng bộ phận địch nguy hiểm nhất, anh em đã ngoan cường cầm cự với địch suốt 3 ngày đêm, loại khỏi vòng chiến 72 tên, địch phải rút lui. Bên ta hi sinh 2, thu được 10 súng. Tiếp sang năm 1961 là trận bộ đội cải trang dân thường, bất ngờ đột nhập vào vùng địch bắt sống tên đại tá ngụy Hoàng Thụy Nam và tên cố vấn Mĩ Hetz giữa ban ngày, cách đồn địch chỉ khoảng 100 mét. Vừa tác chiến, “Tiểu đoàn 500”(1) vừa vận động nhân dân đánh du kích, không có súng thì dùng dao, rựa, diệt địch lấy súng. Chỉ một thời gian ngắn, 20 tên ác ôn khét tiếng đền tội. Ngoài đánh quân sự, đơn vị còn hoạt động võ trang tuyên truyền, trên tuyến đường xe lửa, đường xe hơi, đường sông, cửa ngõ vào thành phố. Nghe danh lực lượng, khí thế quần chúng lên cao, kẻ thù lo sợ. Bọn thủy quân lục chiến “Trâu điên” đóng ở Dĩ An có lúc án binh bất động vì không hiểu lực lượng đối phương ra sao. Những tên đứng đầu “liên gia”, “thanh niên bảo vệ hương thôn” đòi nghỉ việc, dân vệ giải tán các trạm gác.

Ở Bình Tân, tháng 10 năm 1960 đã có thêm 1 súng trường Pháp và 1 súng ngắn trên cho, “Tiểu đoàn 301” đánh thắng trận đầu: phục kích tiêu diệt tiểu đội dân vệ gần bót ấp Giồng, xã Xuân Thới Thượng, diệt 6 tên, thu 4 súng trường Pháp. Tiếp đó, đồng chí Tư Râu được ta cài vào hàng ngũ địch ở trại huấn luyện Quang Trung, vận động được một số binh sĩ ngụy mang 4 khẩu carbine nữa. Huyện giữ 2 khẩu, còn 2 khẩu giành cho lực lượng võ trang Hóc Môn. Có thêm súng, “Tiểu đoàn 500” phát triển lên 1 tiểu đội 12 người do đồng chí Phạm Văn Hai làm tiểu đội trưởng, Út Đèo tiểu đội phó. Cuối năm 1960, qua theo dõi, anh em nắm được thói quen của tiểu đội bảo an địch ở khu dinh điền Bà Lác, từ đó hình thành một phương án tác chiến. Tiểu đội giả trang giả vờ đi bắt cá, lân la đến gần chỗ địch thường ngủ sau khi đi tuần trên lộ 10. Khoảng 12 giờ trưa, chúng ngủ say, cả tiểu đội ập vào, đập chết tên lính gác, giật được 8 súng trường rồi nhanh chóng rút lui. Đầu năm 1961, được trên tăng cường hai tiểu đội, “Tiểu đoàn 500” phát triển lên trung đội do Ba Kiểm làm trung đội trưởng, Năm Kiện làm trung đội phó, Chín Ốm chính trị viên. Trận đầu đánh tập trung trung đội, “Tiểu đoàn” đã diệt một trung đội dân vệ ở ấp 3 xã Bình Trị Đông, thu toàn bộ vũ khí. Lúc này, Bình Tân đã tổ chức được du kích mật trong một số vùng sâu, vùng yếu như các ấp ven bưng Vĩnh Lộc, Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông.

Ở Củ Chi đến cuối năm 1960, 4 xã phía Bắc: Phú Mĩ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Trung Lập hoàn toàn giải phóng. Bốn xã trở thành căn cứ địa chỉ đạo của Khu Sài Gòn - Gia Định (suốt cuộc kháng chiến chống Mĩ) nối liền với vùng giải phóng của các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương. Các xã Tân An Hội, Phú Hòa Đông, Trung An, Bình Mĩ (Củ Chi), An Phú Đông, Thạnh Lộc (Gò Vấp), Vĩnh Lộc, Tân Hòa, Bình Hưng Hòa (Tân Bình), Xuân Thới Thượng (Hóc Môn), Tam Bình, Bình An, Đồng Hòa, Long Phước, Long Trường, Long Bình (Thủ Đức), Lí Nhơn, An Thới Đông, Long Hòa (Duyên Hải), Hiệp Phước (Nhà Bè)… được giải phóng một phần, trở thành các lõm căn cứ du kích xen kẽ với địch, tạo địa bàn cho các lực lượng cách mạng đứng chân sâu trong vùng địch kiểm soát và làm bàn đạp cho hoạt động nội đô. Ở các xã sát Sài Gòn như vùng thị trấn Gò Vấp, vùng quanh sân bay Tân Sơn Nhất… địch không bỏ đồn bót, nhưng bình lính co rúc, không dám lùng sục ra ngoài, hống hách như trước. Nhân dân nổi trống mõ uy hiếp tinh thần chúng với một khí thế mới.

Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn đã phải báo cáo về quốc hội Mĩ rằng tình hình đang xấu đi, đối phương mạnh ở ngay ven đô, tề ấp xã bị bắt, bị giết mỗi ngày từ 25 vụ đến 89 vụ mà đang còn tăng lên.

Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mĩ thú nhận: “Đến cuối năm 1960, toàn bộ nông thôn phía Nam và phía Tây Nam Sài Gòn, một số vùng phía Bắc, cộng sản đã kiểm soát và bao vây Sài Gòn”.

Những tháng gần cuối năm 1960, gia đình Ngô Đình Diệm và các thế lực không ăn cánh đã hầm hè thanh toán nhau: Diệm có nguy cơ bị đảo chính. Nắm bắt tình hình này, ta nêu khẩu hiệu đòi “bầu cử lại tổng thống”, “Ngô Đình Diệm phải từ chức”, đây là sách lược cô lập thêm chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm, chĩa mũi nhọn vào chế độ tay sai đắc lực của Mĩ. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sắp tuyên bố ra đời. Chỉ thị ngày 5 tháng 9 năm 1960 của Miền về khả năng diễn biến tình hình, hướng dẫn nhiệm vụ tích cực, mở rộng tập hợp chính trị trên tinh thần cường lĩnh Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, xúc tiến ngay việc thành lập các nhóm, các tổ chức tư sản, trí thức với cương lính hành động nhẹ nhàng, tích hợp với quyền lợi hiện nay của các giới.

Chính sách của ta được đồng bào tiếp nhận nhiệt liệt. Đồng bào tuần hành trên các đường phố hô vang khẩu hiệu đả đảo chính quyền Diệm, đòi thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ, đòi đế quốc Mĩ cút khỏi miền Nam. Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi “đảo chánh hụt” Ngô Đình Diệm. Chớp thời cơ này, nhân dân Sài Gòn rầm rộ biểu tình đả đảo chế độ Diệm, quân đội của Diệm và cả quân đảo chính, đã xả súng bắn vào đoàn biểu tình, nhiều người chết và bị thương.

Hưởng ứng cuộc đấu tranh của đồng bào Sài Gòn, hơn 40.000 nông dân các địa phương ở Gia Định tập hợp kéo về thành phố phản đối Mĩ Diệm tàn sát, khủng bố nhân dân, đòi Diệm phải từ chức. Hàng ngàn công nhân và lao động Sài Gòn lại hưởng ứng đợt đấu tranh này bằng bãi công, bãi thị.


(1) Lực lượng ban đầu chỉ có trên dưới 1 tiểu đội, lấy tên “Tiểu đoàn” để gây thanh thế.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #87 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2012, 04:27:35 pm »

Năm 1960, trong lúc nông thôn nổi dậy, nội thành Sài Gòn diễn ra gần 1.500 cuộc đấu tranh với nhiều khẩu hiệu; khí thế cao hơn năm trước. Tuy rằng vẫn còn đơn thuần sử dụng lực lượng quần chúng đấu tranh trực tiếp với địch nhưng điều nổi bật là các khẩu hiệu đã chĩa thẳng vào mục tiêu đòi đánh đổ chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm; và từ phong trào đã xuất hiện một lớp thanh niên nam nữ ưu tú xuất thân từ công nhân lao động, học sinh, sinh viên, đó là nguồn để xây dựng lực lượng vũ trang thành phố. Chế độ Diệm đã vào thời kì khủng hoảng vào cô lập cao độ.

Trên cơ sở thắng lợi to lớn của phong trào “Đồng Khởi” của nhân dân miền Nam, ngày 20 tháng 12 năm 1960, tại một căn cứ cách mạng ở phía Bắc Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc miền Nam đã họp đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội thông qua chương trình 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mĩ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới thống nhất nước nhà.

Ngày 2 tháng 1 năm 1961, nhân dân Sài Gòn và các vùng ven thành phố đã nhất loạt đình công, bãi chợ, xe thuyền không chạy, các tiệm đóng cửa, rải truyền đơn, họp mít tinh chào mừng Mặt trận ra đời.

Thực hiện ý định tạo một trận đánh vũ trang nội thành chào mừng Mặt trận và làm đà cho việc xây dựng lực lượng vũ trang thành phố, từ tháng 10 năm 1960, đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu ủy chỉ đạo cho Ban quân sự gọi một số cán bộ quân sự trong thời kháng chiến chống Pháp được bố trí ở lại hoạt động, ra căn cứ Khu để làm kế hoạch. Hai đồng chí Đỗ Tấn Phong, Lê Tấn Quốc và nhiều cán bộ khác lần lượt ra nhận nhiệm vụ này. Đồng chí Lê Tấn Quốc cùng đồng chí Mười Lăng là người của ta gài vào làm nhân viên phục vụ trong Golf club gần ngã ba Chú Ía (Gò Vấp), mang hai quả mìn hẹn giờ 14kg bí mật luồn theo một cống nước vào đặt ở nhà ăn câu lạc bộ. Ngày 26 tháng 12 năm 1960, đúng phương án tác chiến, hai quả mìn đã nổ, giết tại chỗ và làm bị thương hàng chục cố vấn Mĩ và chư hầu. Đây là trận đánh Mĩ đầu tiên ở nội đô Sài Gòn. Trận đánh không lớn, nhưng đã chỉ ra khả năng thực hành các hoạt động vũ trang nội thành, triển khai kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang nội thành. Sau trận đánh, tại căn cứ Lộc Thuận (Trảng Bàng, Tây Ninh), đồng chí Đỗ Tấn Phong và Lê Tấn Quốc được chỉ định phụ trách một bộ phận công tác lấy bí số là C10, chuyên trách móc nối với các đoàn thể chính trị chọn một số thanh niên ưu tú đưa ra căn cứ, gấp rút huấn luyện quân sự để làm nòng cốt cho phong trào vũ trang. Tân An Hội (Củ Chi) và Giồng Hòa (Đức Hòa) được chọn làm nơi giao tiếp với các cơ sở từ bên trong ra. Ba thanh niên được chọn đầu tiên, sau một thời gian huấn luyện ngắn đã hình thành một tổ tự vệ vũ trang do đồng chí Hiệp làm tổ trưởng. Ra quân trận đầu, các đồng chí này đã đánh một quả thủ pháo vào tốp lính ngụy đi xe tuần trên đường phố làm sát thương một số tên. Một ngày chủ nhật sau, tổ đã thực hiện một cuộc treo cờ Mặt trận ở một nhà thờ trong thành phố. Leo lên tận nóc, treo được lá cờ 12 mét vuông thì đã hơn 4 giờ sáng. Chưa kịp rút lui thì dân đi lễ sớm đã đến rất đông. Một số đồng chí linh hoạt kêu gọi: “Đồng bào hãy đứng im, nghe tôi nói chuyện”. Đồng chí nói ý nghĩa ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Song “vốn liếng” có hạn, nói vài phút đã cạn ý. Bí quá đồng chí ra lệnh: “Mời tất cả đồng bào quay mặt vào tường”… Đồng bào làm theo, cả tổ tụt xuống, rút êm.

Từ 3 người, tổ phát triển dần lên thành 3 tổ. Lúc đầu vũ khí chỉ có vài quả lựu đạn. Mãi đến khi anh em tuyên truyền được một lính ngụy mang ra một súng trường tự động, đem đổi cho cấp trên lấy một khẩu carbine thì đó mới là khẩu súng đầu tiên của tiểu đội. Các chiến sĩ trong tiểu đội lần lượt được đưa ra căn cứ học tập thêm.

Các đoàn thể khác cũng tích cực chọn người ra để huấn luyện quân sự. Khóa đầu tiên mở tại Giồng Hòa có 5 người, sau đó mở tiếp khóa thứ hai 7 người. Các học viên đều phải mang mặt nạ để không biết nhau, ăn ở trong rừng chổi, thỉnh thoảng ban đêm mới được ra ngoài. Nội dung học tập: đường lối cách mạng miền Nam, 5 công tác cách mạng, phương pháp hoạt động bí mật ở nội thành, cách sử dụng một số loại vũ khí. Sau khi học xong, các học viên được trả về để làm nóng cốt xây dựng lực lượng vũ trang nội thành của các đoàn thể, chuẩn bị vào một thời kì mới của cách mạng.

Ngày 9 tháng 3 năm 1961, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Khu Sài Gòn - Gia Định ra đời. Buổi lễ ra mắt được tổ chức trọng thể tại xã Phú Mĩ Hưng (Củ Chi) trước hàng chục nghìn người, trong đó có nhiều người trong nội thành ra dự.

*
*   *

Sáu năm sau Hiệp định Genève là sáu năm đấu tranh chính trị trong máu lửa. Dưới sự đàn áp khốc liệt của địch, ta đã không ngừng xây dựng cơ sở, xây dựng thực lực cách mạng từ đô thị ra nông thôn ven đô. Biết bao gian khổ, hi sinh, cao trào rồi thoái trào, nhưng cơ sở cách mạng vẫn tồn tại, thực lực cách mạng vẫn phát triển, phong trào vẫn được duy trì, Sài Gòn đã tiến lên vị trí trung tâm phong trào đô thị miền Nam, nông thôn ven đô cùng miền Nam thực hiện đồng khởi. Sài Gòn - Gia Định đã sẵn sàng chuyển giai đoạn từ đấu tranh chính trị sang chiến tranh cách mạng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #88 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2012, 04:29:17 pm »

Chương năm

PHÁT TRIỂN THỰC LỰC CÁCH MẠNG,
PHỐI HỢP BA VÙNG, KẾT HỢP BA MŨI, TIẾN CÔNG SÀO HUYỆT ĐỊCH,
ĐÁNH BẠI HAI KẾ HOẠCH BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH
TRÊN VÙNG NÔNG THÔN VEN ĐÔ SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
(Từ ngày 19 tháng 3 năm 1961 đến giữa năm 1965)

I - PHÁT TRIỂN THỰC LỰC CÁCH MẠNG, PHỐI HỢP BA VÙNG
(NỘI ĐÔ, VEN ĐÔ, CĂN CỨ), KẾT HỢP 3 THẾ, BA HÌNH THỨC,
PHÁT HUY VAI TRÒ TRUNG TÂM PHONG TRÀO ĐÔ THỊ,
LÀM THẤT BẠI “KẾ HOẠCH STALEY - TAYLOR”
Ở TRÊN VÙNG VEN VÀ NÔNG THÔN VEN ĐÔ


Tháng 1 năm 1961 Bộ Chính trị ra chỉ thị (đề ngày 31 tháng 1 năm 1961) về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, nhận định “thời kì tạm ổn của chế độ Mĩ Diệm đã qua và thời kì khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu, các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho một cao trào cách mạng ngày càng rộng lớn”. Mĩ và ngụy quyền Sài Gòn quyết dùng bạo lực tiêu diệt cách mạng nên con đường tất yếu sẽ dẫn đến là Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của nhân dân sẽ bùng nổ lật đổ chính quyền Mĩ Diệm, giải phóng miền Nam”.

Về hình thức và phương châm đấu tranh, Bộ chính trị xác định: “Phải đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hi mặt chính trị quân sự, đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược”. Song, do đặc điểm phong trào cách mạng miền Nam phát triển không đều, so sánh lực lượng giữa ta và địch ở mỗi vùng khác nhau, nên phải vận dụng phương châm đấu tranh linh hoạt, thích hợp từng vùng: chỉ thị ngày 31 tháng 1 năm 1961 đề ra phương châm ba vùng: vùng rừng núi lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị có thể ngang nhau; vùng đô thị lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu có vũ trang hỗ trợ. Trong đấu tranh phải giữ thế hợp pháp với địch, nhưng tùy lúc cũng dùng cả đấu tranh không hợp pháp.

Về nhiệm vụ cụ thể, Chỉ thị chỉ rõ: “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng ta và cả hai mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng, phát động phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn, tiến lên làm chủ núi rừng, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mĩ - Diệm, giải phóng miền Nam.

Chỉ thị Bộ chính trị ngày 31 tháng 1 năm 1961 là sự vận dụng các Nghị quyết của Hội nghị trung ương lần thứ 15 và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng trong tình hình mới, đề ra những vấn đề cơ bản của đường lối và phương pháp cách mạng, đưa cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam lên giai đoạn mới, giai đoạn kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh bại chiến lược mới của đế quốc Mĩ. Về phía địch, chúng tự xác định là đã đến lúc phải thay đổi chiến lược, nhưng chưa dứt khoát về nội dung, biện pháp.

Đánh giá tình hình chiến trường Nam Bộ sau Đồng Khởi địch thừa nhận: Lực lượng vũ trang Việt cộng ở Nam phần có 6.100 người, chiếm 78% lực lượng toàn miền Nam (không kể du kích). Hoạt động vũ trang từ năm 1960 đã phát triển… Cuối năm 1960 toàn bộ vùng nông thôn Nam phần và Tây Nam Sài Gòn, một số vùng phía bắc Sài Gòn bị cộng sản kiểm soát quá một nửa và bao vây Sài Gòn(1). Ngày 16 tháng 9 năm 1960, từ tòa Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn, Durbrow điện khẩn cấp về Bộ Ngoại giao Mĩ “Mỗi nguy hiểm còn nghiêm trọng hơn nữa và việc Việt Cộng dần dần mở rộng quyền kiểm soát ở nông thôn. Nếu những tiến bộ hiện nay của Cộng sản cứ tiếp tục thì có nghĩa là sẽ mất Việt Nam vào tay Cộng sản(2).

Do dự, tính toán hơn một năm (từ đầu năm 1960), trước tình hình trên, đế quốc Mĩ buộc phải chuyển chiến lược “tố cộng, diệt cộng”, một chiến lược dựa vào hình thức cảnh sát là chủ yếu, sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, còn gọi là “chiến tranh chống lật đổ”, trong khuôn khổ chiến lược chung của Mĩ “phản ứng linh hoạt” nhằm đánh bại phong trào cách mạng đã phát triển thành chiến tranh du kích”. Chiến lược này địch dự định sẽ thực hiện 3 bước, trong đó bước 1 là bước quyết định, hi vọng giành thắng lợi lớn vào năm 1962, trên cơ sở đó sẽ rút bớt lực lượng cố vấn Mĩ, tiếp tục tăng viện trợ cho quân ngụy, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, chiến tranh kết thúc vào năm 1965.

Ngày 13 tháng 5 năm 1961, từ Sài Gòn, Phó tổng thống Mĩ Johnson và Ngô Đình Diệm kí kết bản thông cáo chung mà báo chí Sài Gòn và phương Tây coi là cơ sở đầu tiên của chiến lược chiến tranh đặc biệt.

Ngày 15 tháng 5 năm 1961 chính quyền Kennedy thông qua kế hoạch mang tên NSAM 52, chính thức thực hiện bước 1 chiến lược chiến tranh đặc biệt, quyết giành thắng lợi quyết định trong 18 tháng.

Công thức của chiến lược chiến tranh đặc biệt là: quân ngụy cộng vũ khí Mĩ đặt dưới sự chỉ huy của cố vấn Mĩ. Biện pháp cơ bản của nó là ấp chiến lược.

Từ ngày 14 tháng 6 năm 1961 đến ngày 14 tháng 7 năm 1961 do Staley cầm đầu sang Sài Gòn để vạch kế hoạch bình định. Ngày 18 tháng 10 năm 1961, lại một phái đoàn Mĩ do Taylor cầm đầu sang Sài Gòn nghiên cứu, bổ sung kế hoạch trên. Từ đó kế hoạch 3 bước mang tên Staley - Taylor ra đời, nhằm bình định miền Nam trong 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962), trong đó phần cốt lõi là phải lập cho được 16.000 khu, ấp chiến lược trên toàn miền Nam.


(1) Báo cáo của Phân cục tình báo CIA tại Sài Gòn.
(2) Tài liệu mật Bộ quốc phòng MĩTập 1, VNTTX phát hành 1971, trang 110.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #89 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2012, 04:30:37 pm »

Trong và sau Đồng Khởi, phong trào Sài Gòn - Chợ Lớn ở tình trạng mà Bộ chính trị nhận định “Còn yếu, gần đây mới bắt đầu lên…”(1). Nhìn chung, cả nông thôn, đô thị, lực lượng chính trị của quần chúng lên cao, nhưng lực lượng vũ trang còn yếu, chưa được tổ chức chặt chẽ và thích ứng tình hình, nhiệm vụ mới. Sau chỉ thị tháng 1 năm 1961, Thường vụ Trung ương Cục có chỉ thị uốn nắn những lệch lạc trong và sau đồng khởi, trong đó chỉ rõ tình trạng có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Về khách quan, sau đồng khởi, ta chưa có thời gian để xây dựng thực lực cách mạng; về chủ quan, nhiều đảng viên, cán bộ nhận thức chưa đầy đủ tính chất giai đoạn, về bản chất của địch, về quan điểm bạo lực cách mạng, từ đó sinh ra giản đơn tưởng rằng thời kì tổng khởi nghĩa đã tới… Những lệch lạc đó biểu hiện trong hành động là chỉ nặng mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng, chưa chú xây dựng cơ sở lâu dài, tiến công mà chưa chú ý tránh bộc lộ lực lượng, phát triển chưa đi đôi với củng cố, nặng hình thức đấu tranh bất hợp pháp, nhẹ tận dụng 3 hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp…

Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương lọc lại và củng cố các cơ sở đã có, đồng thời đi sâu nhanh chóng xây dựng và phát triển cơ sở mới. Để khai thác khả năng cách mạng và để thích hợp với từng đối tượng ngành, giới Sài Gòn - Gia Định đã thành lập các Ban vận động, tập trung cho việc phát triển thực lực cách mạng và công tác nội thành, các ban Công vận, Thanh vận, Phụ vận, Hoa vận, Tư sản vận, Báo chí văn nghệ, Trí vận, Học sinh - sinh viên… Các ban này có lực lượng và tổ chức chính trị theo hệ thống riêng. Có ban cán sự đảng của ngành, có tổ chức tự vệ võ trang và tự vệ mật. Một số ban vận động có cán bộ phụ trách quân sự hoặc ban Quân sự.

Ngày 26 tháng 3 năm 1961, theo quyết định của Ban cán sự sinh viên học sinh Sài Gòn - Gia Định, đội vũ trang quyết tử của học sinh sinh viên Sài Gòn - Gia Định được thành lập từ một số cán bộ, đoàn viên cơ sở trong phong trào đấu tranh chính trị.

Sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Sài Gòn - Gia Định ra đời (ngày 19 tháng 3 năm 1961), ngày 27 tháng 4 năm 1961, Hội lao động giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này đổi tên là Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền Nam, được thành lập. Tháng 5 năm 1961, Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định thành lập các Quân khu miền Nam và Bộ chỉ huy quân sự miền. Mật danh đầu vào Nam Bộ là R, các Quân khu là T, các tỉnh là U. Miền Đông Nam Bộ có Quân khu Sài Gòn - Gia Định (mật danh T4 hay I4) và Quân khu Miền Đông (T1) gồm 4 tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa.

Đoàn cán bộ “khung chỉ huy” của miền và các quân khu (lấy mật danh là “Phương Đông 1”) xuất phát từ Hà Nội ngày 4 tháng 5 năm 1961 vào tới Nam Bộ ngày 15 tháng 8 năm 1961. Số này cùng với số cán bộ tại chỗ thành lập các cơ quan quân khu.

Bộ chỉ huy quân sự Sài Gòn - Gia Định gồm các đồng chí Nguyễn Hồng Đào chính ủy, Trần Hải Phụng chỉ huy trưởng kiêm tham mưu trưởng, Nguyễn Ngọc Lộc, chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Văn Thanh, chủ nhiệm hậu cần.

Hệ thống cơ quan quân sự khẩn trương hoàn chỉnh từ Miền xuống xã. Nội thành có các ban quân sự liên quận và ngành: huyện, xã ngoại thành có huyện đội, xã đội.

Đảng ủy quân sự lãnh đạo trực tiếp hệ thống dọc các ban quân sự liên quận (cánh) nội thành và các huyện đội ngoại thành.

Các xã ngoại thành gấp rút xây dựng du kích tập trung và du kích mật. Các huyện củng cố và phát triển các đội du kích liên xã, hoặc bộ đội tập trung địa phương.
Để có lực lượng cơ động, sau khi được các khu khác chi viện vũ khí và trên tăng cường một trung đội, giữa năm 1961, quân khu thành lập một đại đội tập trung cơ động mạnh 160 người, lấy nòng cốt là trung đội tập trung đầu tiên đã có bí số C13.

Đại đội này cũng lấy tên là C13. Trong buổi lễ xuất quân, đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Khu ủy viên, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định, trao nhiệm vụ cho đại đội:

- Diệt ác phá kềm, mở rộng vùng giải phóng.

- Tác chiến kết hợp với binh vận.

- Phát động quần chúng, xây dựng chính quyền, tổ chức cơ sở cách mạng và phát triển lực lượng.

- Cơ động hoạt động trên khắp chiến trường quân khu, hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích phát triển.

Ra quân trận đầu, C13 diệt gọn đồn An Nhơn Tây có hơn 1 trung đội địch.


(1) Trích trong chỉ thị ngày 31 tháng 1 năm 1961 của Bộ chính trị về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM